Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

THỰC HÀNH TỐT NHẤT CHO X QUANG SỐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.26 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VIỆN ĐIỆN TỬ - VIỄN THÔNG
BỘ MÔN CNĐT VÀ KT Y SINH

CÔNG NGHỆ CHẨN ĐỐN HÌNH ẢNH I
Đề Tài: THỰC HÀNH TỐT NHẤT CHO X QUANG SỐ

GVHD

:

TS.Nguyễn Thái Hà

Họ và tên:

Ngô Trọng Đức

MSSV

:

20131006

Lớp

:

KT ĐTTT 02 – K58

HÀ NỘI, 1/2017
1




THỰC HÀNH TỐT NHẤT CHO X QUANG SỐ

Ước tính lượng bức xạ người Mĩ đang tiếp xúc do chẩn đoán hình ảnh y tế tăng
khoảng 6 lần từ năm 1980 đến năm 2006, và lần đầu tiên trong lịch sử, ước lượng phơi
nhiễm bức xạ y tế gần như tương đương với bức xạ nền.( Bức xạ nền là các bức xạ
ion hóa có mặt trong mơi trường. Bức xạ nền bắt nguồn từ nhiều nguồn khác nhau, cả
tự nhiên và nhân tạo . Nguồn bao gồm bức xạ vũ trụ , tự nhiên vật liệu phóng xạ như
radon , và bụi phóng xạ từ thử nghiệm vũ khí hạt nhân và tai nạn hạt nhân .) Những lí
do của sự gia tăng này rất đa dạng, và tỉ lệ phần trăm cao nhất của liều lượng tập
thể( xem như là liều lượng hiệu quả và số dân bị phơi nhiễm ) có thể dễ dàng giải thích
bởi sự tăng tương ứng trong chụp cắt lớp ( CT) và quét y học hạt nhân trong cùng
khoảng thời gian tương tự. Qua đó, tổng số các nghiên cứu về chẩn đốn hình ảnh y tế
tăng đáng kể, X-Quang cũng khơng ngoại lệ. Các nghiên cứu về X- Quang và huỳnh
quang tăng vọt từ 25 triệu năm 1950 lên đến 293 triệu năm 2006.
Theo các báo cáo về sử dụng chẩn đoán hình ảnh y tế đã được phát hành, việc
tập trung nghiên cứu vào liều tích lũy qui định trên mỗi cơ quan bộ phận của cơ thể,
trên lâm sàng đã được đẩy mạnh, dẫn đến lo ngại về việc sử dụng chẩn đốn hình ảnh y
tế. Trong lịch sử, phơi nhiễm bức xạ từ chẩn đốn hình ảnh y tế khơng phải là vấn đề
đáng lo ngại, và khơng có bằng chứng nào chỉ ra rằng rằng tiếp xúc với bức xạ ion hóa
liều thấp có thể tăng nguy cơ ung thư. X-Quang rõ ràng đã có rất nhiều tác dụng trong
suốt 100 năm của lịch sử chẩn đốn hình ảnh. Các kỹ thuật viên X quang luôn luôn cần
phải quan tâm đến việc đảm bảo an toàn bức xạ trong quá trình tạo ảnh y tế. Các kỹ
thuật viên X quang phải tuân thủ nguyên tắc ” thấp hợp lý có thể” (“as low as
reasonably achievable” – ALARA) bằng cách giữ bức xạ liều thấp hợp lý có thể khi
thực hiện chụp X quang kỹ thuật số. Như các kỹ thuật viên X quang đã điều chỉnh cho
sự ra đời của x-quang kỹ thuật số, họ đã có để tinh chỉnh kỹ thuật tiếp xúc và chú ý hơn
1



đến việc bảo vệ bức xạ.Công nghệ kĩ thuật số mạng lại nhiều lợi ích hơn so với cơng
ghệ phim-màn hình, như tiết kiệm thời gian, phạm vi hoạt động lớn hơn, vùng tiếp xúc
lớn hơn, khả năng xử lý sau tốt hơn…và các bác sĩ X quang có thể dễ dàng thao tác với
hình ảnh trên máy tính của họ. Kết quả là có một xu hướng ít quan tâm về kỹ thuật tiếp
xúc và cơ hội sử dụng bức xạ nhiều hơn mức cần thiết, một xu hướng mà thường được
gọi là "liều creep ". Kỹ thuật tiếp xúc mà các kỹ thuật viên X quang có thể sử dụng có
thể đảm bảo rằng hình ảnh kỹ thuật số có chất lượng tối ưu và liều bức xạ bệnh nhân là
tối thiểu, khác với các cách sử dụng cho ảnh film-screen. Cơng nghệ chẩn đốn hình
ảnh kỹ thuật số tương đối mới và thay đổi nhanh chóng, trình độ kỹ năng các kỹ thuật
viên X quang khác nhau, và nguồn lực thường nằm rải rác và có thể khác nhau ở mỗi
nơi. Các kỹ thuật viên X quang và bệnh nhân của họ sẽ được hưởng lợi từ một nguồn
duy nhất cung cấp thông tin cơ bản, thực hành tốt nhất và khuyến nghị về tối ưu hóa
chụp X quang kỹ thuật số và an toàn bức xạ cho bệnh nhân.

NỀN TẢNG X QUANG KĨ THUẬT SỐ
Các hình thức đầu tiên của hình ảnh kỹ thuật số, chụp tia X mạch trừ kỹ thuật số
đã được giới thiệu vào năm 1977 và đưa vào sử dụng lâm sàng vào năm 1980. Ngày
nay, chụp X quang kỹ thuật số bao gồm computed radiography và direct digital
radiography. Computed radiography (CR) là một hệ thống thay thế tấm film với 1 tấm
lân quang lưu trữ như một cơ quan cảm nhận hình ảnh. Những hình ảnh ngầm trên tấm
tiếp xúc được quét bởi một chùm tia laser và được chuyển đổi sang dữ liệu kỹ thuật số
để tạo ra hình ảnh. Direct digital radiography (DR) cũng có thể được phân nhiều loại
như hình ảnh chụp trực tiếp và gián tiếp, liên quan đến việc thu thập dữ liệu hình ảnh ở
định dạng kỹ thuật số mà không dùng quét laser để trích xuất hình ảnh ngầm.
Trong CR, tấm ảnh lân quang lưu trữ lần đầu tiên được sử dụng để ghi lại X
quang nói chung vào năm 1980. Việc nắm bắt trực tiếp của x-quang cho hình ảnh kỹ
thuật số được đưa ra với DR sử dụng một thiết bị tích điện kép vào năm 1990. Công
nghệ phát triển và cải thiện trong thập kỷ tới và tới năm 2001, có thể hiển thi hình ảnh
lên màn hình trong thời gian thực. Sự phát triển của các receptor hình ảnh kỹ thuật số

2


đã tăng lên dần dần và đều đặn. Ngày nay, công nghệ bao gôm các thiết bị và vật liệu
như tấm lân quang lưu trữ, thiết bị chargercoupled, bóng bán dẫn màng mỏng, chất dẫn
ảnh và x-quang scintillators. Hệ thống Cassette-based và cassette-less đã xố nhồ ranh
giới giữa CR và DR. Qua năm 2014,theo phân tích của hãng nghiên cứu thị trường
công nghệ Technavio, hãng báo cáo rằng thị trường X quang kỹ thuật số tồn cầu có
thể tăng với tốc độ tăng trưởng hàng năm là 3,3%. Sự phức tạp trong cách hoạt động
của các hệ thống này đã tạo ra quan niệm sai lầm về các thực tiễn sử dụng tốt nhất của
X quang kỹ thuật số.

Liều xạ
Thực hiện theo nguyên tắc ALARA, người chụp nên giảm tiếp xúc với bệnh
nhân từ các thủ tục chụp X quang kĩ thuật số. Việc sử dụng chụp X quang số có thế
giảm được liều xạ so với sử dụng chụp X quang với phim mà không làm giảm chất
lượng ảnh. Sử dụng các receptors kĩ thuật số (Bộ phận thu ảnh, là các cảm biến số
CCD, CMOS, TFT) cần chú ý phù hợp các tiêu chuẩn thực tế. Tuy nhiên kĩ thuật tiếp
xúc với film thông thường đựa dựa trên hệ thống film riêng và các điều kiện của người
xử lý film. X quang số chia tách việc xử lý và hiển thị, cho phép tạo ra một hình ảnh
với chất lượng và khả năng chẩn đốn có thể chấp nhận được tuy có thiểu thiếu sáng
hoặc quá sáng. Có thể điều chỉnh các lỗi ngay trên màn hình mặc dù thực tế làm như
vậy không phải là tốt nhất. Cách tốt nhất là chọn kĩ thuật tiếp xúc phù hợp với mỗi
bệnh nhân, dựa trên một hệ thống kế hoạch giữa bác sĩ X quang với bệnh nhân để tạo
ra ảnh có chất lượng tốt nhất. Chất lượng ảnh phụ thuộc rất nhiều vào độ tương phản,
sự đối lập sáng tối và mật độ điểm ảnh. Tương phản trên ảnh gồm 2 thành phần chính
là tương phản giữa các đối tượng và tương phản hiển thị. Tương phản giữa các đối
tượng là do sự hấp thu tia X của các mơ của mỗi đối tượng. Tương phản màn hình hiển
thị có thể điều chỉnh trong q trình xử lý sau bằng cách chỉnh độ sáng cửa sổ màn
hình. Độ tương phản thấp(nhiều chỗ màu xám) làm cho bác sĩ khó phân biệt các cơ

quan và xác định bệnh, một ảnh phải có độ tương phản tốt để có thể thấy rõ các cấu
trúc, cơ quan trên ảnh. Độ tương phản quá cao dẫn đến hình ảnh chủ yếu chỉ hiển thị
3


màu đen và trắng sáng, gây khó khăn để có thể nhìn được các chi tiết, các cơ quan giải
phẫu. Trong ảnh kĩ thuật số, độ tương phản là tỷ số giữa độ sáng của các cấu trúc, các
phần lân cận nhau. Và chi các mức độ màu xám ra được các mức độ sáng. Tương phản
giữa các cơ quan là do sự hấp thu khác nhau của tia X ở các mô khác nhau, độ dày và
mật độ các mơ trong cơ thể. Khơng giống như tương phản hình ảnh, tương phản đối
tượng không thể điều chỉnh hoặc loại bỏ bằng xử lý sau, nó bị ảnh hưởng trực tiếp bởi
sự suy giảm tia X qua mô, xương, mô mềm.
Khả năng điều chỉnh độ sáng màn hình và độ tương phản trong xử lý ảnh có thể
ảnh hưởng đến sự chú ý của người chụp tới các nguyên tắc cơ bản của bảo vệ bức xạ :
chất lượng hình ảnh tối ưu với tiếp xúc với bệnh nhân tối thiểu. Người chụp phải chú ý
đến tất cả các khía cạnh của chụp ảnh phóng xạ để cũng cấp chất lượng hình ảnh chẩn
đốn tốt nhất và giảm thiểu tiếp xúc với bệnh nhân, tối đa hóa lợi ích và giảm các tác
hại. Ngoài ra, cường độ bức xạ phạm vi lớn hơn mà receptors có thể nhận đã cho phép
1 phạm vi lớn hơn của các giá trị được xử lý số để có thể hiển thị 1 hình ảnh chẩn đốn
chất lượng. Vì phần thơng tin đến receptor không rõ ràng từ việc kiểm tra hay ghi lại
cho mỗi lần kiểm tra kĩ thuật số, có thêm 1 ngắt kết nối giữa chụp ảnh và kết quả tiếp
xúc với bệnh nhân. Một thực hành tốt nhất trong chụp X quang số là sự bao gồm các
thông tin liên quan đến receptor ảnh kĩ thuật số trong các dữ liệu ảnh được cung cấp
trong quá trình lưu trữ ảnh.
Trong chụp X quang số, máy tính sẽ tự động điều chỉnh 1 hình ảnh để đảm bảo
có chất lượng chẩn đoán tốt. Trong sự điều chỉnh này, sự chi tách của ảnh thu được và
hiển thị và sự thiếu thông tin của liều có thể sự dụng có thể làm tăng tiếp xúc với bệnh
nhân. Hơn nữa, tiếp xúc quá nhiều với 1 bệnh nhân trong lần chụp X quang số khơng
làm ảnh hưởng đến chất lượng hình ảnh, ngoại trừ ở mức rất cao khi tiếp xúc. Trong
thực tế, sự giảm nhiễu hình ảnh là kết quả từ việc tiếp xúc bổ sung, điều này làm giảm

phàn nàn của bác sĩ X quang về chất lượng hình ảnh. Đổi lại đây có thể là xu hướng
điều chỉnh kĩ thuật tiếp xúc, tăng nhẹ lượng bức xạ và sau đó là liều xạ đối với bệnh
nhân.
4


Nhiều tiêu chuẩn thực hành và kiểm soát liều creep cần xem xét cẩn thận và
tuân thủ nghiêm ngặt đến an toàn bức xạ để giảm liều cho bệnh nhân.Kỹ thuật viên X
quang cần truy cập vào thông tin thu thập và chuẩn hóa ở các cấp tổ chức và quốc gia
để có thể giúp họ thực hiện các quá trình chuyển đổi tốt hơn,đảm bảo tốt nhất an toan
bức xạ. Tránh tiếp xúc lặp lại, sử dụng cẩn thận tấm chắn bảo hộ và giới hạn chùm tia,
thiết lập rõ ràng phạm vi được chấp nhận cho các chỉ số tiếp xúc.

Tiếp thị xã hội và các sáng kiến an toàn bức xạ
Các vấn đề như liều creep đã khơng được chú ý. Các quốc gia và tồn cầu đang
tập trung vào bức xạ y tế, và một số nơi đã và đang đào tạo các kỹ thuật viên X quang,
nhà vật lý học, bác sĩ X quang,và công chúng nói chung. Với 1 khởi đầu như vậy, chiến
dịch Image Gently được tài trợ bởi tổ chức Alliance for Radiation Safety in Pediatric
Imaging bắt đầu vào 2008, để thúc đẩy bảo vệ an toàn bức xạ y tế cho trẻ em. Với một
tập trung ban đầu là giảm liều bức xạ cho trẻ em khi khám bằng máy chụp CT. Năm
2011, chiến dịch phát hành một danh sách kiểm tra an toàn cho hoạt động của các đợt
khám bằng máy DR trên bệnh nhi. Hơn 14.000 chuyên gia y tế đã thực hiện cam kết
giảm thiểu liều bức xạ cho trẻ em và giao thức CT của chiến dịch đã được tải về hơn
26.000 lần. Gần đây, các cơ quan tổ chức như American College of Radiology (ACR),
ASRT, American Association of Physicists in Medicine (AAPM) ,Radiological Society
of North America đang cùng nhau phát triển chiến dịch Image Wisely để giảm bức xạ
sử dụng trong y tế và loại bỏ các thủ tục không cần thiết. Phần lớn của sự thay đổi này
đem lại từ các phương tiện báo cáo kết hợp với quét CT ung thư giai đoạn đầu. Theo
ARC, cộng đồng X quang đã tập trung vào các vấn đề an toàn bức xạ bệnh nhân cho
đến những mối nguy hiểm tiềm tàng được công bố. Các thành viên khác của cộng đồng

y tế và công chúng bây giờ nhìn thấy vấn đề rõ ràng hơn, nhiều tổ chức, cá nhân đã làm
việc với nhau để giải quyết vấn đề này. Tổ chức Alliance for Radiation Safety in
Pediatric Imaging, được thành lập bởi bốn tổ chức hình ảnh, tiếp tục là người điđầu
trong các sáng kiến an toàn bức xạ.

5


Cũng có những nỗ lực từ các tổ chức quốc tế để cải thiện an toàn bức xạ y tế.
Hội đồng Khoa học của Liên Hợp Quốc về những ảnh hưởng của nguyên tử bức xạ
(UNSCEAR) công bố một báo cáo vào năm 2010 mô tả một kế hoạch chiến lược đến
năm 2013. UNSCEAR hỏi cơng chúng, chính quyền và các nhà khoa học có ý thức
hơn về liều bức xạ trong y học. Tại một cuộc họp năm 2010, UNSCEAR gọi là thu
thập dữ liệu được hoàn thiện, phân tích và phổ biến thơng tin cho bệnh nhân và những
người tiếp xúc với bức xạ nghề nghiệp. Ủy ban Quốc tế về Bảo vệ bức xạ đã được cập
nhật các báo cáo và khuyến nghị và Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế đã đưa ra
một kế hoạch hành động năm 2002 nhằm giảm tiếp xúc với bệnh nhân nhiễm phóng
xạ. Kế hoạch này bao gồm một trang web cung cấp thông tin cho bệnh nhân về an toàn
bức xạ
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã gia nhập với các tổ chức và các cơ quan khác
trong năm 2010 trong việc kêu gọi bộ toàn cầu của các hướng dẫn giới thiệu dựa trên
bằng chứng cho hình ảnh y tế. Ủy ban châu Âu cam kết phát triển các hướng dẫn cho
các nước thành viên và đã nhằm buộc các nước thành viên phải thích nghi với quy định
quốc gia của họ và các chương trình đảm bảo chất lượng để đáp ứng các yêu cầu chuẩn
hóa và nghiêm ngặt.
Hiệp hội Nhi Khoa X Quang đã tổ chức một hội nghị vào ngày 28 Tháng 2 năm
2004, tại Houston, Texas, qua đó tóm tắt sự cần thiết phải nhấn mạnh nguyên tắc
ALARA trong chụp ảnh kỹ thuật số. Các Hội nghị họp giấy trắng đã đề xuất 1 nhóm để
quản lý liều.Các kiến nghị khác bao gồm cải thiện đào tạo các kỹ thuật viên X quang
và chuẩn hóa các danh mục các nhà sản xuất để hỗ trợ trong sự hiểu biết và giảm thiểu

liều lượng, cải thiện liều phản hồi và phát triển các tiêu chuẩn trong chụp X quang kỹ
thuật số. Các kiến nghị khác bao gồm cải thiện đào tạo các kỹ thuật viên X quang và
chuẩn hóa các danh mục các nhà sản xuất để hỗ trợ trong sự hiểu biết và giảm thiểu
liều lượng, cải thiện liều phản hồi , và phát triển các tiêu chuẩn trong chụp X quang kỹ
thuật số.

6


Năm 2010, trung tâm thực phẩm và dược phẩm hoa kì FDA đã bắt đầu một sáng
kiến để giảm tiếp xúc không cần thiết từ các thủ tục trong chẩn đốn hình ảnh y tế.
FDA đã hỗ trợ cho sự phát triển của các tài liệu giáo dục và một danh sách kiểm tra an
toàn cho chụp X quang số thông qua chiến lược Image Gently. FDA cũng đã đề nghị
rằng những nhà máy thiết kế các thiết bị tạo ảnh y tế cần chú tâm tới những bệnh nhân
điều trị bằng thuốc dài hạn, những bệnh nhân nhí (bệnh nhân có độ tuổi từ 0- 18) .

Hướng dẫn thực hành X quang số của ACR
ACR phát triển một hướng dẫn thực hành cho chụp X quang kỹ thuật số vào
năm 2007. Mục đích của tài liệu là "cung cấp hướng dẫn và hỗ trợ trong việc tìm hiểu
và sử dụng lâm sàng của thiết bị chụp X quang kỹ thuật số để cung cấp chất lượng hình
ảnh tối ưu với liều bức xạ thích hợp, và cuối cùng là đảm bảo an tồn và chăm sóc cho
bệnh nhân sau khi chụp X quang kỹ thuật số. " Nói chung, hướng dẫn của ACR cần trải
qua tất cả các kiểm tra, đồng thuận chính thức từ các chuyên gia. Các hướng dẫn này
khơng nhằm mục đích hợp pháp tiêu chuẩn chăm sóc; các nhà cung cấp có thể sử dụng
chúng như là nền tảng cho thực hành và sửa đổi chúng theo hoàn cảnh cá nhân và các
nguồn lực. Hướng dẫn ACR trên X quang kỹ thuật số cung cấp thơng tin bị mất trong
khoảng cách giữa phim màn hình và hình ảnh kỹ thuật số, và một số trong những điểm
quan trọng của hướng dẫn này được bao gồm trong bài viết này. Bằng việc phác thảo
rõ ràng các thông tin như tiêu chuẩn về nhân sự, sử dụng lưới điện, phòng chống creep
liều và xác định các yếu tố tiếp xúc thích hợp, hướng dẫn đặt nền móng cho giao thức

cơ sở và tiêu chuẩn hóa các kỹ thuật tiếp xúc với kỹ thuật số. Các hướng dẫn ACR
cũng so sánh phim màn hình và cơng nghệ kỹ thuật số, giúp các kỹ thuật viên X quang
và các chuyên gia y tế khác hiểu rõ hơn về sắc thái mà họ gặp phải khi làm việc với
hình ảnh kỹ thuật số.

Phạm vi của bài báo

7


ASRT đã đấu tranh bảo vệ bức xạ trong chụp ảnh kỹ thuật số cho tất cả các
nhóm tuổi thơng qua hỗ trợ và tham gia chiến dịch Image Gently và Image Wisely.
Ngồi ra, ASRT có một lịch sử tiếp tục thúc đẩy các lĩnh vực chuyên nghiệp thông qua
công bố tài liệu giáo dục và quảng bá cho công chúng và cộng đồng hình ảnh y tế.Tính
chính xác, trách nhiệm và sự vượt trội trong hình ảnh y tế và xạ trị (The Consistency,
Accuracy, Responsibility and Excellence – Viết tắ là CARE ) có thể giúp cung cấp nền
tảng cho sự thống nhất quốc gia của các giấy phép. ASRT hỗ trợ nỗ lực hướng tới việc
thông qua dự luật CARE để thúc đẩy các tiêu chuẩn tối thiểu trong mỗi quốc gia đảm
bảo về giáo dục và kĩ thuật lâm sàng của nhân viên X quang và thủ tục xạ trị. Bài này
là một sự tiếp nối quan trọng của nỗ lực tận tâm của ASRT trong việc tăng cường bảo
vệ bức xạ cho bệnh nhân và đào tạo chuyên nghiệp cho kỹ thuật viên X quang.
Các Các kỹ thuật viên X quang (Kỹ thuật viên X quang) chịu trách nhiệm lớn
trong sự an toàn bức xạ của bệnh nhân. Hơn nữa, bài báo nói rằng "kỹ thuật viên phải
chịu trách nhiệm cho việc hạn chế tiếp xúc với bức xạ cho bệnh nhân bằng cách đảm
bảo các thủ tục thích hợp và kỹ thuật được tuân thủ ...
Các kỹ thuật viên X quang - người thực thi chụp X quang kỹ thuật số phải nhận
trách nhiệm của mình trong việc tìm hiểu làm thế nào để tối ưu hóa hình ảnh kỹ thuật
số trong khi giảm thiểu liều bức xạ cho bệnh nhân. Theo các chuyên gia về kỹ thuật
tiếp xúc trong nhóm X quang, kĩ thuật viên X quang nên chủ động cập nhật những điều
cơ bản về bảo vệ bức xạ và những công nghệ mới.

Các cách làm tốt nhất và khuyến nghị được bao gồm trong bài viết này được coi
như một nguồn tài nguyên cho kĩ thuật viên X quang – người thực thi chụp X quang kỹ
thuật số.

Từng bước cho cách làm tốt nhất
8


Kĩ thuật viên X quang cần chịu trách nhiệm và thực hiện một cách thích hợp các
ngun tắc, qui trình trong chụp X Quang số vì đó là nhiệm vụ chuyên môn của họ và
là một thành phần thiết yếu của tiêu chuẩn thực hành. Bênh cạnh việc chuẩn bị cho các
đợt khám X quang số thông qua các thành tựu của giáo dục và kĩ năng tập hợp, có một
số cách trước, trong và sau khi khám mà kĩ thuật viên Xquang có thể tối ưu hóa kĩ
thuật tiếp xúc và hạn chế tối đa tiếp xúc bức xạ.

Trước khi bắt đầu chụp
Kĩ thuật viên X quang thường là người đầu tiên và thường chỉ có duy nhất, các
chuyên gia y tế tương tác với bênh nhân, những người chuẩn bị khám X quang, kĩ thuật
viên Xquang mang rất nhiều trách nhiệm ngay cả khi trước khi bệnh nhân bắt đầu
khám. Đảm bảo an toàn bức xạ bênh nhân được duy trì và tiếp tục tối thiểu địi sự chú
ý đến nhiều vấn đề trước khi chụp. Một số vấn đề thường gặp ở phim và màn hình.
Hiệu lực của qui trình
Trong một cuộc khảo sát của các kĩ thuật viên X quang của ASRT hướng dẫn
cho chiến dịch Image Gently, gần 12% số người trả lời “ Các lần khám không cần theo
yêu cầu của bác sĩ” như góp phần gây ra hoặc tiếp xúc với bức xạ quá mức khi thực
hiện chụp X quang kĩ thuật số. Khám chẩn đốn hình ảnh khơng thích đáng khơng cần
thiết thêm vào lượng bức xạ tích lũy ở bệnh nhân. Các kĩ thuật viên X-quang có thể là
người duy nhất có thể nhận ra các dấu hiệu bất thường. Các kĩ thuật viên X quang nên
tham khảo ý kiến với các bác sĩ hoặc yêu cầu thông tin từ nhà sản xuất để có một qui
trình hợp lý.

Trên một quy mơ lớn hơn, việc tăng sự sử dụng chẩn đốn hình ảnh y tế đã được
thêm vào việc tăng liều bức xạ trên bệnh nhân. Một tần số cao hơn các lần khám có thể
trực tiếp ảnh hưởng đến liều cá nhân và liều tập hợp. Các vấn đề về hình ảnh đang
được giải quyết trên tồn cầu với các tiêu chuẩn hình ảnh, cùng với các chiến dịch
truyền thơng xã hội và sự can thiệp của các bên thứ ba khác.

9


Các tổ chức như ACR đã phát triển các hướng dẫn cụ thể để giúp các bác sĩ có
một quy trình phù hợp. Ví dụ như tiêu chuẩn ACR Appropriateness xây dưng dựa trên
tiêu chí của các chuyên gia xử lý ảnh, các tiêu chí bao gồm một số loại chẩn đốn hình
ảnh và các phương pháp chữa bệnh sử dụng hình ảnh và bức xạ ion hóa. Tổ chức y tế
thế giới WHO đã đề xuất phát triển các hướng dẫn cho việc sử dụng hình ảnh y tế trên
toàn cầu. WHO đã tổ chức một cuộc họp vào tháng 3 năm 2010 với 36 chuyên gia từ
khắp nơi trên thế giới, các chuyên gia khuyên cáo phát triển các hướng dẫn dưới sự bảo
hộ của WHO. Các hướng dẫn này sẽ bao gồm mức độ, liều lượng bức xạ phù hợp cho
các lần chụp cùng với đánh giá tính hiệu quả của mỗi lần chụp.
Việc theo dõi các kì khám trước cũng có thể giúp các kĩ thuật viên X quang sao
lại kết quả trước khi bắt đầu qui trình mới. Rà sốt lại các hồ sơ sức khỏe có thể giúp
kiểm tra nơi khám trùng lặp, tuy nhiên bệnh nhân có thể chụp ảnh thực hiện bởi một số
các nhà cung cấp trong khoảng thời gian nhất định. Nhiều tổ chức và cơ quan quốc tế
đã chấp nhận phát triển hệ thống theo dõi các qui trình chụp ảnh phóng xạ tương tự
như hồ sơ tiêm chủng. Sử dụng một hệ thống dựa trên chuẩn hóa đầu vào từ các nhà
cung cấp phần nào giúp bệnh nhân có thể xác định các lần khám trùng lặp và ghi liều
tích lũy. Ngồi việc xác định khám trùng lặp, kĩ thuật viên X-quang cũng cần phải chú
ý tới sức khỏe bênh nhân thông qua sổ khám sức khỏe của bệnh nhân. Các thơng tin
quan trọng có thể thu được bằng cách hỏi những câu hỏi thông thường của bệnh nhân
để xác nhận thêm việc khám và để xác định xem bệnh nhân có nên được khám có liên
quan đến bức xạ hay khơng. Đó là một thực hành tốt nhất trong chụp X quang kỹ thuật

số cho kĩ thuật viên X-quang để xem xét cẩn thận việc khám của bệnh nhân để tránh
khả năng trùng lặp và để đảm bảo sự phù hợp như liên quan đến lịch sử khám bệnh của
bệnh nhân. Nếu có khả năng rằng việc khám có thể là khơng thích hợp, kĩ thuật viên Xquang nên tham khảo ý kiến với các bác sĩ X quang và bác sĩ đặt hàng để đảm bảo việc
khám thích hợp.
Tiêu chuẩn và giao thức khoa

10


Các nguyên tắc chỉ đạo quốc tế và các yêu cầu cấp phép cung cấp nền tảng cho
khoa X quang có thể dựa trên các giao thức cụ thể của họ cho tất cả các lần chụp ảnh,
bảo gồm cả khám chụp X quang kĩ thuật số. Ví dụ nếu như khoa X quang không khai
thác các biểu đồ kĩ thuật tiếp xúc hoặc làm sẵn cho kĩ thuật viên X quang, điều này sẽ
gây khó khăn cho kĩ thuật viên X quang trong việc tự điều chỉnh mAs và KVP sao cho
tối ưu. Khi các hệ thống kiểm soát tiếp xúc tự động (AEC), các biến khác như cấu hình
bộ dị AEC và sao lưu thời gian cũng có thể được chuẩn hóa. Các phịng ban nên thiết
lập các giao thức cho việc khám chụp X quang kỹ thuật số và công bố rõ ràng để kĩ
thuật viên X quang sử dụng.
Các kĩ thuật viên X quang nên tham khảo ý kiên bác sĩ và các nhà cung cấp để
có thể tinh chính các thơng số kĩ thuật tiếp xúc và các giao thức được cung cấp bởi nhà
sản xuất. Cách tốt nhất cho một kĩ thuật viên X-quang để đảm bảo tính thống nhất là
làm theo các giao thức được dựa trên nghiên cứu lâm sàng và các hướng dẫn.
Ưu điểm của chụp X quang kỹ thuật số bao gồm sự dễ dàng của việc kết hợp
hình ảnh và nhập lệnh vào hệ thống hiện có, có hệ thống thơng tin chẩn đốn hình ảnh
(RIS) và có hệ thống truyền thơng (PACS). Điều này có ảnh hưởng tích cực đến công
việc chụp X quang, loại bỏ nhiều bước thủ cơng và giúp cho việc chăm sóc bệnh nhân
hiệu quả hơn. Ví dụ trong một cơ sở có hệ thống thông tin X quang (RIS), hồ sơ y tế
điện tử (EHRs) và hệ thống lưu trữ hình ảnh và truyền thơng (PACS), q trình từ lúc
bắt đầu đến khi có kết quả địi hỏi ít đến sự tương tác của con người.
Hệ thống thơng tin chẩn đốn hình ảnh (RIS) và hệ thống phương thức worklist

đã ghi vào lịch trình một worklist cho các thiết bị chụp X quang kĩ thuật số, gói thơng
tin với những hình ảnh thu được và gửi nó đến hệ thống lưu trữ và truyền thơng
(PACS). Thơng tin này có sẵn tại trạm làm việc của bác sĩ X quang. Và nếu bác sĩ X
quang sử dụng phần mềm nhận dạng giọng nói, báo cáo sẽ được tạo ra tự động cho bác
sĩ, sau đó lưu trữ và phân phối cho các bác sĩ thông qua hồ sơ y tế điện tử (EHRs).

11


Việc giảm sự tương tác của con người là một trong những lý do cho việc áp
dụng một công nghệ mới và tự động hóa các quy trình khác nhau một các chính xác.
Việc chuyển đổi từ X quang thường quy sang X quang kĩ thuật số ban đầu có thể rất
khó khăn khi X quang kĩ thuật số có thể là phương thức đầu tiên, duy nhất hay cuối
cùng chuyển tiếp trong ngành X quang, nó là bắt buộc để thực hiện các bước để đánh
giá, chuẩn bị và thiết lập lập các quy trình để biểu diễn và lưu trữ hình ảnh kỹ thuật số.
Việc chuẩn bị này liên quan đến công nghệ, những người thực hiện cần có những cơng
cụ và quy trình thích hợp để làm cơng việc của họ một cách chính xác.
Mặc dù các cơng nghệ kỹ thuật số đơn giản hóa quy trình làm việc, tuy nhiên,
kế hoạch điều chỉnh quy trình làm việc là rất quan trọng. Nó bắt đầu bằng cách xem xét
luồng công việc hiện tại cho việc thu thập và hiển thị hình ảnh, cùng với đảm bảo chất
lượng (QA). Các kĩ thuật viên X quang và các thành viên khác trong nhóm phải quyết
định liệu có nên cố gắng lặp lại quy trình làm việc với các cơng nghệ kỹ thuật số hay
cải thiện chúng. Họ cũng phải làm việc với nhau và với các nhà cung cấp để xác định
khoảng trống tiềm năng trong công việc hoặc chức năng. Nhóm nghiên cứu sau đó phải
lập hồ sơ cơng việc và tiêu chuẩn hóa giao thức và quy trình. Các kĩ thuật viên X
quang phải tuân theo các giao thức và các tiêu chuẩn được thiết lập bởi các phịng ban
của họ và tham gia tích cực trong việc xây dựng và phát triển hơn nữa các giao thức
đảm bảo tính nhất qn của các hình ảnh chẩn đoán và phương pháp cải tiến để giảm
liều bức xạ cho bệnh nhân. Đây là một thực hành tốt nhất quan trọng trong chụp X
quang kỹ thuật số.

Khám sàng lọc thai
Như với chụp X quang thường quy, các kĩ thuật viên X-quang cần phải cẩn thận
xem lại bệnh án của bệnh nhân trước khi bắt đầu việc kiểm tra kỹ thuật số để xác định
xem bệnh nhân có thai hay không. Làm thế nào để xác minh mang thai thay đổi đôi
chút theo giao thức bộ phận, nhưng thường bao gồm hỏi tuổi thai của phụ nữ nếu có
bất kỳ khả năng họ đang mang thai. Các kĩ thuật viên X-quang có thể sử dụng các dấu
hiệu vật lý và các câu hỏi để hỗ trợ trong việc xác định thai.Sự khéo léo và chuyên
12


nghiệp giúp kĩ thuật viên X-quang và bệnh nhân yên tâm hơn. Các phòng ban thường
đòi hỏi các tài liệu bằng văn bản trước khi sàng lọc thai kỳ, và bác sĩ của bệnh nhân
hoặc bác sĩ X quang thường quyết định khi thử nghiệm mang thai là cần thiết. Các bác
sĩ cũng quyết định xem bệnh nhân nên cần được khám chẩn đốn hình ảnh phương
thức khác để tránh phải tiếp xúc với bức xạ. Việc kiểm tra của bệnh nhân đối với thai
kỳ là một thực hành tốt nhất cần thiết cho an toàn bức xạ trong chụp ảnh kỹ thuật số.

Thu nhận ảnh
Các cơ sở của lựa chọn kỹ thuật tiếp xúc trong chụp X quang không thay đổi
đơn giản chỉ vì kĩ thuật viên X-quang sử dụng một loại receptor khác. Khi tạo hình ảnh
sử dụng công nghệ kỹ thuật số, các kĩ thuật viên X quang vẫn phải xác định phơi
nhiễm phóng xạ cần thiết để tạo ra hình ảnh chất lượng cho việc chẩn đốn. Một hình
ảnh chất lượng là hình ảnh có đủ độ sáng, mật độ ảnh để hiển thị các cấu trúc giải phẫu,
một độ tương phản thích hợp để phân biệt giữa các cấu trúc giải phẫu, độ phân giải
không gian tối đa và số sai sót là ít nhất có thể. Ngồi ra, hạn chế lượng nhiễu, đốm do
q ít tia X đi đến receptor là một mối quan tâm chung trong hình ảnh kỹ thuật số.
Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thu nhận, xử lý và hiển thị một hình ảnh chất lượng
và sự ra đời của hình ảnh kỹ thuật số đã tạo ra những thách thức mới cho kĩ thuật viên
X-quang.
Công nghệ chụp ảnh kỹ thuật số tiếp tục phát triển và thay đổi trong sự phát

triển của họ và cách thức tạo hình ảnh ngầm đã đạt được. Receptor thông thường phổ
biến trong X quang số bao gồm receptor photostimulable và màn hình phẳng màn
mỏng. Bởi vì cơng nghệ đang thay đổi nhanh chóng, receptor kỹ thuật số sẽ được nhắc
đến trong sự khác biệt nói chung và cụ thể giữa các detector sẽ được mơ tả khi thích
hợp. Chuẩn hóa kỹ thuật tiếp xúc và nhấn mạnh thực hành có thể giúp đảm bảo một kĩ
thuật viên X-quang tuân theo các nguyên tắc ALARA khi thực hiện khám chụp X
quang kỹ thuật số.

13


Kỹ thuật tiếp xúc tiêu chuẩn
Receptor phản lại một sai số lớn trong cường độ tia X đi ra khỏi bệnh nhân. Kết
quả là, các receptor kỹ thuật số cũng có một dải động rộng. Ngồi ra, máy tính có thể
tạo ra hình ảnh "chấp nhận được", ngay cả khi xảy ra sự tiếp xúc quá lâu. Vì vậy, các
tiêu chuẩn kỹ thuật tiếp xúc được sử dụng trong ngành X quang đã trở nên quan trọng
hơn. Công nghệ kỹ thuật số được phát triển nhanh chóng, và các phịng ban không thể
chỉ dựa vào các nhà cung cấp và các tổ chức chuyên nghiệp để thiết lập các tiêu chuẩn
kỹ thuật. Thiết lập các chính sách và các giao thức giúp ngành X quang có thể đảm bảo
tính nhất quán trong chất lượng chẩn đoán của việc khám X quang kỹ thuật số và giảm
thiểu khả năng lỗi lựa chọn kỹ thuật tiếp xúc.
Chuẩn hóa các kỹ thuật tiếp xúc khơng có nghĩa là kĩ thuật viên X quang có thể
sử dụng cùng một giao thức cho tất cả các bệnh nhân trong mọi tình huống. Kỹ thuật
tiếp xúc phải được điều chỉnh cho bệnh án và điều kiện cụ thể của mỗi bệnh nhân. Sử
dụng hợp lý và nhất quán theo biểu đồ kỹ thuật tiếp xúc, đủ KVP và AEC là điều cần
thiết để có thể chẩn đốn hình ảnh trong khi giảm thiểu phơi nhiễm bức xạ cho bệnh
nhân.
Kilovoltage Peak (kVp)
Chất lượng hình ảnh phụ thuộc số lượng và năng lượng của tia X đến các
receptor. KVP và mAs là 2 thông số được lựa chọn để điều chỉnh chụp X quang số theo

cách tương tự như đối với X quan thường quy. Tuy nhiên, số lượng tiếp xúc (mAs) vào
các receptor không trực tiếp ảnh hưởng đến lượng mật độ / độ sáng hình ảnh tạo ra từ
q trình xử lý của máy tính. KVP ảnh hưởng đến độ tương phản của hình ảnh thu
được. Một hình ảnh chất lượng được tạo ra với đủ KvP và mAs có độ tương phản tốt,
giảm tối đa nhiễu. Việc tăng Kvp cùng với giảm mAs một lượng tương ứng là một cách
làm được ủng hộ bởi một số chuyên gia khám chụp X quang số cho người trên 18 tuổi.
Tăng KvP khoảng 15% va giảm mAs góp phần làm giảm bức xạ tiếp xúc với bệnh
nhân. Tăng KvP làm giảm độ tương phản của hình ảnh và tăng lượng bức xạ tán xạ đi
14


đến receptor, vì vậy việc sử dụng lưới lọc là rất cần thiết. Xác định lượng KvP cần thiết
cho chụp X quang số cùng với sử dụng lưới lọc cần được chuẩn hóa cho ngành X
quang.
Kiểm sốt tiếp xúc tự động (Automatic Exposure Control - AEC)
Hệ thống hiểm soát tiếp xúc tự động (AEC) cho X quang số hoạt động tương tự
như hệ thống cho X quang thường qui. Điều quan trọng là AEC được điều chỉnh sao
cho phù hợp với hệ thống receptor trước khi đưa vào sử dụng lâm sàng. Hệ thống AEC
sử dụng detector là buồng ion hóa được lập trình sẵn. Các hệ thống truyền thống được
trang bị với ba buồng ion hóa; một số hệ thống AEC mới có 5 detector để lựa chọn.
Điều quan trọng là các kĩ thuật viên X quang cần chọn cấu hình bộ dectector thích hợp
cho việc khám.
Mục đích của AEC là để kiểm sốt thời gian tiếp xúc, vì vậy sử dụng các tính
năng này rất quan trọng đối với an toàn bức xạ cho bệnh nhân. AEC giúp kiểm soát
tổng mAs, nhưng kĩ thuật viên X-quang vẫn là người chịu trách nhiệm chọn lượng mA
tối ưu (nếu thiết lập) và KVP cho việc khám khi sử dụng AEC, và biểu đồ kỹ thuật giúp
đảm bảo sử dụng phù hợp các yếu tố này với AEC. Mặc dù AEC được khuyến cáo sử
dụng ở hầu hết các lần chụp để giúp giảm phơi nhiễm bức xạ lên bênh nhân, tuy nhiên
cũng có những lúc nó khơng thể sử dụng. Ví dụ nếu cấu trúc giải phẫu cần chụp quá
nhỏ để bao phủ ít nhất một trong các detector của AEC, AEC sẽ không làm việc và

không nên được sử dụng trong trường hợp này. Nếu sử dụng AEC trong trường hợp
chụp khu vực cấu trúc giải phẫu quá nhỏ, detector ở những khu vực không cần quan
tâm của bệnh nhân sẽ nhận được nhiều bức xạ hơn so với khu vực cần chụp. Vậy nên
AEC sẽ kết thúc thời gian tiếp xúc sớm và gây ra nhiễu lượng tử trên ảnh. Điều này đặc
biệt quan trọng để xem xét khi thực hiện chụp X quang nhi. Sử dụng AEC cho hình ảnh
giải phẫu gần với bạnh của cơ thể bệnh nhân chẳng hạn như xương địn cũng có thể
gây sớm kết thúc tiếp xúc và kết quả là không đủ tiếp xúc với các detector gây tăng
nhiễu lượng tử. Cuối cùng, sự xuất hiện của các vật thể kim loại như các vật cứng để
chỉnh hình có thể chống chỉ định dùng AEC. Trừ khi vật thể kim loại có thể di chuyển
15


ra khỏi khu vực cần quan tâm, họ tạo ra các khu vực chưa tiếp xúc trên các detector
AEC, thứ có thể ảnh hưởng đến thời gian tiếp xúc và có có thể tiếp xúc quá lâu trên
bệnh nhân. Mặc dù sử dụng của AEC là cách tốt nhất để kiểm sốt lượng bức xạ khơng
phụ thuộc vào loại receptor hình ảnh, tuy nhiên cần phải định vị chính xác và hiệu
chuẩn hệ thống của AEC. Kĩ thuật viên X quang nên đảm bảo rằng cấu trúc giải phẫu
cần quan tâm có thể bao trùm hầu hết các detector AEC và đặt vào vị trí thích hợp cho
việc kiểm tra. Điều này quan trọng đối với kĩ thuật viên X quang để tuân theo giao thức
khoa và biểu đồ kĩ thật tiếp xúc sử dụng trong AEC.
Chụp X quang lập trình sẵn trên phương diện giải phẫu và biểu đồ kĩ thuật
tiếp xúc
X quang lập trình sẵn trên phương diện giải phẫu (APR) là một hệ thống các
thiết lập kỹ thuật tiếp xúc với lập trình trước đó được tổ chức bởi vị trí và quy trình và
thiết lập thơng qua bảng điều khiển của đơn vị chụp X quang. Thiết lập của APR
thường đưa ra khuyến nghị cho kích thước bệnh nhân người lớn, nhỏ, vừa và bao gồm
sự kết hợp của AEC và hướng dẫn thiết lập kĩ thuật tiếp xúc. Điều đó rất quan trọng với
kĩ thuật viên X quang để đánh giá các kĩ thuật lập trình tiếp xúc cho phù hợp với mỗi
lần khám X quang.
Một biểu đồ kĩ thuật tiếp xúc cũng có thể được sử dụng để tiêu chuẩn hóa các kĩ

thuật tiếp xúc theo kích thước bệnh nhân, quy trình và vị trí. Sở có thể cung cấp các
biểu đồ với bảng tính tương đối đơn giản được đăng tải và truy cập đến kĩ thuật viên X
quang. Mặc dù biểu đồ kỹ thuật tiếp xúc mất thời gian và công sức để phát triển một
cách chính xác nhưng họ cần ngăn chặn các lỗi kỹ thuật tiếp xúc. Sử dụng thường
xuyên các biểu đồ có thể cung cấp tiếp xúc bức xạ phù hợp và chính xác tới các
receptor, do đó làm giảm liều bệnh nhân.
Cung cấp biểu đồ kỹ thuật tiếp xúc và thiết lập tiêu chuẩn đã loại bỏ nhiều sự nhầm
lẫn và lo ngại về việc sử dụng thích hợp của các biến như KVP, mA, sử dụng lưới và
SID. Các biểu đồ cũng cho phép bác sĩ X quang và kĩ sư công nghệ làm việc với nhau
16


để xác định mức độ chấp nhận của phơi nhiễm phóng xạ cung cấp hình ảnh chẩn đốn
chất lượng trong nguyên tắc ALARA. Một biểu đồ kỹ thuật tiếp xúc toàn diện bao
gồm ở mức tối thiểu các yếu tố sau cho mỗi ống tia X:
-

Thời gian tiếp xúc hoặc mAs (nếu thiết lập)
Khoảng cách từ nguồn đến receptor (SID)
KvP
Kích thước tiêu điểm
mA (nếu thiết lập)
Sử dụng một lưới và tỷ lệ lưới
AEC detector(s)
Phạm vi chỉ số tiếp xúc thể chấp nhận được

Thông thường, các biểu đồ kỹ thuật tiếp xúc được phát triển dựa trên độ dày của
bệnh nhân. Mặc dù đo độ dày bệnh nhân trong hình ảnh trưởng thành có thể khơng
được thực tế trong tất cả các phòng ban, biểu đồ được sử dụng thống nhất có thể làm
giảm những biến đổi trong các kỹ thuật tiếp xúc xảy ra trong quá trình tạo ảnh kỹ thuật

số. Các biểu đồ không thể giúp kĩ thuật viên X quang có thể đánh giá bệnh lý từng
bệnh nhân có điều kiện và hồn cảnh khơng bình thường vì biểu đồ kỹ thuật tiếp xúc
được thiết kế cho các bệnh nhân trung bình hoặc điển hình. Biểu đồ kỹ thuật tiếp xúc
nên được theo dõi và điều chỉnh liên tục để đảm bảo kỹ thuật tiếp xúc được có thể tạo
hình ảnh tuân theo nguyên tắc ALARA. Một thực hành tốt nhất trong chụp X quang kỹ
thuật số là sử dụng biểu đồ kỹ thuật tiếp xúc được liên tục cải tiến và áp dụng cho một
loạt các kích thước bệnh nhân.
Chuẩn trực và tấm chắn điện tử
Đó là điều cần thiết mà kxi thuật viên X quang cần cẩn thận sử dụng chuẩn trực để
chú ý tới cơ quan giải phẫu cần quan tâm khi thực hiện chụp để hạn chế tối đa tiếp
xúc với bệnh nhân và ngăn chặn các lỗi trong khi xử lý dữ liệu hình ảnh kĩ thuật số.
Bằng cách hạn chế giải phẫu tiếp nhận bức xạ, một khu vực nhỏ của các mơ của bệnh
nhân được tiếp xúc, do đó làm giảm liều bệnh nhân và giảm thiểu bức xạ phân tán vào
receptor. Chuẩn trực là rất quan trọng trong chụp X quang kỹ thuật số bởi vì receptor
17


ảnh kỹ thuật số nhạy cảm hơn với các tia bức xạ, và các kết quả hình ảnh kỹ thuật số
có thể thấy rõ làm giảm độ tương phản hình ảnh do bức xạ tán xạ vượt quá giới hạn
cho phép của receptor.
Hệ thống chụp X quang kỹ thuật số có phần mềm cung cấp tấm chắn điện tử
(chuẩn trực) dựa trên nhận biết tiếp giáp của vùng tiếp xúc của các receptor ; kĩ thuật
viên X quang có thể cần phải điều chỉnh các tấm chắn điện tử để căn chỉnh chính xác
nó đến phạm vi tiếp xúc. Các khu vực chưa tiếp xúc của hình ảnh bên ngồi của phạm
vi tiếp xúc chuẩn trực có một hình dạng sáng trên màn hình hiển thị có thể ảnh hưởng
đến tình trạng xem. Mục đích của tấm chắn là để giảm mỏi mắt của người xem do độ
sáng cao. Để chứng minh chuẩn trực thích hợp cho việc kiểm tra, tấm chắn nên được
gắn vào các hình ảnh với một khoảng cách nhỏ giữa các phạm vi tiếp xúc và điểm bắt
đầu của lớp phủ mặt nạ.
Sử dụng tấm chắn, đóng hoặc cắt xén khơng nên được sử dụng thay thế cho các

hạn chế tia đạt được thông qua chuẩn trực vật lý của kích thước trường tia X. Sử dụng
thích tấm chắn hoạt động như một lớp phủ trên các khu vực bên ngoài của phạm vi
tiếp xúc chuẩn trực; tấm chắn không nên sử dụng bao trùm cơ quan giải phẫu trong các
phạm vi tiếp xúc tại điểm thu hình ảnh vì lo ngại pháp lý và an toàn bức xạ.
Sự phù hợp bao gồm nhiều độ tiếp xúc trên một receptor phụ thuộc vào loại
receptorđược sử dụng. Nếu receptor có khả năng nhận nhiều hơn một hình ảnh trước
khi xử lý hình ảnh, quyết định làm như vậy nên được xác định với sự tham vấn của các
bác sĩ X quang.
Một thực hành tốt nhất trong chụp X quang kỹ thuật số là chuẩn trực chùm tia x
cho phù hợp quy trình khu vực giải phẫu. Tấm chắn điện tử cải thiện điều kiện xem
hình ảnh nên được áp dụng bênh cạnh phạm vi tiếp xúc với thực tế để chuẩn trực thích
hợp.
Che chắn

18


Thiếu che chắn khiến cho bệnh nhân phải chịu liều xạ cao hơn. Che chắn đặc biệt
quan trọng để bảo vệ vùng giải phẫu gần vùng tiếp xúc nhưng không can thiệp vào việc
thu thập thơng tin chẩn đốn. Ở mức tối thiểu, tuyến sinh dục của bệnh nhân phải được
che chắn ở phía trong 5cm của cạnh chùm tia X đúng chuẩn trực. Kĩ thuật viên X
quang nên làm theo hướng dẫn bộ phận che chắn cho thích hợp. Điều này đặc biệt quan
trọng cho các việc chụp ảnh X quang số vì che chắn có thể cản trở khả năng của thiết
bị để tối ưu hóa hiển thị cho các khu vực quan tâm nếu vật liệu che chắn được coi như
là một phần của dữ liệu được dùng để xử lý các hình ảnh. Che chắn là một thực hành
an toàn bức xạ cơ bản mà vẫn còn quan trọng khi thực hiện chụp X quang kỹ thuật
số.Một thực hành tốt nhất trong chụp X quang kỹ thuật số là việc sử dụng che chắn cho
các bộ phận giải phẫu nằm kề vùng chiếu tia X.
Tấm lưới lọc
Trên thực thế thì cơng nghệ ảnh kĩ thuật số nhạy cảm hơn cho tiếp xúc với bức xạ

mức độ thấp, làm cho việc sử dụng lưới chống tán xạ trở nên rất quang trọng để đảm
bảo chất lượng hình ảnh. Một bất lợi của việc sử dụng lưới là gia tăng yêu cầu tiếp xúc
bức xạ tới bệnh nhân. Tuy nhiên, sử dụng lưới làm giảm lượng bức xạ tán xạ đi đến các
receptor và cải thiện chất lượng hình ảnh. Các hướng dẫn biểu đồ kỹ thuật tiếp xúc nên
hỗ trợ kĩ thuật viên X quang trong việc xác định xem có nên sử dụng lưới lọc cho các
lần chụp X quang cụ thể. Như một quy luật chung, lưới thích hợp cho giải phẫu có độ
dày 10 cm trở lên và cho các lần chụp sử dụng cài đặt KVP là 70 hoặc cao hơn. Sử
dụng lưới có thể thay đổi ở bệnh nhân trẻ, tuy nhiên, hoặc dựa trên giao thức khoa hoặc
khuyến nghị của các nhà cung cấp thiết bị. Ngoài ra, điều quan trọng là cần tham khảo
ý kiến với các nhà cung cấp để phù hợp với thiết kế lưới phù hợp với hệ thống hình ảnh
kỹ thuật số để ngăn chặn các tia tán xạ. Một thực hành tốt nhất trong hình ảnh kỹ thuật
số là việc sử dụng một lưới với thông số kỹ thuật khuyến cáo của các nhà cung cấp cho
các bộ phận cơ thể vượt quá 10 cm.
Xác định vị trí

19


Xác định vị trí chính xác rất quan trọng đến chất lượng ảnh X quang. Các lỗi xác
định vị trí đã được tìm ra trong một số nghiên cứu. Vị trí khơng chính xác của các phần
liên quan đến các receptor cùng với một vùng tiếp xúc kém chuẩn trực thường tạo ra
kết quả trong hình ảnh kỹ thuật số chất lượng kém. Sự cố định là một thành phần quan
trọng của vị trí đó giúp ngăn ngừa bức xạ phản lại, đặc biệt là trong chụp X quang cho
bệnh nhi. Các kĩ thuật viên X quang cần lưu ý rằng một số các vật cố định sử dụng ở vị
trí gần bệnh nhân như bọt viển hay trải nhựa có thể gây ra các hình ảo trong ảnh và cần
phải được giữ lại trong vùng tiếp xúc. Một thực hành tốt nhất trong hình ảnh kỹ thuật
số là sử dụng các thiết bị cố định khi cần thiết và tránh tiếp xúc lặp lại bằng cách cố
định bệnh nhân thích hợp.

Lưu ý cho bệnh nhân nhi

Bệnh nhân nhi là bệnh nhân có độ tuổi thấp, địi hỏi sự chú ý đặc biệt từ kĩ thuật viên X
quang. Vì vậy, có nhiều yếu tố kĩ thuật viên X quang phải xem xét đặc biệt khi thực
hiện chụp ảnh X quang cho bệnh nhi. Bệnh nhi có những cơ quan đang trong giai đoạn
phát triển và có thể nhạy cảm hơn 10 lần với bức xạ ion hóa so với người lớn. Vì vậy
chú ý tuân thủ nguyên tắc ALARA cho chụp X quang bệnh nhi là điều rất cần thiết.
Chùm suy hao và mô
Độ dày mô, thể trạng cơ thể và các thành phần khác nhau trong mô ảnh hưởng
đến sự suy giảm chùm tia. Đây là cơ sở tạo ra ảnh X quang. Ví dụ, mơ cơ đậm đặc hơn
so với các mơ mỡ, và địi hỏi một sự gia tăng trong kỹ thuật sao cho chùm có thể thâm
nhập đầy đủ các mơ cơ, bất kể kích thước của bệnh nhân.Các kĩ thuật cấu hình lại áp
dụng cho các mô người trưởng thành không hoạt động khi áp dụng đối với trẻ em, kích
thước các cơ quan giải phẫu của trẻ em khác nhiều so với người lớn. Điều này gây khó
khăn cho việc ước tính phương pháp tiếp xúc vì độ dày của bệnh nhân khơng chỉ phụ
thuộc vào độ tuổi của trẻ mà còn về đặc điểm riêng của từng trẻ. Ngoài sự thay đổi
trong sự phát triển liên tục theo độ tuổi của trẻ, cơ thể của mỗi đứa trẻ cũng phát triển
với một tốc độ khác nhau. Ví dụ xương đùi của trẻ em chỉ bằng 1/5 kích thước xương
20


đùi người lớn và phát triển liên tục từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành. Mặt khác, hộp
sọ của trẻ phát triển chậm hơn, chỉ tăng gấp ba lần kích thước của tuổi trưởng thành.
Lưới thường khơng được sử dụng khi chụp cấu trúc giải phẫu là dày hơn 10 cm, vì vậy
kĩ thuật viên X quang phải cẩn thận cân nhắc sử dụng lưới dựa trên thành phần kích
thước và mơ thực tế của bệnh nhân. Vì các thành phần mô khác nhau ở mỗi bệnh nhân
nhi, lưới không nên được xem xét cho các bộ phận cơ thể ít hơn 12 cm độ dày.
Kỹ thuật tiếp xúc
Trong chụp X quang nhi, APR và biểu đồ kỹ thuật tiếp xúc phải được điều chỉnh
cho những bệnh nhân có thể trạng khác nhau từ trẻ sinh non để người lớn béo phì. Các
kĩ thuật viên X quang phải cẩn thận chọn KVP tối ưu để thâm nhập vào giải phẫu bệnh
nhân nhi nhân dưới sự nghiên cứu. Lựa chọn của KVP thích hợp là quan trọng hơn với

các lần chụp của trẻ sơ sinh và trẻ em bởi vì cơ thể của họ thường hiển thị độ tương
phản ít hơn. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có xương với vơi hóa xương ít hơn người lớn, địi
hỏi KVP thấp hơn so với yêu cầu trong lần chụp người lớn. Kết quả là, kĩ thuật viên X
quang có thể giảm KVP, nhưng vẫn có thể thâm nhập đầy đủ vào xương bằng chùm tia
X và cho một hình ảnh chẩn đốn chất lượng.
Thiết lập AEC người lớn khơng thể sử dụng cho các bệnh nhi. Các kĩ thuật viên
X quang có thể cần phải sử dụng kĩ thuật thủ cơng trong chụp X quang nhi khi các
phần nhỏ hơn buồn ion hóa.
Chuẩn trực / Che chắn
Chuẩn trực thích hợp và giảm thiểu tiếp xúc với các cơ quan giải phẫu, có thể
giảm liều bức xạ cho bệnh nhi. Các nghiên cứu đã tìm thấy rằng chuẩn trực kém dẫn
đến tiếp xúc với bức xạ không cần thiết cho trẻ em. Che chắn thích hợp cũng có thể
giúp giảm liều. Lá chắn phủ lên và nửa lá chắn có thể giúp bảo vệ cơ quan sinh dục của
trẻ em. Đặc biệt lá chắn hình có thể hữu ích cho tuyến sinh dục nam hoặc ngực ở nữ.
Đó là điều quan trọng, tuy nhiên, với một số hệ thống chụp X quang kỹ thuật số mà lá
chắn không cản trở khả năng của phần mềm để xác định các vùng tiếp xúc.
21


Xác định vị trí và cố định
Vì bệnh nhi có nhiều rắc rối khơng tn thủ trong q trình xác định vị trí và
chụp ảnh, phần giải phẫu có thể khơng được làm trung tâm chính xác hoặc liên tục
trong vịng ranh giới chuẩn trực so với vị trí của người lớn. Trong một số hệ thống hình
ảnh kỹ thuật số, chỉnh tâm không đúng cách ảnh hưởng đến quá trình phần mềm xử lý
hình ảnh. Các thiết bị cố định có thể giúp đảm bảo rằng các bệnh nhân nhi khoa có thể
được chụp ảnh mà khơng cần phải chụp lại. Tuy nhiên, sự quan tâm cần được thực hiện
khi sử dụng một số trợ cố định tiêu chuẩn mà có thể tạo ra Artifacts trên các receptor.
Một loạt các đồ chơi, sách và các công cụ phân tâm khác cũng có thể được sử dụng để
giúp thoải mái hoặc tập trung bệnh nhân trẻ em để hỗ trợ tn thủ với các u cầu vị trí
của quy trình.

Một thực hành tốt nhất trong chụp X quang kỹ thuật số trẻ em là có những hành
động thích hợp để sử dụng các nguyên tắc ALARA, bảo vệ bức xạ, và kích thước kỹ
thuật tiếp xúc thích hợp, vị trí thích hợp và cố định cũng là cần thiết để giảm tiếp xúc
lặp lại.

Bình luận hình ảnh
Kĩ thuật viên X quang phải đảm bảo rằng họ hồn tồn bình luận ảnh X quang của
mình để xem xét từng hình ảnh với:
-

Thơng tin bệnh nhân và lần khám chính xác
Độ sáng / tương phản.
Chỉ số tiếp xúc
Xử lý lỗi
Yêu cầu của giải phẫu
Độ chính xác của vị trí
Các vật thể.

Tóm lại, xem xét của kĩ thuật viên X-quang là quan trọng để đảm bảo rằng những
hình ảnh có chứa các thơng tin chẩn đốn hình ảnh cần phải giải thích các hình ảnh
cho bệnh lý và báo cáo lâm sàng.
22


Sự xuất hiện hình ảnh
Trong khi phân tích các dữ liệu hình ảnh, hệ thống kỹ thuật số có khả năng thực
hiện điều chỉnh các dữ liệu hình ảnh để hình ảnh có độ sáng chấp nhận được trong khi
thiếu sáng và tiếp xúc quá liều. Các lỗi tiếp xúc vẫn cịn bất kể những gì xảy ra trong
q trình chụp ảnh xử lý. Các lỗi xuất hiện trên các hình ảnh kỹ thuật số như nhiễu
lượng tử, đốm đó là nhìn thấy rõ ràng trong phần dày của giải phẫu chứa trong hình

ảnh. Tiếp xúc quá lâu làm giảm tương phản hình ảnh do sự gia tăng bức xạ đập vào
receptor. Trong trường hợp tiếp xúc quá nhiều đáng chú ý, kết quả là bác sĩ X quang
không thể xem xét tất cả các cấu trúc giải phẫu mà bình thường có thế nhìn thấy trong
hình ảnh do sự bão hòa.
Chỉ số tiếp xúc
Hệ thống kỹ thuật số thiếu các dấu hiệu thị giác dẫn đến nhận ra các lỗi tiếp xúc
khi làm việc với hệ thống hình ảnh filmscreen. Kết quả là, các kĩ thuật viên X-quang
cần theo dõi các chỉ số tiếp xúc (EI) kết hợp với hệ thống hình ảnh kỹ thuật số. Giám
sát EI cho mỗi hình ảnh giúp theo dõi và loại bỏ xu hướng có thể dẫn đến liều creep.
Các kỹ thuật viên X quang nên đánh giá EI như là một phần của bình luận hình ảnh,
lưu giữ trong lưu ý các độ biến thiên giữa các nhà cung cấp và những hạn chế của EI.
Chỉ số tiếp xúc đã được phát triển bởi các nhà sản xuất thiết bị. Mục đích của EI là
cho phép kĩ thuật viên X-quang có thể đánh giá mức độ tiếp xúc với các receptor đã
tiếp nhận và từ đó xác định các kỹ thuật tiếp xúc chính xác cho hình ảnh được sử dụng.
Tại thời điểm hiện tại, tên của EI rất khác nhau giữa các nhà sản xuất. Ngoài các biến
thể tên giữa các nhà sản xuất, các mối quan hệ giữa sự thay đổi trong mức độ tiếp xúc
và sự thay đổi tương ứng trong EI là bất cứ điều gì nhưng ln có sự thống nhất giữa
các nhà sản xuất. Việc thiếu một tên chuẩn hóa và đáp ứng mỗi quan hệ giữa liều và
chỉ số tiếp xúc có thể gây nhầm lẫn cho kĩ thuật viên X quang. Điều quan trọng cần lưu
ý rằng EI không đo liều bức xạ cho bệnh nhân và nhắc lại rằng EI ghi lại mức độ tiếp
xúc với các receptor.
23


Các cộng đồng cung cấp đã đáp lại, và bằng một nỗ lực chung của Ủy ban Kỹ
thuật Điện Quốc tế, các hình ảnh y tế và Cơng nghệ Liên minh (MITA) và Hiệp hội
Mỹ của vật lý trong y học (AAPM), các nhà sản xuất đang thực hiện một tiêu chuẩn
quốc tế cho EI gọi là IEC 62.494-1. Các tiêu chuẩn IEC cung cấp các giá trị EI phổ
biến để sử dụng với tất cả các loại của các thụ thể ảnh kỹ thuật số. Các giá trị EI tiêu
chuẩn không cung cấp một liều bệnh nhân thực tế thay vì cung cấp một giá trị ước tính

của sự cố phơi nhiễm phóng xạ với detector cho mỗi hình ảnh thu được.
Như một thực hành tốt nhất trong chụp X quang kỹ thuật số, kĩ thuật viên X
quang phải quen thuộc với các tiêu chuẩn EI cụ thể cho các thiết bị của họ, và với sự
chuẩn EI mới hơn và DI khi họ sẵn trong các thiết bị mới và nâng cấp sử dụng cho
chụp X quang kỹ thuật số.
Chỉ số hạn chế tiếp xúc
Đây là điều quan trọng để nhớ rằng EI là một dấu hiệu của tiếp xúc có thể xảy
đến tại receptor và khơng phải liều bức xạ tới bệnh nhân. Một kĩ thuật viên X quang
phải heieur các yếu tố kĩ thuật tiếp xúc dẫn đến giá trị EI.Trong quá trình xử lý hình
ảnh, một phần của chuỗi liên quan đến việc xác định phạm vi tiếp xúc. Lỗi trong quá
trình nhận biết trường tiếp xúc có thể gây ra khơng chính xác độ lệch chuẩn và nguyên
nhân lỗi khác nhau giữa các nhà cung cấp.
Những hạn chế khác là các phương pháp mà các nhà sản xuất sử dụng để xác
định các khu vực hình ảnh có liên quan để phân tích khi tạo giá trị EI khác nhau. Hơn
nữa, phạm vi tiếp xúc rộng tạo nên bởi ảnh kĩ thuật số và các vấn đề như chuẩn trực
kém, định vị bệnh nhân chưa chính xác hoặc thể trạng bất thường của bệnh nhân có
thể khiến EI cao hơn hoặc thấp hơn dự kiến. Hoàn thành việc chụp với một EI chấp
nhận được không nên tự động chấp nhận như xác minh đúng kĩ thuật.
Một thực hành tốt nhất trong chụp X quang kỹ thuật số là việc sử dụng có hiệu
quả các EI để xác định xem liệu tiếp xúc đã đi đến các receptor hay chưa. Các EI cung
cấp thông tin có giá trị về việc tiếp xúc với các receptor, và khi đánh giá cùng với chất
24


×