Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

HỒ SƠ 01 HÌNH SỰ TẠ VĂN TRƯỜNG CHỨA MẠI DÂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.65 KB, 9 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: Kỹ năng tham gia giải quyết các vụ án Hình sự
Hồ sơ số: LS.HS – 01/Diễn Án
Diễn lần: 01
Ngày diễn:
Giảng viên hướng dẫn:

Họ và tên

:

Số báo danh

:

Lớp

:

Vai diễn

:


BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
MÔN KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
HỒ SƠ 01: TẠ VĂN TRƯỜNG CHỨA MẠI DÂM


I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
Cơ sở kinh doanh tẩm quất Ha Na có địa chỉ ở khu phố Nguyễn Giáo,
phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (hay “quán Ha Na”) do
Ngô Văn Thành (sinh năm 1984) làm chủ và đứng tên trên giấy chứng nhận
đăng ký hộ kinh doanh.
Tạ Văn Trường (sinh năm 1988) xin làm ở quán Ha Na vào cuối tháng
6/2018. Theo đó, Thành giao tồn bộ cơng việc quản lý và điều hành qn Ha
Na cho Trường với trách nhiệm là quản lý quán, điều hành nhân viên, thu tiền
tẩm quất của khách. Hai bên không ký hợp đồng lao động, Thành hứa trả lương
cho Trường là 4.000.000đ/01 tháng.
Ngày 05/7/2018 (Lúc 20 giờ 45 phút), trong khi Trường đang làm việc tại
cơ sở kinh doanh tẩm quất Ha Na thì có ba đối tượng tự khai là Nguyễn Văn
Thọ - sinh năm 1986, Nguyễn Trần Trung - sinh năm 1987 và Nguyễn Văn Tuấn
- sinh năm 1990 đều ở thị trấn Chờ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đi xe taxi
của Nguyễn Văn Huy- sinh năm 1983, hộ khẩu thường trú trú tại thôn Việt Vân,
xã Việt Thống, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, đến quán tẩm quất Ha Na để mua
dâm.
Thọ hỏi Trường có nhân viên “tàu nhanh” khơng (tức hỏi có nhân viên bán
dâm khơng) thì Trường trả lời “có”. Thọ hỏi tiếp về giá vé thì Trường trả lời
rằng Trường chỉ thu tiền phòng là 150.000 đồng/người, ba người là 450.000
đồng. Cịn với nhân viên “tàu nhanh” thì lên phịng thỏa thuận với nhân viên
nhưng thấp nhất là 300.000 đồng/nhân viên. Sau đó, Thọ lấy 500.000 đồng đưa
cho Trường thì được Trường trả lại 50.000 đồng và bảo Thọ, Trung, Tuấn lên
phòng 201, 202, 203 để đợi nhân viên đến bán dâm.
Trường gọi Phùng Thị Kim Liên (là nhân viên tại quán - sinh năm 1990, hộ
khẩu thường trú tại khu 1, Hương Xạ, Hòa Phú, Phú Thọ) vào phòng 201 bán
dâm, nhưng sau đó Liên gọi điện cho Trường để đổi qua phịng 203. Sau đó
Trường gọi điện cho một người tên Bắc (số điện thoại 0974 061 663 – Trường
khai rằng số điện thoại này do Thành cung cấp, Trường không biết Bắc là ai) để
yêu cầu hai nhân viên đến quán Ha Na bán dâm. Một lúc sau, có hai người đến,

một trong số đó là Lê Thị Thanh Tâm (sinh năm 1995, hộ khẩu thường trú tại
1


Đội 6, Ninh Thắng, Hoa Lư, Ninh Bình), Trường nói lên phòng 201 và 202
(Tâm vào phòng 202, người còn lại là phịng 201). Được một lúc thì cơ gái ở
phòng 201 đi xuống và bảo với Trường là phòng 201đổi người, sau đó đi về.
Trường gọi điện cho chị Bắc một lần nữa để đổi nhân viên.
Thọ và Trung mỗi người đưa cho Liên và Tâm 500.000 đồng và bắt đầu
thực hiện hành vi mua bán dâm. Còn Tuấn đang ở trong phòng 201 đợi gái bán
dâm đến. Khi các đối tượng đang thực hiện nêu trên thì bị cơng an thuộc Phịng
Cảnh sát Hình sự Cơng an tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang, tài xế taxi Nguyễn Văn
Huy chứng kiến sự việc. Các vật chứng thu được gồm: 1.500.000 VND do
Trường, Liên và Tâm giao nộp; 02 Bao cao su đã qua sử dụng; 02 điện thoại di
động của Trường và Liên.
Ngày 08/7/2018, Liên và bị Phòng Cảnh sát Hình sự - Cơng an tỉnh Bắc
Ninh ra quyết định xử phạt Cảnh cáo.
Ngày 10/8/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Bắc Ninh đã cho
Trường và Thành đối chất, tuy nhiên hai bên có sự mâu thuẫn lời khai khi
Trường cho rằng Thành biết và đã chỉ đạo Trường đối với hành vi chứa mại
dâm, còn Thành lại khai rằng Trường tự ý thực hiện hành vi này.
Ngày 26/8/2018, Thành bị xử phạt hành chính với lỗi thiếu tinh thần trách
nhiệm để xảy ra hoạt động mua dâm, bán dâm ở cơ sở kinh doanh do mình làm
chủ, bị phạt tiền 17.500.000 đồng.
Qua điều tra về đối tượng tên Bắc thì khơng thể xác định được địa chỉ cụ
thể, cơ quan có thẩm quyền đã xác định chủ thuê bao 0974.061.663 mà Trường
liên lạc với Bắc là của Nguyễn Thị Nguyên (sinh năm 1990, ở tại khu phố 1,
Đồng Nguyên, Từ Sơn, Bắc Ninh). Nguyên khẳng định không sử dụng do bị mất
máy và sim và không bảo Lê Thị Tâm đi bán dâm tối 05/7/2018, nên khơng có
căn cứ xử lý.

Về Thọ, Trung và Tuấn thì ba đối tượng này đã lợi dụng sơ hở và bỏ trốn
vào ngày 06/7/2018. Dựa theo bản tự khai, khi cơ quan điều tra xác nhận với
Công an thị trấn Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh thì tại địa phương này khơng có
thơng tin đối tượng nào như đã khai.
Ngày 17/9/2018, bản Kết luận điều tra đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bắc Ninh truy tố bị can Tạ Văn Trường về tội “Chứa mại dâm” quy định tại
khoản 2 Điều 237 Bộ luật Hình sự.
Ngày 18/10/2018, Viện trưởng Viện kiếm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã ra
Cáo trạng quyết định truy tố bị can Tạ Văn Trường về tội “Chứa mại dâm” theo
điểm d khoản 2 Điều 237 Bộ luật Hình sự.
2


Ngày 28/12/2018, Toà án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đã có
Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 17/2018/QĐXXST-HS.
II. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH HỎI
- Tư cách xét hỏi: Luật sư bào chữa cho Bị cáo Tạ Văn Trường.
- Định hướng bào chữa: giảm nhẹ tội và mức hình phạt, chuyển sang
khung hình phạt khác nhẹ hơn.
- Phạm vi, mục đích hỏi: Làm rõ động cơ, mục đích phạm tội theo hướng
có lợi cho bị cáo, hỏi theo hướng bị cáo không phải là chủ mưu mà chỉ
làm theo yêu cầu và sự chỉ đạo của Thành. Bên cạnh đó hỏi thêm về các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
1. Hỏi bị cáo Tạ Văn Trường
- Bị cáo được chủ quán Thành hướng dẫn về công việc quản lý như thế
nào?
- Khi bị cáo thu tiền phòng mỗi khách là 150.000 đồng thì là do ai hướng
dẫn?
- Tối ngày 05/7/2018, khi có khách đến mua dâm thì bị cáo có báo với anh
Thành biết không? lúc anh Thành về quán thì bị cáo đã nói gì với anh Thành?

- Bị cáo có biết Bắc – số điện thoại 097 406 1663 là ai không, bị cáo đã gặp
mặt Bắc lần nào chưa?
- Số điện thoại 097 406 1663 từ đâu mà bị cáo có?
- Trước ngày 05/7/2018, bị cáo có biết chị Lê Thị Thanh Tâm hay không?
Vào đêm 05/7/2018 thì Bị cáo có gọi điện cho Tâm đến qn hay khơng?
- Bị cáo có biết Tâm đến qn bằng cách nào khơng?
- Bị cáo có biết Nguyễn Thị Ngun là ai khơng?
- Tối ngày 05/7/2018, khi có khách đến mua dâm thì có bao nhiêu nhân
viên đến bán dâm và bị bắt quả tang?
- Bị cáo làm quản lý tại quán Ha Na với mức thu nhập như thế nào, gồm
những khoản nào ?
- Bị cáo có được hưởng lợi khi gọi nhân viên bán dâm đến quán để phục vụ
Thọ, Trung và Tuấn hay khơng?
- Bị cáo có nhận xét gì về hành vi phạm tội của mình?
- Bị cáo có ăn năn, hối cải với hành vi của mình khơng?
2. Hỏi Ngơ Văn Thành
- Anh cho biết Trường bắt đầu làm việc tại quán của anh từ khi nào?
3


- Anh và Trường có thoả thuận như thế nào khi Trường đến xin việc?
Hưởng lương ra sao? Ngoài lương ra thì Trường cịn được trả khoản tiền nào
khác khơng?
- Anh có thường xun đến ở qn hay khơng?
- Mỗi khi kết ca, Trường không ghi chépthông tin hoạt động của quán, vậy
anh quản lý tình hình kinh doanh của cơ sở như thế nào?
- Số tiền hàng ngày Trường Thu của khách khi đến quán tẩm quất thì anh sẽ
xử lý như thế nào?
- Đề nghị anh Thành nêu rõ mức giá các dịch vụ tại quán Ha Na?
- Tối ngày 05/7/2018, khi có khách đến mua dâm thì bị cáo Trường có báo

với anh Ngơ Văn Thành biết không? Bị cáo báo như thế nào?
- Anh cho biết từ đâu mà quán Ha Na do anh làm chủ lại có số điện thoại
097 406 1663 của Bắc?
- Anh Thành cho biết mối quan hệ giữa anh và chị Nguyễn Thị Nguyên (có
chồng tên là Tùng)?
- Theo lời khai của anh Thọ thì đã từng đến quán mua dâm nhiều lần, tuy
nhiên chỉ lần vừa rồi mới gặp Trường. Ý kiến của anh về vấn đề này với tư cách
là chủ quán HaNa?
3. Hỏi Phùng Thị Kim Liên
- Chị Liên đã làm việc tại cơ sở kinh doanh tẩm quất Ha Na từ khi nào?
- Chị đã thoả thuận với anh Thành khi xin việc tại quán như thế nào?
Hưởng lương ra sao?
- Việc chị bán dâm tại quán thì anh Thành có biết khơng?
- Số tiền sau khi chị thực hiện hành vi bán dâm thì chị có chia cho ai
không?
- Chị Liên bán dâm tại cơ sở kinh doanh tẩm quất Ha Na theo sự chỉ đạo
của ai?
- Trước ngày 05/7/2018, chị Liên đã bán dâm mấy lần tại cơ sở kinh doanh
tẩm quất Ha Na?
4. Hỏi Lê Thị Thanh Tâm
- Trước ngày 05/7/2018, chị Tâm đã đến cơ sở kinh doanh tẩm quất Ha Na
lần nào chưa?
- Chị đã thực hiện việc bán dâm tại quán mấy lần? Theo sự chỉ đạo của ai?
- Ai đã gọi chị đến quán Ha Na vào đêm 05/7/2018 để tiếp khách?
4


- Sau khi nhận tiền bán dâm thì chị có chia tiền cho ai khơng?
- Chị có phải nhân viên của chị Bắc không?
- Ai là người đã chở chị đến quán tẩm quất Ha Na? Tại sao ban đầu chị khai

người gọi chị đến quán Ha Na tiếp khách và người chở chị đến quán là Tân
(Ngáo)?
- Chị có quen biết Trường từ trước không?
- Cho biết mối quan hệ giữa chị và chị Nguyễn Thị Nguyên (có chồng tên
là Tùng)?
III. BẢN LUẬN CỨ BÀO CHỮA
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát và tất cả những vị có mặt tại phiên tịa hơm
nay!
Tơi là Luật sư ….. đến từ Công ty Luật …., thuộc Đồn Luật sư Thành phố
Hồ Chí Minh. Ngày hơm nay tơi có mặt tại phiên tồ với tư cách là Luật sư bào
chữa cho Bị cáo Tạ Văn Trường, trong vụ án hình sự bị truy tố, xét xử về tội
“Chứa mại dâm” do Toà án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét
xử. Tôi xin được chân thành cảm ơn HĐXX đã tạo điều kiện cho tôi được
nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tịa.
Thưa HĐXX, thơng qua phiên xét hỏi và diễn biến của phiên tòa đã thể
hiện rõ nội dung của vụ án ngày hơm nay. Tơi xin phép khơng tóm tắt lại nội
dung vụ án này.Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, sau khi
nghe quan điểm của vị đại diện VKS và qua phần hỏi cơng khai tại phiên tồ
ngày hơm nay, với tư cách là người bào chữa cho bị cáo tôi xin được trình bày
quan điểm bào chữa cho bị cáo Tạ Văn Trường như sau:
Thứ nhất, bị cáo Tạ Văn Trường bị truy tố về tội “Chứa mại dâm” theo
điểm d khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự (gọi tắt “BLHS” ) là không phù
hợp.
Thưa HĐXX, điểm d khoản 2 Điều 327 BLHS quy định sẽ bị phạt tù từ 05
năm đến 10 năm nếu có hành vi chứa mại dâm 04 người trở lên. Tuy nhiên, việc
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh cho rằng bị cáo Trường có hành vi chứa
mại dâm 04 người trở lên là hoàn tồn khơng hợp lý theo quy định pháp luật. Cụ
thể, tại Thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân
sự và tố tụng hành chính (Mục 2 của Cơng văn số 64/TANDTC-PC ngày

03/4/2019 của Tịa án nhân dân tối cao) thì tình tiết “chứa mại dâm 04 người trở
lên” được giải thích như sau:
5


“Theo Từ điển Tiếng Việt thì “mại” là “bán”, “mãi” là “mua” và “chứa
mại dâm” là “chứa bán dâm”. Như vậy, tình tiết định khung tăng nặng “chứa
mại dâm 04 người trở lên” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 và “đối với 02
người trở lên” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự được
hiểu là đối với người bán dâm. Cách hiểu này là phù hợp với các tình tiết định
khung tăng nặng khác quy định tại tại Điều 327 và Điều 328 của Bộ luật Hình
sự, đồng thời cũng phù hợp với thực tiễn xử lý đối với hành vi chứa mại dâm mà
có 01 người bán dâm với 03 người mua dâm trong cùng một khoảng thời gian
thì bị xử lý theo quy định tại khoản 1 của điều luật này nếu khơng có tình tiết
định khung tăng nặng.”
Theo quy định trên, có thể hiểu“chứa mại dâm 04 người trở lên” nghĩa là
chứa người bán dâm từ 04 người trở lên thì mới cấu thành tội quy định tại điểm
d khoản 2 Điều 327 BLHS. Căn cứ theo các biên bản và lời khai có trong hồ sơ
vụ án thì chỉ có 02 người bán dâm là Phùng Thị Kim Liên và Lê Thị Thanh Tâm
trong vụ án này (ví dụ như tại Bút lục 28 đến 33 về Biên bản bắt người phạm tội
quả tang ngày 05/7/2021; bút lục 42 đến 47 về Biên bản ghi lời khai của Thành;
bút lục 35đến 37 về Biên bản ghi lời khai của Huy; bút lục 70 đến 78 về Biên
bản ghi lời khai của Tuấn, Trung, Thọ; Cáo trạng và Kết luận điều tra vụ án hình
sự tại Bút lục số 114 đến 122). Vậy không thể áp dụng điểm d khoản 2 Điều 327
BLHS trong trường hợp này vì khơng phù hợp với tình tiết khách quan của vụ
án.
Thưa HĐXX, “Chứa mại dâm” được hiểu là hành vi sử dụng, thuê, cho
thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện hoạt động mại
dâm của tổ chức, cá nhân có quyền quản lý, chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt
tài sản mà cho thuê, cho mượn để hoạt động mại dâm. Theo Giấy chứng nhận

đăng ký hộ kinh doanh cá thể tại Bút lúc số 20 thì đại diện hộ kinh doanh Dịch
vụ tẩm quất Ha Na tại Khu phố Nguyễn Giáo, phường Đồng Nguyên, thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh là ơng Ngơ Văn Thành. Có nghĩa rằng người có quyền quản
lý, chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt các vấn đề liên quan đến quán Ha Na
chính là anh Thành, nếu khơng có sự đồng ý của anh Thành thì bị cáo Trường
khơng có quyền tự ý quản lý, chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt đối với quán
Ha Na.
Căn cứ vào lời khai của Thành và của thân chủ tôi tại phần hỏi ngày hôm
nay, tại Biên bản đối chất ngày 10/08/2018 (Bút lục số 48-49) thì khoảng thời
gian Trường bắt đầu vào làm việc tại quán là từ cuối tháng 6/2018 (khoảng ngày
19, 20/6/2018), vậy tính đến ngày 05/7/2018 khi xảy ra sự việc thì Trường chỉ
mới làm việc được khoảng 2 tuần. Tất cả các lời khai của thân chủ tôi đều khẳng
6


định việc liên lạc với Bắc theo số điện thoại 097 406 166 là do Thành hướng
dẫn. Bên cạnh đó, theo các biên bản lời khai của Tâm đều khẳng định không biết
Trường và cũng không được Trường gọi đến. Hơn nữa, thân chủ của tôi cũng
không nhận được bất kỳ lợi ích nào, từ việc liên lạc cho Bắc đến việc sắp xếp
phòng cho khách mua dâm trong trường hợp này. Thưa HĐXX, Bị cáo không
phải là dân địa phương mà là từ nơi khác đến, vì thế việc nắm bắt tình hình để
hoạt động mại dâm trong một khoảng thời gian ngắn (từ cuối tháng 6/2018 đến
05/7/2018) là điều khó có thể xảy ra. Hơn nữa thơng qua lời khai của các đối
đượng mại dâm thì có thể thấy hoạt động này đã được vận hành một cách rất
trơn tru, chứng tỏ đã được thực hiện thuần thục nhiều lần trước đó và đã có sẵn
một đường dây.
Như vậy, bị cáo Tạ Văn Trường bị truy tố về tội “Chứa mại dâm” theo điểm
d khoản 2 Điều 327 BLHS là không phù hợp với thực tiễn và tinh thần tại các
quy định pháp luật.
Thứ hai, kính mong HĐXX xem xét thêm các tình tiết giảm nhẹ sau cho

bị cáo Tạ Văn Trường:
Thưa HĐXX, dựa theo Lí lịch bị can tại Bút lục 14 - 15 và Trích lục tiền
án, tiền sự tại Bút lục 16 thì thân chủ của tơi chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội
lần đầu và hành vi của bị cáo khơng có các tình tiết tăng nặng.
Như đã nêu, bị cáo Trường khơng có quyền tự ý quản lý, chiếm hữu, sử
dụng hoặc định đoạt đối với quán Ha Na, thân chủ của tôi chỉ là nhân viên tại cơ
sở, làm việc với mức lương 4.000.000 đồng nhưng/tháng. Khi thu tiền từ Thọ,
Trung và Tuấn, bị cáo chỉ thu đúng tiền phòng 150.000/người, điều này có thể
thấy thân chủ tơi thực hiện hành vi khơng vì mục đích tư lợi riêng cho bản thân.
Bên cạnh đó, hành vi phạm tội của bị cáo vì là phạm tội lần đầu nên chưa gây
thiệt hại gì nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến an tồn cơng cộng. Bên cạnh
đó, bị cáo đã thành khẩn khai nhận tồn bộ hành vi phạm tội của mình trong suốt
q trình điều tra, truy tố, xét xử. Thơng qua các Biên bản phạm tội quả tang,
Biên bản ghi lời khai và Biên bản hỏi cung bị can, HĐXX có thể thấy Bị cáo đã
ln tích cực hợp tác với cơ quan điều tra.
Từ những phân tích trên, hồn tồn có đầy đủ căn cứ để bị cáo được hưởng
03 tình tiết giảm nhẹ TNHS theo điểm h, điểm s và điểm t khoản 1 Điều 51
BLHS.
Kính mong HĐXX xem xét bị cáo theo khoản 1 Điểm 327 BLHS cùng với
những tình tiết giảm nhẹ vừa nêu để áp dụng khung hình phạt dưới 03 năm cho
bị cáo. Kết hợp với đó là xem xét áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 54 BLHS về
7


Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng và
Điều 65 BLHS về Án treo cho bị cáo Trường trong vụ án này. Từ đó xem xét
tun bị cáo mức hình phạt khơng q 03 năm tù và cho hưởng án treo.
Rất mong HĐXX đưa ra một bản án thấu tình đạt lý thể hiện sự cơng minh
của cơ quan có thẩm quyền xét xử. Đồng thời thể hiện tính nhân đạo để giúp bị
cáo Trường được hưởng một mức án phù hợp, tạo cơ hội làm lại và sửa đổi cuộc

đời.
Xin chân thành cảm ơn Hội đồng xét xử, vị Đại diện viện kiểm sát và toàn
thể những người tham gia phiên toà đã lắng nghe phần trình bày vừa rồi.
Trân trọng.
IV. NHẬN XÉT VỀ VIỆC ĐÓNG VAI TẠI PHIÊN DIỄN ÁN
ST
T

Vai

Người diễn

Nhận Xét

8



×