Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN VAI TRÒ của PHẬT GIÁO đối với VIỆC bảo tồn văn hóa dân tộc VIỆT NAM – GIẢI PHÁP NHẰM góp PHẦN NÂNG CAO GIÁ TRỊ văn hóa dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.32 KB, 19 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO TỒN
VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM – GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN
NÂNG CAO GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

Năm 2021

1


MỞ ĐẦU
Phật giáo có mặt ở Việt Nam gần 2000 năm, trải qua nhiều thời kỳ biến
động lúc thịnh, suy khác nhau, nhưng đã tự khẳng định như một thành tố khơng
thể tách rời của nền văn hóa dân tộc và trở thành một trong những tơn giáo có
sức sống lâu dài tồn tại mãi cho tới ngày nay, đồng thời ảnh hưởng khá sâu rộng
trong đời sống của nhân dân ta.
Kể từ khi đất nước giành được độc lập (1945) cho đến thời kỳ đổi mới, Đảng và
Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng,
tơn giáo, tạo điều kiện để các tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, hành đạo
theo pháp luật, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo,
xây dựng đời sống văn hóa…; góp phần củng cố khối đại đồn kết toàn dân tộc,
cùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trong suốt chiều dài lịch sử tín ngưỡng, tơn giáo, ln là một vấn
đề nhạy cảm. Trong tình hình hiện nay, đây là lĩnh vực thường xuyên bị kẻ xấu và


các thế lực thù địch, cơ hội lợi dụng để thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình” trên
mặt trận tư tưởng - văn hóa; chống phá, xuyên tạc đường lối chủ trương của Đảng
về tự do tín ngưỡng, tơn giáo; phá hoại khối đại đồn kết dân tộc, cổ súy những
hoạt động núp bóng tín ngưỡng, tơn giáo trái pháp luật...
Để đấu tranh có hiệu quả với mọi hoạt động núp bóng và lợi dụng tín
ngưỡng, tơn giáo trái với pháp luật, bên cạnh việc nâng cao chất lượng cơng tác
tun truyền liên quan đến chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về tín
ngưỡng, tơn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, rất cần tiếp tục nghiên cứu làm
rõ những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp cũng như vai trị, đóng góp của các tơn
giáo chính thống – nhân bản, trong đó có Phật giáo vào quá trình phát triển của
đất nước.
NỘI DUNG
I. KHÁI LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH, NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
PHẬT GIÁO VÀ SỰ DU NHẬP PHẬT GIÁO VÀO VIỆT NAM
1.1. Sự hình thành và nội dung cơ bản của Phật giáo
Đạo Phật hay còn gọi là Phật giáo ra đời ở Ấn Độ vào khoảng giữa thiên
niên kỷ I – TCN. Ấn Độ là một nước lớn, đất rộng, người đông ở khu vực Miền
Nam châu Á, là nước có lịch sử lâu đời – và là một trong những nơi có nền văn
mình sớm nhất và rực rỡ nhất trên thế giới. Niên đại của nền văn mình Ấn Độ so
với Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại có muộn hơn một chút, tức là vào khoảng thiên
niên kỷ III đến thiên niên kỳ I –TCN.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng: ý thức xã hội luôn ra
đời trên cơ sở của tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội. Phật giáo là sản
2


phảm thuộc ý thức xã hội cho nên sự ra đời của Phật giáo nó gắn liền với những
điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của Ấn Độ lúc bấy giờ.
Lúc này Ấn Độ đang trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Sự phân chia đẳng
cấp một cách nghiệt ngã với bốn đẳng cấp cách biệt nhau đó là: đẳng cấp Bà-lamơn (giữ địa vị cao nhất gồm giới tăng lữ của đạo Bà-la-môn, gồm những người

hotaj động tổn giáo chuyên nghiệp); đẳng cấp Sát-đế-lỵ (gồm vua quan cai trị và
tầng lớp võ sĩ); đẳng cấp Vệ- xá (gồm dân tự do, những người làm nơng nghiệp
hay những người giàu có, bn bán, thợ thủ công), đẳng cấp Thủ-đà-la (gồm
chiến binh bại trận, những người tầng lớp trên bị phá sản, nơ lệ). Ngồi ra cịn
có một tầng lớp người thuộc hàng cùng khổ dưới đáy xã hội, bị mọi người khinh
rẻ. thời kỳ này, đạo Bà-la-môn thống trị xã hội Ấn Độ, với vị trí độc tơn nó dùng
để bênh vực và bảo vệ cho chế độ đẳng cấp nhất đẳng cấp Bà-la-mơn.
Tình hình nói trên đã làm cho tầng lớp tầng lớp đa số trong xã hội những
người Thủ-đà-la càng oán ghét chế độ bóc lột, chế độ phân chia đẳng cấp.Phản
ánh tâm trạng của những người nơ lệ lúc đó, ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trào
lưu, tư tưởng thuộc các xu hướng khác nhau. Các trào lưu đó gặp nhau ở diderm
chung đó là hoặc trực tisp, hoặc là gián tiếp chống lại chế độ đẳng cấp và đạo
Bà-la-môn. Học thuyết Phật giáo là một trong những trào lưu đó. Như vậy có thể
nói Phật giáo ra đời trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại bắt nguồn từ những nguyên
nhân chính trị, xã hội mà sâu xa là trào lưu chống lại chế độ đẳng cấp và đạo Bàla-môn. Bên cạnh đó, Phật giáo cịn là sự kế thừa tiếp nối các học thuyết tư
tưởng triết học đường thời như (trường phái Samkhuya, Yoga, Vaisesika,
Vedanta, Miamansa).
Sự ra đời của Đạo Phật còn gắn liền với tên tuổi của người sáng lập ra nó
chính là thái tử Sidharta (Tất-đạt-đa), họ là Gotama (Cổ-đàm) con của vua
Shuddhodana (Tịnh Phạm). Ông sinh năm 624 trCN, vào lúc ở Ấn Độ đạo
Bàlamôn (Brahmanism) đang thống trị với sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong
xã hội. Nỗi bất bình của thái tử với nỗi khổ của muôn dân là những nguyên nhân
dẫn đến sự hình thành một tơn giáo mới. Sidharta rời nhà năm 29 tuổi, được gọi
là Sakia Muni (Thích Ca Mầu hiển nhân dịng họ Thích Ca). Sakia Muni tìm gặp
những người tu hành lâu năm để học hỏi, nhưng những điều thu được khơng làm
ơng thỏa mãn. Ơng rủ 5 người bạn đến vùng Uruvela (gần thị trấn Gaya – sau
này các sách thường ghi là ông đến núi Tuyết Sơn), tu khổ hạnh suốt 6 năm rịng
mà chẳng ích lợi gì. Thấy mình đã tu sai đường, ngài liền ăn uống cho lại sức rồi
tìm đến một gốc cây pipal lớn, lấy cỏ làm nệm ngồi tập trung suy nghĩ. Sau một
thời gian (tương truyền là 49 ngày đêm), tư tưởng ngài liền trở nên sáng rõ, ngài

đã hiểu ra quy luật của cuộc đời, nỗi khổ của chúng sinh, thấy được điều mà bấy
lâu nay tìm kiếm. Ngài liền đi tìm 5 người bạn đã cùng tu khổ hạnh trước đây để
3


giác ngộ cho họ, rồi cùng với họ trong suốt 40 năm còn lại của cuộc đời đi khắp
vùng lưu vực sông Hằng để truyền bá những tư tưởng của mình. Từ đó, người
đời gọi Ngài là Buddha (Bậc Giác Ngộ, phiên âm tiếng Việt là Bụt, Phật). Cây
pipal, nơi Ngài đã ngồi tu luyện, được gọi là cây bodhi (bố đề) và trở thành biểu
tượng cho sự giác ngộ) Đức Phật qua đời năm 544 trCN thọ 80 tuổi.
Giống như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng bao gồm giáo lý và sinh hoạt
tín ngưỡng. Giáo lý là một hệ thống các quan điểm về thế giới và con người, về
cách thức tu luyện, sinh hoạt tín ngưỡng là những hành vi, những nghi lễ cần
phải thực hiện để đạt tới ước nguyện. Tất cả đều có ảnh hưởng đến đời sống văn
hóa tinh thần của các tín đồ. Giáo lý Phật giáo là một hệ thống đồ sộ, tập trung
trong tam tạng kinh điển (Kinh tạng, Luận tạng, Luật tạng) với nhiều nội dung
đa dạng, sâu sắc về thế giới, về xã hội, về con người, về những giới luật cần phải
theo, và những giải nghĩa, những luận bàn cần phải biết.
Thế giới quan Phật giáo là một hệ thống gồm các lý thuyết về nhân duyên,
nhân quả, về vô thường, vô ngã, về nghiệp báo luân hồi v.v... Mỗi thuyết đó đều
chứa đựng một nội dung biện chứng về thế giới.
Nhân sinh quan Phật giáo là một hệ thống gồm các quan điểm về con
người, đời người. Đó là một trong những nội dung rất cơ bản của giáo lý Phật
giáo khi lý giải về con người, là học thuyết về "khổ" và con đường "cứu khổ",
thể hiện trong 4 nguyên lý thần diệu cơ bản gọi là Tứ diệu đế (Bốn chân lí kì
diệu) hay Tứ thánh đế (Bốn chân lí thánh), đó là:
Khổ đế là chân lí về bản chất của nỗi khổ. Khổ là gì? Đó là trạng thái
buồn phiền phổ biến ở con người do sinh, lão, bệnh, tử, do mọi nguyện vọng
không được thỏa mãn.
Tập đế là chân lí về nguyên nhân của nỗi khổ. Đó là do ái dục (ham

muốn) và vô minh (kém sáng suất). Dục vọng thể hiện thành hành động gọi là
Nghiệp (karma); hành động xấu khiến con người phải nhận hậu quả của nó
(nghiệp báo), thành ra cứ luẩn quẩn trong vịng ln hồi khơng thốt ra được.
Diệt đế là chân lí về cảnh giới diệt khổ. Nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi
nguyên nhân gây ra khổ bị loại trừ. Sự tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn (nirvana,
nghĩa đen là “không ham muốn, dập tắt”). Đó là thế giới của sự giác ngộ và giải
thốt.
Đạo đế là chân lí chỉ ra con đường diệt khổ. Con đường diệt khổ, giải
thốt và giác ngộ địi hỏi phải rèn luyện đạo đức (giới), tư tưởng (định) và khai
sáng trí tuệ (tuệ). Ba mơn học này được cụ thể hóa trong khái niệm bát chính
đạo (tám nẻo đường chân chính). Đó là: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng
(thuộc lĩnh vực rèn luyện đạo đức – GIỚI); chánh niệm, chánh đinh (thuộc lĩnh

4


vực rèn luyện tư tưởng – ĐỊNH): chính kiến chánh tư duy, chính tinh tấn (thuộc
về lĩnh vực khai sáng trí tuệ – TUỆ).
Như vậy, “Tứ diệu đế” là bốn chân lý thiêng liêng cho thấy đời người là
khổ và khổ đó là do các q trình diễn ra trong bản thân con người sinh, lão,
bệnh, tử, do ham sướng (dục vọng), do không sáng suốt (vô minh) đến nỗi rơi
vào vòng luân hồi. Người theo đạo Phật muốn khỏi khổ, hết khổ, thì phải diệt
dục, từ bỏ ham muốn, từ bỏ mọi sự quyến rũ của cuộc sống để sống yên tĩnh, đi
vào cõi hư vô tịch diệt (niết bàn).
Tồn bộ giáo lí của Phật giáo được xếp thành ba tạng (tạng tức là chứa
đựng): Kinh tạng chứa các bài thuyết pháp của Phật và một số đệ tử; Luật tạng
chứa các lời Phật dạy về giới luật và nghi thức sinh hoạt của chúng tăng; Luân
tạng chứa những lời bàn luận.
Tóm lại, Phật giáo ra đời tuy khơng tuyên bố tiêu diệt chế độ đẳng cấp và
đạo Bà-la-môn nhưng trên thực tế là phủ nhận chế độ đó. Hơn nữa giáo lý của

Phật giáo sâu sắc, hấp dẫn, nêu lên khả năng chế ngự dục vọng, vai trò tự giải
thốt của con người, sự bình đẳng giữa con người nhau(ít nhất là ở phương diện
tơn giáo), lễ nghi đơn giản, không rườm rà tốn kém như đạo Bà-la-môn nên
được đơng đảo quần chúng, nhất là những người có địa vị thấp kém trong xã hội
tin theo.
1.2. Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
Phật giáo được truyền vào nước ta từ rất sớm, theo hiểu biết hiện nay của
giới nghiên cứu lịch sử thì Phật giáo vào Việt Nam từ những năm đâu công
nguyên. Thời kỳ đầu Phật giáo Việt Nam chủ yếu trực tiếp từ Ấn Độ sang bằng
đường biển cùng với các thương nhân. Trong khoảng từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ
thứ X thì Phật giáo được truyền vào nước ta từ Trung Hoa bằng đường bộ.
Cũng do Phật giáo đã được truyền trực tiếp từ ấn Độ vào Việt Nam ngay
từ đầu công nguyên nên từ Buddha tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang
tiếng Việt thành Bụt: Phật giáo Giao châu lúc này mang màu sắc Tiểu thừa Nam
tông và trong con mắt của người Việt Nam nơng nghiệp, Bụt như một vị thần
ln có mặt ở khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện cứa giúp người tốt và trừng trị kẻ xấu
sau này, sang thế kỉ IV-V, lại có thêm luồng Phật giáo Đại thừa Bắc tơng từ
Trung Hoa tràn vào. Chẳng mấy chốc, nó đã lấn át và thay thế luồng Nam tơng
có từ trước đó. Từ “Buddha” vào tiếng Hán được phiên âm thành Phật-đồ, vào
tiếng Việt rút gọn lại còn Phật; từ đây từ Phật dần dần thay thế cho từ Bụt: Bụt
chỉ cịn trong các qn ngữ với nghĩa ban đầu (ví dụ như cách gọi ông tiên, ông
Bụt trong các truyện dân gian).
Sự phát triển của phật giáo tại Việt Nam trải qua các giai đoạn cơ bản sau:

5


Giai đoạn I: Từ giữa thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III. Có thể nói ở giai
đoạn này sự du nhập của Phật giáo như một tôn giáo, mở ra hai con đường là
Thiền tông và Tịnh độ tông.

Giai đoạn II : Từ thế kỷ thế VI đến thế kỷ thứ X. Đây là thời kỳ Phật giáo
đặt nền móng xây dựng và phát triển. Với hai thiền phái chính là Tỳ Ni Đa Lưu
Chi và Vơ Ngôn Thông đã khẳng định sự hiện hữu của Phật giáo như là một tơn
giáo khơng thể thiếu trong lịng dân tộc. Phật giáo đưa con người hướng đến một
đời sống tâm linh thánh thiền, biết phân biệt thiện, ác.
Giai đoạn III : Từ cuối thế kỷ thứ X đến cuối thế kỷ XIV (Hay còn gọi là
Phật giáo thời Đinh-Lê-Lý-Trần). Đây là thời kỳ Phật giáo phát triển cực thịnh.
Trong giai đoạn này có thể xem Phật giáo như là một quốc giáo của dân tộc Việt
nam. Điểm đặc biệt của giai đoạn này là sự thống nhất của các thiền phái và lập
nên các phái Thiền ở Trúc Lâm và Yên Tử.
Giai đoạn IV: Phật giáo thời Lê sơ đến nhà Nguyễn (tức từ TK XV
đêncuối thế kỷ XIX) bấy giờ Nho giáo được coi là Quốc giáo và Phật giáo đi
vào giai đoạn suy thoái.
Giai đoạn V: Từ đầu thế kỷ XX đến nay là giai đoạn phục hưng.
Đạo Phật kể từ khi truyền vào Việt Nam đến nay trải hơn 2000 năm đã dần
dần đi vào tâm thức, ảnh hưởng nhiều đến cách nghĩ, cách sống của phần đơng
người Việt. Tuy có nhiều thịnh suy do những nguyên nhân bên trong cũng như bên
ngoài nhưng đạo Phật từ lâu đã có vai trị quan trọng trong đời sống người Việt,
góp phần khơng nhỏ trong di sản lịch sử và văn hóa của đất nước và con người
Việt Nam.
Chương 2. VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO TỒN
VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM
Với lịch sử hơn 2000 năm du nhập, tồn tại và phát triển, Phật giáo từ một
tôn giáo ngoại nhập đã được bản địa hóa và thấm sâu vào trong đời sống văn hoá
của cộng đồng dân tộc Việt Nam, trở thành một thành tố khơng thế thiếu của nền
văn hóa Việt Nam, tạo nên một nền văn hóa Việt Nam đầy tính nhân bản và đậm
đà bản sắc. Những đóng góp đó là:
2.1. Phật giáo đem đến một loại văn tự mới góp phần bảo tồn ngơn ngữ
Việt, Chăm, Khmer
Khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam được các nhà sư Ấn Độ và Trung

Quốc đến Việt Nam và dịch kinh sách bằng văn tự Hán và ngơn ngữ, văn tự đó
được dùng để truyền bá Phật giáo.cho nên có thể nói đóng góp về mặt văn tự của
Phật giáo thể hiện ở hai góc độ.
Thứ nhất là, các thương nhân và nhà truyền giáo Ấn Độ ở nam Đại Việt.
và đóng góp cho sự ra đời của chữ Chăm, chữ Khmer.
6


Trên thực tế, khi những nhà truyền giáo Ấn Độ truyền đạo đã dùng văn tự
Sanskrit, do người truyền giáo ấn Độ không gặp ở nam Đại Việt lúc bấy giờ một
văn tự nào sẵn có để họ sử dụng, vì vậy họ sử dụng văn tự Sanskrit để truyền
giáo. Cịn ngơn ngữ thì đã có sẵn cho nên chẳng bao lâu sau thì đã xuất hiện chữ
Chăm, chữ Khmer trên cơ sở chữ Sanskrit.Nói một cách cụ thể hơn, nam Đại
Việt đã thừa hưởng của Bàlamôn giáo loại văn tự mà họ chưa có, nghĩa là Bà-lamơn giáo, Phật giáo đem đến cho cư dân ở đó một văn tự. Đó là một cống hiến
của Bàlamơn giáo và Phật giáo đối với miền nam nước ta.
Thứ hai là , các nhà truyền giáo ở phía bắc Đại việt đã đóng góp cho sự ra
đời chữ Phạn – Hán mà sau này đưa đến sự hình thành chữ Nơm.
Ở bắc Đại Việt thì người truyền giáo Ấn Độ đã gặp ở đây một văn tự
ngoại quốc nhưng quan phương, cho nên họ dùng văn tự đó - văn tự Hán. Có hai
cống hiến, sự truyền bá Phật giáo trong cư dân vốn không phổ biến chữ Hán đã
đưa đến sự hình thành chữ Nơm. Chữ Nơm đã hình thành trước thế kỉ V - VI.
Bằng chứng là sự tồn tại hai nhóm thuật ngữ Phật giáo đồng nghĩa: Bụt - Chùa Thầy và Phật - Tự - Sư. Nhóm thứ nhất là chữ Nơm. Nhóm thứ hai là chữ Hán
đọc theo âm Việt, hiện nay quen gọi là âm Hán - Việt chứ không phải là âm Hán
của chữ Việt. Chữ Nôm xuất hiện trong bộ thuật ngữ Phật giáo này sẽ không bao
giờ sản sinh và tồn tại được nếu như bộ thuật ngữ Việt - Hán đã được dùng từ
đầu, nghĩa là từ khi bắt đầu truyền bá Phật giáo. Nhưng bởi vì, trước thế kỉ V –
VI, Phật giáo Trung Quốc chưa hình thành. Cơng việc Phật giáo ở Trung Quốc
chủ yếu vẫn do các nhà sư Tây Vực đảm nhiệm. Trong khi đó, ở Dâu đã hình
thành một trung tâm Phật giáo độc lập đối với Phật giáo Trung Quốc lúc bấy giờ
còn loanh quanh ở phương bắc xung quanh triều đình chưa lan xuống vùng

Giang Đông, tức miền nam. Sau này, Phật giáo Trung Quốc vẫn hình thành Bắc
tơng và Nam tơng là có lí do lịch sử của nó. Chỉ đến khoảng thế kỉ V – VI, một
mặt Phật giáo Trung Quốc đã hình thành những tông phái Trung Quốc như
Thiên Thai, Pháp Tướng, v.v... Một mặt, con đường thỉnh kinh cũng chuyển sang
phương nam. Các nhà sư Trung Quốc xuống Giao Châu đi đường thuỷ qua ấn
Độ. Nhà sư hành hương nổi tiếng - Nghĩa Tịnh đã đi theo con đường này. Tất cả
những điều đó chứng tỏ có một cơ tầng Phật giáo Việt - Ấn tồn tại trước. Sau đó
mới đến thượng tầng Việt – Trung, bắt đầu từ khoảng thế kỉ V - VI về sau và rõ
nét với Vô Ngôn Thông (đến Kiến Sơ làng Phù Đổng năm 820) thì Phật giáo
Trung Quốc mới chiếm thượng phong. Cho nên, trong thời kì trước mới hình
thành và tồn tại các thuật ngữ Phật giáo ấn Độ. Bụt - Chùa - Thầy được hình
thành như vậy. Thời kì sau, bộ thuật ngữ Phật giáo Trung Quốc đọc theo âm Việt
- Hán là Phật - Sư - Tự mới phổ biến. Nhưng đến nay, dân gian vẫn quen gọi
thầy chùa hơn là sư ông.
7


Tóm lại, chính Phật giáo đã mở đầu cho sự hình thành chữ Nơm ở bắc
Đại Việt, chữ Chăm, chữ Khmer ở nam Đại Việt. Ba loại văn tự này giúp bảo tồn
ngôn ngữ Việt, Chăm, Khmer.
2.2. Phật giáo đưa đến một nền kiến trúc chùa, tháp phong phú và hệ
thống các tượng phật đa dạng
Bên cạnh đóng góp về văn tự, Phật giáo còn đưa đến một nền kiến trức và
hệ thống tượng phật đa dạng và phong phú.
Về kiến trúc. Để chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt và nguy hiểm của
cuộc sống, con người phải làm nhà để ở. Người Việt ban đầu làm nhà sàn bằng
gỗ rồi làm nhà đất bằng tre và sau này thì có những ngơi nhà bằng gạch kiểu nhà
ngói ba gian. Nhưng khi Phật giáo du nhập vào thì hai loại hình kiến trúc mới đã
xuất hiện: chùa và tháp.
Ngơi chùa của Phật giáo sau khi ra đời đã dần chiếm lấy địa vị trung tâm

của làng và trở thành nơi quần tụ văn hóa, những ngơi chùa như: chùa Dâu (Bắc
Ninh). chùa Thầy (Hà Nội) là những nơi như thế. Nền chùa thường cao thành ba
bậc tượng trưng Tam giới. Phật điện nhiều bậc bệ cao dần lên tượng trưng núi
Tu Di mà người nông dân Việt Nam không biết. Những chư vị Phật ngồi trên
những tầng bậc từ thấp đến cao là một cách bài trí hồn tồn khác bàn thờ ttrong
nhà của người dân.
Chùa Việt khơng hồn tồn giống như chùa Trung Quốc.Chùa Trung
Quốc là kiến trúc viện lạc gồm nhiều kiến trúc song song với những chiếc sân
ngăn cách. Ngơi chùa Việt điển hình do hai nhà sư Trung Quốc là Chuyết
Chuyết và Minh Hành xây dựng là chùa Bút Tháp, ở đó mang dấu ấn viện lạc
trong bình đồ khá đậm. Buổi đầu, chùa Việt mơ phỏng chùa hang Ấn Độ cho
nên hình thành cấu trúc chuôi vồ rất phổ biến trong các chùa làng. Một số ngôi
chùa tiêu biểu ở Hà Nội hiện nay thuộc mơ hình này như chùa Hồng Phúc (chùa
Hịe Nhai), chùa Liên Phái, chùa Linh Quang (chùa Bà Đá)...
Phật điện phát triển để chùa có một kiến trúc mới: chùa chữ “Cơng”. Có
thể thấy chùa Diên Ứng (Bắc Ninh) là một tiêu biểu. Dạng kiến trúc này thường
thấy có tường bao quanh và trở thành kiểu Nội công ngoại quốc như chùa Chiêu
Thiền (chùa Láng) ở Hà Nội. Thông thường, loại hình kiến trúc này của chùa
thuộc loại hình chùa quy mô lớn.
Chùa chữ “Tam” là một loại kiến trúc khác của chùa Việt có ảnh hưởng
của chế độ viện lạc Trung Quốc, như chùa chùa Thầy, chùa chùa Tây Phương,
chùa Một Cột ở Hà Nội. Trong những ngôi chùa nêu trên, thì chùa Một Cột
(chùa Diên Hựu) được xây dựng năm 1049, là một sản phẩm tiêu biểu không thể
không đề cập. Đó là sáng tạo của các nhà kiến trúc giữa thế kỉ XI, theo ý tưởng
giấc mơ của vua Lý Thái Tông về một bông sen. Chùa Một Cột được coi là biểu
8


tượng của Thủ đơ nghìn năm văn hiến, là một danh thắng nổi tiếng mà ai đã
từng đến Hà Nội khơng thể khơng ghé qua. Từ góc độ khoa học, đã có ý kiến

cho rằng, chùa Một Cột chính là một loại hình điện thờ tư nhân sớm nhất được
xây dựng phục vụ cho một cá nhân cụ thể - vua Lý Thái Tơng.
Ngày nay, do mơ hình kiến trúc đã hiện đại hóa xuất hiện chùa dạng nhà
lầu với phác đồ theo chiều thẳng đứng: Tầng dưới là nơi thuyết pháp cho tín đồ
mang tính chất Tiền đường, tầng trên là Phật điện mang tính chất Thiêu hương,
Thượng điện. Chùa thuộc loại này có thể kể tới những ngơi chùa nổi tiếng ở
Thành phố Hồ Chí Minh như chùa Xá Lợi, chùa Vĩnh Nghiêm.
Chùa ở Nam Bộ lại có kiến trúc kiểu nhà tứ trụ. Đó là kiểu kiến trúc nhà
rường. Bốn cột cách đều nhau ở bốn góc một diện tích hình vng, từ bốn cột
cái, các kèo đấm và kèo quyết đa đều ra bốn hướng. Hình vng được giải thích
đó là một kiểu thức của một ngơi tháp hoặc bắt chước dịch lí gọi là kiểu nhà tứ
tượng: Thái Âm - Thiếu Dương - Thái Dương - Thiếu Âm, pha màu sắc phong
thuỷ, ảnh hưởng của Đạo giáo và Nho giáo. Chùa ở Nam Bộ, từ đầu thế kỉ XX
đến nay, đã có nhiều canh tân, do vậy chưa định hình được một mẫu mực nhất
định. Chùa Khmer lại thuộc một mơ hình khác. Mơ hình chùa loại này thơng
thường là một tứ giác có nhiều tầng bậc chỉ thờ một tượng Thích Ca. Trên các
thềm bậc có những tháp vây quanh và một cửa cổng rất đặc sắc với hai Ápxara
hai bên góc như chùa Svay Ton (chùa Xà Tón) ở An Giang, gợi cho người ta liên
tưởng tới cổng tháp Sanchi nổi tiếng của Ấn Độ.
Chùa ở vùng Huế bắt đầu được xây dựng từ thời chúa Nguyễn Hoàng và
phát triển mạnh ở thời các vua Nguyễn. Chùa ở đây chủ yếu được xây dựng, tu
bổ, tôn tạo dưới sự bảo trợ của triều đình và hồng gia. Về cơ bản, những ngơi
chùa ở đây có pha nét kiến trúc cung đình. Có thể kể tới những ngôi chùa nổi
tiếng của vùng đất này như chùa Thiên Mụ, chùa Quốc Ân, chùa Báo Quốc,
chùa Từ Hiếu, chùa Từ Đàm...
Kiến trúc chùa Phật ở Việt Nam còn là kiến trúc sinh thái, hòa hợp cùng
thiên nhiên. Những ngôi chùa trở thành danh lam thắng cảnh nổi tiếng được xây
dựng trên những núi non, sông nước kì vĩ. Hệ thống quần thể chùa Hương Tích
(Hà Tây), quần thể Yên Tử (Quảng Ninh), chùa Tây Phương, chùa Thầy, chùa
Trấn Quốc (Hà Nội), chùa Non Nước, chùa Bái Đính (Ninh Bình), chùa Tam

Chúc (Hà Nam) chùa Tây An cổ tự (An Giang), chùa Thiên Mụ (Huế)... là
những ngôi chùa được ẩn hiện trong môi trường thiên nhiên với những cây đại
thụ, những hương hoa cùng chim chóc càng làm tăng thêm sự linh thiêng của
không gian nơi đất Phật.
Bên cạnh dấu ấn kiến trúc chùa, tháp với những tên tuổi nổi tiếng thì
khơng thể khơng đề cập tới một hệ thống tượng Phật vô cùng phong phú trong
9


đóng góp về vật chất của Phật giáo ở Việt Nam. Đó là những pho tượng Thích
Ca, Phổ Hiền, Văn Thù; những pho tượng Di Lặc, Đại Diệu Tường, Pháp Hoa
Lâm; A Di Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí; Tuyết Sơn.. ; những bộ tượng Cửu
Long, tượng Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn; tượng thập bát La hán;
tượng thập điện Diêm vương; tượng Hộ pháp. Ngoài những tượng Phật cịn có
các tượng Tổ hay tượng Hậu. Phật điện trong mỗi vùng, mỗi ngơi chùa cụ thể
khác nhau hồn toàn. Phật giáo đã để lại những pho tượng đẹp nổi tiếng như
tượng Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn (Khoái Châu, Hưng Yên) Bút Tháp
(Thuận Thành, Bắc Ninh) đã được đánh giá là “pho tượng đẹp nhất trên Phật
điện”, tượng A Di Đà chùa Phật Tích, tượng Tuyết Sơn chùa Tây Phương, tượng
La hán chùa Tây Phương đã đi vào thơ ca, văn học, v.v... Bên cạnh đó, chùa Việt
còn để lại những pho tượng đồng nổi tiếng như hai pho tượng đồng ở Đồng
Dương (Quảng Nam), đã trở thành kiệt tác trong làng tượng Phật Việt Nam. Một
vài thập niên trở lại đây, du khách cũng như Phật tử khi đến miền Nam cịn nhìn
thấy những pho tượng Phật và tượng Quán Thế Âm kích thước đồ sộ bằng thạch
cao hay xi măng cốt thép được đặt trên những cao điểm, từ xa đã có thể trơng
thấy.
Trên đây là những đóng góp về văn hóa vật thể của Phật giáo, chính điều
đó nó làm cho hệ thống văn hóa vật thể của Việt Nam trở nên đa dạng và phong
phú hơn.
2.3 Phật giáo và đóng góp về phần lễ nghi trong sinh hoạt của người

Việt
Nghi lễ Phật giáo là những hình thức và nội dung được thể hiện trong toàn
bộ hoạt động của Phật giáo từ nếp sống sinh hoạt của Tăng già, sự bố trí của tổ
chức giáo hội, sự sắp xếp của một ngôi chùa, cách giao tiếp ứng xử giữa những
người tương quan với nhau trong Phật giáo. Có thể thấy rằng các nghi lễ nhằm
mục đích chuyển tải giáo lý giải thốt vào cuộc sống, mang ý nghĩa tâm linh của
các đệ tử Phật và chúng sanh nó cũng có ý nghĩa như là sự trú ẩn về tinh thần
trước những phong ba của cuộc đời.
Nói đến nghi lễ là nói đến một hình thái văn hóa, nét văn hóa đó thể hiển
trong nếp sống từ gia đình cho đến xã hội, chứ khơng chỉ đơn thuần là nghi lễ
cúng bái trong các tự viện. Khi Phật còn tại thế, ngài đã khéo léo dùng vơ số
phương tiện để hóa độ chúng sanh trên tinh thần “tùy duyên bất biến”. Chư tổ
đã tiếp nối khơng ngừng tùy thuận với tín ngưỡng tâm linh của quần chúng nhân
gian để ứng dụng vào việc tùy duyên giáo hóa.
Khi Phật giáo đã trở thành Phật giáo Việt Nam thì Nghi lễ Phật giáo nước
ta là Nghi lễ có sự hịa nhập của nghi lễ dân gian, nghi lễ cung đình (nhất là
phần âm nhạc) mang sắc thái của ba miền Bắc, Trung, Nam. Tất cả hòa nhập
10


một cách hài hòa, nhuần nhuyễn, tinh tế, ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt, tư
tưởng, tình cảm của đa số quần chúng. Nói một cách khác nghi lễ phật giáp và
nghi lễ dân tộc đã có sự giao thoa, hịa quyện với nhau. Cụ thể:
Nghi lễ thể hiện tính văn hóa của Phật giáo và dân tộc là sự giao lưu của
hai nền văn hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc Việt Nam với nhau. Thơng qua
giao lưu đã xảy ra sự tiếp biến của hai nền văn hóa, Phật giáo tùy thuận với tín
ngưỡng dân gian Việt Nam nhưng bên cạnh đó văn hóa dân tộc Việt Nam đã tác
động ngược lại với văn hóa Phật giáo. Sự tiếp biến ở đây thể hiện ở kiến trúc
chùa chiền, điêu khắc tranh tượng, lối sống đạo đức, nghi thức cúng bái…
nhưng phải nói rằng nét nhạc cổ điển truyền thống đã đi vào nghi lễ của Phật

giáo một cách rõ rệt nhất được gọi là nghi lễ truyền thống. Nét nhạc cổ điển của
Phật giáo Việt Nam tùy theo từng vùng miền, từng dân tộc mà thích ứng với
vùng miền dân tộc ấy tạo nên nét văn hóa Phật giáo hịa quyện vào văn hóa dân
tộc.
Các nghi lễ miền Bắc dính dáng đến văn hóa Trung Hoa rất nhiều, bên
cạnh đó giọng tụng niệm của miền Bắc lại mang phong cách của ca trù, hát
chèo, chầu văn, quan họ. Khi Phật pháp được lưu truyền đến Huế thì Phật pháp
ở cố đô Thăng Long đã thịnh hành một thời gian khá dài rồi. Miền Trung thì thời
tiết khắc nghiệt, con người phải có năng lực phi thường, chịu khó học hành, có
sự thích nghi theo hồn cảnh thì mới sinh tồn được. Khi Phật giáo đến Huế thì
hội nhập cùng văn hóa cung đình và văn hóa Chăm Pa nên nghi lễ Phật giáo
mang nét uyển chuyễn của dịng sơng Hương hiền hịa thơ mộng. Đi vào miền
Nam qua đèo Hải Vân – Đà Nẵng thì ảnh hưởng văn hóa Chăm Pa nên lễ nhạc
Phật giáo có nét đượm buồn. Đến Bình Định – Phú Yên lễ nhạc mang tính thê
lương vì cuộc sống khắc khổ. Miền Nam là vùng đất mới có âm hưởng mới mẻ
đặc biệt là dân ca cải lương in đậm vào nghi lễ cúng bái của người dân cũng như
nghi lễ của Phật giáo.
Nếu văn hóa cồng chiên của Tây Nguyên được xem là di sản văn hóa phi
vật thể của thế giới thì văn hóa Phật giáo cũng có văn hóa riêng. Trong một pháp
hội của Phật giáo ta thấy có khơng gian văn hóa đó chính là dưới mái chùa, hình
thức và nội dung của nghi lễ Phật giáo bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể.
Văn hóa vật thể ở đây là các pháp khí như: tượng, chng, trống, mõ, tang đẩu,
linh, khánh, pháp phục… văn hóa phi vật thể như: triết lý của Phật giáo thể hiện
trong nội dung tụng niệm, giọng điệu tụng niệm, cách thức hành lễ…những điều
đó khơng những là văn hóa của Phật giáo mà cịn là văn hóa của dân tộc Việt
Nam nữa
Nghi lễ Phật giáo Việt Nam tùy theo từng vùng miền mà nghi thức hành lễ
có phần giống nhau và khác nhau, nhưng điểm chung nhất là vừa trình bày lời
dạy của Đức Phật, của Liệt vị Tổ sư, vừa tạo niềm tin và đem lại niềm an lạc cho
người sống lẫn người đã khuất. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng Nghi

lễ là một trong những pháp môn hành đạo, phương tiện truyền giáo để cảm hóa
lịng người, đưa họ quay về Chánh đạo. Từ ý nghĩa đó, thơng qua Nghi lễ đã góp

11


phần quan trọng trong việc củng cố và tăng trưởng niềm tin Chánh pháp, tạo sự
an lạc cho tự thân và tha nhân.
Tuy khởi thủy Nghi lễ Phật giáo Việt Nam có bị ảnh hưởng của Nghi lễ
Phật giáo Trung Quốc, nhưng với lòng tự hào dân tộc, Liệt vị Tổ sư Phật giáo
Việt Nam đã vận dụng, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của Phật giáo nước
bạn để chế tác ra bộ môn Nghi lễ mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, tức là
Nghi lễ đã được Việt Nam hóa từ âm điệu, pháp phục, pháp cụ … Chính vì vậy
mà nét văn hóa Phật giáo và nét văn hóa dân hóa hịa quyện vào nhau đến nỗi
bây giờ nếu ai đó muốn đi tìm lại nét văn hóa dân tộc cứ đi vào những nơi chùa
chiền nơi đó sẽ cịn lưu giữ văn hóa một thời của cha ơng. Giữ gìn bản sắc văn
hóa Phật giáo Việt Nam cũng chính là bảo vệ giữ gìn nét văn hóa dân tộc Việt.
Vì thế mà Phật giáo và dân tộc luôn luôn đồng hành qua bao thăng trầm của lịch
sử, sự hịa quyện đó tạo nên nét độc đáo của đạo Phật ở Việt Nam được gọi là
Phật giáo Việt Nam.
2.4. Phật giáo chung tay xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho thấy, khi đất nước hưng thịnh thì
Phật giáo phát triển; cùng với nền độc lập, tự do của dân tộc, trong nhiều năm
qua, Phật giáo đã tích cực góp phần cùng tồn dân tham gia xây dựng cuộc sống
thơng qua giáo dục tín đồ, phật tử phát huy truyền thống yêu nước, trau dồi đạo
đức, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng đã chứng minh những đóng góp quan
trọng vào cơng cuộc dựng nước, giữ nước và bảo vệ Tổ quốc của Phật giáo. Qua
nhiều triều đại phong kiến, nhiều vua/quan là Phật tử đã vận dụng những tinh

hoa trong tư tưởng, triết lý của đạo Phật phục vụ cho công cuộc chấn hưng đất
nước. Cùng với tinh thần tự chủ, độc lập, anh dũng của dân tộc, các triều đại
Đinh, Lê, Lý, Trần đã khẳng định tinh thần gắn liền đạo pháp với dân tộc của
Phật giáo. Tại lễ Phật Đản Vesak 2008 tại Hà Nội, Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết đã phát biểu nhấn mạnh: “...Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng từ bi, hỉ
xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, ln đồng hành cùng dân
tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời, phấn đấu vì hạnh phúc
và an vui cho con người. Trong các thời đại, thời nào lịch sử Việt Nam cũng ghi
nhận những nhà sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời hộ quốc an dân. Đặc biệt,
lịch sử Việt Nam mãi ghi nhớ công lao của vị vua anh minh Trần Nhân Tơng có
cơng lớn lãnh đạo nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Khi đất nước thái bình, Người
nhường ngơi, từ bỏ giàu sang, quyền quý, tìm nơi non cao Yên Tử để học Phật,
tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm – một dòng thiền riêng của Việt Nam
tồn tại mãi tới ngày nay”. (Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Kỷ yếu Đại hội Đại
biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Tôn giáo, H, 2014, tr.50.)

12


Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỷ XX của dân tộc,
nhiều phật tử đã tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh vì lẽ phải, vì độc lập tự do
của Tổ quốc. Phật giáo đã góp phần đồng hành cùng dân tộc trong các cuộc trường
chinh cứu nước, giữ nước; góp phần giáo dục và phát huy truyền thống yêu nước
trong mỗi tín đồ phật tử cũng như các thế hệ con dân nước Việt.
Trên nhiều góc độ, bình diện, trí tuệ Phật giáo đã thể hiện rất rõ tác dụng,
trong việc góp phần cùng với các tổ chức xã hội và nhân dân thực hiện ngày
càng tốt hơn những chủ trương, quyết sách của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là
công tác nhân đạo, từ thiện, hạn chế những tiêu cực, mặt trái trong xã hội hiện
đại... Thể hiện qua hoạt động truyền bá và tôn vinh những giá trị tốt đẹp của nền
văn hóa truyền thống dân tộc với nhiều hình thức giáo dục đa dạng; khơi lên

những giá trị tích cực trong văn hóa tâm linh; giác ngộ lòng từ bi, hướng thiện
trong tâm hồn con người...
Mặc dù cũng còn những hạn chế nhất định trong phương châm hành động
và triết lý duy tâm, nhưng Phật giáo đã và đang có những đóng góp quan trọng
cùng với những tơn giáo khác vào q trình phát triển của xã hội và đất nước.
Nhất là trong bối cảnh hiện nay, đất nước ta đang có những bước tiến mạnh mẽ
vào quá trình hội nhập và phát triển và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; bên
cạnh những kết quả tích cực, nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã
và đang đưa đến nhiều hệ lụy, trong đó có những hệ lụy về mặt tinh thần.
Để thúc đẩy sự phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã
có nhiều chủ trương, chính sách nhằm khai thác, phát huy, xây dựng các nguồn
lực phục vụ cho quá trình phát triển đất nước. Trong đó, có những chính sách
đúng đắn về tơn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, coi đây là một trong những
nhân tố quan trọng để việc giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước hiện nay.
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA
VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN NAY
3.1. Khai thác những giá trị văn hóa của Phật giáo trong từng chính
sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
Phật giáo với đặc điểm là một Tơn giáo “hịa đồng” gắn bó với dân tộc, do
vậy khơng nên nhìn nhận Phật giáo chỉ đơn thuần dưới khía cạnh Tơn giáo mà
cịn là một bộ phận của văn hóa, ngồi vai trị Tơn giáo thuần túy, Phật giáo cịn
có vai trị với tư cách là thực thể văn hóa ở cả hai phương diện văn hóa vật thể
và văn hóa phi vật thể.
Sự tồn tại và phát triển của Phật giáo ở nước đã để lại một hệ thống chùa
chiền, đền đài, tu viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm phật đường rất phong phú đa dạng
13



với kiểu kiến trúc, điêu khắc, hội họa và cảnh quan rất độc đáo mang đậm dấu
ấn văn hóa Việt Nam. Một số chùa hiện nay không chỉ là nơi diễn ra các lễ hội
Phật giáo, mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa của đơng đảo quần chúng nhân dân
và khách tham quan du lịch trong và ngoài nước. Hơn nữa, các tư tưởng đạo đức
Phật giáo: từ bi, hỷ xả, vị tha, nhân ái, hướng thiện đã thâm nhập trở thành tình
cảm, hành vi, lối sống của nhân dân khơng kể là tín đồ đạo Phật hay khơng theo
đạo Phật, điều đó chắc chắn sẽ trở thành trường tồn trong đời sống văn hóa tinh
thần của nhân dân. Những giá trị nhân bản đó hiện nay vẫn cịn cần thiết, nhằm
giáo dục con người sống tốt, sống thiện. Đặc biệt là trong tình hình hiện nay,
trước tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một số bộ phận cán bộ,
đảng viên, cũng như quần chúng nhân dân, nhất là trong thanh thiếu niên, thì
những giá trị nhân văn đó càng có ý nghĩa.
Với ý nghĩa đó, cho nên khơng thể nhìn nhận Phật giáo đơn thuần chỉ ở
khía cạnh tơn giáo, mà cần phải nhìn nhận nó với tính cách là một bộ phận của
văn hóa nên đối xử với nó cũng phải hết sức có văn hóa, khơng nên bài bác
những mặt trái của nó một cách thiếu văn hóa. Vì vậy, trong hoạch định các
chính sách phát triển kinh tê, văn hóa, xã hội của đất nước và từng vùng kinh tế,
Đảng, Nhà nước rất cần chú trọng đến việc khai thác những giá trị văn hóa, tinh
thần của Phật giáo, làm cho những giá trị văn hóa, đạo đức của Phật giáo được
thực hành, lan tỏa trong đời sống của mỗi tín đồ và mọi người dân. Đây liều
thuốc tốt nhất giúp chúng ta chống lại những cặn bã văn hóa ngoại nhập hoặc
văn hóa mê tín phát sinh từ bản địa trong bối cảnh mở rộng giao lưu, hội nhập
với đất nước và quốc tế hiện nay.
3.2. Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa Phật giáo để góp phần
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc, truyền thống dân tộc
Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, mang đậm đà bản sắc dân
tộc phải trên cơ sở phát huy và kế thừa có chọn lọc các giá trị văn hóa tinh thần
tốt đẹp mà nhân loại đã để lại. Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhận thức rằng
người Việt Nam vốn khơng có tư tưởng bài ngoại, cũng không vọng ngoại hay
sùng ngoại, chúng ta không quá dễ dãi chấp nhận tràn lan mọi luồng tư tưởng, văn

hóa từ bên ngồi. Tín ngưỡng tơn giáo nào, từ đâu đến, vị trí của nó trước hết phải
được khảo nghiệm của lịch sử dựng nước và giữ nước, sau nữa phải tơn trọng bản
sắc văn hóa truyền thống dân tộc ta.
Chúng ta có một nền văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc nhưng nền văn
hóa dân tộc khơng phải khép kín. Chúng ta sẵn sàng tiếp thu những gì là tốt đẹp,
là tích cực trong mọi di sản tinh thần của xã hội (kể cả di sản tôn giáo) để kế thừa,
đồng thời loại trừ những mặt tiêu cực và không phù hợp. Xây dựng một nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, khơng thể có một nền văn hóa phi lịch sử,
14


cắt đứt lịch sử, từ trên trời rơi xuống, do đó phải tiếp thu có chọn lọc những thành
tựu văn hóa, văn minh của nhân loại. Phật giáo là tơn giáo lớn, chung cho nhiều
nước, song di sản văn hóa Phật giáo lại là tài sản riêng của văn hóa dân tộc. Bảo
tồn và nuôi dưỡng di sản Phật giáo là bằng chứng của một nền văn hóa cao. Trên
tồn bộ ý nghĩa đó kế thừa những giá trị tích cực của Phật giáo và hạn chế những
mặt tiêu cực của Phật giáo là việc làm cần thiết để bảo tồn và phát triển nền văn
hóa mang đậm bản sắc dân tộc.
Sự du nhập và phát triển của Phật giáo Ở Việt Nam đã để lại những giá trị
văn hóa (vật chất và tinh thần) đồ sộ. Đó là những cơ sở vật chất, chùa chiền với
những kiến trúc nghệ thuật, hội họa, kết hợp hài hòa với cảnh sắc thiên nhiên
mang đậm nét dân tộc, những áng văn, thơ làm xao động lịng người, như Chùa
Bái Đính - Ninh Bình; Chùa Cơn Sơn - Hải Dương; Chùa Thiên Trù - Hà Tây;
Chùa Một Cột - Hà Nội; Chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên - Huế); Chùa Vĩnh
Nghiêm – Bắc Giang; Chùa Bà Thiên Hậu - Bình Dương.. Triết lý Phật giáo trở
thành một tình cảm tốt đẹp trong hành vi, lối sống của người Lâm Đồng, lễ hội
Phật giáo (như lễ Vu Lan, lễ phóng sinh, tục ăn chay...) mang ý nghĩa nhân văn
tiến bộ, phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội hơm nay, đó là những yếu tố
cần được bảo tồn và phát huy.
Nhưng, Phật giáo cũng là Tôn giáo thủ tiêu đấu tranh, dễ tiếp thu những

yếu tố huyền bí, mê tín. Sự phát triển của Phật giáo bao hàm cả yếu tố tiêu cực
thì khơng thể là mục tiêu của xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Vì Phật giáo tự nó
khơng thể cải tạo xã hội theo hướng cách mạng tiến bộ được. Thực tế hiện nay ở
một số nơi trong tỉnh, tình trạng lợi dụng cửa chùa để kinh doanh, hành nghề mê
tín, dị đoan vẫn đang xảy ra. Hiện tượng rút thăm, xin quẻ, lấy số tử vi, bán
nhang đèn, giấy tiền vàng mã trước cổng chùa, cảnh huyên náo, tấp nập, níu kéo
mời chào, gây phiền hà cho khách, làm ảnh hưởng đến môi trường cảnh quan, an
ninh trật tự xã hội.
Do đó, hướng đưa các cơ sở thờ tự của Phật giáo thành nơi sinh hoạt văn
hóa lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tơn giáo của phật tử, cũng như
đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của mọi người dân và du khách tham quan du
lịch là việc nên làm. Tuy nhiên cần có sự quản lý của Nhà nước trong việc tu sửa
hay dựng mới kiến trúc chùa chiền, đền miếu, nhất thiết phải theo kiến trúc tôn
giáo được Nhà nước và tổ chức tôn giáo đó thống nhất, khơng được tùy tiện theo
ý của những người bỏ tiền cơng đức mà phải mang tính văn hóa, cho dù kiến
trúc đó khơng đồ sộ, khiêm tốn nếu giữ đúng được kiến trúc cổ truyền cũng góp
phần làm tơn cả một tổng thể kiến trúc một địa phương. Mọi hoạt động nấp dưới
danh nghĩa văn hóa, tín ngưỡng, tơn giáo chống lại hoặc làm băng hoại những
giá trị văn hóa dân tộc nói chung và những giá trị văn hóa tơn giáo tín ngưỡng
15


nói riêng đều phải ngăn chặn, bài trừ và xử lý nghiêm theo pháp luật. Mặt khác
cần có kế hoạch để chọn lọc, duy trì những lễ hội, tập tục Phật giáo mang ý
nghĩa nhân văn tiến bộ, nhằm xây dựng đời sống văn hóa tinh thần phong phú,
đa dạng. Thơng qua đó mà nâng cao nhận thức cho quần chúng về thẩm mỹ đạo
đức của nền văn hóa mới để quần chúng có thể lựa chọn, tiếp thu những thuần
phong, mỹ tục phù hợp với đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân hiện nay.
Có như vậy mới quản lý, hạn chế các hoạt động mê tín, các hoạt động lợi dụng
Phật giáo thực hiện “diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa chống

lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Phải thấy rằng đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa mà đặc biệt là trên lĩnh vực
văn hóa tơn giáo đó là vấn đề hết sức tế nhị. Ở đây mối quan hệ giữa xây và
chống cần được nhìn nhận khơng chỉ là biểu hiện trước mắt mà phải nhìn tồn
diện lâu dài. Tất cả vấn đề trên đòi hỏi sự nghiên cứu công phu, sự gạn đục, khơi
trong một cách khoa học để chọn lọc, tiếp thu, phát huy những yếu tố tương
đồng, tích cực của Phật giáo phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện
nay.
3.3. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với tín đồ
Phật giáo
Có thể thấy cuộc đấu tranh với những điều kiện tồn tại xã hội làm nảy
sinh tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng bao hàm nhiều vấn đề trên nhiều
lĩnh vực khác nhau nhưng tập trung nhất có tính thiết yếu là giải pháp nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho quần chúng tín đồ.
Về lý luận phải thấy rằng, Tôn giáo chưa thể mất đi chừng nào con người
còn nghèo khổ, xã hội cịn bất cơng, bị đè nén và áp bức thì Tơn giáo vẫn là nhu
cầu tình cảm của quần chúng, dù là “tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức” hay
“hạnh phúc hư ảo” của nhân dân thì vẫn là cần thiết khi hạnh phúc thực sự chưa
có được. Trong Tơn giáo con người tìm thấy sự an ủi, xoa dịu bớt nỗi buồn trần
thế. Nếu xã hội không cịn nghèo đói và bất cơng, cùng bao sự may rủi, cay đắng
gây khổ đau cho con người thì “niết bàn”, “thiên đàng” cũng chẳng hấp dẫn bao
nhiêu. Xóa đói nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, dân trí cho tín đồ
Phật giáo chính là xóa dần đi nguồn gốc nảy sinh “Hạnh phúc hư ảo” và hướng
về hạnh phúc thật sự ở thế giới hiện hữu. Thực vậy muốn xóa bỏ hạnh phúc hư
ảo thì phải xây dựng một xã hội hiện thực tốt đẹp mang lại hạnh phúc thật sự
cho đồng bào có đạo, “Thiên đường hư ảo” chỉ có thể đánh đổi bằng “Thiên
đường hiện thực” và “Thiên đường hiện thực" không thể xây bằng lịng tin tơn
giáo hoặc những vịng hào quang thần thánh, hay những bơng hoa giả... mà bằng
chính cơ sở vật chất cụ thể, thật sự trong hiện thực do chính bàn tay con người
làm ra ở thế giới trần tục này chứ khơng đâu khác hơn. Vì vậy cơng việc đầu

16


tiên là cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa xã hội cho quần chúng
nhân dân nói chung, tín đồ Phật giáo nói riêng.
Để khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho quần chúng
nhân dân nói chung, tin đồ Phật giáo nói riêng, trước hết phải có kế hoạch đầu tư
xây dựng và phát triển nơng thơn tồn diện, trước hết chú ý xây dựng cơ sở hạ
tầng điện, đường, trường, trạm để mở rộng giao lưu với các vùng kinh tế phát
triển. Phải nâng mức sống của đồng bào tín đồ Phật giáo lên ngang bằng mức
sống chung của cả nước. Xây dựng và phát triển các mơ hình hợp tác, các phong
trào giúp nhau làm kinh tế như: phong trào xóa đói giảm nghèo; thành lập các
hội như hội người làm vườn, hội người chơi cây cảnh, hội trồng cà phê...; phát
triển dạy nghề, hướng nghiệp, tạo việc làm cho thanh thiếu niên là tín đồ Phật
giáo. Trên cơ sở đó để các hội viên có thể trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ về vốn,
giải quyết công ăn việc làm, giảm bớt lao động dư thừa trong nhân dân, tạo điều
kiện để nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân. Đối với những vùng
cịn q khó khăn tỉnh cần xây dựng các dự án và đề nghị nhà nước giúp vốn
theo chính sách, chế độ xây dựng vùng kinh tế mới.
Việc giáo dục những tri thức về tôn giáo dưới chủ nghĩa xã hội, quán triệt
quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
ta cho quần chúng tín đồ ở cơ sở là rất cần thiết, song chưa đủ. Để nâng cao
trình độ dân trí cho quần chúng nói chung, tín đồ Phật giáo nói riêng, chúng ta
cần trang bị kiến thức một cách tồn diện. Đó là kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ
thuật, phẩm chất đạo đức cách mạng và đạo đức tơn giáo truyền thống v.v... Các
đồn thể chính trị xã hội, trước hết Mặt trận, hội Phụ nữ tỉnh phải có nhiều hình
thức thường xun cung cấp thơng tin, chính sách pháp luật Nhà nước đối với
đội ngũ chức sắc, nhà tu hành và tín đồ Phật giáo. Cần chú trọng giáo dục về
giới, pháp luật cho chị em nữ xuất gia tu hành để giúp cho chị em có thêm kiến
thức hiểu biết về mọi mặt để giải tỏa sự ràng buộc bởi thần quyền trong tơn giáo.

Việc nâng cao trình độ mọi mặt cho đồng bào Phật giáo cũng là nhằm hóa dần
ảo tưởng “đám mây mù” đã từng thâm nhập và chi phối vào đời sống của người
dân trong lịch sử.
Đẩy mạnh các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tại các cơ
sở nhằm góp phần xây dựng đời sống văn hóa cơ sở phong phú đa dạng, mà
trước hết khơi phục lại phong trào văn nghệ quần chúng ở vùng đồng bào tín đồ
Phật giáo. Xây dựng gia đình văn hóa nhằm đạt 4 tiêu chuẩn: Gia đình hịa
thuận, hạnh phúc, tiến bộ đồn kết, giúp đỡ nhau trong tình làng nghĩa xóm;
Thực hiện kế hoạch hóa gia đình, ni con khỏe, dạy con ngoan, chăm sóc tốt
người nhà; Xóa bỏ các phong tục, tập quán tín ngưỡng lạc hậu; Có kế hoạch bảo

17


vệ, kế thừa và phát huy vốn văn hóa truyền thống, đầu tư xây dựng các khu vui
chơi giải trí để thanh, thiếu niên sinh hoạt.
Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, đấu tranh chống các hoạt động
mê tín, dị đoan và truyền đạo trái phép. Bên cạnh đó cần duy trì các hoạt động lễ
hội, đó là sinh hoạt văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời thông qua
hoạt động lễ hội làm phong phú bản sắc văn hóa Việt Nam, loại bỏ yếu tố mê tín
trong các sinh hoạt lễ hội, gây ảnh hưởng trong đời sống văn hóa và tinh thần
của nhân dân…
KÊT LUẬN

Phật giáo là tơn giáo lớn đã có hơn 2000 năm tồn tại và phát triển ở Việt
Nam. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, Phật giáo đã có nhiều đóng
góp cho dân tộc trên nhiều phương diện, nhất là trên phương diện văn hóa dân
tộc. hơn hai ngàn năm ở Việt Nam là hơn hai ngàn năm Phật giáo đã hóa thân
vào dân tộc và để lại dấu ấn sâu đậm trong lối sống của con người vm trong lịch
sử cũng như hiện nay.

Chúng ta dễ nhận thấy Phật giáo đã mang đến cho người Việt những ngơi
chùa cổ kính, những pho tượng bề thế rải khắp xóm làng làm tăng lịng từ bi và
hướng thiện của người bình dân. Phật giáo đã đưa đến một trung tâm văn hóa
làng một thời sơi động. Phật giáo cũng đã mang đến trong tâm hồn người Việt
một đời sống tâm linh sâu đậm từ khi du nhập cho đến nay. Trong lịch sử, Phật
giáo cũng luôn luôn gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Phật giáo đã sản sinh ra
tầng lớp tăng sĩ trí thức có cơng lao trong việc xây dựng và giữ gìn nền độc lập
dân tộc của các triều đại phong kiến. Phật giáo hoà nhập thành một yếu tố dân
tộc nên đã thúc đẩy bánh xe lịch sử tiến lên theo khả năng và vị trí của Phật giáo
trong mối quan hệ với các dòng tư tưởng khác ở từng thời điểm lịch sử cụ thể.
Phật giáo đã hướng tới cái đẹp, cái thiện, và mang tinh thần yêu nước. Tính
chân, thiện, mĩ được thể hiện rõ trong tư tưởng Phật giáo Việt Nam.
Tuy nhiên bên cạnh đó, Phật giáo cũng vẫn cịn có những tác động tiêu
cực nhất định đến đới sống văn hóa của dân tộc, như: đề cao quá mức những giá
trị tình thương, trách nhiệm một cách trìu tượng; thái độ cam chịu, chấp nhận
thực tại thái quá hay thái độ chạy trốn hiện thực, không cố gắng dẫn thân, dễ
chán nản, trùn chân khi gặp khó khăn ở đời sống hiện thực… Vì vậy, việc
nghiên cứu tồn diện về Phật giáo, nhận rõ những giá trị văn hóa, đạo đức tốt
đẹp của nó để chủ động phát huy những cái hay, cái đẹp; hạn chế những cái xấu,
cái dở của Phật giáo trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay là điều
rất cần thiết.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Một số tôn giáo ở việt Nam, Ban Tơn giáo chính phủ, Nxb Tơn giáo, Hà Nội
2013.
2. Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Viện Triết học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

1991, tr.161.
3. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên, 1998), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, tr.71 - 92.

19



×