Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TIỂU LUẬN CCCT THUẬN lợi và THÁCH THỨC TRONG QUÁ TRÌNH hội NHẬP QUỐC tế của VIỆT NAM TRƯỚC tác ĐỘNG của CUỘC CÁCH MẠNG 4 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.74 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC

BÀI TIỂU LUẬN
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ TẬP TRUNG

TÊN MƠN HỌC: QUAN HỆ QUỐC TẾ
TÊN BÀI TIỂU LUẬN: THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRƯỚC TÁC ĐỘNG
CỦA CUỘC CÁCH MẠNG 4.0

ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số
Bằng chữ

- NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG

Chương 1.
1.1.
1.2.
1.3
Chương 2.
2.1.
2.2.


2.3

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI NHẬP QUỐC
TẾ CỦA VIỆT NAM
Khái niệm và nội hàm hội nhập quốc tế của Việt Nam
Tất yếu khách quan hội nhập quốc tế của Việt Nam
Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
NHỮNG THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG 4.0 HIỆN
NAY

Vài nét về Cách mạng 4.0
Những thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế trước tác động của
Cách mạng 4.0 hiện nay
Giải pháp khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của Cách mạng
4.0
Trách nhiệm của bản thân trên cương vị cán bộ quản lý

2.4
PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
4
7


10
10

11
15
17
18
19


1
Phần I: MỞ ĐẦU
Mọi quốc gia dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu đều tìm cách để tham gia
hội nhập quốc tế một cách hiệu quả nhất. Hội nhập quốc tế là một q trình tất
yếu, có nguồn gốc, bản chất xã hội của lao động và sự phát triển văn minh của
quan hệ giữa con người với con người. Trong xã hội, con người muốn tồn tại
và phát triển phải có mối liên kết, quan hệ với nhau. Trong một quốc gia phải
có liên kết, quan hệ giữa các cộng đồng, các địa phương. Rộng hơn ở phạm vi
thế giới, một quốc gia muốn phát triển phải liên kết, quan hệ với các quốc gia
khác. Ngày nay, trong một thế giới hiện đại đang đổi thay nhanh chóng, đặc
biệt là sự phát triển của kinh tế thị trường và cuộc Cách mạng cơng nghiệp 4.0
địi hỏi các quốc gia phải đẩy mạnh mở rộng thị trường, hình thành thị trường
khu vực và quốc tế, nhanh chóng tiếp cận khoa học kỹ thuật hiện đại. Đây
chính là những nhân tố chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế - một xu
thế đã, đang tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống quan hệ quốc tế và sự
phát triển của từng quốc gia trên thế giới.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Cách mạng công
nghiệp 4.0 mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội thực hiện khát vọng phồn vinh

của dân tộc nhưng cũng là thách thức đối với sự chuyển đổi của nền kinh tế,
Chính phủ và doanh nghiệp. Trước bối cảnh đó, chúng ta cần nhận thức rõ, có
cái nhìn tổng thể về xu thế của Cách mạng cơng nghiệp 4.0, đánh giá tác động
của nó đến đời sống kinh tế - xã hội cũng như từng tổ chức, doanh nghiệp, từ
đó có giải pháp đón đầu thích hợp. Chính vì vậy, nghiên cứu “Thuận lợi và
thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trước tác động của
cuộc Cách mạng 4.0” là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết hiện nay.


2
NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm và nội hàm hội nhập quốc tế của Việt Nam
Hội nhập là quá trình tham gia vào một cộng đồng để cùng nhau hoạt
động và phát triển với cộng đồng ấy trong những lĩnh vực nhất định.
Theo từ điển tiếng Việt, hội nhập thường được dùng trong các mối quan
hệ quốc tế. Theo đó, hội nhập hay chính là hội nhập quốc tế được hiểu là quá
trình liên kết, hợp tác giữa các chủ thể quốc tế (quốc gia hoặc vùng lãnh thổ)
với nhau trong một cộng đồng nhất định.
Những khảo sát về hội nhập trên thế giới và ở nước ta thời gian qua cho
thấy có những điểm chung cả về quan niệm lẫn hành động của các chủ thể. Từ
góc độ nhà nước, hội nhập quốc tế là quá trình một quốc gia tham gia các hoạt
động chung của cộng đồng quốc tế theo các nguyên tắc, chuẩn mực mà cộng
đồng quốc tế thừa nhận. Hội nhập quốc tế là yêu cầu có tính khách quan, theo
đó các quốc gia tham gia các hoạt động của đời sống quốc tế trên hầu hết các
lĩnh vực và ở các mức độ khác nhau do tác động của q trình tồn cầu hóa
ngày càng sâu rộng. Nhưng việc lựa chọn lĩnh vực, mức độ và lộ trình hội
nhập lại là quyết định chủ quan của từng quốc gia phù hợp với lợi ích và hồn
cảnh cụ thể mình.
Xét từ hành động của các chủ thể tham gia hội nhập, hai yếu tố quan

trọng nhất là: những hoạt động chung của cộng đồng quốc tế (các sân chơi
chung) và những nguyên tắc, chuẩn mực của các hoạt động chung đó (các luật
chơi chung). Nếu chỉ tham gia các hoạt động chung mà không tuân thủ các
nguyên tắc, chuẩn mực chung thì chưa được gọi là hội nhập. Ví dụ, khi mới
gia nhập Hiệp ước Thuế quan có hiệu lực chung trong ASEAN (CEPT), Việt
Nam chưa phải tuân thủ ngay và đầy đủ các điều khoản của Hiệp ước này, do
vậy Việt Nam chưa thể được xem là đã hội nhập ASEAN. Ngược lại, một
quốc gia thường phải tuân thủ các “luật chơi” của cộng đồng quốc tế khi đã
tham gia các “sân chơi” mà cộng đồng quốc tế thiết lập, cũng như tham gia
quá trình thay đổi, điều chỉnh “luật chơi” khi hồn cảnh địi hỏi. Có rất ít
trường hợp ngoại lệ, theo đó các quốc gia tự hội nhập, chấp nhận hoàn toàn
hoặc bị áp đặt “luật chơi” dù luật đó khơng có lợi cho họ.


3
Trong nhứng năm tới, cơng việc chính trong q trình hội nhập quốc tế
của nước ta vẫn là thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó chủ yếu là các cam
kết về thực hiện những chuẩn mực mà chúng ta đã chấp nhận khi gia nhập.
Song song với quá trình này là các hoạt động cùng các nước thành viên xây
dựng các chuẩn mực mới.
Từ những phân tích trên có thể quan niệm hội nhập quốc tế của nước ta
như sau:
“Hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay là hình thức phát triển cao
của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ động chấp nhận, áp dụng và tham gia
xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ tối đa lợi ích quốc
gia, dân tộc”.
Về bản chất, có thể coi hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát
triển cao của hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế là quá trình các nước giao lưu
hoặc hành động cùng nhau để đạt được một mục tiêu, lợi ích nào đó. Có thể
chia hợp tác quốc tế thành ba mức độ cơ bản, là: 1- Trao đổi, tham vấn; 2Phối hợp chính sách, triển khai hoạt động phối hợp và thực hiện các dự án

chung; 3- Xây dựng, áp dụng luật lệ, chuẩn mực chung. Mức độ thứ 3 là điểm
trùng giữa hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế. Nói rộng ra, hội nhập quốc tế
bao hàm việc chấp nhận, tham gia xây dựng và thực hiện các chuẩn mực quốc
tế, bao gồm: các thể chế, luật lệ, tập quán, nguyên tắc và tiêu chuẩn chung
được chấp nhận rộng rãi. Các chuẩn mực này có thể được hình thành từ q
trình hợp tác quốc tế, thông qua những hiệp định, thỏa thuận giữa các nhà
nước hoặc các chuẩn mực, tập quán được đặt ra bởi các tổ chức, hiệp hội phi
chính phủ được những tổ chức, cá nhân trên thế giới chấp nhận rộng rãi.
Về mục tiêu, hội nhập quốc tế cũng như các hình thức hợp tác quốc tế
khác đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Các nước tham gia q trình này cơ bản
vì thấy có lợi cho đất nước. Do đó, việc tham gia phải dựa theo một số tiêu
chí với mức độ và lộ trình phù hợp.
Về hình thức, hội nhập quốc tế bao gồm các hoạt động: 1-Thúc đẩy
quan hệ song phương dựa trên các chuẩn mực quốc tế chung; 2- Gia nhập các
tổ chức quốc tế, các cơ chế hợp tác quốc tế; 3- Xây dựng các luật lệ và chuẩn


4
mực; 4- Thực hiện các luật lệ, chuẩn mực, các hoạt động chung ở phạm vi
quốc tế và quốc gia.
Về lĩnh vực hội nhập, quá trình hội nhập diễn ra trong mọi lĩnh vực, từ
chính trị, kinh tế, quốc phịng - an ninh, đến các lĩnh vực khác. Hội nhập trên
các lĩnh vực này có mối liên hệ hữu cơ mật thiết, đan xen, tác động qua lại lẫn
nhau. Thông thường, kinh tế thường là lĩnh vực đi đầu và là cơ sở vững chắc
cho hội nhập trong các lĩnh vực khác. Đồng thời, hội nhập trong các lĩnh vực
khác cũng tạo ra một môi trường thuận lợi cho hội nhập kinh tế.
Về chủ thể, cả nhà nước và các chủ thể phi nhà nước đều tham gia quá
trình hội nhập, tạo nên một sự đan xen nhiều cấp độ, tầng nấc trong hội nhập
quốc tế. Trong các lĩnh vực chính trị và quốc phịng - an ninh, chủ thể chính là
nhà nước và các lực lượng chính trị. Tuy nhiên, trong kinh tế, văn hóa, xã hội

và nhiều lĩnh vực khác, vai trò của các chủ thể phi nhà nước, như doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội, đoàn thể và người dân là rất quan trọng.
1.2. Tất yếu khách quan hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng
lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt
động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng
lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề
chung mà các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc tế theo đúng nghĩa đầy đủ là
hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Về bản chất, hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của
hợp tác quốc tế nhằm đạt được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó.
Hiện nay, bối cảnh tình hình quốc tế địi hỏi mọi quốc gia phải tham gia
hội nhập vào tiến trình vận động của nền kinh tế khu vực và thế giới. Nước ta
là một nước đang phát triển, đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, chúng ta tiến
hành hội nhập là xu thế tất yếu, bởi những cơ sở sau đây:
Một là, tồn cầu hố kinh tế là xu hướng tất yếu khách quan, nó tác
động sâu sắc tới các lĩnh vực của đời sống quốc tế và thâm nhập vào từng
quốc gia ngày một sâu rộng, toàn cầu hoá bắt nguồn từ sự phát triển của lực


5
lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hố của lực lượng sản xuất trên phạm vi
quốc gia và quốc tế, từ nền kinh tế thị trường thế giới.
Mặt khác, hiện nay sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ nhất là công nghệ thơng tin, sự hình thành mạng Internet
bao trùm tồn cầu làm cho mối liên hệ giữa các quốc gia, khu vực được tăng
cường, sự liên kết kinh tế mở rộng thị trường và thực hiện chun mơn hố,
hợp tác và phân công lao động xã hội trên phạm vi quốc tế đã tạo thành những
sản phẩm hàng hoá được kết hợp sản xuất từ nhiều quốc gia.

Ngoài ra, những vấn đề toàn cầu trên thế giới hiện nay đặt ra như: ô
nhiễm môi trường, bệnh tật, dân số, tội phạm, ma t, xung đột, chiến tranh,
hồ bình,… địi hỏi phải có sự phối hợp và nỗ lực chung của cộng đồng quốc
tế để giải quyết.
Như vậy, tính khách quan của tồn cầu hố làm cho mỗi quốc gia trên
thế giới tất yếu phải tham gia quá trình hội nhập, các nước phát triển tăng
cường hội nhập để mở rộng thị trường cạnh tranh thu lợi nhuận, phục vụ mục
đích kinh tế và chính trị của nước lớn, cịn các nước đang phát triển và chậm
phát triển tham gia hội nhập để tận dụng cơ hội tránh nguy cơ tụt hậu.
Cùng với xu thế chung này Việt Nam tham gia hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới là một tất yếu khách quan để phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
Hai là, xuất phát từ nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế chậm
phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu, trình độ tổ chức quản lý
cịn chưa có kinh nghiệm, hàng hoá sản xuất ra chất lượng, mẫu mã chưa đáp
ứng được thị trường, vì vậy sức cạnh tranh không cao. Tuy thành tựu trong
hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế đất nước có nhiều khởi sắc, đời sống nhân
dân được cải thiện nhưng so với khu vực và trên thế giới thì khoảng cách cịn
xa, thu nhập đầu người ở mức thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn chiếm tỷ lệ cao, đời
sống tinh thần văn hoá xã hội còn nhiều mặt hạn chế, bất cập, nhức nhối.
Thực tế đó đặt ra một yêu cầu đối với Đảng và Nhà nước ta phải đưa nước ta
ra khỏi nước kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân, và cách tốt nhất hiện nay đó là tiến hành hội nhập nền kinh tế thế giới và


6
khu vực. Đây là con đường để nước ta phát triển rút ngắn với các nước phát
triển trên thế giới, thoát khỏi nước nghèo, lạc hậu, kém phát triển.
Ba là, từ u cầu chung của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố
hiện nay.

Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay địi hỏi
chúng ta phải phấn đấu phát triển lực lượng sản xuất tới trình độ hiện đại, áp
dụng công nghệ tiên tiến vào trong quá trình sản xuất và quản lý để nâng cao
năng suất lao động. Chính con đường cơng nghiệp hố, hiện đại hoá là giải
pháp tốt nhất để đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển.
Nhưng thực hiện được sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước địi
hỏi nước ta phải thực hiện q trình hội nhập mở cửa với khu vực và thế giới
để chúng ta tận dụng vốn, học hỏi trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ, mở
rộng thị trường,… và đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng
nghiệp nơng thơn. Mặt khác, q trình hội nhập là xố bỏ nền kinh tế khép kín
để xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ và tranh thủ nguồn lực nước
ngồi. Do đó, cơng nghiệp hố, hiện đại hố là để phát triển nền kinh tế tăng
sức cạnh tranh, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, vừa góp phần tham gia
hội nhập kinh tế ngày càng chủ động hơn và có hiệu quả cao.
Từ những cơ sở trên và cùng với các lý do khác nữa chúng ta thấy rằng
trong bối cảnh tồn cầu hố kinh tế và đặc điểm nền kinh tế nước ta, chúng ta
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một điều tất yếu khách quan,
là xu thế hợp quy luật với sự vận động của đời sống quốc tế hiện nay. Sự hội
nhập này vừa là xu thế không thể cưỡng nổi nhưng cũng là nhu cầu phát triển
nội tại của Việt Nam, là chính sách và cũng là chiến lược phát triển đất nước
của chúng ta trong thế kỷ 21.
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc,
bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Gắn kết chặt chẽ q trình chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức
mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể
chế trong nước, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng



7
của đất nước” [9, tr.164]. Vấn đề là chúng ta hội nhập như thế nào, làm thế
nào để trụ vững và phát triển trong q trình tồn cầu hố, cần phải chuẩn bị
những yếu tố gì cho quá trình hội nhập có hiệu quả và khơng làm mất đi tính
độc lập tự chủ cũng như hoà tan bản sắc văn hố dân tộc.
1.3. Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
Q trình hội nhập chính trị của nước ta thực tế đã bắt đầu từ khi Việt
Nam trở thành thành viên Liên hợp quốc từ năm 1976. Thời điểm Việt Nam
hội nhập kinh tế quốc tế có thể được tính khi nước ta gia nhập Hội đồng
Tương trợ kinh tế (năm 1978), mặc dù các chuẩn mực và nguyên tắc hợp tác
có nhiều khác biệt so với các cơ chế hợp tác quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, quá
trình phát triển tư duy của Đảng ta về hội nhập quốc tế thực chất chỉ bắt đầu
cùng với sự nghiệp đổi mới được Đại hội VI (năm 1986) khởi xướng.
Đại hội VI của Đảng nhận định: “Một đặc điểm nổi bật của thời đại là
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước
phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh q trình quốc tế hóa
các lực lượng sản xuất” [6, tr. 27]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua năm 1991 khẳng
định “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cùng với xu thế quốc
tế hóa đời sống kinh tế thế giới là một thời cơ để phát triển” [6, tr.230]. Như
vậy, cho đến Đại hội VII, khái niệm hội nhập chưa xuất hiện, nhưng nhận
thức của Đảng ta về quá trình quốc tế hóa là các tiền đề quan trọng để phát
triển tư duy về hội nhập quốc tế. Trong thời kỳ này, trên thực tế, quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã bắt đầu diễn ra với việc Việt Nam bình thường hóa
quan hệ với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB) vào tháng 10-1993.
Thuật ngữ hội nhập bắt đầu được đề cập lần đầu tiên trong Văn kiện
Đại hội VIII của Đảng (năm 1996): “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập
khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả” [6, tr.342].

Trước khi khái niệm “hội nhập” được sử dụng chính thức, ở nước ta đã có
một số thử nghiệm về ngôn ngữ liên quan tới khái niệm này. Lúc đầu là khái
niệm “nhất thể hóa” được sử dụng, sau đó là khái niệm “hịa nhập”. Hai khái


8
niệm này tuy thể hiện khá chính xác nội hàm, nhưng gây lo ngại về mất bản
sắc và độc lập, do đó thuật ngữ “hội nhập” được sử dụng và trở thành khái
niệm chính thức trong văn kiện của Đảng.
Chính trong giai đoạn này, hội nhập quốc tế của nước ta đã chính thức
bắt đầu với việc gia nhập ASEAN (năm 1995), ký Hiệp định hợp tác khung
Việt Nam - Ủy ban châu Âu dựa theo các chuẩn mực quốc tế (năm 1995), gia
nhập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, và Diễn đàn Hợp tác kinh
tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998. Cũng trong giai đoạn này,
Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO (năm 1995), tuy q trình đàm phán
cịn chậm và chưa được thúc đẩy mạnh mẽ.
Đến Đại hội IX (năm 2001), chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tiếp
tục được nhấn mạnh: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường” [6, tr.483]. Tuy
nhiên, quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện cụ thể nhất trong
Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX (năm 2001) về hội nhập
kinh tế quốc tế [Error: Reference source not found].
Giai đoạn này, hội nhập quốc tế của nước ta đã bắt đầu đi vào chiều sâu
với việc ký kết Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ năm 2001,
đẩy nhanh đàm phán gia nhập WTO, thực hiện AFTA,...
Đại hội X tái khẳng định chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế và nêu định hướng “đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực
khác” [6, tr.651]. Với định hướng này, hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực quốc

phịng, an ninh, văn hóa, xã hội được đẩy mạnh, nhất là trong khuôn khổ các cơ
chế hợp tác của ASEAN và do ASEAN làm chủ đạo. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã
có thêm một bước phát triển tư duy quan trọng với việc chuyển từ “hội nhập
kinh tế quốc tế” sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” [7, tr.236], tức là
mở rộng phạm vi, lĩnh vực và tính chất của hội nhập.
Giai đoạn giữa Đại hội X và Đại hội XI có những thay đổi về chất trong
hội nhập quốc tế với đỉnh cao là việc nước ta chính thức trở thành thành viên của
WTO (2007). Những năm sau đó, Việt Nam ký kết nhiều FTA song phương và


9
khu vực, như Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản (JVEPA) năm
2008; Hiệp định khung về Đối tác và hợp tác toàn diện với EU (PCA) năm 2010;
FTA với Chi-lê; FTA của ASEAN với các đối tác; bắt đầu đàm phán Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) năm 2010. Cũng trong giai đoạn này, hợp
tác quốc phòng - an ninh được mở rộng với việc tham gia một số cơ chế đối
thoại về quốc phòng, như ADMM, ADMM+. Các bộ, ngành chức năng cũng đã
tích cực mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực chuyên ngành, tham gia
ngày càng nhiều hơn vào các tổ chức quốc tế và khu vực.
Năm 2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban hành Nghị
quyết số 06-NQ/TW, về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021)
nhấn mạnh “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng, có
hiệu quả” [9, tr.117] và xử lý tốt “mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế” [9, tr.164].
Tóm lại, từ năm 1986 đến nay, cùng với quá trình đổi mới và mở rộng
hợp tác với bên ngoài, tư duy của Đảng ta về hội nhập quốc tế đã liên tục phát
triển, các hoạt động hội nhập quốc tế, với hội nhập kinh tế quốc tế là trọng
tâm, cũng liên tục phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Có thể tổng hợp

một số nét lớn như sau:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế gắn liền với quá trình gia nhập các tổ chức
quốc tế, tức là chấp nhận các luật lệ và chuẩn mực quốc tế chung. Điều này
xuất phát từ thực tế là nước ta bị bao vây, cơ lập, phải chủ động bình thường
hóa quan hệ và gia nhập các tổ chức quốc tế. Cũng vì vậy, hội nhập quốc tế
được nhìn nhận thiên về quá trình đàm phán gia nhập các tổ chức quốc tế,
chấp nhận “luật chơi” quốc tế.
Thứ hai, hội nhập quốc tế cũng được diễn ra trong quan hệ song phương.
Ngoài các cấp độ đa phương, các văn kiện của Đảng cũng coi hợp tác song
phương theo chuẩn mực chung là một phần của hội nhập quốc tế. Nghị quyết số
07-NQ/TW đã coi việc ký kết Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ là một nội
dung của hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiều văn kiện của Đảng nhấn mạnh các nội
dung có tính chất hội nhập bên trong của nền kinh tế như biện pháp thực hiện hội


10
nhập quốc tế. Trên thực tế, phần lớn các điều khoản của Hiệp định Thương mại
với Hoa kỳ được xây dựng trên các quy định của WTO.
Thứ ba, hội nhập quốc tế khởi đầu đặt trọng tâm trong lĩnh vực kinh tế
và sau đó mở rộng sang các lĩnh vực khác. Trên thực tế, hội nhập quốc tế ở
nước ta đã diễn ra trên nhiều lĩnh vực. Trong giai đoạn đầu, các văn kiện của
Đảng chỉ đề cập đến hội nhập kinh tế do đây là lĩnh vực trọng tâm. Đến các
đại hội Đảng gần đây, hội nhập trong các lĩnh vực khác đã được định hướng
ngày càng rõ hơn, xuất phát từ thực tế là hội nhập kinh tế đã tạo cơ sở để Việt
Nam mở rộng hội nhập trên các lĩnh vực khác và hội nhập trên các lĩnh vực
khác càng củng cố mức độ hội nhập kinh tế của nước ta.
Chương 2. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRƯỚC TÁC
ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG 4.0 HIỆN NAY
2.1. Vài nét về Cách mạng 4.0

Cách mạng 4.0 hay còn được gọi là Cách mạng cơng nghiệp lần thứ 4
đã khơng cịn là khái niệm xa lạ, nhưng hiện tại chủ đề này vẫn đang rất
‘nóng” mỗi khi được nhắc đến. Theo Gartner (Công ty nghiên cứu và tư vấn
CNTT), năm 2013 thuật ngữ “Industrie 4.0” xuất hiện trong một tờ báo của
chính phủ Đức. Khái niệm cơ bản của “Industrie 4.0” là kết nối các hệ thống
nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa Công
nghiệp, Kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong. Ở Việt Nam thuật ngữ
“Industrie 4.0” được biết đến với cái tên “Công nghiệp 4.0” hay “Cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0”.
Hiểu một cách đơn giản hơn: Cách mạng 4.0 là q trình tích hợp tất
cả các cơng nghệ thơng minh để tối ưu hóa quy trình và phương thức sản
xuất, kinh doanh.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra trên rất nhiều lĩnh vực,
các mảng của cuộc sống. Cụ thể, trong mảng kỹ thuật số, cuộc cách mạng này
đã và đang xây dựng và phát triển 3 yếu tố cốt lõi chính. Đó chính là:
Trí tuệ nhân tạo (AI)
Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT)
Dữ liệu lớn (Big Data).


11
Bên cạnh đó, nó cũng tập trung vào tìm hiểu, thu thập, nghiên cứu các
công nghệ sinh học để tạo ra những phát minh mới, ứng dụng mới. Qua đó tạo
nên những bước phát triển nhảy vọt trong đa dạng các lĩnh vực: nông nghiệp,
y dược, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu... Ngồi ra trong lĩnh vực vật
lý, cách mạng công nghệ 4.0 đã tạo ra: robot thế hệ mới, máy in 3D, công
nghệ nano và các vật liệu mới như graphene, skyrmions…
Hiện nay, cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra vô cùng “sôi động”
nhất là tại các nước phát triển như Mỹ, các nước Châu Âu. Bên cạnh đó, tại
một số nước ở Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,... Không chỉ

vậy, tại một số quốc gia đang phát triển, công nghệ số 4.0 cũng đang dần “len
lỏi” vào đời sống kinh tế, chính trị... Tại Việt Nam Cách mạng 4.0 cũng dần đi
vào các lĩnh vực của cuộc sống, kinh tế...
2.2. Những thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với Việt Nam trong
quá trình hội nhập quốc tế trước tác động của Cách mạng 4.0 hiện nay
* Những thuận lợi, cơ hội
Trong 35 năm đổi mới và phát triển, tiến trình hội nhập quốc tế trở
thành một quyết sách chiến lược, phục vụ trực tiếp nhu cầu của đất nước, phù
hợp với các xu thế lớn trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã có nhiều văn bản
của Đảng và Nhà nước thể hiện chủ trương phát triển quốc gia trong thời kỳ
cách mạng 4.0, như Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22-3-2018, của Bộ Chính
trị, về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-92019, của Bộ Chính trị, về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã xây
dựng và ban hành các chương trình hành động và chiến lược quốc gia tương
ứng với các lĩnh vực liên quan, như Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư,
Chương trình chuyển đổi số quốc gia và Chiến lược quốc gia về nghiên cứu,
phát triển và ứng dụng AI.
Với nền tảng lý luận và tư duy đối ngoại về hội nhập quốc tế luôn được
cập nhật phù hợp với thời đại, quá trình triển khai hội nhập quốc tế của Việt
Nam thời gian qua đã đạt được một số thành tựu quan trọng sau:


12
Một là, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy kinh tế - xã hội, đổi mới
mơ hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và sức mạnh tổng hợp
quốc gia. Trong 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, từ một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, quy mô nhỏ bé, đến nay GDP của Việt Nam đạt 262 tỷ USD,
tăng hơn 18 lần, đứng thứ 44 trên thế giới. Trong bảng xếp hạng chỉ số quyền
lực châu Á (Asia Power Index) năm 2020 do Viện Lowy - viện nghiên cứu

chính sách đối ngoại hàng đầu của Ô-xtrây-li-a công bố vào ngày 19-10-2020,
Việt Nam vượt Niu Di-lân, xếp thứ 12 về sức mạnh tổng hợp trong số 26
quốc gia, vùng lãnh thổ được đánh giá [13].
Hai là, góp phần vào việc đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới, xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, bảo vệ độc lập,
chủ quyền quốc gia, mở rộng và tăng cường quan hệ với các quốc gia, với các
nước lớn và trung tâm quyền lực hàng đầu thế giới.
Bốn là, các hoạt động hội nhập toàn diện, sâu rộng, nhất là đối ngoại đa
phương, đã giúp khẳng định và nâng tầm năng lực khởi xướng, nòng cốt, dẫn
dắt và hòa giải của Việt Nam qua đảm nhận thành công nhiều trọng trách, như
tổ chức thành công Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) năm 2017, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên năm 2019; đảm
nhiệm thành cơng vai trị Chủ tịch ASEAN 2020; tiếp tục đảm nhiệm vị trí Ủy
viên khơng thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 2021, với nhiều sáng kiến và dấu ấn được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Năm là, góp phần tích cực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
người dân cũng như giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường.
Các địa phương, doanh nghiệp và người dân ngày càng có điều kiện tham gia,
tận dụng các cơ hội mà hội nhập quốc tế mang lại.
Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước ta càng vững bước
trên con đường hội nhập, tranh thủ tốt nhất những cơ hội mới đang mở ra.
Thứ nhất, hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là khát vọng và nỗ lực
chung của tồn nhân loại. Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế dù gặp những trở


13
ngại, thách thức thời gian qua, nhưng vẫn là xu thế khách quan. Với thế và lực
mới, Việt Nam bước vào thời kỳ chiến lược mới, đổi mới toàn diện, chủ động
tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng,
toàn diện.

Thứ hai, những thành tựu đạt được sau 35 năm đổi mới tiếp tục khẳng
định sự đúng đắn của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; chủ trương chủ động
tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng của Việt Nam, như Tổng Bí thư,
Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [9, tr.25]. Đây là cơ
sở và nền tảng quan trọng cho việc hội nhập quốc tế thời kỳ Cách mạng 4.0
trong thời gian tới, nhất là sự hình thành hội nhập kinh tế quốc tế số.
Thứ ba, thông qua mạng lưới hơn 30 đối tác chiến lược toàn diện, đối
tác chiến lược và đối tác toàn diện, Việt Nam có cơ hội thu hút nguồn lực, đầu
tư để nâng cao năng lực quốc gia trong kỷ nguyên Cách mạng 4.0, phục vụ
phát triển và bảo đảm độc lập, tự chủ và an ninh.
Thứ tư, hội nhập quốc tế của Việt Nam trong kỷ nguyên Cách mạng 4.0
cũng đóng góp vào việc mở ra những phương thức, không gian mới cho hội
nhập quốc tế của khu vực và thế giới, góp phần tạo ra những động lực mới
cho tăng trưởng kinh tế, đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững. Việc
tranh thủ thời cơ từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay là thời
cơ chiến lược để đất nước bứt phá, vươn lên, thực hiện các mục tiêu phát triển
được đề ra tại Đại hội XIII của Đảng.
Thứ năm, hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên Cách mạng 4.0 tạo ra
không gian để Việt Nam phát huy hơn nữa “sức mạnh mềm”, nâng cao uy tín
và vị thế của đất nước. Nền tảng mạng lưới và liên kết kinh tế là cơ sở, tạo
điều kiện để Việt Nam tranh thủ hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế, mở
rộng và tham gia sâu vào mạng lưới liên kết kinh tế toàn cầu, góp phần định
hình các khn khổ luật lệ về kinh tế - thương mại mới, trong đó có việc nâng
cấp, bổ sung các nội dung về liên kết số, ứng dụng công nghệ để thiết lập các
hành lang đi lại an toàn trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19.


14
* Những khóa khăn, thách thức

Bên cạnh những cơ hội, tiến trình hội nhập quốc tế trong thời kỳ Cách
mạng 4.0 của Việt Nam cũng phải đối diện với không ít thách thức.
Một là, cục diện thế giới và khu vực biến đổi khó lường, khó đốn định,
gây khơng ít khó khăn cho cơng tác dự báo chiến lược. Cạnh tranh chiến lược
giữa các nước lớn, xung đột cục bộ, các nguy cơ an ninh được dự báo sẽ tiếp
tục diễn ra phức tạp, gay gắt hơn trước. Nền kinh tế thế giới bước vào thời đại
mới về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đưa tới những thay đổi
sâu sắc trong quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội. Các thách thức an ninh phi
truyền thống, như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh
mạng... ngày càng gia tăng.
Hai là, hội nhập quốc tế trong thời kỳ Cách mạng 4.0 cũng đặt ra
những yêu cầu mới, như đổi mới tư duy, chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia
nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi
xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác” và việc chuyển đổi mơ hình
tăng trưởng gắn với cơng nghệ số. Ngồi ra, vấn đề luật hóa và thực hiện các
cam kết FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao, cùng với vấn đề mới trong bổ sung,
nâng cấp những điều khoản liên quan đến kinh tế số và công nghệ số cũng là
một trong những thách thức đối với Việt Nam.
Ba là, việc nắm bắt cơ hội, triển khai đồng bộ ở các cấp về thực hiện
cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư, q trình số hóa, chuyển đổi số sâu
rộng trong bối cảnh năng lực chuyển đổi của Việt Nam cịn hạn chế. Nếu
khơng kịp chuyển đổi kịp thời về tư duy và hành động, nguy cơ tụt hậu của
đất nước càng nghiêm trọng [11].
Bốn là, những yêu cầu cao hơn về công tác hội nhập quốc tế trong kỷ
nguyên số nhằm phát huy “sức mạnh mềm”, vị thế mới về địa - chiến lược,
địa - kinh tế, vươn lên đóng vai trị khởi xướng, nịng cốt, hịa giải trong các
vấn đề có ý nghĩa chiến lược với Việt Nam. Việc hội nhập quốc tế trong thời
kỳ Cách mạng 4.0 cũng đặt ra những vấn đề mới, như việc bắt nhịp với xu
hướng phát triển, phương thức sản xuất mới của thế giới, cân bằng giữa bảo



15
đảm an ninh mạng và phát triển kinh tế số, giữa chuyển đổi số và duy trì an
sinh và ổn định xã hội, giữa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) về cơng
nghệ và hỗ trợ các doanh nghiệp công nghệ trong nước.
Năm là, các nguy cơ đối với an ninh, trật tự xã hội và chủ quyền không
gian mạng, bảo vệ chế độ trong bối cảnh không gian mạng có nhiều diễn biến
phức tạp. Với sự phổ biến của các phương tiện truyền thông xã hội, sự chống
phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, phức tạp và nguy cơ phát sinh
các bất ổn xã hội cũng khó khăn, phức tạp hơn trước. Bên cạnh đó là thách
thức về bảo đảm việc làm, đào tạo lại lực lượng lao động.
2.3. Giải pháp khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của Cách mạng 4.0
Trên cơ sở những phân tích, đánh giá về cơ hội, thách thức và những
vấn đề đặt ra nêu trên, để quá trình hội nhập quốc tế trong thời kỳ Cách mạng
4.0 của Việt Nam trong thời gian tới toàn diện, sâu rộng, sáng tạo và hiệu quả
hơn, cần chú trọng một số biện pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo
những bài học kinh nghiệm về xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các
nước lớn và các nước láng giềng; đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ.
Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là
phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, đã được khẳng định trong Văn
kiện Đại hội XIII và các văn bản quan trọng của Đảng về chủ động tham gia
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Chiến lược an ninh mạng quốc gia
và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chỉ thị số 25-CT/TW,
ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa
phương đến năm 2030...
Thứ hai, chủ động và kiên trì mục tiêu hội nhập quốc tế tồn diện và
sâu rộng vì lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng,

cùng có lợi nhằm quyết tâm thực hiện tầm nhìn và khát vọng đưa Việt Nam
trở thành một quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa
thế kỷ XXI.


16
Thứ ba, chủ động xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý trong nước để đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước, đồng thời hỗ trợ và
tận dụng tốt nhất các cơ hội, điều kiện quốc tế mà tiến trình hội nhập quốc
tế đem lại.
Thứ tư, củng cố niềm tin chính trị, đưa quan hệ với các nước láng
giềng, các nước lớn, mạng lưới hơn 30 đối tác quan trọng, bạn bè truyền
thống đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững với những phương thức sáng tạo,
hiệu quả; đặt nội dung phát triển ở vị trí trọng tâm của các mối quan hệ và
tranh thủ thúc đẩy, khai thác các cơ hội về kinh tế - thương mại, đầu tư, khoa
học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ số, các xu hướng phát triển xanh, bền
vững...; chủ động, tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần vào q
trình hình thành các cấu trúc khu vực và tồn cầu, đặc biệt cân nhắc tính đến
xây dựng nội hàm về một cấu trúc an ninh không gian mạng khu vực châu Á Thái Bình Dương; phối hợp chặt chẽ, hiệu quả hơn nữa giữa các lực lượng:
đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, đối ngoại quốc
phòng, an ninh.
Thứ năm, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, tránh
để bị rơi vào thế bị động, bất ngờ. Theo đó, tăng cường công tác nghiên cứu
dự báo, chia sẻ thông tin về hội nhập quốc tế, trọng tâm là hội nhập kinh tế
quốc tế; mở rộng đối thoại chính sách, trao đổi kinh nghiệm, tri thức về hội
nhập quốc tế trong thời kỳ Cách mạng 4.0; nâng cao nhận thức của cán bộ,
đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân về hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số;
xây dựng nền ngoại giao hiện đại, trong đó chú trọng đẩy mạnh ngoại giao
quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Thứ sáu, trên cơ sở Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết của

Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, có thể cân
nhắc nghiên cứu, xây dựng và ban hành một văn bản mới của Đảng về những
chủ trương, định hướng mới trong chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn
diện và sâu rộng, nhất là trong thời kỳ Cách mạng 4.0, trong đó tập trung vào
một số nội hàm, như: hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ Cách mạng 4.0
làm trung tâm, tạo lan tỏa, động lực cho công tác hội nhập của các lĩnh vực
khác; giữ vững an ninh ổn định, trật tự xã hội, bảo vệ chế độ và đầy lùi các


17
nguy cơ, tác động tiêu cực từ không gian mạng... Văn bản mới này sẽ là cơ sở
tham chiếu quan trọng để các cơ quan liên quan đồng bộ phối hợp triển khai
một cách tích cực và hiệu quả trong thời gian tới.
2.4. Trách nhiệm của bản thân trên cương vị cán bộ quản lý
Nhà máy chế biến mủ cao su Nghĩa Trung là đơn vị trực thuộc Công ty
cổ phần Cao Su Sơng Bé có nhiệm vụ tiếp nhận nguồn nguyên liệu (mủ nước)
từ Nông Trường và các đơn vị tiểu điền ở khu vực. Sản phẩm của đơn vị là
cao su khối SVR 3L theo tiêu chuẩn TCVN 3769: 2016. Thực hiện theo hệ
thống quản lý chất lượng ISO 9001: 2015.
Theo Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 04/05/2017 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cuộc cách mạng 4.0 nêu rõ: “nếu
không bắt kịp được trình độ phát triển của thế giới và khu vực, Việt Nam sẽ
phải đối mặt với những thách thức, tác động tiêu cực như: Tụt hậu về công
nghệ, suy giảm sản xuất, kinh doanh; dư thừa lao động có kỹ năng và trình độ
thấp, gây phá vỡ thị trường lao động truyền thống...”. Trong bối cảnh đó, để
nắm bắt được xu thế và có chiến lược sản xuất kinh doanh đúng đắn, giúp các
sản phẩm cao su của công ty ngày càng vươn xa trên thị trường trong nước và
thế giới, trên cương vị là người lãnh đạo, bản thân cần chú trọng làm tốt một
số vấn đề sau:
Một là, cần hiểu đúng và đầy đủ về cuộc cách mạng, về những đặc

trưng của nền sản xuất trong tương lai; những yêu cầu mà doanh nghiệp cần
phải đáp ứng nếu như khơng muốn tụt lại phía sau. Từ đó, xây dựng cho công
ty một chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh lâu dài và những bước đi cụ
thể, vững chắc.
Hai là, cần có bước chuẩn bị về tâm thế cũng như đầu tư về nguồn lực
tài chính và nhân sự chất lượng cao đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi của xu hướng
xuất khẩu mới trước tác độngc của cuộc Cách mạng 4.0 hiện nay.
Ba là, cần có sự thay đổi về mơ hình sản xuất, kinh doanh, tổ chức,
quản trị. Tận dụng triệt để các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp để đầu tư đổi
mới thiết bị, đổi mới cơng nghệ và đổi mới quy trình sản xuất sản phẩm đạt
chất lượng, tiêu chuẩn của các thị trường xuất khẩu; Đẩy mạnh hoạt động
nghiên cứu và triển khai, ứng dụng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công


18
nghệ cao, nhằm nhanh chóng chuyển sang phương thức sản xuất và phương
thức quản trị tiên tiến theo các hướng phát triển của cuộc Cách mạng 4.0.
Bốn là, tìm kiếm đối tác tin cậy cung cấp các giải pháp, công nghệ và
tư vấn triển khai. Đồng thời, xây dựng tập hợp các nhà cung cấp cơng nghệ
thứ ba, từ đó, đầu tư thành lập một nhóm chun mơn nghiên cứu các cải tiến
và áp dụng Cách mạng 4.0 tại đơn vị, dựa trên một văn hóa mở với các thay
đổi và thử nghiệm…
KẾT LUẬN
Lịch sử cho thấy, các cuộc cách mạng cơng nghiệp đều có những tác
động cơ bản đến trật tự thế giới. Mặc dù nhân loại mới bước vào giai đoạn đầu
của Cách mạng công nghiệp 4.0, nhưng các chủ thể quốc gia lẫn phi quốc gia
đã sớm bước vào một cuộc chiến công nghệ mới. Cuộc cạnh tranh này thậm chí
cịn được cho là khốc liệt hơn và đã nhen nhóm từ lâu. Việc các cường quốc sử
dụng cơng nghệ để tranh giành ảnh hưởng tồn cầu khơng cịn q mới mẻ,
nhưng cuộc chiến tranh giành vị trí “bá chủ kỹ thuật số” hứa hẹn sẽ đánh dấu

một kỷ nguyên mới của trật tự thế giới.
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn chuyển mình quan trọng, hướng
tới khát vọng và các mục tiêu phát triển mạnh mẽ, vươn lên sánh vai với các
cường quốc năm châu. Vì vậy, trong những tới, chúng ta cần nhận thức rõ
những tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến quá trình hội nhập quốc
tế của Việt Nam. Trên cơ sở đó có những chính sách, biện pháp sát đúng để
tranh thủ những thuận lợi, ưu thế mà cuộc cách mạng này đem lại, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hiện thực hóa
thành công mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh,
xây dựng một nước Việt Nam hạnh phúc, phồn vinh, có vị thế, uy tín cao trên
trường quốc tế.


19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị về đẩy mạnh và nâng tầm đối
ngoại đa phương đến năm 2030, số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, Hà Nội.
2. Chính phủ (2017), Quyết định phê duyệt Đề án nâng cao năng lực cạnh
tranh các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020, định hướng
đến năm 2030, số 1137/QĐ-TTg ngày 03/8/2017, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
và hội nhập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
9. (Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
10.Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị về việc tăng cường năng lực tiếp
cận cuộc Cuộc CMCN 4.0, số 16/CT-TTg ngày 04/05/2017, Hà Nội.
11. Xem />12. Xem />13. Xem: “Viet Nam: Ranked 12 of 26 for comprehensive power, with an
overall

score

of

19.2

out

of

100”,

/>Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27-11-2001 của Bộ Chính trị về hội
nhập kinh tế quốc tế, websit



×