Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Một số phương pháp tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết học vật lý THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 28 trang )

SKKN Một số phương pháp tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết học Vật ly
THCS

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI, thế kỉ mà giáo dục và phát triển nhân
tài là một trong những nét đặc trưng của giáo dục hiện đại. Nền giáo dục nước ta
hướng vào mục đích từng bước biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo,
lấy sự phát triển của người học làm trung tâm. Những mục tiêu này nhằm phát
huy tính chủ động tích cực, sáng tạo của người học. Để thực hiện mục tiêu đề ra
thì việc hình thành và nâng cao hứng thú của người học ngày càng quan trọng. Vì
chỉ có hứng thú học tập mới làm người học nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng
của tri thức đối với bản thân, có những tình cảm tích cực trong việc lĩnh hội tri
thức, dẫn đến khát khao hiểu biết và tự giành lấy tri thức. Có nghĩa là góp phần
phát huy tính tích cực, sáng tạo của chính bản thân mỗi người học.
Vật lý là một trong những môn học có vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển tư duy sáng tạo của học sinh. Thuận lợi hơn, đây là một môn học vô
cũng gần gũi với đời sống thực tiễn. Học sinh có thể sử dụng kiến thức Vật lý để
giải thích rất nhiều hiện tượng trong cuộc sống xung quanh các em. Vì thế, bản
thân tôi luôn cố gắng tìm ra thật nhiều phương pháp giúp các em yêu thích bộ
môn hơn, đó chính là lý do tôi chọn đề tài “Một số phương pháp tạo hứng thu
cho học sinh trong các tiết học Vật lý THCS”.

Trang 1


2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu: Đề tài được viết nhằm mục đích khơi nguồn hứng thú và nâng
cao hiệu quả học tập cho học sinh.Vậy nên, tôi mong chuyên đề này có thể cung
cấp một nguồn tham khảo cho cả giáo viên và học sinh.
Nhiệm vụ: Đề tài này phân ra thành một số phương pháp và trong mỗi


phương pháp có đề xuất một số giải pháp mà bản thân tôi đã từng sử dụng trong
các tiết dạy trên lớp.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số phương pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong các tiết Vật
lý THCS.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Học sinh trường THCS Dur Kmăn trong lĩnh vực môn Vật lý năm học 20152016, 2016-2017, 2017-2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp phân tích- tổng hợp tài liệu: Tôi đã tìm hiểu các tài liệu liên
quan đến phương pháp dạy học và nhiều tài liệu khác ngoài SGK Vật lý THCS để
chọn lọc các tình huống đặt vấn đề, sưu tầm các câu chuyện về các hiện tượng
Vật lý.
b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Trang 2


Phương pháp điều tra: Tôi đã trao đổi với đồng nghiệp qua các tiết thao
giảng, chuyên đề về một số phương pháp tạo hứng thú học tập. Tôi cũng đã trò
chuyện để lấy ý kiến từ chính các em học sinh.
Phương pháp khảo nghiệm, thí nghiệm: Thử nghiệm linh hoạt các phương
pháp tạo hứng thú trong các tiết dạy trên lớp bằng nhiều phương pháp khác nhau
để so sánh, đối chiếu rồi rút ra kết luận.
c) Phương pháp thống kê toán học
Thống kê lại kết quả thu được qua phiếu điều tra sau khi đã áp dụng các
phương pháp tạo hứng thú cho học sinh.

Trang 3



II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Ngày nay, khi tri thức đã trở thành yếu tố hàng đầu để phát triển kinh tế tri
thức thì các nước trên thế giới đều ý thức được rằng giáo dục là đòn bẩy quan
trọng để đổi mới mô hình tăng trưởng và phát triển xã hội bền vững. Nhận thức rõ
ràng tầm quan trọng đó, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta nhấn
mạnh sự quan tâm đặc biệt đến đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo phát
triển nguồn nhân lực, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, bồi
dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên nhằm giúp người học tiếp thu được
lượng tri thức tốt nhất. Vậy bồi dưỡng lòng say mê, hứng thú học tập như thế nào
cho hiệu quả? Để trả lời được câu hỏi đó, đầu tiên ta cần biết hứng thú là gì và
tầm quan trọng của hứng thú đối với các hoạt động sống và học tập.
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý
nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm trong quá trình hoạt
động.
Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung
hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú.
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt
động nhận thức, tăng sức làm việc.
Từ khái niệm về hứng thú ta có thể suy ra được định nghĩa của hứng thú học
tập là thái độ đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động học tập, vì sự
cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống cá nhân.
Trang 4


Sự hứng thú thể hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của
chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm của con người, nó là động
cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động đó. Trong bất cứ công
việc gì, nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động,

nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực và sáng tạo hơn vào hành
động đó. Ngược lại nếu không có hứng thú, dù là hành động gì cũng sẽ không
đem lại kết quả cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động học
tập, khi không có hứng thú sẽ làm mất đi động cơ học, kết quả học tập sẽ không
cao, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực.
* Một số căn cứ
Căn cứ công văn số 5842/BGDĐT-VP ngày 01 tháng 9 năm 2011 về việc
hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học giáo dục phổ thông theo hướng tinh giản
để dạy và học phù hợp với chuẩn kiến thức, kỹ năng, phù hợp với thời lượng dạy
học và điều kiện thực tế của nhà trường.
Căn cứ công văn số 4116/BGDĐT-CNTT về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm
vụ CNTT năm học 2017 – 2018.
2. Thực trạng
Dân tộc Việt Nam ta có tinh thần hiếu học và ham học qua bao đời, đến nay
vẫn được lưu truyền. Thế nhưng trong xã hội vẫn còn một bộ phận không nhỏ học
sinh không mấy hứng thú với việc học hành. Các em dễ bị cuốn vào những thú vui
bên ngoài như nghiện game, đua đòi theo bạn bè, không có mục đích phấn đấu,
không có ước mơ,… trở thành vấn đề nhức nhối cho toàn xã hội. Có nhiều lý do
cho hiện tượng này như từ bản thân các em, từ gia đình, xã hội nhưng một phần
Trang 5


trách nhiệm cũng thuộc về người giáo viên. Chương trình giảng dạy nặng về kiến
thức mà giáo viên chưa phối hợp linh hoạt giữa các phương pháp tạo hứng thú
cho học sinh. Nhiều tiết dạy còn máy móc các bước lên lớp, làm giờ học thiếu sự
phóng khoáng, trở nên nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hứng thú của học sinh. Dân gian
có câu “Bạn chỉ có thể dắt con ngựa ra bờ suối chứ không thể bắt nó uống nước”
quả thật không sai. Khi những thèm khát, ham muốn không từ trong ra mà bị áp
đặt từ ngoài vào thì rất khó thành công và nếu làm được thì thành quả đạt được
cũng không đáng kể. Quan trọng hơn, con người khi đó sẽ làm việc một cách rất

khổ sở và không bao giờ có hạnh phúc. Vấn đề học tập của con trẻ cũng vậy, dù
cho bắt chúng ngồi ngay ngắn trong các tiết học nhưng nếu không hứng thú thì
chúng không thể học tốt được. Vậy nhiệm vụ đặt ra cho người giáo viên là gì?
Chính là đổi mới phương pháp dạy học theo hứng tích cực, tạo hứng thú cho học
sinh đến lớp.
Mặc dù môn Vật lý rất gần gũi với đời sống nhưng cũng vẫn là một môn tự
nhiên, kiến thức tương đối khó. Trong những năm công tác tại trường THCS Dur
Kmăn, tôi nhận thấy muốn đạt hiệu quả cao ngoài việc truyền đạt kiến thức thì cần
phải gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học trở nên nhẹ nhàng sinh động.
Học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên không gượng ép mới phát huy được
tính chủ động, sáng tạo của các em. Hòa chung với xu thế đổi mới phương pháp
dạy học, bản thân tôi cũng đã áp dụng một số phương pháp dạy học tích cực như
giải quyết vấn đề, thuyết trình, hỏi- đáp,... trong giảng dạy để thu hút sự yêu thích
môn học với học sinh. Tuy đã thu được một số kết quả tích cực nhưng hiệu quả
chung vẫn chưa cao. Một số học sinh vẫn tỏ ra không thích, kết quả trong các bài
kiểm tra cũng chưa được như ý muốn. Vì thế, tôi không ngừng học hỏi kiến thức,
Trang 6


kinh nghiệm từ sách báo, đồng nghiệp để rút ra các phương pháp tốt nhất để lôi
kéo học sinh hứng thú với môn Vật lý và sẽ trình bày cụ thể dưới đây.
3. Nội dung và hình thức của các giải pháp
3. 1. Mục tiêu của giải pháp
Trong đề tài này này tôi trình bày các giải pháp chính sau: Phương pháp tác
động sư phạm, phương pháp tạo tình huống có vấn đề, tạo hứng thú bằng những
thí nghiệm vật lý kì lạ, tạo hứng thú bằng cách lồng ghép kiến thức vào các câu
chuyện Vật lý, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nhằm mục đích chính
là tạo hứng thú học tập cho học sinh trong một số bài học Vật lý THCS.
3. 2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
3. 2. 1. Phương pháp tác động sư phạm

Đây là vấn đề tưởng chừng không liên quan đến việc học tập của học sinh
nhưng nó ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý học tập của học sinh, đặc biệt là lứa tuổi
học sinh THCS khi các em có những biến đổi rất lớn trong tâm sinh lý. Người giáo
viên cần vận dụng các biện pháp sau sẽ giúp học sinh cảm thấy hứng thú trong
việc học bộ môn để kết quả học tập được cao.
Trong thực tế ấn tượng ban đầu rất quan trọng, vì vậy ngoại hình, ngôn
ngữ cơ thể, cách ăn mặc của người giáo viên phải đúng mực.
Tạo ra một không khí thân thiện, thoải mái bằng những cử chỉ, nét mặt,
ánh mắt, nụ cười. Tránh gây không khí căng thẳng trong các tiết học giúp học sinh
tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên nhất.
Tôn trọng ý kiến của học sinh, không gò ép các em theo một khuôn mẫu
nhất định. Đừng bao giờ phủ định hoàn toàn ý kiến của học sinh, vì như thế làm

Trang 7


các em mất đi sự tự tin và không dám nêu lên ý kiến của bản thân trong những lần
sau.
Luôn động viên khích lệ học sinh bằng lời khen, bằng điểm số để tăng sự
tự tin vào bản thân cho các em. Sự khích lệ, động viên được xem là món quà ý
nghĩa, đôi khi có tác động, ảnh hưởng đến cả đời người. Có người dám tiến lên
phía trước đương đầu với những khó khăn, dám can đảm làm lại từ đầu khi thất
bại, dám kiên trì theo đuổi ước mơ... Sự động viên, khích lệ là cho đi mà không
sợ mất, nhận về mà không sợ quá tải, điều ấy thật cần thiết với bất kỳ ai, bất kỳ
lứa tuổi nào.
3. 2. 2. Phương pháp tạo tình huống có vấn đề
Trong sách giáo khoa vật lý có phần câu hỏi rất hữu ích mà người viết sách
đưa ra với dụng ý tạo ra các tình huống mà với kiến thức đã biết trước đó học
sinh không thể giải thích được hoặc chỉ giải thích được một phần. Đó là những gợi
ý rất hay nhưng không phải giáo viên nào cũng tận dụng tốt điều này. Sau đây tôi

xin đưa ra một số tình huống đặt vấn đề đề dẫn dắt học sinh vào bài mới mà tôi đã
từng sử dụng trong các tiết dạy và gây được hiệu quả cao.
 Khi dạy bài “Trọng lực – đơn vị lực” ( SGK vật lý 6, tr 27)
Gv: Các em đã bao giờ thấy quả ở trên cây chín rụng xuống đất chưa?
Hs: Trả lời.
Gv: Tại sao quả chín không rơi qua trái, không rơi qua phải, không bay lên trời mà
lại rơi thẳng xuống đất?
Hs: Lúng túng.
Gv: Để biết nguyên nhân ta tìm hiểu trong bài hôm nay nhé.
 Khi dạy bài “Môi trường truyền âm” ( SGK vật lý 7, tr 37)
Gv: Các em có thích xem phim kiếm hiệp ngày xưa không?
Hs: Hứng thú trả lời.

Trang 8


Gv: Xem phim đó, các em đã bao giờ thấy cảnh các nhân vật trong phim áp tai
xuống đất để nghe tiếng vó ngựa của địch chưa?
Hs: Em thấy nhiều rồi.
Gv: Tại sao không đứng nghe mà lại áp tai xuống đất để nghe vậy?
Hs: Lúng túng
Gv: Để biết lý do ta tìm hiểu trong bài hôm nay nhé.
 Khi dạy bài “Lực đẩy Ác – si – mét” ( SGK vật lý 8, tr 36)
Gv: Em đã bao giờ lấy gáo múc nước trong xô ra chưa?
Hs: Trả lời
Gv: Khi múc nước như vậy, em thấy gáo nước khi còn chìm trong nước và khi đã
nhấc lên khỏi mặt nước rồi, khi nào nhẹ hơn?
Hs: Trả lời.
Gv: Tại sao vậy?
Hs: Lúng túng.

Gv: Để biết lý do ta tìm hiểu trong bài hôm nay nhé.
 Khi dạy bài” Sự cân bằng lực – quán tính” (SGK vật lý 8, tr 17)
Gv: Em đã bao giờ ngồi sau xe đạp, xe máy do người khác chở chưa?
Hs: Trả lời.
Gv: Khi người điều khiển xe phanh đột ngột, người em sẻ ngả về phía nào?
Hs: Ngả về trước.
Gv: Em biết tại sao không?
Hs: Lúng túng.
Trang 9


 Khi dạy bài “Sự phân tích ánh sáng trắng” ( SGK vật lý 9, tr 139)
Gv: Cầu vồng thường xuất hiện khi nào?
Hs: Trả lời cầu vồng thường xuất hiện sau cơn mưa.
Gv: Em có biết vì sao xuất hiện cầu vồng khi trời nắng sau cơn mưa không?
Hs: Suy nghĩ, lúng túng.
Gv: Để biết lý do ta tìm hiểu trong bài hôm nay nhé.
3. 2. 3. Tạo hứng thú bằng những thí nghiệm vật lý kì lạ
Ngoài cách tạo tình huống có vấn đề, giáo viên chúng ta có thể tiến hành
một số thí nghiệm vật lý kì lạ, nó khác với dự đoán của các em, tăng thêm sự li kì,
thật hấp dẫn gây hứng thú cho học sinh.
 Khi dạy bài “Áp suất khí quyển” ( SGK vật lý 8, tr 32)
Gv dùng một quả trứng đã được luộc chín bóc vỏ bỏ lên miệng một cái chai sao
cho đường kính quả trứng to hơn đường kính miệng chai một chút.
Gv: Có cách nào để đưa quả trứng được vào chai mà không dùng tay không?
Hs: Không thể, vì đường kính quả trứng to hơn đường kính miệng chai.
Gv đốt một mảnh giấy bỏ vào chai cho nó cháy một vài giây rồi bỏ quả trứng lên
miệng chai, quả trứng từ từ rơi vào miệng chai.
Gv: Tại sao quả trứng rơi được vào trong chai?
Từ đó kích thích được trí tò mò của học sinh, học sinh sẽ chú ý ngay vào bài học.


Trang 10


 Khi dạy bài “Áp suất khí quyển” ( SGK vật lý 8, tr 32)
Gv đưa một cốc đổ đầy nước được chuẩn bị sẵn cho Hs quan sát.
Gv: Điều gì xảy ra khi cô úp ly nước xuống?
Hs: Trả lời nước đổ xuống đất.
Gv: Bây giờ cô sử dụng một miếng bìa mỏng không thấm nước đậy lên ly nước
rồi úp xuống. Các em quan sát hiện tượng nhé.
Hs: Quan sát, thắc mắc.
Gv: Tại sao nước không chảy ra ngoài? Để biết lý do ta tìm hiểu trong bài hôm
nay nhé.
 Khi dạy bài “Dẫn nhiệt” (SGK vật lý 8, tr77)
Gv: Đưa một quả bóng bay đã được chuẩn bị sẵn ra. Theo em khi cô dùng bật lửa
đốt quả bóng bay nó có cháy không?
Hs: Trả lời bóng bay sẽ cháy
Gv: Các em có tin cô dùng bật lửa đốt mà quả bóng bay không cháy không?
Hs: Nghi ngờ.

Trang 11


Gv: Đổ nước vào quả bóng bay rồi hơ trên ngọn lửa một lúc cho học sinh quan
sát.
Hs: Ngạc nhiên khi thấy bóng bay không cháy.
Gv: Bạn biết tại sao bóng bay không cháy không?
Từ đó kích thích sự hứng thú của học sinh, học sinh sẽ chú ý ngay vào bài học.

3. 2. 4. Tạo hứng thú bằng cách lồng ghép kiến thức vào các câu

chuyện Vật lý
Một trong những cách rất hiệu quả để gây hứng thú cho tập cao cho học
sinh chính là giáo viên lồng ghép kiến thức vào các câu chuyện Vật lý về hiện
tượng vật lý, đại lượng Vật lý, các nhà bác học có đóng góp to lớn cho ngành Vật
lý.
Để thực hiện tốt phương pháp này, giáo viên cần tập luyện để kết hợp tốt
sử dụng ngôn ngữ cơ thể và lời nói với các cử chỉ của tay, biểu cảm qua nét mặt
cho cuộc trò chuyện trở nên sinh động. Đôi khi chỉ một động tác nhỏ như cái khua
tay hay đơn giản một cái diễn đạt trên khuôn mặt còn hiệu quả hơn khi ta đứng
thuyết trình cả buổi mà chỉ dùng lời nói không có miêu tả thực tế.

Trang 12


Một điều cần lưu ý là về âm lượng của giọng nói. Phải biết là mình đang nói
chuyện trong vị trí như thế nào để điều chỉnh âm lượng cho phù hợp, giọng truyền
cảm là một điều bắt buộc. Tuy nhiên trong trường hợp nào cũng phải nói chậm rãi,
từ tốn tránh nói nhanh mà người nghe không hiểu được vấn đề mình cần truyền
đạt.
 Khi dạy bài “Lực đẩy Ác -si –mét” (SGK Vật lý 8)
Sau khi giới thiệu tiểu sử của nhà Vật lý Ác-si-mét giáo viên có thể kể câu
chuyện sau:
Ngày xưa, ở xứ Si-ra-cuyt có một vị vua tên là Hê- rôn. Một ngày kia, vua
giao cho người thợ kim hoàn làm cho mình một chiếc vương miện bằng vàng. Tuy
nhiên, nhà vua nghi ngờ người thợ kim hoàn không trung thực ở chỗ người này
không sử dụng hết số vàng vua giao mà lấy ra một ít và thay thế vào đó bằng bạc.
Nghi ngờ là thế nhưng vua không có bằng chứng, thế là vua giao cho Ác-si-mét
điều tra ra sự thật xem người thợ này có gian dối hay không. Cho dù gian dối hay
không gian dối cũng phải chỉ ra cho vua và cận thần thấy được. Ác-si-mét vô cùng
lo lắng vì lệnh vua không thể chối cãi nhưng bản thân ông lại chưa tìm ra cách để

giải quyết.
Thế rồi, một ngày kia, tình cờ khi đi tắm. Ông thả cơ thể chìm dần vào bồn
tắm đầy nước. Kì lạ thay, cơ thể ông càng chìm dần, lượng nước tràn ra càng
nhiều, thì lực đẩy tác dụng vào cơ thể ông càng lớn. Từ đó, ông thấy được hướng
giải quyết cho việc vua giao. Mừng quá , ông chạy thẳng ra phố hét to “Ơ rê ca! Ơ
rê ca!“ mà quên rằng mình không mặc gì.

Trang 13


Nghe xong câu chuyện, học sinh sẽ cảm thấy rất vui vẻ và hào hứng, lúc
này giáo viên sẽ dẫn dắt vào mục 1. Dự đoán như sau: Khi cơ thể ông càng chìm
dần, lượng nước tràn ra càng nhiều, thì lực đẩy tác dụng vào cơ thể ông càng lớn.
Lúc này ông đoán rằng giữa lượng nước tràn ra (lượng nước bị chiếm chỗ) và lực
đẩy tác dụng lên cơ thể ông có mối liên hệ với nhau. Đọc phần 1.dự đoán và cho
biết, ông đã dự đoán gì?
 Khi dạy bài: “Nam châm vĩnh cửu”(SGK vật lý 9, tr58)
Sau khi dạy xong phần I.Từ tính của nam châm. Giáo viên có thể đưa ra
câu hỏi: Các em có biết tên gọi nam châm ra đời khi nào không? Tại sao là nam
châm mà không phải là tên gọi khác không? Rồi sau đó giáo viên kể chuyện về
nguồn gốc nam châm.
Ngày xưa, vào khoảng thời gian trước năm 800 TCN, người Hi Lạp tìm ra
một loại đá rất lạ lùng, nó có khả năng hút sắt thép. Tuy nhiên, lúc này người ta
chưa biết loại đá này có thêm khả năng định hướng. Hơn 300 năm sau, người
Trung Hoa biết được khả năng định hướng Nam –Bắc của nó. Và người ta quyết
định đặt tên loại đá này theo tên vùng đất lần đầu tiên người ta tìm thấy nó. Vùng
đất đó có tên là Magnet, dịch ra là nam châm. Tên gọi nam châm ra đời từ lúc này.
 Khi dạy bài: “Áp suất” (SGK vật lý 8, tr25)
Trước khi kết thúc tiết dạy giáo viên có thể kể một câu chuyện giúp học
sinh hứng thú hơn và cũng là một câu hỏi kiểm tra lại kiến thức vừa học. Giáo viên

dẫn dắt: Cô có một câu chuyện, kèm thêm một câu đố nho nhỏ, các bạn lắng nghe
và cũng suy nghĩ để trả lời nhé, nếu đúng sẽ có quà.

Trang 14


Một ngày kia, ở trên thiên đường, các nhà khoa học: Niutơn, Anhxtanh,
Paxcan, Vôn, Ampe bắt đầu chơi trốn tìm. Đến lúc Anhxtanh phải nhắm mắt đếm
5,10,15,20….cho các nhà bác học khác đi trốn. Khi Anhxtanh đếm gần xong, các
nhà khoa học khác đã trốn xong, mà Niutơn mãi vẫn chưa tìm được chỗ trốn.
Ngay lập tức ông vẽ ra một hình vuông có cạnh là 1m và đứng lên trên. Mở mắt ra
Anhxtanh thấy ngay Niutơn. Ông kêu lớn lên Niutơn, nhưng Niutơn nhất định
không chịu là mình đã bị tìm thấy. Ơng bảo, bây giờ tơi khơng phải là Niutơn. Vậy,
nếu không phải là Niutơn thì ông là ai?
Sau khi cả lớp đã đưa ra đáp án của mình, giáo viên bắt đầu giải đáp. Đây
chính là bài tập liên quan đến đơn vị của các đại lượng Vật lý. Hình vuông có cạnh
là 1m thì diện tích sẽ là 1m 2. Niutơn đứng trên 1m 2 (Hay gọi là Niutơn trên mét
vuông) thì không là Niutơn (N-đơn vị của lực) nữa mà phải là Paxcan (pa-đơn vị
của áp suất). Và cái tên mà nhà Vật lý Niutơn muốn nhà Vật lý Anhxtanh nhắc
đến là ông Paxcan thì mới chịu thua trong trò chơi trốn tìm. Câu chuyện này giúp
giáo viên khắc sâu cho học sinh áp suất có hai đơn vị tính là Paxcan (pa) và
Niutơn trên mét vng (N/m2)
3.2. 5. Kích thích sự tò mò của học sinh bằng cách ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học
Việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho việc đổi mới phương pháp
dạy học là một trong những hướng tích cực nhất giúp kích thích hứng thú phát
triển tư duy cho học sinh như sau:
Tạo tình huống có vấn đề bằng các đoạn phim ngắn, kích thích trí tò mò của
học sinh, đặt ra nhiệm vụ theo dõi bài học để giải quyết tình huống.
Trang 15



Trong quá trình giảng dạy có thể đưa ra những hình ảnh để học sinh có thể
quan sát trực quan. Ví dụ như hình ảnh các nhà bác học, hình ảnh một số chất mà
học sinh ít được thấy trong thực tế. Ví dụ trong một số bài dưới đây, trước khi kết thúc tiết
dạy, giáo viên có thể đưa ra hình ảnh một số nhà khoa học có cống hiến to lớn cho ngành Vật lý,
đồng thời cung cấp thêm một số thông tin cơ bản cho học sinh được nắm rõ. Cụ thể như sau:

 Khi dạy bài “Lực đẩy Ác -si –mét”
(SGK Vật lý 8)
Archimedes (284 - 212 trước Công
nguyên) - là nhà giáo, nhà bác học vĩ đại
của Hy Lạp cổ đại, ông sinh tại thành
phố Syracuse, một thành bang của Hy
Lạp cổ đại. Tên của ông được đặt cho
đơn vị lực đẩy Ác si mét (ky hiệu FA)



Khi dạy bài “Cường độ dòng điện”
(SGK Vật lý 7)

André-Marie Ampère (1775 – 1836)
là nhà vật ly người Pháp. Tên của ông
được đặt cho đơn vị cường độ dòng
điện Ampe (ky hiệu A)

Trang 16






Khi dạy bài “Hiệu điện thế”
(SGK Vật lý 7)

Alessandro Giuseppe Antonio
Anastasio Volta (1745 - 1827) là một
nhà vật ly người Ý. Ơng là người đã có
cơng phát minh ra pin điện và tên của
ông được đặt cho đơn vị điện
thế Vôn (ky hiệu V).



Khi dạy bài “Trọng lực – đơn vị
lực”

(SGK Vật lý 6)
Isaac

Newton

Jr. (1643-1727)

là

một nhà vật ly, nhà thiên văn học, nhà
triết học, nhà toán học, nhà thần học và
nhà giả kim thuật người Anh, được

nhiều người cho rằng là nhà khoa học vĩ
đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế kỉ
XX.

Trong một số trường hợp do yếu tố khách quan, không thể tiến hành thí
nghiệm trực tiếp được, thì học sinh có thể quan sát các thí nghiệm ảo thể hiện
đúng hiện tượng thực tế để học sinh quan sát.
Trang 17




Khi dạy bài “Định luật về công” (SGK Vật lý 8)

Thí nghiệm ảo mô phỏng thí ngiệm hình 14.1


Khi dạy bài “Nguyên tử, phân tử chuyển động hay đứng yên” (SGK

Vật lý 8)
Thí nghiệm ảo về chuyển động của các hạt phấn hoa trong nước.

Trang 18


Hiện này, nhiều trường học trong huyện Krông Ana đã được trang bị các
bảng tương tác thông minh để phục vụ cho công tác giáo dục hiệu quả hơn. Một
trong các phần mềm tương tác được cài đặt nhiều ở bảng tương tác là phần mềm
Activinspire, đi kèm với đó là bộ trắc nghiệm Activote. Activote là hệ thống đánh
giá trắc nghiệm, khi sử dụng thiết bị này trong thời gian ngắn giáo viên có thể dễ

dàng hiểu được sự tiếp thu của học sinh thông qua các câu hỏi đòi hỏi tính trả lời
nhanh và chính xác. Từ đó thầy cô có thể đánh giá được bài giảng của mình có
hiệu quả và thu hút được sự chú ý của học sinh hay không. Giáo viên có thể biên
soạn các câu hỏi trên phần mềm Activinspire, sau đó cho học sinh sử dụng bộ trắc
nghiệm để trả lời câu hỏi. Số học sinh đã tham gia trả lời, kết quả câu trả lời của
học sinh được thống kê lại một cách cụ thể, khách quan và chính xác nhất. Bản
thân tôi cũng đã sử dụng bộ trắc nghiệm này trong các tiết học Vật lý, học sinh
tham gia tiết học rất thích thú, cụ thể như sau:


Khi dạy bài “Áp suất” (Vật lý 8) giáo viên đưa câu hỏi bài tập cho học sinh
sử dụng bộ trắc nghiệm trả lời

Trang 19


Giáo viên có thể thống kê lại kết quả trả lời của học sinh ai đã trả lời, ai chưa trả
lời, ai chọn đáp án gì, thời gian là bao nhiêu.

Trang 20


Biểu đồ thống kê phương án lựa chọn của học sinh

Danh sách học sinh trả lời điều gì
3. 3. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Bản thân tôi đã kết hợp áp dụng các biện pháp, giải pháp trên trong các tiết
học ở các khối lớp một cách linh hoạt và hiệu quả mang lại rất rõ ràng. Các tiết
học diễn ra trong không khí thoải mái, tươi vui. Đầu tiên, khi bước vào lớp người
giáo viên phải tạo cho học sinh một tâm thế học tập thật thoải mái bằng các tác

động sư phạm như ánh mắt, cử chỉ, hành động, lời nói. Tiếp đó, người dạy sử
dụng các tình huống đặt vấn đề thật hấp dẫn để tạo ra sự tò mò, quyết tâm tìm
hiểu để nắm lấy tri thức. Tuỳ vào kiến thức, đối tượng học sinh giáo viên linh hoạt
sử dụng các thí nghiệm hay các câu chuyện về liên quan trực tiếp đến bài học để
cuốn học sinh vào bài học. Học sinh hứng thú có nhu cầu tìm hiểu các kiến thức
mới để biết, hiểu và giải thích được những hiện tượng trong cuộc sống mà các em
vẫn gặp hàng ngày mà trước kia các em chưa giải thích được.
3. 4. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề cần nghiên cứu
Số lượng học sinh yêu thích môn học tăng lên, học sinh chú ý tập trung
trong các tiết học và không còn xem Vật lý là một môn học khó nữa.
Học sinh biết giải thích nhiều hơn các hiện tượng trong cuộc sống, thấy
được tính ứng dụng cao của bộ môn. Tự tin tham gia tích cực trong các tiết học.
Trang 21


Thu hút được nhiều em học sinh giỏi lựa chọn tham gia ôn luyện môn Vật lý
trong kì thi tuyển chọn học sinh giỏi văn hóa do các cấp tổ chức và đạt hiệu quả rõ
rệt. Năm học 2016-2017 có 01 học sinh giỏi được công nhận môn Vật lý 8 cấp
huyện, năm 2017-2018 có 01 học sinh đạt giải 3 môn Vật lý 8 cấp huyện.
Tôi đã điều tra và sát hạch về hứng thú học tập và kết quả học tập môn lý
bằng phiếu điều tra và bài kiểm tra của 100 em học sinh các khối lớp các năm
2015-2016, 2016-2017, 2017-2018 khi áp dụng đề tài cho kết quả như sau:
+ Về hứng thú học tập môn Vật lý:

Năm học

HS khơng thích

Số HS


HS thích học

SL

TL%

SL

TL%

100

52

52%

48

48%

100

41

41%

59

59%


100

21

21%

78

78%

20152016
20162017
20172018
+ Về kết quả học tập môn Vật lý:

Năm học Số HS

Giỏi
SL

TL%

Khá
SL

TL%

2015100

7


7%

37

37%

100

12

12%

44

44%

100

16

16%

58

58%

Trung bình

Yếu


SL

TL%

SL

TL%

50

50%

6

6%

39

39%

5

5%

23

23%

3


3%

2016
20162017
2017-

Trang 22


2018
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Đề tài “Một số phương pháp tạo hứng thu cho học sinh trong các tiết
học Vật Lý THCS”

đã liệt kê một số phương pháp tạo hứng thú trong các tiết

Vật lý như phương pháp tác động sư phạm, phương pháp tạo tình huống có vấn
đề, tạo hứng thú bằng những thí nghiệm vật lý kì lạ, tạo hứng thú bằng cách lồng
ghép kiến thức vào các câu chuyện Vật lý, ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học và trong mỗi phương pháp có đề xuất một số giải pháp mà bản thân tôi
đã từng sử dụng trong các tiết dạy trên lớp. Các phương pháp được đưa ra trong
đề tài đã được thực nghiệm qua thực tế và đạt được những thành công nhất định.
Tuy nhiên không có phương pháp nào là tối ưu vì thế người dạy cần kết hợp các
giải pháp sao cho hiệu quả.
Điều đổi mới quan trọng nhất là trong giờ học là học sinh đóng vai trò chủ
động, tích cực sáng tạo để tự tìm kiếm và nắm bắt kiến thức, giáo viên đóng vai
trò là người định hướng gợi mở cho học sinh nên cần tận tâm, yêu nghề, luôn cố
gắng trau dồi kiến thức chuyên môn, không ngừng học hỏi tiếp thu từ đồng nghiệp

đầu tư thường xuyên và thoả đáng cho công tác chuyên môn, đảm bảo chính xác
khoa học về nội dung, những thí nghiệm đưa ra giáo viên lựa chọn cần gần gũi
với cuộc sống hằng ngày của chính học sinh. Tạo cho các em thấy được sự cần
thiết của bộ môn với chính cuộc sống của các em và tự ý thức được việc học cho
bản thân.

Trang 23


2. Kiến nghị
Để đề tài có thể áp dụng vào thực tế giảng dạy tôi xin đề xuất một vài ý
kiến chủ quan như sau:
Đối với lãnh đạo các trường:
Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho giáo viên được nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ.
Trường học phải trang bị nhiều sách tham khảo hay, những câu chuyện vật
lý lý thú…Thư viện bố trí các máy tính tạo điều kiện để các em tìm kiếm thông tin
trên internet nhanh chóng và hiệu quả. Phòng thí nghiệm với đầy đủ các thiết bị,
dụng cụ thí nghiệm.
Đối với giáo viên:
Không ngừng tự học để nâng cao trình độ, nghiên cứu, tìm tòi nhiều
phương pháp hay hơn nữa để tạo hứng thú cho học sinh.
Trong qua trình thực hiện đề tài, mặc dù rất cố gắng nhưng do còn non về
kinh nghiệm nên vẫn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp từ quý thầy cô nhằm giúp đề tài được hoàn thiện hơn.
Dur Kmăl, ngày 28 tháng 03 năm 2018
NGƯỜI VIẾT ĐỀ TÀI

Nguyễn Thị Thuỳ Trang
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN:

Trang 24


………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
( Ký tên, đóng dấu)

Trang 25


×