Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC vấn đề CON NGƯỜI TRONG TRIẾT học mác và KHƠI dậy CON NGƯỜI VIỆT NAM HIÊN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.1 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN TRIẾT HỌC

TIÊU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
VỀ CON NGƯỜI. VẤN ĐỀ KHƠI DẬY
KHÁT VỌNG CON NGƯỜI VIỆT NAM
HIỆN NAY
Họ và tên học viên:
Mã số học viên: MP
Lớp: cao học ngành
Khoa học: K27 (2020 – 2022)
Địa điểm học: Học viện Chính trị Khu vực II

HÀ NỘI - 2022


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI....2

1.1 Khái lược vấn đề con người trong lịch sử triết học trước Mác.............2
1.2. Vấn đề con người trong triết học Mác………………………………..5
1.3 Ý nghĩa lịch sử của vấn đề con người trong triết học
Mác…………....13
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ KHƠI DẬY KHÁT VỌNG CON NGƯỜI VIỆT NAM
HIỆN NAY...................................................................................................…15



2.1. Quan điểm của Đảng về phát huy nhân tố con người trong phát triển
đất
nước………………………………………………………………………….15
2.2. Khơi dậy khát vọng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo
tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII........................................…17
KẾT LUẬN .................................................................................................…20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................…21


1
MỞ ĐẦU

Vấn đề con người là một trong những vấn đề trung tâm của triết học.
Nó được tất cả các trường phải, trào lưu và các nhà triết học quan tâm và luận
giải ở nhiều góc độ khác nhau trong lịch sử phát triển của triết học, nhưng
không phải nhà triết học nào cũng giải quyết đúng đắn, toàn diện vấn đề này.
Thực tế, họ bị chi phối bởi lập trường thế giới quan, địa vị xã hội và lợi ích
giai cấp khác nhau... nên góc độ tiếp cận và cách giải quyết vấn đề theo ý
muốn chủ quan và mục đích của họ.
Cho đến những năm 40 của thế kỷ XIX cùng với việc thực hiện bước
ngoặt cách mạng trong triết học, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt nền móng cho
việc giải quyết khoa học và triệt để vấn đề con người và giải phóng con
người. Cũng từ đó, vấn đề này được những người Mác xít hậu thế đã bảo vệ,
hoàn thiện và phát triển trong thực tiễn đấu tranh cách mạng và đấu tranh của
khoa học hiện đại.
Những quan điểm về con người của C.Mác ngày càng khẳng định tính
đúng đắn của mình cùng với sự phát triển của thực tiễn và khoa học. Đây là
cở sở khoa học để chúng ta hiểu toàn diện, đầy đủ và đúng đắn về con người,
về bản thân và vai trò, vị trí của con người trong thế giới. đặc biệt là nhân tố

con người trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định: "Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh
con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [13, tr.54].
Với ý nghĩa đó, việc quan tâm, tìm hiểu nghiên cứu làm rõ hơn những nội
dung, ý nghĩa lịch sử của những quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin khi luận
giải những vấn đề nguồn gốc, bản chất con người, phương thức giải phóng con
người và xã hội loài người cũng như phát huy nhân tố con người, khơi dậy khát
vọng con người Việt Nam hiện nay là một nhu cầu đáng được quan tâm. Tiểu luận
này được thực hiện cũng khơng ngồi mục đích đó.


2
Chương 1
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1.1 Khái lược vấn đề con người trong lịch sử triết học trước Mác
Ngay từ khi triết học ra đời cho đến nay, con người luôn được coi là
một trong những vấn đề trung tâm của triết học. Tuy nhiên, tư những góc độ
tiếp cận và lập trường khác nhau nên cách giải quyết vấn đề con người trong
những học thuyết triết học khác nhau có điểm khác nhau thậm trí đối lập
nhau.
Trong triết học Phương Đơng: Vấn đề quan trọng hàng đầu trong các
quan niệm của triết học phương Đông về con người là vấn đề nguồn gốc, bản
chất con người và con đường giải pháp giải phóng con người.
Trong triết học Ấn Độ, ngay từ thời cổ đại vấn đề con người đã được
các nhà triết học bàn đến một cách sôi nổi, rộng rãi. Kinh Upanishad cho
rằng: cả thể xác và linh hồn của con người đều là hiện thân của đấm tối cao
Brahman. Còn Phật giáo lại cho rằng: Bản chất của thế giới là “chân không”,
từ đầy sinh ra vạn vật và con người. Thế giới là “Vô thường”, con người là
“vô ngã”, và cuộc đời là “bể khổ”, muốn giải thoát khỏi “bể khổ” trần gian

phải tu theo “bát chính đạo”...mới có thể nhập Niết bàn sống cuộc sống vĩnh
hằng sau khi chết.
Trong triết học Trung Quốc, giải quyết vấn đề con người tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau, thậm chí ngay trong cùng một trường phái triết học.
Trong quan điểm của Nho Giáo, Khổng tử (551- 479 Tcn) và Mạnh tử ( 372 –
289 Tcn) cho rằng bản tính tiên thiên vốn có của con người là Thiện, nhưng
do hoàn cảnh tác động nên con người thay đổi, trở lên ác. Vì vậy, muốn lấy lại
bản tính ban đầu con người phải được giáo hố. Thơng qua giáo dục Nhân,
Lễ, Nghĩa, thực hiện Chính danh, định phận...con người có thể lấy lại được
bản tính thiện của mình. Ngược lại, Tn tử (315 - 230 Tcn) là nhà nho có
quan điểm duy vật, vơ thần lại cho rằng bản chất con người là ác. Nhưng theo


3
ơng, số mệnh và bản tính của con người, khơng ai quyết định được mà họ tự
quyết định, tự ý thức được. Do vậy, con người có thể trở thành thiện, tốt được
bằng con đường giáo dục.
Như vậy, ngay từ thời cổ đại, triết học phương Đông đã quan tâm
nghiên cứu vấn đề nguồn gốc, bản chất con người. Nhưng con người hiện
diện chủ yếu dưới góc độ: con người đạo đức, con người chính trị; cịn những
phẩm chất khác của con người như tri thức khoa học cịn ít đựơc đề cập đến..
Trong triết học phương Tây:Vấn đề nguồn gốc, bản chất con người
được các triết gia phương Tây coi là một trong những vấn đề trung tâm của
triết học. Họ quan tâm và giải quyết những khía cạnh khác nhau liên quan đến
con người và xã hội loài người.
Ở triết học Hy Lạp cổ đại đã bộc lộ rõ cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật vô thần và chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo khi giải quyết những vấn đề
liên quan đến con người. Trên lập trường duy tâm nhà triết học Platôn cho
rằng, tất cả đều bắt đầu từ “thế giới ý niệm”, từ những vật thể cảm tính kể cả
con người đều là cái bóng của “thế giới ý niệm”. Sau khi thể xác chết đi, linh

hồn bẩt trở về “thế giới ý niệm”. Trong khi đó các nhà triết học duy vật cố
gắng giải thích nguồn gốc con người từ giới tự nhiên cho rằng, con người và
vạn vật đều bắt nguồn từ bản nguyên vật chất như Nước (Talet), Lửa
(Hêraclit), Nguyên tử (Đêmôcrit)...Arixtốt đưa ra ba loại linh hồn: linh hồn
thực vật, linh hồn cảm tính ở động vật và linh hồn lý trí ở con người.
Trong suốt thời Trung cổ (thế kỷ X đến XV) dưới sự thống trị của thần
học và nhà thờ thì nhà triết học giải quyết vần đề con người trên lập trường
duy tâm, tôn giáo. Họ cho rằng: Chúa trời là lực lượng siêu nhiên, có quyền
lực thần thánh tối cao, sáng tạo ra thế giới tự nhiên và con người, đồng thời
quyết định số phận của con người và con người suy cho cùng chỉ là hình ảnh
của chúa và linh hồn bất tử là bản chất của nó; vị trí, vai trị, số phận và đẳng
cấp xã hội đều do chúa trời định đoạt.


4
Thời phục hưng ở Tây Âu (thế kỷ XVII – XVIII) khoa học và triết học
có sự phục hồi với những bước phát triển mới, làm cho quan niệm về con
người có tiến bộ. Franxi Bacon (1561 – 1626) cho rằng, giới tự nhiên là
nguồn gốc thể xác con người, còn linh hồn của con người là cái thực thể của
thể xác, đó là một dạng vật chất tồn tại trong óc người, vận động theo mạch
máu và các dây thần kinh. Thomas Hobbs (1588 – 1679) cho rằng con người
là vấn đề trung tâm của triết học, con người ra đời từ tự nhiên, là một thực thể
thống nhất tính tự nhiên và tính xã hội.
Trong triết học cổ điển Đức đề cao vai trị tích cực trong hoạt động của
con người. Con người hiện diện như một chủ thể, đồng thời như sản phẩm của
quá trình hoạt động của chính mình. Nhưng sai lầm lớn nhất của các nhà triết
học thời kỳ này là thần thánh hoá sức mạnh tư duy, trí tuệ của con người, biến
nó thành lực lượng siêu nhiên. Imanuen Cantơ (1724 – 1804) là người sáng
lập ra triết học cổ điển Đức. Ông cho rằng nhiệm vụ của triết học là đi tìm bản
chất của con người. Theo ông, con người là chủ thể của nhận thức và hành

động; trong đó quyền tư hữu gắn liền với bản chất con người – nó có nguồn
gốc tiên thiên, phổ biến, vĩnh viễn, thiêng liêng, mang tính tự nhiên và bất khả
xâm phạm. Cịn theo Hêghen (1770 – 1831), con người là sản phẩm ở trình độ
phát triển cao của nhất của “ý niệm tuyệt đối”, cịn hoạt động của nó là cơng
cụ và phương tiện để “tinh thần tuyệt đối” nhận thức và trở về với chính bản
thân mình. Đến Phoiơbách (1804 – 1872), ơng khẳng định rằng, chính thể xác
con người với tất cả những phẩm chất của nó là chủ thể, là bản chất của con
người. Vì vậy, triết học phải mang lại cho con người một quan niệm mới về
bản thân mình, tạo ra những điều kiện để con người được hưởng hạnh phúc.
Tuy nhiên, do còn quan niệm duy tâm về đời sống xã hội nên ơng đã quy
“tình u thương” vào bản chất con người và cho rằng tình yêu nam nữ là
kiểu mẫu cho bản chất con người. Như vậy. xét đến cùng quan niệm về con
người của Phoiơbách vẫn mạng tính chất duy tâm, thần bí.


5
Tóm lại, những quan niệm, cách tiếp cận và giải quyết vấn đề nguồn
gốc, bản chất con người trong lịch sử phát triển khác nhau của triết học ở
phương Đông và phương Tây là cơ sở dữ liệu quan trọng cho C.Mác tiếp cận,
kế thừa có phê phán những tư tưởng đó, trong khi nghiên cứu và xây dựng
những quan điểm về con người và giai phóng con người trong học thuyết triết
học của mình.
1.2. Vấn đề con người trong triết học Mác
Kế thừa có phê phán những tư tưởng về vấn đề con người trong lịch sử,
khắc phục quan niệm duy tâm, tôn giáo và truyền thống duy vật chật hẹp về
con người, triết học Mác đã đưa ra một cách tiếp cận khoa học và toàn diện từ
vấn đề nguồn gốc, bản chất con người, đến vấn đề giải phóng con người và xã
hội lồi người.
1.2.1. Con người, một thực thể “sinh vật – xã hội – tinh thần”
Sự phát triển của khoa học và thực tiễn đã minh chứng rõ ràng, tiền đề

đầu tiên của sự tồn tại của con người là sự sống của thể xác. Thể xác của con
người trước hết là vật thể của giới tự nhiên. Như Ăngghen nhận xét: “bản thân
chúng ta, với tất cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta là thuộc về giới tự
nhiên”. Chính vì vậy, phần thể xác của con người ln có những nhu cầu
mang tính bản năng tự nhiên như: ăn, uống, ngủ, duy trì nịi giống,...thiếu
những yếu tố này con người khơng thể tồn tại được. Ngồi ra, cịn có những
tác động những quy luật vật lý, quy luật hoá học, quy luật sinh học... giống
như mọi cơ thể sống khác. Tuy nhiên, với tính cách là thực thể tự nhiên, thể
xác con người khác hẳn về chất so với các vật thể tự nhiên khác kể cả các loài
động vật bậc cao. Cơ thể người là một cấu trúc sinh học ở trình độ cao với bộ
não và hệ thần kinh hoàn thiện, cùng với hệ thống các mối liên hệ và quan hệ
của những bộ phận đó. Cơ thể con người khơng tồn tại độc lập, tách biệt mà
nó tồn tại cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nói cách khác, con
người là sản phẩm của quá trình lao động và xã hội sản sinh ra con người “với


6
tính cách con người như thể nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như
thế”. Vì vậy, trong cơ thể sống của con người khơng chỉ có những nhu cầu,
quy luật sinh học, mà cịn có những nhu cầu và quy luật sinh lý, tâm lý, tình
cảm xã hội...Hơn nữa, ngay những nhu cầu tự nhiên vốn có của con người
cũng khơng cịn thuần t tự nhiên nữa, mà nó mang tính xã hội cao và ngày
càng được xã hội hố sâu sắc.
Chính nhờ cấu trúc “sinh vật – xã hội – tinh thần” và nhờ vào quá trình
lao động và ngơn ngữ con người đã phán ánh một cách tích cực, chủ động,
sáng tạo hiện thực khách quan vào bộ não của mình trên cơ sở đó hình thành
ý thức. Đây chính là đặc trưng quan trọng nhất phân biệt với tất cả các sự vật
hữu sinh khác. Ý thức không phải là hiện thực vật chất, mà là hiện thực tinh
thần luôn gắn liền với quá trình ra đời, tồn tại, vận động phát triển và mất đi
của thể xác con người. Đồng thời, nó được vật chất hố dưới dạng ngơn ngữ,

biểu tượng, khái niệm, phạm trù...và được thể hiện qua lời nói, hành động,
thái độ...Vì vậy, trong cơ thể con người ngồi những nhu cầu và những quy
luật mang tính chất bản năng, sinh học cịn có những nhu cầu và quy luật tinh
thần.
Như vậy, con người là một thực thể thống nhất biện chứng giữa các yếu
tố sinh vật, tinh thần, xã hội, trong đó có sự tác động đan xen giữa những hệ
thống nhu cầu: nhu cầu sinh học, nhu cầu xã hội, nhu cầu tinh thần và ba hệ
thống quy luật: quy luật sinh học, quy luật xã hội, quy luật tinh thần. Mỗi hệ
thống nhu cầu, quy luật có vai trò và tác dụng nhất định tọng sự tồn tại và
phát triển của con người, đồng thời chúng tham gia vào việc quy định bản
chất của con người. Trong đó, nhu cầu xã hội và quy luật xã hội luôn giữ vị rí
trung tâm và đóng vai trị quyết định.
1.2.2 Bản chất con người là tổng hoà tất cả các quan hệ xã hội


7
Xã hội là một bộ phận đặc biệt của thế giới vật chất và con người là
những tế bào cấu thành của bộ phận đặc biệt ấy. Nói cách khác, nói đến con
người là con người xã hội, cịn nói đến xã hội là xã hội của chính con người.
Trong thực tế, con người tách khỏi thế giới loài vật và trở thành con
người là nhờ có lao động. Như Ph. Ăngghen khẳng định, trước hết là lao
động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ đó là hai sức kích
thích chủ yếu để lồi vượn thành con người thực sự. Nhưng giới tự nhiên
không phải khi nào cũng thoả mãn nhu cầu của con người, nên con người
muốn tồn tại và phát triển được phải lao động sản xuất. Chính trong q trình
lao động sản xuất con người phải thực hiện hai quan hệ cơ bản là quan hệ với
tự nhiên biểu hiện ở lực lượng sản xuất và quan hệ giữa con người với con
người được biểu hiện qua quan hệ sản xuất. Đây là hai quan hệ nền tảng quy
định các quan hệ xã hội khác. C. Mác viết: “Trong sản xuất con người không
chỉ quan hệ với tự nhiên. Người ta không thể sản xuất nếu không kết hợp với

nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với
nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ
nhất định với nhau; và quan hệ của họ với tự nhiên, tức là việc sản xuất, chi
diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”
Thực tế, mỗi con người, mỗi thế hệ người khi ra đời khơng thể tự chọn
cho mình những quan hệ theo sở thích, mà phải ra nhập ngay vào những quan
hệ đã có và dù muốn, dù khơng muốn cũng phải và tất yếu phải trở thành “cái
mang những mối quan hệ xã hội ấy” ( C. Mác). Vì vậy, trong đời sống thực
tiễn con người không chỉ bộc lộ như là thực thể sinh học mà là thực thể xã
hội. Với tất cả ý nghĩa này, C.Mác nhấn mạnh trong Luận cương về
Phoiơbách: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng vốn có của một
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hoà những quan hệ xã hội”[3, tr.11]


8
Luận điểm trên của C.Mác đã phản ánh đúng bản chất của con người là
“tổng hoà của tất cả các quan hệ xã hội” chứ không phải là riêng của một loại
quan hệ xã hội nào hay tổng cộng tất cả các quan hệ xã hội. Nếu cụ thể hoá
những quan hệ đó ra là: quan hệ hơn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ kinh
tế, quan hệ chính trị, quan hệ tôn giáo, quan hệ đạo đức ...con người có bao
nhiêu quan hệ thì bấy nhiêu quan hệ góp phần hình thành nên bản chất con
người. Trong đó, suy đến cùng các quan hệ vật chất, kinh tế hiện tại, trực tiếp
ổn định giữ vai trò quyết định các quan hệ còn lại. Khi các quan hệ xã hội
thay đổi thì sớm muộn bản chất của con người cũng thay đổi. Vì vậy, nó tiêu
chuẩn để phân biệt con người với tất cả các sự vật khác trong thế giới. Nếu
con người tách khỏi các quan hệ xã hội thì đó khơng là con người nữa. Như
vậy, bản chất của con người không phải là cái tinh thần chung chung trừu
tượng, cũng không phải là cái tự nhiên, tự phát, mà là hiện thực lịch sử cụ thể;
không phải là cái vốn có, tiên thiên trong mỗi cá nhân mà nó được hình thành

trong q trình sống, lao động và tham gia các quan hệ xã hội của con người.
Nếu không hiểu đúng đắn luận điểm này, người ta dễ hiểu lầm chủ nghĩa Mác
quá nhấn mạnh quan hệ sở hữu và quan hệ giai cấp... của con người mà coi
nhẹ hay quên đi mặt tự nhiên, tinh thần của nó.
Thực tế, hơn ai hết các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác hiểu rất rõ vấn đề,
như Ăngghen khẳng định: “bản thân chúng ta với tất cả xương thịt, máu mủ
và đầu óc chúng ta là thuộc về giới tự nhiên” và giới tự nhiên được phản ánh
vào đầu óc người và cải biến đi ở trong đó và trở thành ý thức. Ý thức của con
người không chỉ phản ảnh thế giới mà cịn sáng tạo ra nó thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Như vậy, bản chất của con người không phải được
sinh ra mà được hình thành và thay đổi phụ thuộc vào các quan hệ xã hội mà
con người đang sống, trong đó trước hết và quan trọng nhất là quan hệ kinh
tế.
1.2.3 Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử


9
Con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử với tư cách là sản phẩm
của q trình tiến hố lâu dài của giới tự nhiên, mà con người còn là chủ thê
của lịch sử. Lịch sử hiểu theo nghĩa rộng, là quá trình đan xen, nối tiếp nhau
với tất cả những bảo tồn và biến đổi diễn ra trong q trình ấy. Như vậy, con
người có lịch sử và các lồi vật khác cũng có lịch sử. Song lịch sử của con
người và lịch sử của các loài vật là hoàn toàn khác nhau. Lịch sử của các loài
vật “chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần của chúng
cho đến trạng thái hiện nay của chúng. Lịch sử ấy không phải do chúng làm ra
và trong chừng mực chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó
diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược
lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của này bao nhiêu thì
con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy
nhiêu...”[4, tr.476]. Lịch sử chẳng qua chỉ là một chuỗi những hoạt động có ý

thức của chính bản thân con người.
Hoạt động của con người làm ra ra lịch sử nhưng để có lịch sử trước
hết phải có con người. Tiền đề đầu tiên của lịch sử là sự tồn tại của cá nhân
những con người sống. Vì vậy, hành động lịch sử đầu tiên của con người là
hoạt động lao động sản xuất để tách khỏi đời sống động vật. Con người tách
khỏi đời sống động vật như thế nào thì họ bước vào lịch sử như thế.
Con người làm ra lịch sử, song khơng phải theo ý muốn tuỳ tiện của
mình, trong những điều kiện mình có quyền lựa chọn mà là những điều kiện
có sẵn do lịch sử để lại. Với những điều kiện ấy, mỗi người, mỗi thế hệ một
mặt tiếp tục các hoạt động cũ của thế hệ trước trong những hoàn cảnh mới,
một mặt tiếp tục các hoạt động của mình để cải biến những hồn cảnh cũ.
Cũng từ đây, con người tạo ra các giá trị vật chất, tinh thần mới cho xã hội
mới trên cơ sở kế thừa những yếu tố của xã hội trước để lại. Những gì mới
được tạo ra làm phong phú thêm cho cuộc sống hiện tại của con người và đưa
xã hội dần dần phát triển lên những nấc thang ở trình độ cao hơn. Xét mối


10
quan hệ giữa các thế hệ và hoàn cảnh sống của con người thì “bản thân xã hội
sản xuất ra con người con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội
như thế”.
Như vậy, trong quá trình phát triển của thế giới nói chung và q trình
phát triển của con người nói riêng, thì từ khi con người ra đời đến khi nào con
người còn tồn tại thì con người vẫn ln vừa là sản phẩm, là kết quả của sự
phát triển lịch sử, vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
1.2.4 Vấn đề “tha hoá con người” và giải phóng con người
Khơng phải triết học Mác là học thuyết triết học dầu tiên bàn đến vấn
đề giải phóng con người. Lịch sử đã ghi nhận nhiều học thuyết, nhiều quan
điểm về giải phóng con người, xong do điều kiện lịch sử, sự ràng buộc của lợi
ích giai cấp, do sự phát triển của khoa học những hiểu biết về con người con

nhiều hạn chế... nên các học thuyết đề cập và giải quyết vấn đề con người có
khác nhau. Ví dụ: Các học thuyết triết học duy tâm và tôn giáo (Phật Giáo,
Thiên chúa giáo...) quan niệm giải phóng con người là giải thốt về mặt tâm
linh để con người có thể đạt được cuộc sống vĩnh cửu sau khi chết ở một thế
giới khác ngồi giới tự nhiên. Với quan niệm như vậy khơng thể giải phóng
con người ở hiện thực mà chỉ là sự giải phóng “hư ảo” thần bí, duy tâm.
Các quan niệm duy vật trước Mác hoặc thì lại khơng thấy được tính xã
hội ở con người, khơng thấy được các quan hệ xã hội của con người; hoặc
nhận thức về con người trừu tượng nên vẫn xen những biểu hiện bản chất con
người trong cuộc sống hiện thực như bản tính tự nhiên vốn có bất biến ở con
người. Do không giải quyết đúng đắn vấn để bản chất, nguồn gốc con người
nên không thể xác định đúng những nội dung cho q trình giải phóng con
người.
Lịch sử cũng ghi nhận giai cấp tư sản phương Tây đã thực hiện cuộc
cách mạng giải phóng con người nhưng do bản chất của chủ nghĩa tư bản và
mục đích của phương thưc sản xuất tư bản chủ nghĩa nên đồng thời với việc


11
giải phóng con người khỏi những ràng buộc của xã hội phong kiến, giai cấp tư
sản đã trói chặt con người bằng ràng buộc nghiệt ngã hơn – ràng buộc về kinh
tế, làm xã hội phân hoá thành hai cực đối lập: Nhà tư bản bóc lột và người lao
động bị bóc lột. Đến nay, ngay khi đời sống của người lao động đã được cải
thiên thì hai cực đối lập ấy vẫn khơng mất đi mà cịn tăng lên với nhiều hình
thức biểu hiện khác nhau.
Triết học Mác đã xác định “bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở
chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản thân
con người”, là giải phóng người lao động thốt khỏi lao động bị tha hố. Có
thể nói rằng vấn đề “tha hố con người” và giải phóng con người chiếm vị trí
trung tâm trong quan niệm của C.Mác về đời sống xã hội. “Tha hố con

người” theo C.Mác là con người khơng cịn là chính mình, mà trở thành một
cái tồn tại khác, cái đối lập với mình. Nguyên nhân dẫn đến “tha hoá con
người” là do chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sự nô dịch nhiều
mặt đối với con người. Những người bị nô dịch thì tồn bộ cuộc sống và hoạt
dộng của họ đều bị tha hố, tức nó khơng cịn là nó nữa, mà trở thành cái xa lạ
đối với chính họ.
Triết học Mác là triết học vì con người. Và mục tiêu cuối cùng mà
C.Mác đặt ra cho học thuyết triết học của mình là giải phóng con người và xã
hội lồi người khỏi sự “tha hố”, khỏi gơng cùm, xiềng xích của sự áp bức,
bóc lột và bất cơng. Khi viết Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã thể hiện tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngơn là “vĩnh
viễn giải phóng tồn thể xã hội khỏi ách bóc lột và ách áp bức”. Song “xã hội
khơng thể nào giải phómg mình đựơc, nếu khơng giải phóng cho mỗi cá nhân
riêng biệt”
Để xoá bỏ “tha hoá” và giải phóng con người. Việc đầu tiên cần phải
làm là cần xoá bỏ “chế độ sở hữu tư sản”. Bởi vì, đó là thứ “sở hữu vận động
trong sự đối lập giữa hai cực tư bản và lao động”, nó chính là nguồn gốc sinh


12
ra mọi nơ dịch trong chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, sự giải phóng xã hội khỏi sở
hữu tư nhân và chế độ nơ dịch biểu hiện thành hình thức chính trị của sự giải
phóng cơng nhân, hơn nữa ở đây vấn đề không phải chỉ là biểu hiện thành sự
giải phóng của họ bao hàm sự giải phóng xã hội. Tiếp theo, sự nghiệp xóa bỏ
“tha hố”, giải phóng con người cần thiết và phải là sự nghiệp của quần chúng
lao động, mà trong đó giai cấp vơ sản là lực lượng nịng cốt và quyết định. Vì
theo C.Mác, chỉ có giai cấp vơ sản mới có khả năng đảm bảo tự do và bình
đẳng thực sự cho tất cả mọi người. Vì giai cấp vơ sản là “sự mất đi hồn tồn
của con người” và do đó “chỉ có thể phục sinh lại bản thân mình bằng cách
hồn tồn phục sinh lại con người”, nó “khơng thể tự giải phóng mình nếu

khơng tự giải thốt mình khỏi tất cả các khu vực khác của xã hội và do đó
khơng giải phóng tất cả những khu vực khác của xã hội”. Thực tế, sự nghiệp
giải phóng con người, giải phóng nhân loại là một q trình lâu dài. Nó phụ
thuộc chủ yếu vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, vào điều kiện
vật chất bắt buộc của sự nghiệp giải phóng con người. C.Mác viết “Người ta
mỗi lần đều giành được tự do chừng nào việc đó không phải do lý tưởng về
con người mà do lực lượng sản xuất hiện hành quyết định và cho phép”.
Tóm lại, sự nghiệp giải phóng tồn diện con người và xã hội lồi
người chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện “những lực lượng sản xuất
hiện đại đã phát triển” và chỉ khi nào “thay cho xã hội tư sản cũ, với những
giai cấp và giai cấp đối kháng của nó” bằng một xã hội mới khơng cịn cơ sở
kinh tế của mọi nơ dịch và bóc lột, khơng có giai cấp và hiện tượng người bóc
lột người – “một liên hợp trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Và theo Ph. Ăngghen “đó
là bước nhảy của con người từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do”
1.3 . Ý nghĩa lịch sử của vấn đề con người trong triết học Mác
Quan điểm của triết học Mác về vấn đề con người là một sự tổng kết,
kế thừa trên tinh thần phê phán những thành tựu của khoa học đương thời và


13
những tư tưởng về con người của các nhà triết học ở những giai đoạn khác
nhau trong lịch sử. Cách lý giải vấn đề con người trong triết học Mác phủ
định hoàn toàn những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, tơn giáo khi
giải thích về con người cho rằng: con người do những lực lượng siêu nhiên:
chúa, thượng đế....sáng tạo ra và cuộc sống của họ chỉ thực sự hạnh phúc và
vĩnh hằng ở Thiên đường, Niết bàn...bên ngoài thế giới của chúng ta đang
sống. Quan điểm còn là sự khắc phục những hạn chế, sai lầm mắc phải của
chủ nghĩa duy vật như ở: Đêmôcrit, Franxi Bêcon, Phơ bách..cịn thiếu sót khi
giải thích về con người. Với cách lý giải vấn đề con người dựa trên cơ sở

những thành tựu của khoa học tự nhiên và sự phát triển của thực tiễn, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã thực hiện “bước ngoặt cách mạng” thực sự trong quan
niệm, cách hiểu về con người trong lịch sử gần 2000 năm của triết học. Theo
cách lý giải đó, chúng ta hiểu một cách toàn diện, đầy đủ hơn về nguồn gốc,
bản chất con người với tư cách là con người xã hội và vai trò trung tâm của
con người trong lịch sử phát triển xã hội.
Là một học thuyết mở, khoa học và cách mạng, triết học Mác không chỉ
dừng lại ở chỗ giải thích rõ những vấn đề liên quan đến con người như, nguồn
gốc, bản chất... mà còn đi tới khẳng định con người khác hoàn toàn các loài
sinh vật khác đang cùng tồn tại. Con người không chỉ tồn tại như một thực thể
tự nhiên, khơng chỉ có khả năng nhận thức thế giới mà con người còn có vai
trị cải tạo thế giới. Làm được điều đó vì con người là một sinh vật có ý thức,
là con người xã hội. Và nhiệm vụ, vai trò của con người là cải tạo thế giới,
làm cho thế giới ngày càng tốt đẹp hơn. Nhưng muốn làm được nhiệm vụ cao
cả đó, theo C.Mác trước hết con người phải giải phóng chính bản thân mình
thốt khỏi xiềng xích của áp bức, bất cơng, của “sự tha hố” mà chính con
người tạo ra cho mình. Ngày này, cùng với sự phát triển của thực tiễn khoa
học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng đã phát triển hơn, có nhiều
thành tựu và phát minh mới đã mở ra nhiều chiều hướng nghiên cứu và góc


14
độ tìm hiểu con người khác nhau. Nhưng tất cả những thành tựu đó thêm một
lần nữa khẳng định tính đúng đắn, khoa học trong quan niệm của triết học
Mác về con người.
Chương 2
VẤN ĐỀ KHƠI DẬY KHÁT VỌNG CON NGƯỜI VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1 Quan điểm của Đảng về phát huy nhân tố con người trong phát
triển đất nước

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định vai trò đặc
biệt của nhân tố con người với tính cách là động lực của sự phát triển giải
phóng dân tộc và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng định:
nguồn lực q báu nhất, có vai trị quyết định nhất là con người Việt Nam; và
nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chú trọng đến quyền làm
chủ của nhân dân lao động, đại hội xác định: “thực chất là tôn trọng con
người, phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo
đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới”[6, tr.9]. Với quan điểm này, mọi chủ
trương, chính sách của Đảng đều chú trọng đến việc chăm lo bồi dưỡng phát
huy nhân tố con người. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4
khoá VII, Đảng ta nhấn mạnh: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh
phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta… Chúng ta cần
tìm hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con
người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn gốc của cải vật chất và văn hoá,
mọi nền văn minh của các quốc gia, phải xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu
sắc nhằm phát triển con người toàn diện, xây dựng một xã hội công bằng,
nhân ái, thiết lập quan hệ thật sự tốt đẹp và tiến bộ giữa con người với con
người trong sản xuất và trong đời sống”[7, tr.5]. Đến Đại hội Đảng toàn quốc


15
lần thứ VIII, thì tư tưởng chủ đạo của chiến lược con người của Đảng là thực
hiện “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội”[8, tr.28].
Nhất quán tư tưởng chiến lược phát triển con người trong thời kỳ đổi
mới, tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Xã hội ta là xã hội vì con
người và coi con người ln giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế xã

hội. Con người trước hết là tiềm năng trí tuệ, tinh thần, đạo đức, là nhân tố
quyết định là vốn quý nhất của chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội". Quan điểm đó được thực hiện ở chủ trương “phát triển giáo dục và
đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững” [9, tr.108-109].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng lại tiếp tục khẳng
định: chiến lược con người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Mọi chủ trương, chính sách nhằm phát huy nhân tố con người đều xuất phát
từ quan điểm cho rằng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ nhân thực
sự của xã hội, là chủ thể của mọi hành động kinh tế, văn hố xã hội và mục
tiêu của tồn bộ sự nghiệp cách mạng là phục vụ nhân dân. Với tư duy đổi
mới, khoa học của Đảng trong điều kiện lịch sử mới của đất nước, quan điểm
trên hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của xã
hội; phù hợp với nguyện vọng chân chính của nhân dân cũng như bản chất
nhân văn, tính ưu việt của chế độ xã hội mà chúng ta phấn đấu xây dựng.
Kế thừa quan điểm về phát huy nhân tố con người từ các đại hội trước,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt


16
được mục tiêu đó Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó
“Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”
[11, tr.100] được khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Đây được xem là khâu
đột phá phù hợp với hoàn cảnh nguồn nhân lực của đất nước trong bối cảnh
Việt Nam tích cực, chủ động tham gia hội nhập quốc tế, với sự cạnh tranh
diễn ra vô cùng quyết liệt và cuộc cách mạng khoa học, công nghệ. Tại Đại

hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh nhân tố con người gắn với xây dựng
văn hoá làm nền tảng tinh thần với hàm ý văn hoá và con người là cặp đơi
biện chứng, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hoá và thụ hưởng các
giá trị, sản phẩm văn hố. Cùng với đó, đại hội khẳng định: “Xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến
lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn
mực của con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức,
trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ
công dân, ý thức tuân thủ pháp luật” [12, tr.126-127]. Đây là quan điểm mà
Đảng ta ln nhất qn, mang tính định hướng chiến lược trong xây dựng,
phát triển con người Việt Nam trên cơ sở kế thừa quan điểm khoa học của chủ
nghĩa Mác – Lênin và điều kiện cụ thể của đất nước.
Tất cả những quan điểm nêu trên, một lần nữa khẳng định đường lối
đúng đắn của Đảng và thể hiện sự quan tâm, coi con người là vốn quý nhất;
chăm lo cho hạnh phúc của con người là tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của Đảng, là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta.
2.2 Khơi dậy khát vọng con người Việt Nam hiện nay theo tinh
thần của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
Hiện nay, việc xây dựng con người Việt Nam theo quan điểm của
Đảng, là sự chuẩn bị tích cực, chủ động nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, cho tương lai và triển vọng của đất


17
nước trên con đường phát triển theo mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối
cảnh tồn cầu hố, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế không thể không
dựa vào nhân tố con người, vì vậy cần phải bồi dưỡng, phát triển con người
Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực, nhân tố con người.

Xây dựng con người Việt Nam chính là xây dựng nhân cách của con người
với nội dung toàn diện, từ bồi dưỡng và phát triển thể lực, năng lực, trí tuệ với
phương pháp tư duy khoa học sáng tạo. Xây dựng con người Việt Nam hướng
tới sự phát triển không chỉ chất lượng cá thể con người mà còn là sự phát triển
của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội XIII của Đảng, khát vọng và tầm nhìn của Đảng và Nhân
dân Việt Nam trong thời đại mới đã được xác định rõ với các mục tiêu đó là:
Đến năm 2025, là nước đang phát triển có cơng nghiệp theo hướng hiện đại,
vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030 là nước đang phát
triển có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 trở
thành nước phát triển, thu nhập cao[13, tr.36].
Để đạt được những mục tiêu quan trọng này, Đại hội XIII của Đảng đã
xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi
dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đồn
kết tồn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” [13,
tr.34]; đồng thời chỉ rõ việc “Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền
tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững” [13,
tr.216]. Trong đó, Đại hội xác định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện
đại” [13, tr.143] là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm đưa đất nước phát
triển nhanh và bền vững. Cùng với đó là “Từng bước vươn lên khắc phục các
hạn chế của con người Việt Nam” [13, tr.143]. Qúa trình xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, mà cốt lõi là làm cho chủ


18
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống
tinh thần của xã hội, cũng chính là q trình xây dựng con người, phát huy tối
đa nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người. Phát triển văn hóa cũng
là vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển

văn hóa, phát triển bền vững đất nước. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy
con người tự hoàn thiện nhân cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt
động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, trở thành sức
mạnh nội sinh, động lực đột phá cho phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Đại hội XIII đã xác định: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con
người là trung tâm của phát triển và được chia sẻ những thành quả của quá
trình phát triển”[13, tr.215-216]. Và để làm được điều này, cần thực hiện tốt
hơn nữa các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, phúc lợi
văn hóa, an ninh văn hóa, an ninh con người, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân.
Lịch sử đã chứng minh trong mỗi bước ngoặt của cách mạng, cái tạo
nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, nhằm biến khát vọng thực hiện các
mục tiêu chính trị thành hiện thực đó chính là ý chí, là khát vọng của con
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Trong các cuộc kháng chiến chống xâm
lược trước đây, Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống yêu nước nồng nàn,
ý chí quật cường của cả dân tộc, đặc biệt là với khát vọng “Không có gì q
hơn độc lập, tự do”, và tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước”... mà dân tộc ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thách
thức để giành chiến thắng trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm ở thế kỷ
XX. Giờ đây, trong bối cảnh “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [13, tr.25], Đảng đã xác định mục
tiêu: "Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” [tr.34].
Đây là khát vọng chính đáng, vì lợi ích của tồn dân, có cơ sở từ lý luận khoa


19
học của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và những điều kiện và cơ hội
“chín muồi” của thực tiến đất nước.
Quá trình cách mạng Việt Nam và thực tế lịch sử đã chứng minh rằng:
thời kỳ nào cách mạng biết phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, tạo mọi

điều kiện cho hoạt động sáng tạo của con người thì con người Việt Nam ln
biết "chuyển bại thành thắng", chuyển từ tình thế khó khăn thành lợi thế trong
đó con người là động lực trung tâm. Do đó, khơi dậy khát vọng con người
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là yếu tố quan trọng, là động lực để thực
hiện mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

KẾT LUẬN
Những tư tưởng mang tính khoa học triệt để về triết học Mác - Lênin
nói chung và tư tưởng về vấn đề con người nói riêng là bước ngoặt cách mạng
thực sự trong lịch sử phát triển của triết học và đã làm cho triết học thay đổi
về chất, khơng cịn là mơn khoa học với tư cách là “khoa học của mọi khoa
học” mà nó là một khoa học bình đẳng như các khoa học khác. Và nó khơng
đơn thuần chỉ là học thuyết giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau mà
là một khoa học nghiên cứu và cải tạo thế giới, một khoa học vì con người.
Trong thời đại ngày nay, có thể nói nguồn tài nguyên, của cải đích thực
và quý giá nhất của mỗi một quốc gia đó chính là con người. Vì vậy, mục đích
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước xét đến cùng là phải vì con người, cho
con người và tạo môi trường thuận lợi để con người có cơ hội phát huy tối đa
mọi năng lực sáng tạo, nói một cách khác là có cơ hội phát triển tối ta cả thể
lực – trí tuệ và đạo đức.


20
Thực tiễn cho thấy con người luôn là trung tâm, là động lực quyết đinh
sự thành bại của mọi cuộc cách mạng. Ở nước ta hiện nay, vấn đề con người,
nguồn nhân lực có vai trị quyết định sự thành bại của sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước. Vì vậy, quan tâm, nghiên cứu nắm vững vấn đề
con người theo quan điểm của triết học Mác vận dụng sáng tạo vào trong quá
trình xây dựng đường lối, chiến lược xây dựng, phát triển con người, nguồn
nhân lực có nghĩa quan trọng, đặc biệt góp phần thực hiện thành cơng sự

nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo Dục – Đào Tạo, Triết học, Tập 1, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1999.
2. Bộ Giáo Dục – Đào Tạo, Lịch sử Triết học, Nxb. Giáo Dục, 2001.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 20, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995.
5. Dỗn Chính, Đinh Ngọc Thạch, Vấn đề triết học trong tác phẩm của C.
Mác – Ph. Ăngghen – V.I.Lênin, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008.
6. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987.
7. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Trung ương khóa VII, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1993.
8. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1996.


21
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.108-109.
10. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006
11. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011
12. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2016.
13. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, (tập 1), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2021.
14. Đại học Luật Hà Nội, Những nội dung cơ bản của triết học Mác- Lênin

qua các tác phẩm kinh điển, Nxb. Công an nhân dân, Hà nội, 2001.
15. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học MácLênin, Nxb, Lý luận chính trị, Hà Nội, 2021
16. Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử Triết học, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004.



×