Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học vấn đề bản thể luận trong triết học tây âu cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.01 KB, 29 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
VẤN ĐỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC TÂY ÂU CẬN
ĐẠI

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢN THỂ LUẬN VÀ
I.
TRIẾT HỌC TÂY ÂU CẬN ĐẠI
1.1.
Bản thể luận - vấn đề cơ bản của triết học
1.2.
II.
2.1.
2.2.
2.3.
2.4.

Triết học Tây Âu cận đại


NỘI DUNG BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC TÂY
ÂU CẬN ĐẠI
Vấn đề bản thể luận trong triết học Đềcáctơ
Vấn đề bản thể luận trong triết học Xpinôda
Vấn đề bản thể luận trong triết học Népnít
Vấn đề bản thể luận trong các trào lưu triết học Anh thời

cận đại
2.5.
Vấn đề bản thể luận trong khai sáng Pháp
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
6
8
9
10
11
12
17
26
27


MỞ ĐẦU
Sự phê phán triết học kinh viện và thế giới quan Trung cổ là nét đặc trưng

cua các nhà triết học Tây Âu cận đại có tư tưởng tiến bộ. Ph. Bê Cơn và R. Đê
Cát Tơ đều coi lý tính là một lực lượng bản chất của con người; coi chủ thể nhận
thức vừa có lý tính, vừa có tự nhận thức. Đối với các ơng, chủ thể nhận thức là
con người sống và tư duy trong xã hội, nhưng đó khơng phải là cá nhân kinh
nghiệm mà là chủ thể trừu tượng. Phương pháp nhận thức mà các nhà triết học
Tây Âu cận đại xây dựng yêu cầu những luận điểm xuất phát phải có tính chân
thực và được duy trì trong suốt quá trình nghiên cứu. Theo họ, thực giác trí tuệ
là năng lực nhận thức cao nhất của con người và phụ thuộc vào tư duy lơgic. Có
thể nói, các nhà triết học Tây Âu cận đại đã khẳng định tính tích cực của chủ thể
nhận thức, nhưng họ lại không chứng minh được trong khn khổ của chủ nghĩa
duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy tâm.
Triết học Tây Âu cân đại là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản trong cuộc
đấu tranh nhằm thiết lập sự thống trị của mình. Trong triết học thời kỳ này diễn
ra sự xung đột gay gắt giữa tư tưởng triết học và khoa học tiến bộ được giai cấp
tư tưởng triết học và khoa học tiến bộ được giai cấp tư sản ủng hộ với các quan
niệm thần học và giáo hội thể hiện lợi ích của chế độ phong kiến. Bằng cơ sở và
luận chứng khoa học, triết học cận đại giúp cho giai cấp tư sản nhận thấy bộ mặt
thật của chế độ phong kiến đang thối nát, xố bỏ vịng hào quang thần thánh mà
giáo hội khốc cho chế độ nơng nơ. Thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa các trường
phái duy tâm, duy vật trong triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của triết học và
khoa học nhằm thoát khỏi ách hưởng của giáo hội. Trong giai đoạn này, triết học
Tây Âu đã có sự phát triển tồn diện, trong đó đã đưa ra quan niệm về bản thể
luận, đây là cơ sở lý luận để đấu tranh chống lại thần học, tơn giáo. Vì vậy,
nghiên cứu vấn đề “Vấn đề bản thể luận trong Triết học Tây Âu cận đại” làm
đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

1


NỘI DUNG

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢN THỂ LUẬN VÀ TRIẾT HỌC
TÂY ÂU CẬN ĐẠI
1.1. Bản thể luận - vấn đề cơ bản của triết học
Ngay từ thời cổ đại, trong mốitương quan giữa thực tại và nhận thức, các
nhà triết học đã có xu hướng muốntìm kiếm, lý giải về thực tồn -tổng thể của
những cái có thực và khơng có thực,tồn tại. Cái được coi như là nền tảng căn cốt
nhất, bản chất nhất của mọi sự vậttrong thế giới: đó chính là bản thể. Bản thể
luận là một trong những phạm trù nghiên cứu cơ bản của triết học từ thời Cổ đại
cho tới Hiện đại.
Thuật ngữ bản thể luận cónguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Nó là sự kết hợp
giữa hai từ “on” (cái thực tồn) và”logos” (lời lẽ, học thuyết, quan niệm). Có thể
nói bản thể luận chính là họcthuyết về tồn tại, là học thuyết, quan niệm về thực
tồn chung, hoàn toàn độc lậpvới các dạng tồn tại cụ thể của nó. Nhưng mãi đến
thế kỷ XVII, được R. Gôcleniuyt áp dụngvào năm 1613thuật ngữnày mới chính
thức xuất hiện và đưa ra những cách hiểu đặc thù về bản thể luận. Mỗi thời kỳ,
từng giai đoạn lịch sử nghiên cứu về bản thế luận lại đưa ra những cách lý giải
và quan niệm khác nhau. Nhưng tóm lại,bảnthể luận hiểu một cách chung nhất
là lý luận về bản thể, lý luận về nguồn gốc,về tồn tại hay bản thể luận là quan
niệm về thế giới. Nghiên cứu về bản thể luậnlà tìm hiểu sự nghiên cứu bản chất
của thế giới là gì? Thế giới được hình thànhtừ đâu? Và như thế nào?
Bản thể luận chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong triết học, nghiên
cứu về bản thể luậnlà bàn về sự tồn tại, bàn về khởi nguyên của thế giới, do đó
bản thể luận là mộtvấn đề cơ bản của triết học, theo Ph.Ăngghen, “vấn đề cơbản
lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệgiữa tư
duy và tồn tại”. Nghiên cứu vấn đề bản thểluận, làm cơ sở, căn cứ để chúng ta
giải quyết những vấn đề cơ bản khác nhau của hiện thực. Những quan niệm khác
nhau về sự tồn tại của thế giới khác nhau sẽ cónhững quan niệm khác nhau về
2



chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia, của mỗigiai đoạn lịch sử khác nhau
có ảnh hưởng to lớn tới đời sống hiện đại của nhân loại.
Bản thể luận quan niệm về thế giới như thế nào? Trong triết học tồn tại
hai trường phái cơ bản khi bàn về bản thể luận: khuynh hướng duy vật và
khuynh hướng duy tâm.Trong lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, góp phầntạo nên sự đa dạng,
phong phú trong triết học, góp phần làm động lực cho tư duytriết học phát triển
tới ngày nay.
Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là một trong những yêu cầu quan
trọng hàng đầu của việc tìm hiểu triết học nói chung và tìm hiểu một học thuyết
triết học nào đó nói riêng. Với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của
con người về thế giới, về vị trí, vai trị của con người trong thế giới ấy, triết học
có hệ vấn đề của mình. Trong hệ vấn đề ấy, có vân đề đóng vai trị là nền tảng,
định hướng để giải quyết những vấn đề khác. Trong tác phẩm Lútvích Phoiơbắc
và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn
của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy
và tồn tại” [1, tr.418]. Trong tác phẩm này và một số tác phẩm khác, khi nói về
vấn đề cơ bản của triết học, Ph.Ăngghen khơng định nghĩa tư duy là gì, tồn lại là
gì mà chỉ nêu một số khái niệm khác tương tự như tinh thần, tự nhiên, vì vậy dễ
dẫn đến cách giải thích quan hệ giữa “tư duy và tồn tại”, “tinh thần và tự nhiên”
của Ph.Ăngghen là quan hệ giữa “ý thức và vật chất” hoặc quan hệ giữa “vật
chất và ý thức”.
Chúng ta biết rằng, ngay sau khi nêu quan điểm “Vấn đề cơ bản lớn của
mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và
tồn tại”, Ph.Ăngghen viết tiếp: “Ngay từ thời hết sức xa xưa, khi con người hồn
tồn chưa biết gì về cấu tạo thân thể của họ và chưa biết giải thích những điều
thấy trong mơ, họ đã đi đến chỗ quan niệm rằng tư duy và cảm giác của họ
không phải là hoạt động của chính thân thể họ mà là hoạt động của một linh hồn
đặc biệt nào đó cư trú trong thân thể và rời bỏ thân thể họ khi họ chết, ngay từ
3



thuở đó, họ đã phải suy nghĩ về quan hệ giữa linh hồn ấy với thế giới bên ngoài”
[2, tr.210]. Do đó, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần với tự
nhiên, một vấn đề tối cao của toàn bộ triết học, cũng hoàn toàn giống như bất cứ
tơn giáo nào, đều có gốc rễ trong các quan niệm thiển cận và ngu dốt của thời kỳ
mông muội...
Vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, một vấn đề đã đóng một vai trị lớn
lao trong triết học kinh viện thời trung cổ, vấn đề xem cái nào có trước, tinh thần
hay tự nhiên? vấn đề đó bất chấp giáo hội, lại mang một hình thức gay gắt: thế
giới do Chúa Trời sáng tạo ra, hay nó vẫn tồn tại từ trước đến nay (TG nhấn
mạnh). Cách giải đáp vấn đề ấy đá chia các nhà triết học thành hai phe lớn.
Những người quả quyết rằng tinh thần có trước tự nhiên, và do đó rút cục lại
thừa nhận rằng thế giới được sáng tạo ra bằng cách nào đó... những người đó là
thuộc phe chủ nghĩa duy tâm.
Như vậy, trong quan hệ “giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần với tự
nhiên” thì khái niệm tư duy, tinh thần mà Ph.Ăngghen sử dụng nên giải thích
như thế nào cho rõ? Có nên không khi chúng ta cho rằng: “... một là những hiện
tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên), hai là những hiện tượng tinh thần (ý thức, tư
duy)”, hoặc “... mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay ý thức và vật chất được
gọi là vấn đề cơ bản... của triết học”. Mặc dù phần nói về chủ nghĩa duy tâm
khách quan có giải thích về khái niệm tinh chần, nhưng ngay từ đầu, cách trình
bày trên đã làm cho người tìm hiểu vấn đề cơ bản của triết học và cơ sở để phân
biệt chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm đồng nhất nội dung khái niệm tư
duy, tinh thần với nội dung khái niệm ý thức, tinh thần mà xã hội đang sử đụng
(ý thức, tinh thần là ý thức, tinh thần của con người). Sự đồng nhất này khơng
đúng, vì khái niệm tư duy, tinh thần mà Ph.Ăngghen sử dụng ở đây chỉ muốn đề
cập đến cái phi vật chất, cái không phải là vật chất. Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm đều thừa nhận sự tồn tại của cái phi vật chất. Với chủ nghĩa duy
vật, đấy là ý thức, tinh thần, sản phẩm của vật chất, cái phản ánh vật chất, cái bị

vật chất quyết định cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Với chủ nghĩa duy
4


tâm, đấy là thực thể siêu tự nhiên (khơng có nguồn gốc từ tự nhiên, không phải
là cái phản ánh tự nhiên), thế giới vật chất là sản phẩm thuần trí của thực thể
siêu tự nhiên này nên thế giới vật chất khơng có thực chất của nó.
Theo quan điểm truyền thống, chủ nghĩa duy tâm chia thành hai phái, chủ
nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan, trong đó chủ nghĩa
duy tâm chủ quan gắn liền với tên tuổi của triết gia - Giáo sĩ người Anh Giogiơ
Béccơly (George Berkeley). Chúng ta biết rằng, vào thế kỷ XVII, Giogiơ
Béccơly đã biện minh cho chủ nghĩa duy tâm dưới hình thức mới bằng cách dựa
trên những tiền đề hơi khác so với các quan điểm của chủ nghĩa duy tâm truyền
thống. Đấy là vạn vật quanh ta là các khái niệm trong ý thức của ta (Béccơly và
những người sau ơng nói nhiều và nhấn mạnh ý này) song tất cả (cả ta và ý thức
của ta) đều có nguồn gốc từ cái thuần trí của giới siêu tự nhiên, bị cái thuần trí
của giới siêu tự nhiên quyết định. (Cuộc đối thoại thứ nhất và cuộc đối thoại thứ
hai đặc biệt là đoạn kết trong cuộc đối thoại thứ hai giữa Philông ( Philonnus) và
Hylaxơ (Hylas) của Béccơly phản ánh rất rõ tư tưởng này).
Mặt khác, nói đến ý thức là nói đến ý thức của con người, nói đến vật chất
là nói đến giới tự nhiên, thế giới vật chất, nên bản chất mối quan hệ giữa ý chức
và vật chất là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên mà con người đang
sống trong đó. Ở đây, hai mặt trong vấn đề cơ bản của triết học được chủ nghĩa
duy vật biện chứng đặt ra rất rõ ràng, và chủng có mối quan hệ rất mật thiết với
nhau: Mặt thứ nhất: Trong mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì vị
trí, vai trị của con người đối với giới tự nhiên như thế nào? Mặt thứ hai: Trong
mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì khả năng nhận thức của con
người về giới tự nhiên ra sao? Đây là một trong những cách hướng đến triết học
ứng dụng - triết học đặt ra và định hướng giải quyết những nội dung không chỉ
liên quan đến những vấn đề chung nhất có tính tồn cầu như mơi trường sinh

thái, tài ngun thiên nhiên, chiến tranh, hồ bình, lương thực, nhà ở… mà cịn
liên quan đến cả những vấn đề do cuộc sống nghề nghiệp, cuộc sống đời thường
5


của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng đặt ra. Vân đề cơ bản của triết học đã, đang và
chắc chắn sẽ còn nhiều quan điểm khác nhau.
1.2. Triết học Tây Âu cận đại
*Điều kiện ra đời
Thời cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước Tây Âu là thời kỳ giai cấp
tư sản đã giành được thắng lợi chính trị. Phương thức sản xuất tư bản được xác
lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị, nó đã tạo ra những vận hội mới
cho khoa học, kỹ thuật phát triển, nhất là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã
đạt tới trình độ hồn thiện khoa học thời kỳ này mang đặc trưng là khoa học tự
nhiên - thực nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn tới “thói quen” nhìn nhận đối
tượng nhận thức trong sự tách rời cô lập, không vận động, phát triển.
Thời kỳ giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi chính trị: Cách mạng tư
sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI; Cách mạng tư sản Anh thế kỷ XVII và Cách mạng
tư sản Pháp thế kỷ XVIII). Trong số các cuộc Cách mạng tư sản Tây Âu, thì
Cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng triệt để nhất - nó xóa bỏ toàn bộ chế
độ phong kiến trung cổ, xác lập nền cộng hòa tư sản Pháp.
Phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa được xác lập, thống trị, đặt ra
những yêu cầu mới cho khoa học và kỹ thuật phát triển. Đây là thời kỳ chuyển
từ nền “ văn minh nông nghiệp” sang “văn minh công nghiệp”, là thời kỳ phát
triển mạnh mẽ thị trường, tạo ra thị trường thống nhất toàn quốc và mở rộng thị
trường quốc tế [3, tr.175].
Khoa học tự nhiên có sự phân ngành mạnh, hình thành các bộ mơn độc
lập như: tốn học, vật lý học, hóa học, sinh học,... Khoa học tự nhiên thời kỳ này
mang đặc trưng là khoa học tự nhiên - thực nghiệm, các tri thức khoa học hầu
hết là những sản phẩm của thực nghiệm.

Từ những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và sự phát triển khoa học đó
đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của triết học.
* Đặc trưng cơ bản của triết học Tây Âu thời cận đại

6


Thời kì thắng thế của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm, Khoa
học đối với tôn giáo, chủ nghĩa duy vật là thế giới quan, vũ khí lý luận của giai
cấp tư sản cách mạng. Thể hiện rõ ở thế kỷ XVII tư tưởng triết học duy vật thể
hiện rõ nét trong các nhà triết học như: Tơ-mát Hốp-xơ, Giơn Lốc-cơ, Xpinơda,
Lép-ních... Nhưng đến cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII thì tư tưởng triết học
duy tâm, triết học chủ quan, không thể biết lại phát triển mạnh, thể hiện ở các
đại biểu như: Béccli, Đavít Hium... [4, tr.119].
Khoa học tự nhiên phân ngành sâu sắc, phát triển mạnh mẻ, chủ nghỉa duy
vật có bước phát triển mới. Bản thân các khoa học nhìn chung chưa trở thành
các khoa học độc lập, nên mối quan hệ giữa triết học và các khoa học khác gắn
bó tới mức khó phân biệt ranh giới giữa chúng. Phần nhiều các triết gia
như Đêcáctơ, Lépnít… đều là các nhà bách khoa uyên bác trên nhiều lĩnh vực
khoa học. Sự phát triển khoa học đã giúp cho các nhà triết học có nhiều quan
niệm hợp lý về thế giới và con người. Cũng chính do ảnh hưởng của các nhà
khoa học tự nhiên, đặc biệt là cơ học và toán học mà trong triết học trong thời kỳ
này chịu sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình.
Chú ý đến vấn đề nhận thức luận, phương pháp nhận thức; cuộc đấu tranh
giữa phái duy cảm với duy lý. Triết học duy cảm chính là sự tìm tịi của các nhà
triết học trên con đường nhận thức chân lý, các nhà triết học duy vật đồng thời là
các nhà hoạt động xã hội, tiêu biểu như: Tô-mát Hốp-xơ, Giôn Lốc-cơ, các nhà
triết học duy vật Pháp... Họ đã đề cao cảm giác trong nhận thức; Triết học duy
lý: tuyệt đối hóa vai trị của lý tính trong nhận thức, các nhà triết học duy lý vừa
là các nhà triết học duy vật, vừa là các nhà khoa học (toán học), với các đại biểu

tiêu biểu như: Xpinơda, người Hà Lan; Lép-ních, người Đức...
Đề cao vai trò con người, Giương cao ngọn cờ giải phóng con người khỏi
sự thống trị của phong kiến Giáo hội, mang lại tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho
con người. Con người đã được đề cập đến cả trong mối quan hệ với tự nhiên và
cả trong mối quan hệ giữa con người với con người. Trước đây, trong triết học
Hy Lạp cổ đại, con người chỉ được đề cập trong mối quan hệ với tự nhiên. Trong
7


triết học thời kỳ Trung cổ, con người được đề cập đến trong mối quan hệ với
chúa trời, thượng đế, giáo hội, nhà thờ. Trong triết học thời kỳ Phục hưng, con
người chỉ được đề cập chủ yếu với tư cách cá nhân. Ở thời kỳ này, do điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội quy định nên con người được đề cập đến cả trong hai
mối quan hệ nêu trên. Đồng thời, đây là thời kỳ diễn ra và thắng thế của cách
mạng tư sản, nhất là sau khi cách mạng tư sản thành công, xã hội công dân được
hình thành và con người với tư cách là một công dân trong xã hội, một chủ thể
trong xã hội có tư cách pháp nhân được đặt ra và phải giải quyết.
Phần lớn các nhà duy vật rơi vào phiếm thần luận hay tự nhiên thần luận.
thể hiện ở học thuyết của Lốccơ là một trong những người sáng lập ra tự nhiên
thần luận. Vào thời bấy giờ, tự nhiên thần luận có tính chất tương đối tiến bộ,
đồng thời có tính thoả hiệp. Lốccơ bác bỏ những thuyết tín ngưỡng đương thời,
phê phán những giáo lý và tổ chức giáo hội, nhưng ông lại thừa nhận mọi thứ
tôn giáo phi lý “tự nhiên” gọi là tự nhiên thần luận.
Phương pháp tư duy siêu hình, máy móc chi phối. thể hiện ở học thuyết
về thực thể của Xpinôda cũng chưa thốt khỏi tính siêu hình. Ơng cho rằng, thực
thể bất động và bất biến, vận động không phải là thuộc tính vốn có thực thể mà
là một dạng thức vận động vô tận tách rời thực thể, dùng để chuyển từ thực thể
bất động thành thế giới của dạng thức vận động.
II. NỘI DUNG BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC TÂY ÂU CẬN ĐẠI
Điểm nổi bật của thời kỳ này là cuộc ganh đua giữa hai trào lưu triết học

là chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy kinh nghiệm. Vấn đề bản thể luận được thể
hiện trong quan điểm của các triết học, các trường phái triết học và được hòa lẫn
trong quan niệm về các vấn đề khác của triết học. Do vậy, nghiên cứu bản thể
luận của triết học Tây Âu cận đại chúng ta phải nghiên cứu thông qua các nhà
triết học, các trường phái triết học tiêu biểu.
2.1. Vấn đề bản thể luận trong triết học Đềcáctơ

8


Đềcáctơ (1596 - 1650) là người sáng lập chủ nghĩa duy lý. Ông là nhà triết
học Pháp sáng danh, nhà tốn học kiệt xuất, là tác giả câu nói nổi tiếng, trong đó
chứa đựng tâm điểm triết học của ơng: “tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”.
Học thuyết của Đềcáctơ về thực thể: khi nghiên cứu vấn đề tồn tại,
Đềcáctơ đó rút ra khái niệm gốc, là nền tảng, đặc trưng cho bản chất của tồn tại.
Đó chính là khái niệm thực thể. Thực thể là cái mà tồn tại của nú khơng cần có
bất kỳ thứ gì khác, ngồi chính nó. Nhìn đi nhìn lại, ơng thấy rằng, chỉ có một
thực thể là Thượng đế mới có tính chất như vậy. Thượng đế là vĩnh hằng, không
do ai tạo ra, khơng thể bị huỷ hoại, tồn năng, là nguồn gốc và nguyên nhân của
tất cả; trong khi là đấng sáng tạo, Thượng đế tạo ra thế giới vốn cũng được cấu
thành từ các thực thể; các thực thể được Thượng đế sáng tạo ra (sự vật, ý niệm
đơn nhất) cũng có tính chất chủ yếu của thực thể - để tồn tại khơng cần bất kỳ
cái gì cả, ngồi chính mình, ngồi ra các bản thể được sáng tạo ra chỉ tự đủ so
với nhau, còn so với thực thể tối cao, so với Thượng đế, chúng chỉ là dẫn xuất, là
có sau và phụ thuộc vào nó.
Các bản thể vật chất (các sự vật) đều có tính chất nền tảng là quảng tính,
tức là tất cả các bản thể vật chất đều có thuộc tính chung là có độ dài, chiều
rộng, chiều cao, chiều sâu và được có thể chia nhỏ đến vơ hạn; các dạng thức
(các tính chất dẫn xuất từ thuộc tính cơ bản) là hình dạng, vận động, vị trí trong
khơng gian… Bản thể tinh thần có tính chất cơ bản là tư duy và khơng thể bị

chia cắt; các dạng thức của nó là tình cảm, mong muốn, cảm giác.
Như vậy, có thể gói gọn quan điểm triết học của Đềcáctơ vào cụm từ “nhị
nguyên luận”, theo đó con người được sáng tạo, được tạo thành từ hai bản thể
khác nhau là vật chất (hữu hình) và tinh thần (vơ hình); con người là sinh thể
duy nhất mà trong đó cùng có và liên kết với nhau hai bản thể (vật chất và tinh
thần), và điều đó cho phép nó vươn cao trên giới tự nhiên. Đềcáctơ đã giải quyết
theo hướng này cả vấn đề cơ bản của triết học. Theo ông, cuộc tranh cãi cái gì
có trước, vật chất hay ý thức, là vô nghĩa: vật chất và ý thức chỉ kết hợp với
nhau trong con người, cho nên cả vật chất, lẫn ý thức khơng thể cái nào có trước
9


cái nào - chúng luôn song hành cùng nhau và là hai biểu hiện khác nhau của một
tồn tại duy nhất.
Để làm giá đỡ cho các phương pháp nêu trên, Đềcáctơ nêu ra học thuyết về
“ý niệm bẩm sinh”, theo đó phần lớn các tri thức đạt được nhờ nhận thức và diễn
dịch, tuy nhiên vẫn có loại tri thức đặc biệt không cần đến bất kỳ sự chứng minh
nào cả. Các chân lý (tiên đề) đó ngay từ đầu đã rất rõ ràng, hiển nhiên. Đềcáctơ
gọi các tiên đề như thế là “ý niệm bẩm sinh” vốn ln có trong lý tính của
Thượng đế và của con người và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác; có
các ý niệm bẩm sinh sau: Thượng đế (tồn tại), “số” (tồn tại), “ý chí”, “thể xác”,
“linh hồn”, “cấu trúc”… [5, tr.167].
Đềcáctơ đã luận chứng cho vai trò hàng đầu của lý tính trong nhận thức; nêu
ra học thuyết về thực thể, các thuộc tính và dạng thức của nó; là tác giả của nhị
nguyên luận, mà thực chất là ý đồ dung hoà các trào lưu duy vật và duy tâm trong
triết học; đề xuất lý luận về phương pháp khoa học và về “ý niệm bẩm sinh”.
2.2. Vấn đề bản thể luận trong triết học Xpinơda
Ơng là tác giả của hệ thống triết học được xây dựng đầy đủ và có cơ sở
nhất ở Hà Lan thời Cận đại, là người kế tục Đềcáctơ và là đại biểu sáng chói của
chủ nghĩa duy lý châu Âu. Theo Xpinơda, nhị nguyên luận thể xác - tinh thần là

thiếu sót cơ bản nhất của học thuyết Đềcáctơ về thực thể. Xpinơda vạch ra trong
đó mâu thuẫn ở chỗ, theo Đềcáctơ, bản thể là thứ tồn tại không cần đến bất kỳ
thứ gì khác, ngồi chính nó, tất cả các bản chất cũng vậy, để tồn tại không cần
bất kỳ thứ gì khác, ngồi chính chúng, ấy vậy mà lại được ai đó khác sáng tạo ra
- lại do một thực thể duy nhất chân thực và tối thượng - Thượng đế - sáng tạo ra,
đã vậy trong khi tồn tại chúng lại phụ thuộc hoàn toàn vào Thượng đế. Từ đó,
nổi lên rất rõ mâu thuẫn giữa tính độc lập của các bản thể với tất cả các bản thể
khác và tính phụ thuộc đồng thời của tất cả chúng (cả theo nghĩa sáng tạo ra, lẫn
ở nghĩa tồn tại) vào một thực thể cao hơn - Thượng đế.
Từ sự phê phán đó, Xpinơda đề xuất học thuyết về thực thể duy nhất. Theo
đó, khơng có sự khác nhau giữa thực thể tối cao - Thượng đế - với các thực thể
10


khác được nó sáng tạo ra; chỉ có một thực thể duy nhất bao gồm trong nó mọi
hiện tồn; cả thế giới xung quanh (giới tự nhiên) lẫn Thượng đế; hai thứ này
thống nhất, hịa trộn vào nhau; khơng có Thượng đế nằm bên ngoài và sáng tạo
giới tự nhiên, vươn vượt lên trên giới tự nhiên. Thượng đế nằm bên trong giới tự
nhiên. Chỉ một thực thể thống nhất Thượng đế - tự nhiên mới có khả năng sáng
tạo, mới là “thế giới sáng tạo” và tạo ra “thế giới được sáng tạo” - các sự vật đơn
nhất; chúng không tồn tại tự thân, mà chỉ là những thể hiện - những “dạng thức”
- của thực thể thống nhất Thượng đế - tự nhiên. Chính thực thể này là nguyên
nhân bên ngoài cho sự tồn tại của các dạng thức, các dạng thức hồn tồn phụ
thuộc vào nó, tức là chịu sự biến đổi, vận động theo thời gian và trong khơng
gian, có khởi đầu và kết thúc [6, tr.317].
Thực thể tự nhiên - Thượng đế có các thuộc tính: tồn tại; độc lập và khơng
phụ thuộc vào bất cứ thứ gì khác, có ngun nhân bên trong chính mình (chứ
khơng phải ngun nhân bên ngồi, như các dạng thức); có nhiều tính chất mà
cơ bản nhất trong số đó là: tư duy và quảng tính - là những thuộc tính của một
thực thể, chứ khơng phải là hai thực thể riêng biệt như ở Đềcáctơ; vô hạn trong

không gian và thời gian, vĩnh hằng (không được sáng tạo ra cũng không bị huỷ
diệt); bất động.
2.3. Vấn đề bản thể luận trong triết học Népnít
Nepnít là nhà triết học, tốn học, luật học người Đức, ơng được coi là đại
biểu danh tiếng cuối cùng của triết học Cận đại và là tiền bối của triết học cổ
điển Đức, thuộc về trào lưu duy lý.
Ông xem xét lại các lý thuyết của Đềcáctơ và Xpinôda về thực thể và nhận
ra rằng, các lý thuyết đó đều chưa hồn chỉnh. Ơng không chấp nhận nhị nguyên
luận theo nghĩa Đềcáctơ chia tất cả thành thực thể tối cao - Thượng đế và những
bản thể do nó sáng tạo ra nhưng độc lập, và những bản thể được sáng tạo ra
thành vật chất (quảng tính) và tinh thần (tư duy), cịn Xpinơda, tuy gắn kết tất cả
các thực thể thành một (Tự nhiên - Thượng đế) nhưng vẫn không khắc phục
được nhị nguyên luận Đềcáctơ. Bởi lẽ, đã phân chia tất cả các dạng thức (các sự
11


vật đơn nhất - những thể hiện của thực thể) thành hai lớp quảng tính và tư duy,
tức là cái mà ở Đềcáctơ là hai dạng thực thể, thì ở Xpinôda lại trở thành hai dạng
tương tự các dạng thức (là sự thể hiện một thực thể).
Để vượt qua hai bậc tiền bối, Nepnít đề xuất lý thuyết đơn tử. Theo đó, tồn
bộ thế giới cấu thành từ vơ lượng các thực thể vốn khơng có bản chất hai mặt
như ở Đềcáctơ và Xipinơda, mà chỉ có một bản chất. Những thực thể đó được
gọi là các đơn tử. Các đơn tử thật giản đơn, khơng quảng tính, khơng là những
đơn vị vật chất, mà thực chất là sự hoạt động, là cái duy nhất liên tục thay đổi
trạng thái của mình; nhờ sự tồn tại liên tục mà đơn tử ý thức được mình, các đơn
tử hồn tồn đóng kín và khơng phụ thuộc vào nhau, lớp đơn tử càng cao thì
càng có nhiều lý tính và trình độ đạt tới tự do của nó càng lớn. Các đơn tử “trần
trụi” là cơ sở của giới tự nhiên vô cơ (đất, đá, khống sản). Các đơn tử động vật
có cảm giác, nhưng tự ý thức chưa phát triển. Các đơn tử người (linh hồn) có ý
thức, trí nhớ, khả năng đặc biệt là tư duy. Đơn tử cao nhất là Thượng đế.

2.4. Vấn đề bản thể luận trong các trào lưu triết học Anh thời cận đại
Các trào lưu triết học Anh thời cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) bao gồm: chủ
nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy kinh nghiệm, các xu hướng chính trị - xã hội. Các
đại diện điển hình là Bêcơn, Hơpxơ, Lơccơ với những đặc điểm chung như sau:
Có xu hướng duy vật: đa phần các nhà triết học Anh, ngược với các nhà triết học
ở các nước khác, ví như ở Đức, lại thích luận chứng một cách duy vật những vấn
đề của tồn tại và phê phán nghiêm khắc chủ nghĩa duy tâm.
Sự vượt lên của chủ nghĩa duy kinh nghiệm là chủ nghĩa duy lý (Anh là
nước vào thời đó đã coi trọng vai trò hàng đầu của kinh nghiệm và trực quan
cảm tính trong nhận thức, dành được chiến thắng trước chủ nghĩa duy lý).
Dành nhiều quan tâm hơn đến những vấn đề chính trị - xã hội (các nhà triết
học Anh khơng chỉ có ý giải thích thực chất của tồn tại và nhận thức, vai trò của
con người trong thế giới, mà cịn tìm kiếm ngun nhân xuất hiện xã hội và nhà
nước, nêu ra những dự án tổ chức tốt nhất các nhà nước đang tồn tại hiện thực.
12


Vấn đề nhận thức luận trong triết học Ph. Becơn (1561 - 1625).
Bêcơn là chủ nhân của câu châm ngôn nổi tiếng “tri thức là sức mạnh”.
Ông là người khởi đầu xu hướng duy kinh nghiệm trong triết học. Bắt đầu từ
ông nhận thức luận đã vươn từ tầm thứ yếu trong triết học lên ngang tầm với bản
thể luận, và trở thành một trong hai phân mơn chính của hệ thống triết học. Ơng
định rõ mục đích mới của triết học: giúp hoạt động con người đạt tới những kết
quả thực tế (như thế có vẻ là Bêcơn đã gián tiếp đặt nền móng cho chủ nghĩa
thực dụng Hoa Kỳ sau đó 4 thế kỷ). Ơng cũng là người đầu tiên thực hiện sự
phân loại khoa học, tạo thêm động lực cho triết học mới chống chủ nghĩa kinh
viện ở Anh, lẫn ở tồn bộ châu Âu nói chung.
Bêcơn nêu các luận điểm chính của chủ nghĩa duy kinh nghiệm như sau:
chỉ có kinh nghiệm mới là cơ sở của nhận thức; nhân loại (và từng người nói
riêng) càng tích luỹ nhiều kinh nghiệm (cả lý thuyết lẫn thực tiễn) thì càng tiến

gần tới tri thức chân thực. Tri thức chân thực khơng phải là mục đích tự thân;
nhiệm vụ chủ yếu của nhận thức và kinh nghiệm là giúp hoạt động của người ta
đạt tới kết quả thực tiễn, thúc đẩy những phát minh mới, phát triển kinh tế,
khẳng định sự thống trị của con người đối với tự nhiên.
Trong tác phẩm Bộ công cụ mới, Bêcơn đã đề cao quy nạp như là phương
pháp nhận thức chủ yếu: Ông hiểu quy nạp là sự khái quát nhiều trường hợp
riêng để nhận được kết luận chung. ễng đặt phương pháp quy nạp đối ngược với
phương pháp diễn dịch Đềcáctơ, và cho rằng, ưu thế của phương pháp quy nạp
của ông so với diễn dịch Đềcáctơ là ở chỗ cho phép mở rộng khả năng, làm sống
động hơn quá trình nhận thức. Hạn chế của quy nạp là tính kém tin cậy. Bởi lẽ,
nếu một số sự vật, hiện tượng có những dấu hiệu chung, thì điều đó chưa có
nghĩa là tất cả các sự vật hay hiện tượng của lớp đó đã chắc có những dấu hiệu
đó. Do vậy, trong từng trường hợp riêng biệt đều rất cần phải kiểm tra thực
nghiệm đối với quy nạp; nhưng con đường chủ yếu khắc phục hạn chế của quy
nạp là nhân loại cần tích luỹ càng nhiều kinh nghiệm trong mọi lĩnh vực tri thức
thì càng tốt.
13


Tổng kết lại các quan điểm về nhận thức đã có, Bêcơn quy các con đường
nhận thức về ba loại: đường “con nhện” cho phép nhận được tri thức từ “lý tính
thuần tuý”, tức là bằng cách tư duy khép kín, cách nhận thức này hoặc là phủ
nhận hoặc làm suy giảm đáng kể vai trò của các dữ kiện cụ thể, của kinh nghiệm
thực tiễn. Đó là con đường của các nhà duy lý xa rời cuộc sống thực, giáo điều
và theo Bêcơn, họ “dệt những màng lưới tư tưởng từ trí tuệ của mình”. Ngược
lại, đường “con kiến” là phương thức thu nhận tri thức chỉ thông qua kinh
nghiệm, giáo điều, phương pháp này cũng khơng là hồn thiện, các nhà duy kinh
nghiệm thuần tuý tập trung vào việc thu thập các dữ kiện phân tán. Như vậy, họ
chỉ nhận được bức tranh bên ngoài về thế giới, nhìn thấy vấn đề ở mặt ngồi,
nhưng khơng thể hiểu bản chất bên trong của sự vật và hiện tượng được nghiên

cứu, khơng nhìn thấy vấn đề từ bên trong; cuối cùng, đường “con ong”, theo
Bêcơn, là cách nhận thức lý tưởng nhất, vì kết hợp trong nó những lợi thế của
đường “con nhện” và đường “con kiến”, đồng thời cũng khắc phục được những
khiếm khuyết của chúng. Đi theo đường “con ong” thì cần thu thập hết các dữ
kiện, khái quát chúng (nhìn vấn đề từ bề mặt) và sử dụng các khả năng của lý
tính để nhìn sâu vào vấn đề và hiểu bản chất của nó. Như vậy, con đường nhận
thức tốt nhất, theo Bêcơn, là chủ nghĩa kinh nghiệm dựa trên quy nạp (thu thập
và khái quát các dữ kiện, tích luỹ kinh nghiệm) cùng với việc sử dụng các thao
tác tư duy để hiểu bản chất bên trong của các sự vật và hiện tượng bằng lý tính.
Nhận thức và sự thu nhận tri thức chân thực của nhân loại bị cản trở bởi các
ngẫu tượng. Bêcơn chia chúng ra thành 4 loại: ngẫu tượng tộc lồi là sự sai lệch
nhận thức qua lăng kính văn hố con người (tộc lồi) nói chung, tức là con
người thực hiện sự nhận thức khi đứng trong khuôn khổ văn hố chung nhân
loại, và điều đó đặt dấu ấn lên kết quả cuối cùng làm giảm sút tính chân thực của
tri thức. Ngẫu tượng hang động là sự ảnh hưởng từ nhân cách con người cụ thể
(chủ thể nhận thức) đến quá trình nhận thức, rút cục là nhân cách con người
(định kiến, sai lầm của nó) được phản ánh vào kết quả nhận thức cuối cùng.
Ngẫu tượng chợ búa là sử dụng khơng đúng, khơng chính xác ngôn ngữ, khái
14


niệm: các từ, các định nghĩa, các câu. Ngẫu tượng nhà hát là sự ảnh hưởng đến
quá trình nhận thức từ phía quan điểm triết học đang tồn tại, đơi khi trong nhận
thức triết học cũ cản trở việc thể hiện cách nhìn nhận mới mẻ (ví dụ: ảnh hưởng
của chủ nghĩa kinh viện đến nhận thức ở thời Trung cổ).
Bêcơn phân loại khoa học căn cứ vào các bộ phận của trí tuệ con người, trí
tuệ con người bao gồm trí nhớ, tưởng tượng, giác tính thì tương ứng là các khoa
học: lịch sử, thi ca, triết học. Theo Bêcơn, đối tượng của triết học là giới tự
nhiên, Thượng đế và con người, tương ứng là các phương thức nhận thức: trực
tiếp nhờ sự thụ nhận cảm tính và kinh nghiệm, thông qua tự nhiên, phản tư (sự

chủ hướng của tư tưởng đến chính mình, tư tưởng nghiên cứu chính nó).
T. Hơpxơ (1588 - 1679) là học trị và người kế tục tư tưởng của Bêcơn. Các
quan điểm triết học chủ yếu của ông bao gồm: kiên quyết chống lại triết học kinh
viện thần học. ễng nhận thấy mục đích của triết học là đạt tới những kết quả thực
tiễn trong hoạt động của con người, là thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật; ông
kiên quyết đứng về phía chủ nghĩa duy kinh nghiệm trong cuộc tranh luận giữa nó
với chủ nghĩa duy lý, phê phán mạnh mẽ triết học Đềcáctơ. Ông là nhà duy vật tự
giác đầy niềm tin khi cho vấn đề nhà nước và xã hội là quan trọng nhất đối với
triết học, do vậy đã đề xuất lý luận về nhà nước. Ông là người đầu tiên nêu tư
tưởng về cơ sở của sự xuất hiện nhà nước là khế ước xã hội (chung). Cụ thể, nội
dung các nghiên cứu triết học của Hôpxơ được phân thành hai hướng.
Trong nhận thức luận, ông chủ trương sử dụng đồng thời cả diễn dịch và
quy nạp làm phương pháp nhận thức. ễng cho rằng, con người ta nhận thức chủ
yếu nhờ tri giác cảm tính, tức là tiếp thu nhờ các giác quan những tín hiệu từ thế
giới xung quanh rồi sau đó xử lý tiếp. Các tín hiệu như thế được Hơpxơ gọi là
dấu với các loại khác nhau: tín hiệu âm thanh được động vật phát ra để diễn tả các
hành vi hay ý định của chúng (chim hót), cử chỉ là những dấu khác nhau do con
người nghĩ ra để giao tiếp, dấu tự nhiên là các tín hiệu của thiên nhiên (sấm,
chớp…), các dấu giao tiếp dẫn xuất là các từ trong các ngôn ngữ khác nhau, dấu
15


trong vai trị cử chỉ là lời nói “được mã hố” đặc biệt mà chỉ khơng nhiều người
hiểu được (ngơn ngữ khoa học, tôn giáo), dấu của dấu là những khái niệm chung.
Với những vấn đề xã hội và nhà nước, Hơpxơ cho rằng, mục đích chính
của triết học là giúp con người đạt tới những kết quả hoạt động thực tiễn trong
xã hội và quốc gia cụ thể. Bản chất con người bẩm sinh là độc ác; vun vén cá
nhân, ích kỷ nhỏ nhen, đầy lịng ham hố, những tính đó dẫn từng người đến việc
chỉ biết quyền lợi của mình. Từng người đề cao quyền của mình và xem thường
quyền của những người khác dẫn đến “chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”,

cuộc chiến này không thể mang lại chiến thắng cho bất kỳ ai mà chỉ làm mất đi
khả năng chung sống bình thường của con người và sự tiến bộ kinh tế. Để chung
hưởng thái bình, người ta thiết lập những khế ước xã hội nhằm hạn chế bớt
những địi hỏi và “quyền vơ hạn của tất cả”; để ngăn ngừa “chiến tranh của tất
cả chống lại tất cả”.
Triết học Lôccơ (1632 - 1704), ngoài việc phát triển tiếp nhiều luận điểm
triết học của Bêcơn và Hơpxơ, ơng cịn đưa thêm một số lý thuyết riêng tiếp tục
truyền thống duy kinh nghiệm và duy vật của triết học Anh Cận đại. Những luận
điểm chính của ơng là: thế giới mang tính vật chất; cơ sở của nhận thức chỉ có
thể là kinh nghiệm “trong lý tính con người khơng có gì mà trước đó lại chưa
từng có trong cảm tính”; ý thức chỉ là chỗ trống được kinh nghiệm sống lấp đầy,
bổ sung thêm cho châm ngôn nổi tiếng của Lôccơ về ý thức như là về “cái bảng
trắng tinh khôi” được viết đầy bởi kinh nghiệm; thế giới bên ngoài là cội nguồn
của kinh nghiệm; mục đích của triết học là giúp con người đạt kết quả cao trong
hoạt động. Con người lý tưởng là người bình thản, ngăn nắp, tuân thủ pháp luật,
thường xuyên nâng cao trình độ học vấn và đạt nhiều thành tích nghề nghiệp.
Nhà nước lý tưởng cần được xây dựng trên cơ sở phân chia quyền lực thành 3
nhánh kiềm chế lẫn nhau: lập pháp, hành pháp (trong đó có cả quyền tư pháp) và
liên bang (đối ngoại), Lôccơ là người đầu tiên đề xuất tư tưởng này và đó là
cơng lao rất lớn của ơng như là người đặt viên gạch đầu tiên cho việc xây dựng
nhà nước pháp quyền.
16


2.5. Vấn đề bản thể luận trong khai sáng Pháp
Triết học Pháp thế kỷ XVIII thường được gọi là Triết học Khai sáng. Sở dĩ
có tên gọi này là do nó đã phá tan những quan niệm lâu đời về Chúa, về thế giới
xung quanh và con người, thể hiện sự sáng tạo trong các nghiên cứu triết học,
công khai tuyên truyền các tư tưởng tư sản đang ra đời, và cuối cùng nó đã
chuẩn bị về mặt tư tưởng hệ cho cuộc Đại Cách mạng Pháp 1789 - 1794.

Phi Thần luận: Khước từ tư tưởng về Chúa cá nhân; không đồng ý đánh
đồng Chúa với Tự nhiên (kiểu phiếm thần luận Xpinơda), hoặc cá nhân hố
Chúa (tức là gán cho Chúa những đặc điểm cá nhân con người). Nhưng vẫn giữ
lại những tín điều như Chúa là khởi điểm đầu tiên, nguyên nhân của mọi thứ
hiện tồn (nhưng không hơn). Chúa khơng cịn khả năng can thiệp vào các q
trình tự nhiên và các cơng việc của con người, Chúa cũng khơng ảnh hưởng gì
đến tiến trình lịch sử, đến thế giới xung quanh sau khi sáng tạo ra nó. Các đại
biểu chính : Vơnte, Mơngteckiơ, Russo, Cơndinhiac.
Vơnte (1694 - 1778) là nhà triết học, nhà văn, nhà chính luận, một trong
những người sáng lập dòng Khai sáng Pháp - nổi tiếng với “chủ nghĩa tuyệt đối
khai sáng”. Ông thể hiện lịng nhiệt thành chống tơn giáo, nhất là Kitô giáo; ông
cho rằng, Chúa sáng tạo ra thế giới, là khởi đầu liên kết mọi cái hiện tồn. Tuy
nhiên, khơng có lý luận hay thực tiễn nào có thể chứng minh rất tin cậy về sự
hiện diện hay thiếu vắng của Chúa. ễng nhận thấy tính tất yếu của việc công
nhận sự tồn tại của Chúa trên quan điểm luân lý - đạo đức để duy trì trật tự trong
xã hội, giữ con người (bằng cách lấy sự trừng phạt của Chúa để doạ nạt) trong
khuôn khổ chặt chẽ của đức hạnh; về nhận thức luận ông ủng hộ việc kết hợp
chủ nghĩa kinh nghiệm với chủ nghĩa duy lý, nghiêng hơn về chủ nghĩa kinh
nghiệm. ễng đấu tranh vì một lối cư xử nhân đạo và tơn trọng quyền của dân
thường. Ơng cũng mâu thuẫn với chính mình khi vẫn coi chế độ quân chủ tuyệt
đối đứng đầu là nhà cầm quyền được khai sáng là lý tưởng của nhà nước, ông
cũng trao đổi thư từ với nhiều bậc quân vương “khai sáng” (trong đó có cả nữ
17


Hoàng Nga Ekaterina II) và cho những lời khuyên thực tiễn về việc xây dựng
nhà nước.
Môngteckiơ (1689 - 1755) là nhà triết học, nhà văn, nhà luật học, học giả
am hiểu nhiều lĩnh vực tri thức, người cùng thời và phần lớn đồng tư tưởng với
Vônte. Tác phẩm Tinh thần pháp luật đã có những phác thảo về “Khế ước xã

hội”, phân chia quyền lực. Ông cho rằng, Chúa là đấng sáng tạo, nhưng bác bỏ
khả năng của Ngài can thiệp vào công việc của con người và các quá trình tự
nhiên. Chúa là phương tiện tinh thần duy trì trật tự và giáo dục đạo đức; ông phủ
nhận sự bất tử của linh hồn, phê phán Kitô giáo và giáo hội về yêu sách nắm
quyền và đòi ảnh hưởng đến xã hội, về tội làm các tín đồ lầm lạc trong nhiều
vấn đề và cản trở sáng kiến của con người; ông cho rằng, con người làm lên lịch
sử, chứ không phải do sức mạnh giả định của Chúa. Ông cho rằng, khí hậu và
địa lý đều ảnh hưởng đến cách thức tổ chức xã hội (các nước phương Nam với
khí hậu nóng ẩm thường có xu hướng độc tài, các nước phương Bắc với khí hậu
lạnh lẽo có xu hướng dân chủ, các nước trung Âu với khí hậu ôn đới lại chuyển
đổi theo chu kỳ từ độc tài sang dân chủ và ngược lại). Theo ông, trước sự xuất
hiện nhà nước là “trạng thái tự nhiên”, ở đó con người tự do thể hiện các bản
năng của mình và thoả mãn các nhu cầu, khơng phải trơng chừng nhau, nhưng
khi sự tồn tại đó trở nên khơng thể, thì người ta thành lập nhà nước trên cơ sở
“Khế ước xã hội” quy định trước sự thừa nhận lẫn nhau về quyền và nghĩa vụ và
sự xuất hiện của chính quyền nhà nước. Ơng phát triển tư tưởng về phân chia
quyền lực nhà nước nhằm làm cho nó vận hành hiệu quả hơn và ngăn ngừa sự
độc tài ra thành ba nhánh - lập pháp, hành pháp và tư pháp, ngày nay phần lớn
các nước tư sản đều áp dụng tư tưởng này; ủng hộ sự tối cao của pháp luật.
J. Russo (1712 - 1778) là người chủ yếu chú ý đến các vấn đề xã hội chính trị, giữ lập trường dân chủ cách mạng. Ông cho rằng, phần lớn nhân dân bị
áp bức có quyền khởi nghĩa. Chúa là ý chí và lý tính thế giới; vật chất không
được sáng tạo ra và luôn tồn tại khách quan; con người được cấu thành từ thể
xác hữu sinh hữu tử và linh hồn bất tử. Tuy đề cao nhận thức kinh nghiệm,
18


nhưng ông vẫn cho rằng, con người không đủ sức nhận thức thế giới (bản chất
các sự vật và hiện tượng) đến tận cùng. Tuy chống tôn giáo ở phương án Kitô
giáo, nhưng ông lại sợ rằng, nếu tôn giáo bị thủ tiêu thì đạo đức sẽ xuống cấp và
mất đi những ràng buộc luân lý, cho nên đã đề nghị thay thế tôn giáo cũ bằng

“tôn giáo công dân”, “sùng bái bản thể vĩ đại (Chúa)”, “sùng bái ý chí thế
giới”… Ơng cho rằng, sở hữu tư nhân là nguyên nhân chính của các mâu thuẫn
xã hội; trong xã hội lý tưởng, công bằng tất cả mọi người đều phải có quyền
thực, cịn sở hữu tư nhân cần phải được phân phối đồng đều giữa mọi công dân
theo mức độ đủ cho cuộc sống (chứ không phải để làm giàu); cần thực hiện
quyền lực không phải thông qua nghị viện, mà phải bởi các công dân một cách
trực tiếp - thông qua quốc hội; trong xã hội tương lai cần phải có hệ thống giáo
dục trẻ em mới hẳn: chúng phải được cách ly với thế giới xung quanh trong
những cơ sở chuyên dạy dỗ, ở đó chúng sẽ được giáo dục thành những con
người của xã hội mới có tư tưởng tự do cá nhân, tơn trọng lẫn nhau, căm thù tơn
giáo và độc tài, có nghề nghiệp tốt và nắm được những khoa học hàng đầu.
Trái với các nhà triết học nêu trên, Côndinhiac (1715 - 1780) lại ít chú ý
đến những vấn đề xã hội, ụng đó nỗ lực nghiên cứu những vấn đề nhận thức
luận - luận chứng cho tính vượt trội của kinh nghiệm cảm tính trong nhận thức.
Ơng khẳng định, con người có thể nhận thức thế giới bên ngoài đến mức mà các
khả năng con người (trí tuệ, giác quan) cho phép. Thế giới xung quanh là cội
nguồn của mọi tri thức; cơ sở của nhận thức là tri giác cảm tính. Do vậy, ông là
người theo chủ nghĩa duy cảm, theo đó khơng có nhận thức độc lập bởi lý tính
mà thiếu sự tham gia của các giác quan.
Trào lưu vô thần - duy vật. Trào lưu vô thần - duy vật được truyền bá ở
Pháp vào thế kỷ XVIII, nhất là vào thời gian sát cuộc Cách mạng tư sản Pháp.
Trào lưu này phủ nhận sự tồn tại của Chúa dưới mọi hình thức, và giải thích
nguồn gốc phát sinh thế giới và con người trên lập trường duy vật khoa học tự
nhiên. Trào lưu này chủ trương nhận thức luận theo hướng kinh nghiệm chủ
nghĩa. Các đại diện tiêu biểu là Mele, Lametri, Điđrô, Ghenvensi, Hônbách.
19


Hoạt động của trào lưu này có ý nghĩa to lớn đối với triết học và xã hội: họ đã
phân biệt rạch ròi hai đường hướng triết học chủ đạo là duy vật và duy tâm

(Đêmơcrít và Platơn), giải phóng triết học khỏi nhiều định kiến tôn giáo, nêu
định nghĩa duy thực hơn về thực thể - vật chất, đề ra tư tưởng (vẫn còn phổ biến
thời nay) về ý thức như là thuộc tính của vật chất phản ánh chính mình, phê
phán tri thức tiên nghiệm, siêu cảm tính (“thuần tuý”), luận chứng và tuyên
truyền học thuyết duy cảm duy vật coi cơ sở của nhận thức là cảm giác, đề ra tư
tưởng các sự vật đơn nhất là những kết hợp khác nhau của các hạt vi mô, chú ý
đến vận động không phải như là hiện tượng siêu tự nhiên, mà như là thuộc tính
của vật chất, luận chứng tư tưởng công bằng xã hội, tham gia chuẩn bị về mặt tư
tưởng cho Đại Cách mạng tư sản Pháp.
Z. Mele (1644 - 1729) làm nghề mục sư, nhưng đã phủ nhận hồn tồn
Chúa và tơn giáo, từ đó đi đến chủ nghĩa vơ thần, là nhà triết học duy vật, vì
những quan điểm xã hội - chính trị mà đôi khi ông được xếp vào số các nhà xã
hội chủ nghĩa không tưởng, vào số những người cộng sản đầu tiên. Ơng khơng
thừa nhận sự tồn tại của bất kỳ thứ gì siêu nhiên (trong đó có cả Chúa), không
tin vào sự hiện hữu của các ý niệm tách rời với vật chất, không thừa nhận sự bất
tử của linh hồn. Theo ơng, tồn bộ thế giới xung quanh được cấu thành từ thực
thể đặc biệt là vật chất, nó cũng là nguyên nhân đầu tiên của vạn vật, của mọi cái
hiện tồn, nó vĩnh hằng, khơng được sáng tạo ra, tồn tại hiện thực, biến đổi và
liên tục phát triển nhờ sự vận động - thuộc tính đã được cài đặt sẵn trong nó từ
trước. Vật chất cấu thành từ những hạt nhỏ bé nhất, các vật được tạo thành nhờ
kết quả kết hợp chúng. Nhận thức là sự phản ánh của vật chất bởi chính nó, cảm
giác là cội nguồn của phần lớn các tri thức. Ơng nhìn thấy ngun nhân của các
xung khắc xã hội là sở hữu tư nhân vốn nảy sinh do “ý chí ác độc” của một số
người khơng chịu lao động chân tay, do vậy ông kêu gọi lật đổ chế độ tuyệt đối,
thủ tiêu sở hữu tư nhân và nhà nước hiện tồn để xây dựng xã hội tương lai là liên
minh các cơng xã anh em, trong đó các thành viên ngang bằng nhau, cùng vui
sống, cùng lao động sản xuất, phân phối thu nhập công bằng.
20



Lametri (1709 - 1751) nhà triết học phỏp, ụng đã bác bỏ hoàn toàn chủ
nghĩa duy tâm và thần học. Theo ông, thế giới là tổng thể các biểu hiện khác
nhau của một thực thể duy nhất - vật chất vốn không được sáng tạo ra, vĩnh hằng
và vô tận. Linh hồn, ý thức, cảm giác đều có nguồn gốc tự nhiên, đều là thuộc
tính của vật chất, vì vật chất là tự đủ cho nên không cần sự tất yếu mn thuở ở
Chúa. Thế giới có thể nhận thức được hết, các giác quan giữ vai trò chủ yếu
trong nhận thức. Trong đạo đức học, ông là người theo chủ nghĩa duy hạnh
phúc, theo đó ý nghĩa cuộc sống là hạnh phúc cá nhân. Ơng khơng chống sở hữu
tư nhân vì nó đảm bảo cho tự do con người.
Điđrơ (1713 - 1784) là một trong những nhà triết học duy vật Pháp kiệt
xuất nhất. Ông đã cống hiến rất nhiều cho phong trào Khai sáng và là người khởi
cướng biên soạn “Bách khoa thư khoa học, nghệ thuật và ngành nghề”. “Bách
khoa thư” đã tránh được các định kiến tôn giáo và bao gồm những cơ sở của các
khoa học, nghệ thuật và tri thức trong các lĩnh vực sản xuất hàng đầu, đặt nền
móng cho thế giới quan tư sản. Tham gia biên soạn “Bách khoa thư” là các nhà
triết học đầu đàn thời đó - những người cùng thời với Điđrô và cũng phải mất
hơn 20 năm. Theo ông, vật chất là thực thể duy nhất đang tồn tại, mà tất cả các
sự vật đơn nhất chỉ là thể hiện của nó. Vận động là thuộc tính của vật chất diễn
ra do sự không đồng nhất (sự tương tác của tập vô hạn các phần vật chất khơng
thuần nhất) gây ra. Ơng bác bỏ khởi đầu tinh thần của vũ trụ, ý thức chỉ là thụơc
tính của vật chất. Ông cho rằng, “khế ước xã hội” là cơ sở của xã hội và nhà
nước, từ đó phủ nhận tính thần thánh của quyền lực nhà vua và giai cấp phong
kiến, “quân chủ khai sáng” là nhà nước lý tưởng, còn nền kinh tế lý tưởng là sở
hữu tư nhân được phân chia hợp lý có tính đến lợi ích của số đơng.
Trào lưu xã hội (cộng sản) chủ nghĩa không tưởng trong triết học Khai sáng
Pháp bắt đầu hình thành từ giữa thế kỷ XVIII, nhưng sự truyền bá mạnh nhất
diễn ra trong và sau thời Đại Cách mạng Pháp, các nhà xã hội chủ nghĩa không
tưởng tập trung chú ý đến lý luận về xây dựng xã hội lý tưởng dựa cơ sở trên sự
21



bình đẳng và cơng bằng xã hội. Các đại biểu chính: Mabli, Morenly, Babớp,
Oen, Xanhximơng, Phuriê…
Mabli (1709 - 1785 là nhà triết học, nhà sử học, nhà văn, anh trai của
Côndinhiac, là một trong những người sáng lập trào lưu chủ nghĩa xã hội khơng
tưởng Pháp. Ơng phê phán tồn bộ triết học Khai sáng, gọi thời đại của mình là
kỷ nguyên tán phét đầy nghịch lý. Ông bác bỏ cả chủ nghĩa duy vật, lẫn thần
luận, bởi vì cả các nhà vô thần, các nhà duy vật, và các nhà thần luận đều tiếp
cận nghiên cứu thế giới xung quanh và con người q khn mẫu, q máy móc,
họ triệt hạ tâm hồn nhân dân, trên thực tế họ khơng chú ý gì đến đạo đức. Theo
ơng, sứ mệnh chính của triết học phải là sự truyền bá đạo đức và tôn giáo mạnh
dưới sự ủng hộ của nhà nước. Là người theo tư tưởng nhị nguyên luận Đềcáctơ,
ông cho rằng, con người là sự kết hợp của vật chất (thể xác), lẫn tinh thần - từ
đó, theo ơng, cảm xúc, tình yêu bản thân, ý hướng tránh những điều khó chịu,
sức cuốn hút của khối lạc có ảnh hưởng lớn đến các hành vi và hành động của
con người. Chính bản chất con người buộc họ phải sống cùng với những người
khác trong xã hội. Ông coi chế độ cơng xã ngun thuỷ, mà ở đó tất cả đều là
của chung, còn hoạt động của con người hướng đến việc đảm bảo đời sống cho
mình và đồng tộc (chứ không phải để làm giàu), là kỷ nguyên vàng son của nhân
loại. Theo ông, nguyên nhân diệt vong của chế cộng sản nguyên thuỷ - “kỷ
nguyên vàng của nhân loại” - cũng như nguyên nhân của tất cả những bất hạnh
và mâu thuẫn trong xã hội là sự xuất hiện sở hữu tư nhân và phân chia giai cấp,
do vậy ông đã nhầm tưởng, công xã cộng sản nguyên thuỷ là xã hội lý tưởng, từ
đó kêu gọi quay trở về xã hội khơng có sở hữu tư nhân, khơng có sự phân chia
giai cấp, khơng có chính quyền xa cách dân chúng, mà thay vì chúng là đại
thắng của bình đẳng, cơng bằng, bác ái giữa mọi người. Mặt khác, ông lại cho
rằng, các lý tưởng trên không thể thực hiện được trên thực tế, sở hữu tư nhân là
vĩnh cửu và không thể bị thủ tiêu, sự phân chia giai cấp vẫn ln có, cịn dân
chúng thì không thể nổi dậy khởi nghĩa do họ quá phân tán, mà thậm chí nếu có
22



thể lật đổ chế độ hiện tồn, thì do bản chất con người, do những xúc cảm trái
ngược mà chủ nghĩa cộng sản cũng khơng thể tồn thắng.
Babớp (1760 - 1797) là người cộng sản lý luận và thực tiễn đầu tiên. Ông
cho rằng, phải đạt tới xã hội cộng sản chủ nghĩa dựa trên cơ sở bình đẳng chính
trị và kinh tế, thông qua khởi nghĩa vũ trang. Từ đó, ơng kiên quyết chối bỏ tất
cả các học thuyết triết học, mà, theo ơng, đều mang tính nửa vời và khơng có
mục đích mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Ông phê phán mạnh mẽ xã hội và
nhà nước hiện tồn. Theo ơng, chính sự xuất hiện sở hữu tư nhân và phân chia xã
hội ra thành các giai cấp giàu - nghèo đối lập nhau là cái ác chính trong xã hội;
xã hội tốt nhất và có thể thực hiện được là xã hội không phân chia giai cấp,
không sở hữu tư nhân, tất cả ruộng đất được chia đều cho nơng dân Ơng chủ
trương bình đẳng chính trị và kinh tế hoàn toàn, lao động chung và có sự phân
phối bằng nhà nước một cách cơng bằng đều khắp sản phẩm do toàn xã hội sản
xuất ra cho mọi thành viên. Ông tin tưởng rằng, xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ
có thể xây dựng bằng con đường cách mạng bạo lực của những người nghèo
chống lại kẻ giàu và bằng trật tự cách mạng nghiêm minh. Vào thế kỷ XIX và
XX, học thuyết của ông về xã hội cộng sản chủ nghĩa và về khởi nghĩa vũ trang
như là phương tiện đạt tới nó được đặt tên là chủ nghĩa Babớp và đã cuốn hút
được nhiều người đi theo, Babớp đã trở thành nhà triết học cộng sản đầu tiên có
ý đồ hiện thực hố những tư tưởng của mình, ơng đã làm nhiều việc chuẩn bị
cho khởi nghĩa vũ trang, tìm kiếm những người cùng chí hướng, viết tun ngơn
và cương lĩnh hành động của chính phủ cách mạng tương lai, tổ chức này có tên
gọi là “Hội bình đẳng”. Năm 1797, Hội bị cấm, cịn Babớp và một số đồng chí
của ơng bị treo cổ.
Quyết định luận kinh tế và triết học “xã hội công nghiệp” của Xanhximông
(1760 - 1825) đã đi gần đến cách hiểu duy vật biện chứng về thế giới (sự thống
nhất và đấu tranh các mặt đối lập). Ông nêu tư tưởng về sinh lý học xã hội, theo
đó xã hội như một cơ thể hồn chỉnh có kinh tế là lĩnh vực nền tảng, quyết định

của đời sống xã hội, các quan hệ sản xuất quyết định chính trị và các quan hệ xã
23


×