Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tài liệu TỔNG QUAN NGUỒN LỢI THỦY SẢN, CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.26 KB, 23 trang )



i

VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG
CENTRAL INSTITUTE FOR ECONOMIC MANAGEMENT
DỰ ÁN DANIDA
DANIDA PROJECT

Tel : (84-4) 8.453196
Fax: (84-4) 8.456795








TỔNG QUAN NGUỒN LỢI THỦY SẢN, CHIẾN LƯỢC
VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN
VIỆT NAM

OVERVIEW OF FISHERIES RESOURCE,
DEVELOPMENT STRATEGY AND POLICY FOR
FISHERIES FACTOR IN VIETNAM








TS. Nguyen Duy Chinh







Hà Nội, 2008


ii

MỤC LỤC

1. Đánh giá chung sự phát triển của ngành trong gần 2 thập kỷ qua 4

2. Tổng quan nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam 6

2.1. Số lượng và thành phần loài 6
2.2. Trữ lượng và khả năng khai thác hải sản 6
3. Hiện trạng khai thác hải sản 7

3.1. Số lượng và công sất tàu thuyền khai thác hải sản 7
3.3. Sản lượng và năng suất khai thác hải sản 8
3.5. Giá trị, giá thành và giá bản sản phẩm khai thác 10
3.2. Lao động nghề khai thác 11
4. Hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản 12


4.1. Diện tích, năng suất và sản lượng nuôi trồng 12
4.2. Giá trị, giá bán và giá thành sản phẩm nuôi trồng 14
4.3. Lao động trong nuôi trồng thuỷ sản 15
5. Chế biến, thương mại thuỷ sản 15

6. Một số chính sách ảnh hưởng đến sự phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam 17

6.1. Khung thể chế liên quan đến quản lý thủy sản 17
6.2. Một số chính sách liên quan đến sự phát triển ngành thuỷ sản 19
6.2.1. Chính sách quản lý sự phát triển của NTTS 19
6.2.2. Chính sách khuyến ngư 21
6.2.3. Chính sách quản lý sự phát triển khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản 21
7. Tài liệu tham khảo chính 22


DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Figure 1: Diễn biến số lượng và công suất tàu thuyền khai thác thuỷ sản ở Việt Nam
(Trung tâm tin học thủy sản, 2008) 8

Figure 2: Diễn biến sản lượng và năng suất khai thác thủy sản ở Việt Nam
(FAO,2008) 9

Figure 3: Diễn biến sản lượng khai thác thủy sản ở Việt Nam theo đối tượng (FAO,
2008) 10

Figure 4: Diễn biến giá trị, giá bán và giá thành sản lượng khai thác ở Việt Nam (Tổng
cục Thống kê, 2007) 11

Figure 5: Diễn biến diện tích, năng suất và sản lượng nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam

(FAO, 2008) 13

Figure 6: Sản lượng nuôi trồng theo đối tượng ở Việt Nam (FAO, 2008) 13

Figure 7: Giá trị, giá bán và giá thành sản phẩm các đối tượng thủy sản nuôi (FAO,
2008) 15

Figure 8: Diễn biến giá trị xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam (FAO, 2008) 17

Figure 9: cơ cấu tổ chức của Bộ Thuỷ sản theo Nghị định 43/2003/NĐ-CP 18











iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
NTTS Nuôi trồng thủy sản
KTTS Khai thác thuỷ sản

ĐDSH Đa dạng sinh học
HST Hệ sinh thái
KBTB Khu bảo tồn biển
USD Đô la Mỹ
CV Mã lực
GTGT Giá trị gia tăng



4

Bối cảnh chung
Việt Nam là quốc gia biển, có một vùng biển rộng, bờ biển dài và hội tụ nhiều
đảo, đa dạng về kiểu loại đất ngập nước với nhiều hệ sinh thái đa dạng sinh học cao, đã
tạo ra cho đất nước ta tính đa dạng hình về tiềm năng phát triển và nguồn lợi thuỷ
sinh… tiền đề cho sự phát triển một ngành thủy sản phát triển mạnh trên nhiều. Ngành
Thuỷ sản nước ta có thể phát triển mạnh ở các lĩnh vực như khai thác, nuôi trồng và
hậu cần dịch vụ. Trong đó, có thể phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) ở tất cả các
vùng sinh thái khác nhau, từ vùng núi, trung du, đồng bằng đến các vùng biển đảo; việc
khai thác thủy sản ở hầu hết các thuỷ vực từ vùng ven bờ đến vùng khơi, hay sâu trong
nội địa; việc phát triển hệ thống cảng cá, bến cá ở các vũng vịnh, cửa sông và tuyến
đảo. Vì thế, sản xuất thuỷ sản nước ta được xem là một nghề truyền thống, gắn bố với
các cộng đồng dân cư ở các vùng nông thôn và ven biển. Đưa nghề cá trong nước thành
nghề cá nhân dân, một ngành kinh tế đi đầu trong hội nhập kinh tế thế giới và đã phát
huy mạnh mẽ nhiều mô hình kinh tế “dân doanh” thu hút các thành phần kinh tế đầu tư
phát triển ngành.
Từ năm 1990 đến nay (năm 2007) tổng sản lượng thuỷ sản tăng gấp 4,1 lần, với
tốc độ tăng trưởng bình quân năm 8,11%/năm; đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng
18,5 lần, tương đương với tốc độ tăng trưởng bình quân năm 17,61%/năm; giá trị sản
xuất tăng gấp 5,7 lần, đưa tốc độ tăng trưởng bình quân năm 10,19%/năm; giải quyết

lao động gấp 2,5 lần và đạt tốc độ tăng bình quân năm 5,26%/năm. Để đạt được những
thành tựu trên, được đóng góp từ nuôi trồng với sản lượng luôn tăng 6,7 lần và tốc độ
tăng trưởng 11,17%/năm; trong khi đó sản lượng khai thác chỉ tăng 2,9 lần và tốc độ
tăng trưởng 6,12%/năm.

1. Đánh giá chung sự phát triển của ngành trong gần 2 thập kỷ qua
Không ai có thể phụ nhận được vai trò to lớn của ngành thuỷ sản trong cuộc đẩy
mạnh kinh tế nước nhà. Sự phát triển đó, được đóp góp phần lớn từ các hoạt động như
nuôi trồng thuỷ sản, khai thác và các dịch vụ hậu cần, chế biến thương mại.
Trong khai thác hải sản, số lượng tàu tuyền tăng gấp 1,3 lần, nhưng công suất
tăng gấp 6,4 lần và đạt tốc độ tăng bình quân năm về số lượng tàu thuyền 1,53%/năm,
công suất 10,87%/năm và sản lượng 6,03%/năm. Trong năm 2007, có khoảng 21.130
tàu đánh bắt xa bờ, cho sản lượng chime trên 40% tổng sản lượng hải sản khai thác của
toàn quốc. Việc đánh bắt không còn hạn chế ở nghề cá nhỏ ven bờ mà đã với ra khơi
xa, chuyển dịch theo hướng đóng tàu lớn, cơ giới hoá và tăng cường trang bị công nghệ
mới nhằm khai thác ở các ngư trường xa bờ với các đối tượng có giá trị thương mại cao.
Bên cạnh đó, có trên 60 cảng cá, bến cá được xây dựng với hơn 10 ngàn mét cầu cảng
đang dần phát huy hiệu quả, đặc biệt phục vụ cho các tàu xa bờ và phòng tránh trú bão.
Nuôi trồng thủy sản đang từng bước trở thành lĩnh vực sản xuất hàng hoá có tính
cạnh tranh cao. Năng lực khoa học công nghệ, vốn và sáng tạo trong tổ chức sản xuất
đã góp phần làm tăng vị thế của nuôi trồng (tốc độ tăng sản lượng 11,17%/năm, diện
tích 4,07%/năm) và sản lượng khai thác chiếm 50% tổng sản lượng. Diện tích NTTS
tăng chỉ gấp 2,2 lần, trong khi đó sản lượng tăng gấp 6,7 lần. Các đối tượng nuôi có giá
trị cao, có khả năng xuất khẩu đang được tập trung đầu tư cho sản lượng lớn, hiệu quả
tốt và có vị thế trên trường quốc tế như cá tra, ba sa, tôm sú. Hình thức nuôi thâm canh
còn mới mẻ trong những thập niên 90, nay đã phổ biến ở nhiều địa phương, đặc biệt
trong sản xuất tôm nguyên liệu, cá tra, hàng hoá. Nuôi biển cũng được bắt đầu trở thành
quen thuộc ở nhiều địa phương nơi có nhiều eo vịnh, nuôi biển là một giải pháp quan



5

trọng trong sử dụng các tiềm năng biển ven bờ, giảm sức ép đối với khai thác các vùng
ven bờ và góp phần tăng nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, giữ vững chủ
quyền vùng biển. Phát triển NTTS không chỉ góp phần chuyển dịch cơ cấu trong ngành
thủy sản mà còn góp phần quan trọng trong chuyển dịch và phát triển kinh tế xã hội
nông thôn (nhất là từ khi có Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15 tháng 6 năm 2000
của Chính phủ). Đến nay, sản lượng nuôi ở nước ta đứng thứ 3 trên thế giới và đạt tốc
độ tăng trưởng thứ 2 thế giới. Hiện đã chủ động con giống phục vụ phát triển nuôi; sản
xuất tôm giống đã trở thành một ngành sản xuất hàng hoá với sản lượng khoảng 30 tỷ
con giống hàng năm, nhiều đối tượng khác đã thành công trong sản xuất nhân tạo.
Chế biến xuất khẩu là lĩnh vực phát triển nhanh và có thể coi là động lực cho
tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu trong khai thác và nuôi trồng thủy sản. Chất lượng và
tính cạnh tranh được cải thiện không ngừng, tạo được uy tín trên thị trường thế giới.
Đến nay, cả nước đã có 439 nhà máy với tổng công suất 4.262 tấn/ngày, chuyển sang
sản xuất các mặt hàng thuỷ sản cao cấp bằng các dây chuyền tiến tiến. Hàng thuỷ sản đã
xuất khẩu sang trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, chủ động trong các thị trường chủ
yếu là Hoa Kỳ, RU, Nhật Bản và Trung Quốc.Về an toàn vệ sinh thực phẩm hiện có
171 doanh nghiệp nằm trong danh sách 1 vào thị trường EU, Nhật Bản, 300 doanh
nghiệp đủ điều kiện vào Hoa Kỳ, 295 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn vào Trung Quốc và
251 doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ sinh đối với thị trường Hàng Quốc.
Bên cạnh đó, xuất hiện nhiều mặt hàng nội địa trên các chợ đầu mối, các nhà hàng,
khách sạn và siêu thị. Cùng với đẩy mạnh khai thác xa bờ (đánh bắt các đối tượng có
giá trị xuất khẩu) và phát triển nuôi trồng đã đẩy mạnh việc xuất khẩu và tăng thu ngoại
tệ đưa, giá trị xuất khẩu tăng gấp 18,5 lần và tốc độ tăng trưởng bình quân năm
18,74%/năm.
Ngoài ra, phát triển của ngành cũng đã đóng góp vào việc giải quyết việc làm và
lao động cho hàng triệu người. Trong gần 2 tập kỷ qua, lao động việc làm luôn tăng 2,5
lần, với tốc độ tăng 5,26%/năm.
Tuy nhiên, với những thành tựu trên, ngành thủy sản còn gặp nhiều thách thức

khi chuyển từ quá trình “tăng trưởng” sang quá trình “phát triển”. Trong đó, nhiệm vụ
hàng đầu là phải cải thiện “chất lượng của sự phát triển”, đảm bảo đáp ứng yêu cầu
“nhanh, hiệu quả, bền vững với sức cạnh tranh cao”. Bên cạnh đó, do việc đẩy nhanh
đóng tàu khai thác nhằm tăng sản lượng mà chư chú trọng mạnh đối với việc quản lý
hoạt động khai thác dẫm đến có dấu hiệu của sự cạn kiệt nguồn lợi hải sản cũng như
giảm sút hiệu quả các nghề khai thác hải sản. Việc đẩy mạnh phát triển NTTS nhằm
cung cấp sản lượng cho chế biến xuất khẩu, xu hướng chuyển đổi các loại hình mặt
nước/đất càng diễn ra mạnh mẽ và phức tạp, trong khi khả năng quản lý và tổ chức còn
yếu, đặc biệt vùng có sự sử dụng nước ngọt và nước mặn khá, nhiều vấn đề nảy sinh
như thuốc hoá chất, chất thải, phế thải từ hoạt động nuôi trồng. Sự thiếu hụt hạ tầng
dịch vụ, yếu kém trong quản lý và sự gia tăng phát triển, gây áp lực đến tài nguyên sinh
vật biển, nguy cơ nảy sinh suy thoái môi trường ở một số vùng nuôi quy mô lớn, các
bến cá, cảng cá và các nhà máy chế biến… tiềm ẩn những rủi ro cao trong hoạt động
sản xuất của ngành.
Vấn đề an toàn vệ sinh các mặt hàng thuỷ sản yêu cầu không dừng lại ở các nhà
máy chiến biến, mà được mở rộng ra trên các lĩnh vực liên quan từ nguồn gốc con
giống đến người tiêu dùng. Vấn đề thuốc và hoá chất, kháng sinh cũng tiềm ẩn trong
quá trình lưu thong từ con giống đến nguyên liệu; từ sản phẩm khai thác đến việc bảo
quản và chế biến. Việc áp dụng các quy trình nuôi sạch cộng với năng lực truy xuất


6

nguồn gốc đang là vấn đề hạn chế khá lớn trong quản lý và tổ chức sản xuất, ảnh hưởng
rất lớn đến thị trường xuất khẩu.
Sự phát triển của ngành thủy sản đã góp phần vào bình ổn xã hội, an ninh quốc
phòng, xoá đói giảm nghèo và tăng thu ngoại tệ cho quốc gia; hàng năm giải quyết
được hơn 4 triệu lao động, nhưng chưa đáp đáp ứng được những nhu cầu của người dân
là bao so với mức tăng trưởng trên của ngành. Vấn đề lạm phát và sự gia tăng nguyên
liệu như thức ăn, xăng dầu và lãi suất ngân hàng… dẫn đến sự tăng cao về giá thành sản

phẩm. Cộng với sự biến đổi khí hậu toàn cầu, rủi ro do thiên tai, bảo đảm tính mạng, tài
sản ngư dân và cư dân ven biển là một trong những thách thức lớn đối với ngành trong
thời gian tới.

2. Tổng quan nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam
2.1. Số lượng và thành phần loài
Việt Nam nằm bên bờ Tây của Biển Đông, là một biển lớn của Thái Bình
Dương, có diện tích khoảng 3.448.000 km
2
, được bao bọc bởi 10 nước và vùng lãnh thổ
(Việt Nam, Trung Quốc, Malaixia, Inđônêxia, Philippin, Brunây, Thái Lan, Cămpuchia,
Xinhgapo và Đài Loan); là một trong 6 biển lớn nhất của thế giới, có vị trí quan trọng
của cả khu vực và thế giới.
Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, vùng nội thuỷ và lãnh hải rộng 226.000km
2
,
vùng biển đặc quyền kinh tế rộng 1 triệu km
2
với hơn 4.000 hòn đảo, tạo nên 12 vịnh,
đầm phá với tổng diện tích 1.160km
2
được che chắn tốt dễ trú đậu tàu thuyền. Trong
nội địa, hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt tạo nên khoảng 1,7 ha mặt nước nuôi
trồng thuỷ sản. Biển Việt Nam có tính đa dạng sinh học (ĐDSH) khá cao, cũng là nơi
phát sinh và phát tán của nhiều nhóm sinh vật biển vùng nhiệt đới ấn Độ - Thái Bình
Dương với chừng 11.000 loài sinh vật đã được phát hiện. Trong đó có khoảng 6.000
loài động vật đáy, 2.038 loài cá biển, 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 537
loài thực vật phù du, 94 loài thực vật ngập mặn, hệ giáp xác biển có 1647 loài (225 loài
tôm biển), 25 loài mực, 7 loài bạch tuộc, 14 loài cỏ biển, 298 loài san hô, 15 loài rắn
biển, 12 loài thú biển, 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước. Tuy nguồn lợi hải sản Việt

Nam đa loài nhưng phân bổ theo mùa vụ rõ ràng, sống phân tán với quy mô đàn nhỏ
nên khó tổ chức khai thác công nghiệp cho hiệu quả kinh tế cao. Nguồn lợi thuỷ sản
nước lợ và nước ngọt chủ yếu là cá, có khoảng hơn 700 loài và hàng chục loài giáp xác
như tôm, trai, nghiêu, sò… và 90 loài rong tảo.
Cơ sở tài nguyên thiên nhiên nói trên đã cung cấp cho vùng biển đặc quyền kinh
tế của nước ta trữ lượng hải sản dao động trong khoảng 3,2-4,2 triệu tấn/năm với khả
năng khai thác bền vững 1,4-1,8 triệu tấn; không kể trữ lượng cá đại dương di cư và
sinh vật đáy vùng triều. Chúng tập trung trong 15 bãi cá lớn, trong đó 12 bãi cá phân bố
ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở ngoài khơi. Đặc trưng nổi bật nhất ở vùng biển nước ta là
quanh năm đều có cá đẻ, nhưng thường tập trung vào thời kỳ từ tháng 3 đến tháng 7. Cá
biển nước ta thường phân đàn nhưng không lớn đàn cá kích thước nhỏ dưới 5x20m
chiếm 84%, còn các đàn cá lớn cỡ 20x500m chỉ chiếm 0,1% tổng số đàn cá. Ngoài ra,
còn có các loài cá đại dương di cư vào vùng biển nước ta theo mùa do “yếu tố đại
dương” chiếm 50% diện tích Biển Đông.

2.2. Trữ lượng và khả năng khai thác hải sản
Vùng biển đặc quyền kinh tế của nước ta trữ lượng hải sản dao động trong
khoảng 3,2-4,2 triệu tấn/năm với khả năng khai thác bền vững 1,4-1,8 triệu tấn; không


7

kể trữ lượng cá đại dương di cư và sinh vật đáy vùng triều. Trong đó, cá nổi nhỏ có trữ
lượng 1,74 triệu tấn, cá đáy 2,14 triệu tấn, cá nổi đại dương 0,3 triệu tấn. Nhưng khả
năng khai thác đạt tương ứng 0,69 triệu tấn; 0,86 triệu tấn, 0,12 triệu tấn. Chúng tập
trung trong 15 bãi cá lớn, trong đó 12 bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở ngoài
khơi. Nhưng trữ lượng cá có chiều hướng tăng dần theo sự giảm dần của Vĩ độ (tức
tăng dần từ Bắc vào Nam). Trong tổng trữ lượng cá ở vùng Vịnh Bắc Bột đạt 681.166
tấn, vùng biển miền Trung 606.399 tấn, Đông Nam Bộ 2.075.889 tấn, nhưng ở vùng
Tây Nam Bộ 506.679 tấn, cá nổi đại dương 300.000 tấn.

Xét theo nhóm cá có sự khác nhau theo vùng địa lý. Nhóm cá nổi nhỏ tập trung
nhiều ở khu vực biển miền Trung (chiếm 82,5%) và Vịnh Bắc Bộ (57,3%), nhưng càng
xuống thấp Vĩ độ thì tỷ lệ nhóm cá nổi nhỏ có xu hướng giảm.
Table 1
: Nguồn lợi hải sản Việt Nam
Trữ lượng Khả năng khai thác St
t
Vùng
Biển
Loài cá Độ
Sâu
Tấn Tỷ lệ (%)

Tấn Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ
(%)
Cá nổi nhỏ 390.000

57,3

156.000

57,3

<50m 39.204

5,7

15.682


5,7

>50m 251.962

37,0

100.785

37,0


Cá đáy
Cộng 291.166

42,7

116.467

42,7

1
Vịnh
Bắc Bộ
Cộng 681.166

100,0

272.467

100,0


16,3

Cá nổi nhỏ 500.000

82,5

200.000

82,5

<50m 18.494

3,0

7.398

3,0

>50m 87.905

14,5

35.162

14,5


Cá đáy
Cộng 106.399


17,5

42.560

17,5

2
Miền
Trung
Cộng 606.399

100,0

242.560

100,0

14,5

Cá nổi nhỏ 524.000

25,2

209.600

25,2

<50m 349.154


16,8

139.762

16,8

>50m 1.202.735

58,0

481.094

58,0


Cá đáy
Cộng 1.551.889

74,8

620.856

74,8

3
Đông
Nam Bộ
Cộng 2.075.889

100,0


830.456

100,0

49,7

Cá nổi nhỏ 316.000

62,0

126.000

62,0

Cá đáy 190.670

38,0

76.272

38,0

4 Tây
Nam Bộ
Cộng 506.679

100,0

202.272


100,0

12,1

5 Gò nổi
Cá nổi nhỏ 10.000

100,0

2.500

100,0

0,2

6 Toàn
vùng biển
Cá nổi đại
dương (*)
300.000


120.000


7,2

Cá nổi nhỏ 1.740.000



694.100


Cá đáy 2.140.133


855.885



Tổng
Cộng
Cá nổi đại
dương (*)
(300.000)


(120.000)


100

Toàn bộ 4.180.133


1.669.985


100,0


Nguồn: Trung tâm Tin học thuỷ sản (2008)

3. Hiện trạng khai thác hải sản
3.1. Số lượng và công sất tàu thuyền khai thác hải sản
Trong vòng 15 năm qua (từ năm 1990 – 2007) số lượng tàu thuyền lắp máy đánh
bắt hải sản và công suất tàu thuyền ngày càng tăng theo tỷ lệ thuận với thời gian. Tổng
số tàu đánh bắt thuỷ sản có lắp máy ở nước ta tăng lên gấp 1,3 lần, với tốc độ tăng bình


8

quân năm 1,53%/năm; Nhưng tổng công suất tàu đánh bắt tăng gấp 6,4 lần và đạt tốc độ
tăng 10,87%/năm.
Rõ ràng, tốc độ tăng công suất tàu thuyền cao hơn gấp 10 lần so với tốc độ tăng số
lượng tàu. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do nguồn lợi hải sản gần bờ giảm nhanh; từ sau
khi Chính phủ ban hành Quyết định 393/TTg ngày 25/5/1997 về việc cho vay vốn tín
dụng ưu đãi đóng tàu khai thác hải sản xa bờ, đã tạo thành phong trào trong ngư dân
đóng tàu công suất lớn ra khai thác xa bờ. Do đó, người dân có chiều hướng đóng
thuyền có công suất lớn nhằm vươn ra ngư trường ngoài khơi, nhiều gia đình đã thực
hiện việc cải hoán tàu thuyền khai thác, từ thuyền có công suất thấp sang thuyền có
công suất lớn hơn, khả năng ra khơi xa hơn.
Mặc dù, sự biến động số lượng tàu thuyền khai thác và công suất có sự biến động
khác nhau theo từng giai đoạn. Giai đoạn 1990-1996 số lượng tàu thuyền tăng lên rất
mạnh, nhưng tổng công suất tàu thuyền tăng không mạnh. Đến giai đoạn 1997 số lượng
tàu thuyền giảm giảm xuống rất mạnh (từ 97.700 chiếc xuống còn 71.500 chiếc), và duy
trì ổn định đến năm 1999; giai đoạn này công suất tàu thuyền không thay đổi nhiều.
Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay số lượng tàu thuyền và công suất có chiều hướng tăng,
nhưng tốc độ không cao.
Trong tổng số tàu khai thác thuỷ hải sản ở nước ta, tỷ lệ số tàu thuyền khai thác

hải sản xa bờ (đánh bắt xa bờ) luôn chiếm tỷ lệ không cao, nhưng có xu hướng tăng dần
theo thời gian. Tổng số lượng tàu khai thác xa bờ của nước ta trong năm 2000 có 9.766
chiếc, chiếm 12%; đến năm 2007 đạt tới 21.130 chiếc, chiếm 22% tổng số tàu thuyền
của cả nước, đưa tốc độ tăng trưởng bình quân về số lượng tàu khai thác xa bờ lên
10,13%/năm.

-
20.0
40.0
60.0
80.0
100.0
120.0
140.0
160.0
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004

2005
2006
2007
Total of horse Power (100 CV)
Total of number boat (1.000 boats)
Average of horse power per boat (CV/boat)

Figure 1: Diễn biến số lượng và công suất tàu thuyền khai thác thuỷ sản ở Việt Nam (Trung
tâm tin học thủy sản, 2008)

3.3. Sản lượng và năng suất khai thác hải sản
Qua đồ thị tương quan giữa năng suất khai thác với sản lượng có mối tương quan
nghịch. Trong 15 năm qua, sản lượng khai thác ngày càng tăng, trong khi năng suất


9

bình quân theo công suất ngày càng giảm và thể hiện rất rõ từ năm 1995 đến nay. Tốc
độ tăng trưởng về sản lượng khai thác đạt 6,12%/năm và năng suất khai thác theo đơn
vị thuyền đạt 4,51%/năm, nhưng nếu xét năng suất theo công suất tàu thuyền thì đạt tốc
độ tăng trưởng âm (- 4,29%).
Rõ ràng, việc tăng sản lượng khai thác chủ yếu do tăng tổng công suất tàu thuyền,
đưua sản lượng khai thác từ 0,71 triệu tấn năm 1990 lên đến 2,06 triệu tấn năm 2007.
Năng suất khai thác bình quân theo công suất đạt 897 kg/CV (năm 1990) xuống còn
408 kg/CV (năm 2007). Nếu xét năng suất khai thác theo đơn vị thuyền, thì có chiều
hướng ngày càng tăng từ 9,7 tấn/thuyền (năm 1990) lên đến 21,6 tấn/thuyền.
Mặc dù, sản lượng tăng không mạnh, nhưng nếu xét đến trữ lượng được phép khai
thác nhằm hướng tới phát triển bền vững đến 2007 đã vượt quá 122%; nhưng nếu so
sánh đến tổng trữ lượng nguồn lợi chỉ đạt 49%.
Nguyên nhân do đánh bắt các đối tượng gần bờ, có giá trị thấp ngày càng nhiều,

khả năng tận dụng sản phẩm khai thác trong các mẻ lưới ngày càng tăng; bên cạnh đó
mặc dù tỷ lệ số lượng tàu khai thác xa bờ tăng nhưng khả năng đánh bắt với sản lượng
lớn là không cao. Có nghĩa là, mỗi chuyến đi sản lượng khai thác có chiều hướng tăng,
nhưng do nâng cấp cống suất tàu thuyền; hoặc trước đây việc khai thác có tính chọn lọc
đối tượng cao, thì ngày nay việc chọn lọc ngày càng giảm, có nghĩ là mỗi mẻ lưới được
đánh lên họ khai thác triệt để các đối tượng đã được đánh bắt lên thuyền.

709
2,064
408
897
21.6
9.7
-
500
1,000
1,500
2,000
2,500
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000

2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
Production of capture (1.000
tons)
Capture Productivity per
Horse power (kg/CV)
Capture Productivity per Boat
(Tons/boat)

Figure 2: Diễn biến sản lượng và năng suất khai thác thủy sản ở Việt Nam (FAO,2008)



10

0
500000
1000000
1500000

2000000
2500000
3000000
3500000
4000000
4500000
1950
1952
1954
1956
1958
1960
1962
1964
1966
1968
1970
1972
1974
1976
1978
1980
1982
1984
1986
1988
1990
1992
1994
1996

1998
2000
2002
2004
2006
Total productions of capture (tons)
Tuna-like fishes nei
Siamese crocodile
Natantian decapods nei
Natantian decapods nei
Marine molluscs nei
Marine fishes nei
Marine crabs nei
Lobsters nei
Freshwater fishes nei
Cephalopods nei
Aquatic invertebrates nei

Figure 3: Diễn biến sản lượng khai thác thủy sản ở Việt Nam theo đối tượng (FAO, 2008)
Sản lượng khai thác của 10 tỉnh ven biển vịnh Bắc Bộ từ Quảng Ninh đến Quảng
Trị chiếm 15,4% tổng sản lượng khai thác hải sản của cả nước. Các tỉnh miền Trung từ
Thừa Thiên - Huế đến Ninh Thuận gồm 8 tỉnh chiếm 24,4% sản lượng khai thác hải sản
của cả nước. Các tỉnh miền Đông Nam Bộ, trong đó Bà Rịa Vũng Tàu đứng thứ nhì và
Bình Thuận chiếm vị trí thứ 3 về sản lượng khai thác hải sản của cả nước; Tuy chỉ có 3
tỉnh nhưng chiếm tới 20,9% sản lượng cả nước. Các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long
chiếm tới 39,3% sản lượng của cả nước; Chỉ riêng sản lượng của tỉnh Kiên Giang đã
lớn hơn tổng sản lượng của 10 tỉnh Bắc Bộ. Nếu gộp cả Đông và Tây Nam bộ sản
lượng chiếm 60% sản lượng khai thác hải sản của cả nước.
Hiện tại nước ta chưa tổ chức điều tra cũng như chưa thống kê sản lượng theo 2
vùng biển gần bờ và xa bờ theo ranh giới dựa theo Nghị định 123/2006/NĐ-CP nên

cũng chưa tách bạch được sản lượng khai thác hải sản gần bờ là bao nhiêu. Nhưng với
ranh giới 24 hải lý trở vào bờ, diện tích vùng biển này chỉ chiếm dưới 10% diện tích
vùng đặc quyền kinh tế của cả nước, thì tuy mật độ tàu thuyền rất dầy, nhưng tỷ trọng
cũng nhỏ hơn sản lượng khai thác hải sản xa bờ rất nhiều.

3.5. Giá trị, giá thành và giá bản sản phẩm khai thác
Nhìn chung, trong 8 năm qua giá trị từ khai thác và giá bán sản phẩm luôn có
chiều hướng tăng theo thời. Tuy nhiên, giá thành sản phẩm khai thác luôn diễn biến
phúc tạp và có chiều hướng tăng mạnh, đặc biệt sau năm 2004 khi giá xăng dầu tăng.
• Giá trị sản lượng khai thác: giá trị khai thác thủy sản (theo giá hiện hành) ở
nước ta từ năm 2000 đến nay luôn tăng theo thời gian và đạt tốc độ tăng bình quân năm
8,7%/năm. Giá trị sản lượng năm 2000 đạt 14.738 tỷ đồng, nhưng đến năm 2007 đạt
28.687 tỷ đồng từ các sản phẩm khai thác các loại.
• Giá bán sản phẩm: Giá bán sản phẩm từ khai thác thuỷ sản có chiều hướng tăng
dần trong những năm gần đây và tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt 5,8%/năm. Giá
bán bình quân từ khai thác thủy sản trong giai đoạn năm 2000-2007 đạt 10.475
đồng/kg, trong đó năm 2000 đạt 8.873 đồng/kg và tăng lên 13.901 đồng/kg năm 2007.


11

• Giá thành sản phẩm khai thác: giá thành sản phẩm khai thác thuỷ sản ở nước
ta có sự biến động mạnh. Giai đoạn từ 2000-2003 giá thành luôn thấp hơn giá bán,
nhưng từ khi giá xăng dầu tăng lên (năm 2004) giá thành sản phẩm luôn cao hơn giá
bán. Bình quân giá thành sản phẩm từ khai thác (năm 2000-2007) đạt 9.742 đồng/kg và
đạt tốc độ tăng trưởng bình quân năm 10,8%/năm. Việc định giá thành cho mỗi đơn vị
sản phẩm theo loại nghề khai thác, hay theo đơn vị công suất tàu thuyền hiện nay chưa
được đánh giá nhiều. Giá thành bình quân cho khai thác năm 2007 khoảng 14.912
đồng/kg sản phẩm, trong đó nhóm mực loại 1 khoảng 54.245 đồng/kg, mực khác
39.226 đồng/kg, cá xuất khẩu 6.959 đồng/kg, cá bán chợ 4.679 đồng/kg, nhóm cá phân

cho thành viên trên tàu 2.808 đồng/kg.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn này giá nhiên liệu trong nước tăng liên tục theo giá
dầu thế giới. Lần đầu tiên tăng giá ngày 19/6/2004 giá dầu diezen tăng từ 4.650 đồng/lít
lên 4850 đồng/lít. Tiếp theo là các lần tăng giá vào các ngày 29/3/2005, ngày 3/7/2005,
ngày 17/8/2005 đến ngày 27/4/2006 giá dầu diezen đã lên đến 7.900đ/lít và ngày
22/11/2007 đã tăng 8.500 đồng/lít; đến ngày 25/2/2008 giá dầu diezen tăng lên 13.950
đồng/lít; đã làm tăng tỷ trọng chi phí giá thành khai thác hải sản xa bờ khoảng 45-60%,
nghề câu khơi khoảng 22-30%, nghề chài chụp khoảng 37-40%.

14,738
28,687
13,901
8,873
14,912
6,566
-
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
35,000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Value of capture fisheries (Billion VND)
Selling price (VND/kg)
Cost price (VND/kg)

Figure 4: Diễn biến giá trị, giá bán và giá thành sản lượng khai thác ở Việt Nam (Tổng cục
Thống kê, 2007)


3.2. Lao động nghề khai thác
Trong giai đoạn 2000-2007, số lao động tham gia khai thác thuỷ hải sản trên toàn
quốc ngày càng tăng, từ 1,64 triệu người năm 2000 lên đến 1,96 triệu người năm 2007,
đưa tốc độ tăng về lao động 2,29%/năm.
Nếu xét các loại nghề khai thác gần bờ, trừ nghề lưới rùng bờ sử dụng nhiều lao
động đánh cá bán chuyên. Các loại nghề khác sử dụng thuyền thủ công và tàu thuyền
công suất nhỏ nên số lao động đánh cá bình quân 2 - 5 người/1 đơn vị tàu thuyền. Tuy
không có số liệu chính xác nhưng ước lượng số lao động khai thác hải sản gần bờ
khoảng 40% tổng số lao động đánh cá. Nhưng nếu xét trên số tàu thuyền đánh cá được


12

phép hoạt động xa bờ bao gồm tàu từ trên 90 cv trở lên và số tàu có công suất 50 - 90
cv làm các nghề câu, rê, vây, chụp mực, thì số tàu thuyền hoạt động ở tuyến gần bờ
gồm toàn bộ 11.000 thuyền thủ công và 70% số tàu thuyền máy thì số lao động đánh cá
phải chiếm tới 60%.

4. Hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản
Nuôi trồng thủy sản đang từng bước trở thành ngành sản xuất hàng hoá chủ lực
phát triển rộng khắp và có vị trí quan trọng đối với ngành và kinh tế quốc gia. Sản
lượng thuỷ sản nuôi trồng năm 2007 đạt 2,1 triệu tấn thuỷ sản các loại, chiếm trên 50%
tổng sản lượng thuỷ sản, trong đó riêng cá tra ba sa đạt trên dưới 1 triệu tấn và tôm sú
đạt 0,37 triệu tấn. Giá trị xuất khẩu các sản phẩm từ nuôi trồng luôn chiếm trên 60%
(toàn ngành thuỷ sản đạt 3,8 tỷ USD năm 2007). Nếu so với toàn cầu, đến nay Việt
Nam có sản lượng thuỷ sản lớn thứ 3 toàn cầu (sau Trung Quốc, Ấn Độ) và là một trong
những quốc gia có tốc độ tăng trưởng bình quân về sản lượng thuỷ sản nuôi trên thế
giới (đứng thứ 2 sau Myanmar).
Năng lực khoa học công nghệ, vốn và sáng tạo trong tổ chức sản xuất đã góp

phần làm tăng vị thế của nuôi trồng. Nước ta hiện đã chủ động con giống phục vụ phát
triển nuôi; sản xuất tôm giống đã trở thành một ngành sản xuất hàng hoá với sản lượng
khoảng 30 tỷ con giống hàng năm, nhiều đối tượng khác đã thành công trong sản xuất
nhân tạo.
Đối tượng nuôi cũng đa dạng, nhưng tôm sú vẫn là đối tượng nuôi chủ đạo đối
với các loài nuôi mặn, lợ; cá tra là đối tượng xuất khẩu chính đối với nhóm loài thủy
sản nước ngọt. Công tác quản lý môi trường và phòng ngừa dịch bệnh đã có chuyển
biến ở các vùng nuôi. Các Trung tâm môi trường đã thực hiện khảo sát, phân tích dự
báo và cảnh báo môi trường ở các vùng nuôi trọng điểm, đã giúp ngư dân và người nuôi
chọn thời điểm thả giống tốt, kịp thời xử lý môi trường nước, hạn chế dịch bệnh phát
sinh.

4.1. Diện tích, năng suất và sản lượng nuôi trồng
Vào hững năm 1990-2007 luôn có sự tăng trưởng cả về diện tích, sản lượng nuôi
trồng thuỷ sản. Trong giai đoạn 1990-1994 diện tích nuôi trồng luôn cao hơn so với sản
lượng nuôi. Nhưng giai đoạn 1995-2001giữa diện tích và sản lượng không có sự khác
biệt nhau. Tuy nhiên, từ năm 2001 đến nay sản lượng nuôi trồng đã vượt quá diện tích
nuôi. Trong khi đó năng suất nuôi có chiều hướng giảm từ năm 1990-1994; giai đoạn
1995-2001 năng xuất nuôi không tăng; giai đoạn từ 2002 đến nay năng suất nuôi luôn
tăng cao.
• Diện tích có khả năng: nước ta có một lợi thế rất lớn về điều kiện tự nhiên, môi
trường và vị trí địa lý thuận lợi cho sự phát triển nuôi trồng thuỷ sản; được xem là vùng
có lợi thế cạnh tránh lớn trong khu vực và thế giới. Tổng diện tích có khả năng phát
triển NTTS của toàn quốc là 2.057.250 ha, trong đó nước mặn, lợ khoảng 1.000.000 ha
và nước ngọt 1.057.250 ha.
• Về diện tích nuôi: Nuôi trồng thuỷ sản ở nước ta ngày càng được phát triển
mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá và hướng tới xuất khẩu là mục tiêu để phát triển.
Diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm 2007 tăng thêm gấp 2,0 lần so với năm 1990 và đạt
tốc độ tăng bình quân năm 4,07%/năm (toàn giai đoạn 1990-2007), đưa tổng diện tích
nuôi trồng thuỷ sản của cả nước đạt khoảng 1.008 nghìn ha (kể cả diện tích nuôi thuỷ

sản kết hợp với trồng lúa hơn 66.000 ha), trong đó loại hình thủy vực nước ngọt chiếm


13

40% và nước mặn lợ chiếm 60% và chiếm 49% tổng diện tích có khả năng. Khu vực
ĐBSCL luôn chiếm 62% tổng diện tích NTTS của toàn quốc, vùng ĐBSH chiếm
10,1%, Miền Núi phía Bắc 9,1%, Bắc Trung Bộ 5,9%, Nam Trung Bộ 2,9%, Tây
Nguyên 1,4% và Đông Nam Bộ 8,6%.

-
500
1,000
1,500
2,000
2,500
3,000
3,500
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001

2002
2003
2004
2005
2006
2007
Aquaculture areas (1000 ha)
Production Aquaculture (1000 tons)
Productivity of Aquaculture (kg/ha)

Figure 5: Diễn biến diện tích, năng suất và sản lượng nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam (FAO, 2008)

-
500,000
1,000,000
1,500,000
2,000,000
2,500,000
3,000,000
3,500,000
4,000,000
1950
1952
1954
1956
1958
1960
1962
1964
1966

1968
1970
1972
1974
1976
1978
1980
1982
1984
1986
1988
1990
1992
1994
1996
1998
2000
2002
2004
2006
Total aquaculture productions (tons)
Whiteleg shrimp
Pangas catfishes nei
Marine molluscs nei
Indian white prawn
Gracilaria seaweeds
Giant tiger prawn
Freshwater fishes nei
Freshwater crustaceans nei
Banana prawn


Figure 6: Sản lượng nuôi trồng theo đối tượng ở Việt Nam (FAO, 2008)
• Về nuôi lồng: Hiện nay chủ yếu được nuôi theo 3 kiểu lồng chính đang được sử
dụng nuôi phổ biến ở nước ta gồm lồng nuôi trên biển và nuôi lồng trên các hồ chứa và
lồng trên sông. Đến năm 2007, trên toàn quốc có khoảng 83.446 lồng nuôi các loại,
trong đó lồng nuôi biển khoảng 55.972 lồng và 27.474 lồng nuôi nước ngọt. Đối với
lồng nuôi biển chủ yếu ở Phú Yên, Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh Hoà và Bà Rịa-
Vũng tàu; đối với nuôi lồng trên sông chủ yếu tập trung ở vùng ĐBSCL và nuôi trên
các hồ chứa rải rác ở các tỉnh miền núi.
• Về Sản lượng nuôi: Sản lượng thuỷ sản nuôi ở nước ta ngày càng tăng từ 0,723
triệu tấn năm 2000 lên đến 2,1 triệu tấn năm 2007, tăng gấp 3,4 lần và đưa tốc độ tăng
trưởng về sản lượng bình quân năm 14,3%/năm. Trong đó tôm mặn lợ (chủ yếu tôm sú)


14

0,37 triệu tấn, cá tra 1,1 triệu tấn. Vùng ĐBSCL luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong cơ cấu
sản lượng nuôi của toàn quốc (chiếm 68%).
• Năng suất nuôi trồng thuỷ sản:
Mức độ tăng năng suất nuôi từ năm 1990-2007 là 3,3 lần và đưa tốc độ tăng bình
quân năm 6,82%/năm, trong đó năng suât nuôi cao ở những năm 2002 đến nay. Trong
đó năng suất nuôi bình quân năm 1990 chỉ đạt 630 kg/ha/năm và đến năm 2007 đạt
2.069 kg/ha, trong đó nuôi nước ngọt khoảng 2,84 tấn/ha, nuôi mặn lợ khoảng 0,96
tấn/ha. Nguyên nhân sự tăng trưởng mạnh về năng suất nuôi ở những năm 2002 đến nay
là do đẩy mạnh phong trào nuôi cá tra ao hầm cho ở Đồng bằng sông Cửu Long;
phương thức nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá rô phi cũng chuyển dần từ nuôi quảng
canh cải tiến sang nuôi bán thâm canh, thâm canh; nuôi nhuyễn thể từ nuôi quảng canh
tự nhiên sang nuôi quảng canh cải tiến có bổ sung con giống và quảng lý chăm sóc.
Vùng có năng suất nuôi trung bình cao nhất vẫn là ĐBSCL đạt bình quân 5,7
tấn/ha (đặc biệt trong nuôi cá tra bãi bồi đạt năng suất bình quân 100 tấn/ha/năm, cá biệt

có thể đạt 600 tấn/ha/năm). Việc tăng năng suất nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu do tăng
đầu từ khoa học công nghệ và đầu tư tài chính; từ nuôi quảng canh cải tiến, sang nuôi
bán thâm canh, thâm canh; ngoài ra do có sự thay đổi về cơ cấu đối tượng nuôi, từ các
loài cá truyền thống sang nuôi các đối tượng có năng suất nuôi cao như cá tra, nghêu,
tôm he chân trắng; và có sự tăng mạnh về diện tích ở những vùng có lợi thế về điều
kiện như đất ruộng trũng ở ĐBSCL, đất bãi triều (nuôi ngao).

4.2. Giá trị, giá bán và giá thành sản phẩm nuôi trồng
• Giá trị thuỷ sản nuôi trồng: Giá trị sản phẩm từ năm 1990-2007 của nuôi trồng
theo giá cố định (năm 1994) đạt tốc độ tăng trưởng 14,7%/năm và tăng gấp 11,7 lần; từ
2.576 tỷ đồng (năm 1990) lên 30.181 tỷ đồng (năm 2007), trong đó tôm biển 21.122 tỷ
đồng. Nếu tính theo giá trị hiện hành trong giai đoạn 2000-2007 luôn đạt tốc độ tăng
trưởng bình quân năm 4,39%/năm, tăng gấp 1,4 lần, trong đó năm 2000 đạt 19.948 tỷ
đồng và tiếp tục tăng lên 28.130 tỷ đồng năm 2007. Giá trị sản lượng nuôi cá tra, ba sa
đạt từ 220.875 triệu đồng năm 1997 tăng lên 10.257.855 triệu đồng năm 2007 (tăng gấp
46,5 lần).
• Giá thành sản phẩm:
Nhìn chung giá thành sản phẩm nuôi luôn thấp hơn giá bán (trừ cá tra những
năm gần đây), nhưng có chiều hướng tăng dần từ những năm 2000 đến nay. Trung bình
giá thành sản phẩm nuôi chung của năm 2000 đạt 12.966 đồng/kg, đến năm 2007 đạt
24.192 đồng/kg, tăng gấp 1,9 lần và đưa tốc độ tăng trưởng bình quân năm về giá thành
8,11%/năm. Nguyên nhân của sự tăng giá thành của các đối tượng nuôi là do sự tăng
giá của các nguyên vật liệu đầu vào, đặc biệt là giá thức ăn và tiền vay ngân hàng.
Giá thành các đối tượng nuôi chủ lực ảnh hưởng rất lớn bởi lạm phát trong nước,
cũng như sự biến động mạnh nền kinh tế thế giới; kéo theo giá thành cá tra nuôi có
chiều hướng tăng dần từ 10.00-10.5000 đồng/kg (năm 2000), 11.000-12.000 đồng/kg
(năm 2001-2002), tiếp tục tăng lên 12.500-13.500 đồng (năm 2003-2005), và 13.700-
14.500 đồng (năm 2005-2007); đến đầu năm 2008 đạt 16.500- 17.500 đồng/kg. Đối với
tôm sú giá thành luôn giao động khoảng 40.000-60.000 đồng/kg (riêng giá thành tôm sú
nuôi ở ĐBSCL năm 2005 đối với tôm thâm canh khoảng 47.800 đồng/kg, tôm bán thâm

canh 47.400 đồng/kg, tôm quảng canh cải tiến 51.300 đồng/kg), tôm thẻ chân trắng 45-
50.000 đồng/kg. Đối với ngao biển giá thành luôn chiếm 40-55% giá trị, tức luôn ở mức
6.000-7.000 đồng/kg.


15



• Giá bán sản phẩm:
Nhìn chung giá bán sản phẩm từ nuôi trồng ở nước ta có chiều hướng tăng theo
thời gian, nhưng với mức độ không cao (4,39%/năm) và thấp hơn giá thành
(8,11%/năm). Năm 2000 giá bán bình quân cho tất cả các đối tượng được nuôi ở Việt
Nam 19.948 đồng/kg và đến năm 2007 đạt 28.130 đồng/ha. Nguyên nhân của việc tăng
giá bán sản phẩm chủ yếu do sự biến động với chiều hướng tăng cao chung của nền
kinh tế thế giới và sự lạm phát trong nước.
Nhìn chung, giá cá tra bình quân hàng năm biến động từ 9.000-9.500 đồng/kg
(năm 2005) đến 15.000 – 15.500 đồng/kg (năm 2007). Trong 4 tháng đầu năm 2008, giá
cá tra bình quân 14.000-14.500 đồng/kg, giá cá thịt trắng cao hơn cá thịt vàng khoảng
1.000đ/kg.

11,761
58,659
28,130
19,948
24,192
12,966
-
10,000
20,000

30,000
40,000
50,000
60,000
70,000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Value of aquaculture (Billion VND)
Selling price (VND/kg)
Cost price (VND/kg)

Figure 7: Giá trị, giá bán và giá thành sản phẩm các đối tượng thủy sản nuôi
(FAO, 2008)

4.3. Lao động trong nuôi trồng thuỷ sản
Trong thời gian qua, số hộ tham gia NTTS ngày càng tăng từ 0,51 triệu hộ năm
2001 đến 0,69 triệu hộ năm 2006, đưa tốc độ tăng trưởng bình quân năm 5%/năm. Tổng
số lao động thủy sản năm 2000 đạt 1,73 triệu người, đến năm 2007 đạt 2,54 triệu người,
đưa tốc độ tăng trưởng bình quân năm 4,92%/năm. Rõ ràng việc tăng lao động trong
NTTS luôn tỷ lệ thuận với diện tích nuôi. Trung bình mỗi hécta giải quyết được 2,5-2,7
người/ha và bình quân số lao động trực tiếp cho NTTS giảm (từ 2,7 người/ha năm 2000
xuống còn 2,5 người/ha (năm 2007). Nguyên nhân có thể là do sự thay đổi về cơ cấu
phương thức nuôi từ thấp lên cao.

5. Chế biến, thương mại thuỷ sản
Bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước, ngành thủy sản đã lấy xuất khẩu sản
phẩm của ngành làm động lực cho sự phát triển để cân bằng cán cân thành toán và bù
đắp những chi phí đầu tư cũng như sản xuất. Sự chuyển biến này đã làm thay đổi hẳn
cục diện nghề cá của Việt Nam. Được cổ vũ bởi sự hấp dẫn do giá cả hấp dẫn và lợi



16

nhuận cao, nó đã tạo ra một động lực mạnh cuốn theo sự phát triển của các lĩnh vực
khác của ngành thủy sản.
Kim ngạch xuất khẩu từ các mặt hàng thuỷ sản ở nước ta ngày càng tăng, từ 0,21
tỷ USD năm 1990 lên đến 3,8 tỷ USD năm 2007 và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân
năm về xuất khẩu 18,74%/năm. Trong khi đó tốc độ tăng sản lượng thuỷ sản của ngành
đạt bình quân năm 8,61%/năm, có nghĩa giá trị xuất khẩu luôn tăng hơn 2,1 lần so với
sản lượng. Điều này cho thấy, xu hướng sử dụng các sản phẩm từ nuôi, khai thác cho
chế biến xuất khẩu ngày càng được chú trọng; đã chuyển đổi dần các đối tượng có giá
trị kinh tế thấp sang các đối tượng có giá trị xuất khẩu.
Chế biến xuất khẩu là lĩnh vực phát triển nhanh và có thể coi là động lực cho
tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu trong khai thác và nuôi trồng thủy sản. Chất lượng và
tính cạnh tranh được cải thiện không ngừng, tạo được uy tín trên thị trường thế giới.
Đến nay, cả nước đã có 439 nhà máy với tổng công suất 4.262 tấn/ngày, chuyển sang
sản xuất các mặt hàng thuỷ sản cao cấp bằng các dây chuyền tiến tiến. Hàng thuỷ sản đã
xuất khẩu sang trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, chủ động trong các thị trường chủ
yếu là Hoa Kỳ, RU, Nhật Bản và Trung Quốc.Về an toàn vệ sinh thực phẩm hiện có
171 doanh nghiệp nằm trong danh sách 1 vào thị trường EU, Nhật Bản, 300 doanh
nghiệp đủ điều kiện vào Hoa Kỳ, 295 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn vào Trung Quốc và
251 doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ sinh đối với thị trường Hàng Quốc.
Bên cạnh đó, xuất hiện nhiều mặt hàng nội địa trên các chợ đầu mối, các nhà hàng,
khách sạn và siêu thị.
Tình hình nhập nguyên liệu thủy sản để tái xuất: Việt Nam hiện đang nhập khẩu
thủy sản từ 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, với kim ngạch nhập khẩu khoảng từ 90-100
triệu USD/năm, tương đương từ 4 đến 5% kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Thị trường
cung cấp thuỷ sản chính cho Việt Nam là các nước châu Á như Ấn Ðộ (chiếm 26%),
Trung Quốc (18%), Nhật Bản (11%), Hongkong (9%), ASEAN (18%), Ðài Loan
(6%) Các mặt hàng thủy sản nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là tôm đông lạnh, cá
đông lạnh, trong đó, tôm đông lạnh chiếm trên 70%, cá đông lạnh chiếm 10-16%, còn

lại là các loại thủy sản khác như cá hồi tươi, cá hồi đông lạnh, tôm hùm, cá hộp, nghêu
sò và nhiều loại cá biển. Chỉ riêng cá hồi, bình quân mỗi năm có khoảng 1.500 tấn được
nhập về từ các nước châu Âu để chế biến, tái xuất và tiêu thụ trong nước. Theo dự báo
của Bộ Thủy sản (nay là Bộ Nông nghịêp và Phát triển nông thôn), để đáp ứng đủ nhu
cầu chế biến xuất khẩu, từ nay đến 2010, nhập khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sẽ
tăng từ 8 đến 10%/năm, với giá trị khoảng 190 triệu USD/năm.



17

0
500000
1000000
1500000
2000000
2500000
3000000
3500000
4000000
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
1987
1988

1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
-
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
Total of Export Quantity of fishes (tons)
Total Export Value of fishes (1000 USD)
Selling price (USD/kg)


Figure 8: Diễn biến giá trị xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam (FAO, 2008)

6. Một số chính sách ảnh hưởng đến sự phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam
6.1. Khung thể chế liên quan đến quản lý thủy sản
Trước khi Hợp nhất giữa Bộ Thuỷ sản và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn; cơ cấu tổ chức của Bộ Thủy sản được thể hiện qua sơ đồ 1. Nhưng sau khi hợp
nhất 2 Bộ, cơ cấu tổ chức liên quan đến quản lý thủy sản lằm trong cơ cấu tổ chức
chung của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Theo Nghị định số 01/2008/NĐ-CP ngày 03/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ
Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn; cơ cấu tổ chức của Bộ như sau:.
1. Văn phòng, các vụ và Thanh tra: Vụ Kế hoạch, Vụ Tài chính, Vụ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ Pháp chế; Vụ Tổ chức cán bộ;
Thanh tra Bộ; Văn phòng Bộ.
2. Các cục: Cục Trồng trọt; Cục Bảo vệ thực vật; Cục Chăn nuôi; Cục Thú y;
Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thuỷ sản và nghề muối; Cục Lâm nghiệp; Cục
Kiểm lâm; Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản; Cục Nuôi trồng thuỷ sản; Cục
Thuỷ lợi; Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống lụt, bão; Cục Quản lý xây dựng công
trình; Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn; Cục Quản lý chất lượng nông lâm
sản và thuỷ sản.
3. Các trung tân: Trung tâm Tin học và Thống kê; Trung tâm Quốc gia Nước
sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn; Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Quốc
gia; Báo Nông nghiệp Việt Nam; Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Đối với ngành thuỷ sản, dưới cấp bộ là các Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, Sở Thuỷ sản (chỉ duy nhât ở Cà Mau). Ngoài ra còn có một số Chi cục Bảo vệ
Nguồn lợi thủy sản, Chi Cụ thuỷ sản ở một số tỉnh, thành.



18


Figure 9
: cơ cấu tổ chức của Bộ Thuỷ sản theo Nghị định 43/2003/NĐ-CP










V
ụ Kế hoạch

Tài chính

V
ụ Pháp chế

C
ục Khai thác &
V
ụ Tổ chức cán bộ

V
ụ Hợp tác quốc tế

Vi

ện Nghi
ên c
ứu hải sản

V

Khoa h
ọc
-
công ngh


Vi
ện Kinh tế & quy hoạch
Vi
ện Nghi
ên c
ứu nuôi
Vi
ện Nghi
ên c
ứu nuôi
Vi
ện Nghi
ên c
ứu nuôi
Trung tâm tin h
ọc

Báo Thu

ỷ sản

T
ạp chí Thuỷ sản

Trung tâm khuy
ến ng
ư

V
ụ Nuôi trồng thuỷ sản

UBND Tỉnh

Các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ Thuỷ sản
Thanh tra B


C
ục Quản lý CL, AT, VS ,
V
ă
n phòng B


Chi c
ục quản lý CL, AT,
VS, TY TS

Chi c

ục Khai thác, bảo vệ
NLTS

Các phòng

chuyên môn

Trung tâm khuy
ến ng
ư

t
ỉnh

Bộ Thuỷ sản

Bộ trưởng
Các Thứ trưởng
Chính phủ
Sở Thuỷ sản


19

6.2. Một số chính sách liên quan đến sự phát triển ngành thuỷ sản
6.2.1. Chính sách quản lý sự phát triển của NTTS
Các chính sách và thể chế có liên quan đến phát triển nuôi trồng thuỷ sản như
các vấn đề về kinh tế, thương mại, xuất khẩu thuỷ sản, các vấn đề về quản lý và sử dụng
lĩnh vực sản xuất kinh doanh các dịch vụ phụ trợ cho nuôi trồng thuỷ sản như sản xuất
và kinh doanh con giống thuỷ sản, thức ăn cho NTTS, các loại hoá chất, kháng sinh và

chế phẩm sinh học cho NTTS, các chính sách về chuyển đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng
trong sản xuất nông-lâm-ngư có liên quan đến NTTS, các chính sách về vốn, tín dụng
và đầu tư cho NTTS.
Nhìn chung các chính sách này đều có tác dụng thúc đẩy quá trình tăng trưởng
của NTTS, đặc biệt là lĩnh vực nuôi nước lợ, nhằm mục đích tăng hiệu quả kinh tế từ
NTTS, tạo nguyên liệu sạch, an toàn cho chế biến xuất khẩu, tăng cường sự đóng góp
của NTTS vào tổng thu nhập của ngành thuỷ sản cũng như nền kinh tế quốc dân. Về
vấn đề tạo công ăn, việc làm và xoá đói giảm nghèo, mặc dù các chính sách này không
đề cập một cách trực tiếp nhưng các chính sách này khi được thực thi có hiệu quả thì
đều có tác dụng tăng hiệu quả sản xuất của các hoạt động sản xuất và kinh doanh thuỷ
sản, nên tạo điều kiện cho người nuôi mở rộng các mô hình sản xuất và tạo thêm việc
làm cho người lao động ăn theo, gián tiếp góp phần vào xoá đói giảm nghèo. Như vậy,
đã đề cập gián tiếp đến công tác tạo việc làm và xoá đói giảm nghèo cho các vùng nông
thôn.
• Các chính sách về việc sản xuất, kinh doanh và sử dụng các hoá chất, thuốc
kháng sinh và chế phẩm sinh học cho NTTS:
Chỉ thị số 07/2001/CT-BTS của Bộ trưởng Bộ thủy sản ngày 24 tháng 9 năm
2001 (cấm sử dụng chloramphenicol và quản lý việc dùng hóa chất, thuốc thú y trong
sản xuất thủy sản); Quyết định 18/2002/QĐ-BTS ngày 03/6/2002 của Bộ trưởng Bộ
thủy sản (ban hành Quy chế khảo nghiệm giống thủy sản, thức ăn, thuốc, hóa chất và
chế phẩm sinh học dùng trong nuôi trồng thủy sản); Quyết định 15/2002/QĐ-BTS ngày
17/5/2002 (ban hành Quy chế kiểm soát dư lượng các chất độc hại trong động vật và
sản phẩm động vật thủy sản nuôi), Quyết định 640/1999/QĐ-BTS của Bộ trưởng Bộ
thủy sản (ban hành Quy chế kiểm soát an toàn vệ sinh trong thu hoạch nhuyễn thể hai
mảnh vỏ).
Các quyết định này về cơ bản đã thể hiện và đề cập được tính cấp thiết của công
tác quản lý việc sản xuất và kinh doanh các sản phẩm này trong NTTS. Hiện nay, khi
phong trào phát triển NTTS được mở rộng, diện tích nuôi thuỷ sản không ngừng tăng
lên, đặc biệt là nuôi tôm nước lợ, đã kéo theo sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực
sản xuất kinh doanh các dịch vụ về hoá chất cho NTTS, các sản phẩm sản xuất trong

nước hoặc nhập khẩu từ nước ngoài được sử dụng phổ biến trong các mô hình nuôi thuỷ
sản. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các chính sách này đã nảy sinh nhiều khó
khăn và bất cập. Đó là các khó khăn về tài chính và nguồn nhân lực để thực hiện triệt để
các chính sách này trong thực tế.
• Vấn đề quy hoạch, sản xuất và kinh doanh con giống phục vụ cho NTTS:
Quyết định 865-QĐ/NC ngày 23/10/1996 của Bộ trưởng Bộ Thủy sản (ban hành
văn bản “Quy hoạch xắp xếp lại cơ sở giống nuôi thủy sản thời kỳ 1996 – 2000); Quyết
định 18/2002/QĐ-BTS ngày 03/6/2002 của Bộ trưởng Bộ thủy sản (ban hành Quy chế
khảo nghiệm giống thủy sản, thức ăn, thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh học dùng trong
nuôi trồng thủy sản); Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg ngày 08/12/1999 v/v phê duyệt
Chương trình phát triển NTTS thời kỳ 1999 – 2010, Quyết định số 103/2000/QĐ-TTg


20

ngày 25/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển
giống thủy sản, Quyết định số 112/2004/QĐ-TTg ngày 23 tháng 6 năm 2004 v/v phê
duyệt Chương trình Phát triển giống thuỷ sản đến năm 2010 của Bộ Thuỷ Sản.
Pháp lệnh số 16/2004/PL-UBTVQH11 ngày 24 tháng 3 năm 2004 về giống vật
nuôi.
Quyết định 103/2000/QĐ-TTg ngày 25 tháng 8 năm 2000 về một số chính sách
khuyến khích phát triển giống thuỷ sản.
Quyết định 992/2001/QĐ-NHNN ngày 06 tháng 8 năm 2001 về quy định mức
cho vay không có bảo đảm bằng tài sản của Ngân hàng thương mại cổ phần, Công ty tài
chính cổ phần và Ngân hàng liên doanh.
Thông tư 04/2000/TT-BTS ngày 03 tháng 11 năm 2000 về Hướng dẫn thực hiện
một số điều trong Quyết định 103.
Công văn số 934/CV- NHNN ngày 25 tháng 9năm 2000 của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Quyết định số 103.
Thông tư 56/2001/TTLT-BTC-BTS Hướng dẫn chế độ quản lý tài chính các dự

án khuyến khích phát triển giống thuỷ sản do ngân sách nhà nước bảo đảm.
• Vấn đề về kinh doanh và xuất nhập khẩu thuỷ sản:
Các chính sách có liên quan là Nghị định 86/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày
16 tháng 11 năm 2001 (điều kiện kinh doanh các ngành nghề thủy sản); Quyết định
344/2001/QĐ-BTS của Bộ trưởng Bộ thủy sản (quản lý xuất nhập khẩu hàng thủy sản
chuyên ngành năm 2001-2005); Quyết định 649/2000/QĐ-BTS ngày 04/8/2000 (ban
hành Quy chế kiểm tra và công nhận cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản đạt tiêu chuẩn
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, thay thế Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số
01/2000/QĐ-BTS ngày 03/1/2000); Thông tư số 03/2000/TT-BTS ngày 22/9/2000 của
Bộ Thủy sản hướng dẫn thực hiện Quyết định 178/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 30 tháng 8 năm 1999 (ban hành Quy chế nhãn hàng hóa lưu thông trong nước
và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đối với hàng hóa thủy sản); Quyết định
251/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 1998 (phê duyệt
chương trình xuất khẩu thủy sản đến năm 2005).
Các chính sách này đã đề cập đến việc kinh doanh các dịch vụ phụ trợ cho NTTS
như giống, thức ăn, hoá chất và kinh doanh, xuất nhập khẩu các sản phẩm thuỷ sản,
nhằm mục tiêu thúc đẩy việc chế biến và tiêu thụ tốt các sản phẩm thuỷ sản, đảm bảo
đầu ra và hiệu quả cho các hoạt động sản xuất. Đặc biệt, Quyết định 251/1998/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 1998 đã phê duyệt Chương trình xuất
khẩu thủy sản đến năm 2005, nhằm mục đích thúc đẩy lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản,
tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản và đưa kinh tế thuỷ sản phát triển thành ngành mũi
nhọn trong nền kinh tế đất nước.
• Vấn đề về quy hoạch phát triển NTTS và chuyển dịch cơ cấu, vật nuôi cây
trồng trong sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp, trong đó có liên quan đến NTTS:
Nghị Quyết 09/2000/NQ-CP ngày 15 tháng 6 năm 2000 về Một số chủ trương và
chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Thông tư số 91/2000/TT-BTC ngày 06 tháng 9 năm 2000 về Hướng dẫn thực
hiện Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP về miễn thuế GTGT và thuế TNDN trên khâu lưu
thông để khuyến khích tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Quyết định 150/2005/QĐ-TTg ngày 20 tháng 6 năm 2005 về Phê duyệt quy

hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản cả nước đến năm 2010 và
tầm nhìn 2020


21

Chính sách có liên quan là Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP của Chính phủ ngày
15/6/2000 (về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp). Nghị quyết đề cập đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư (trong đó có nuôi trồng thuỷ sản) theo định hướng
xây dựng một nền nông nghiệp mạnh, phát triển bền vững, được áp dụng khoa học công
nghệ cao, công nghệ mới, từng bước được hiện đại hoá, vươn lên trở thành ngành sản
xuất có sức cạnh tranh cao, nâng cao năng suất và hiệu quả.
Ngoài ra, liên quan đến chính sách khuyến khích phát triển NTTS nước mặn
(trên biển và hải đảo) còn có Quyết định số 126/2005/QĐ-TTg ngày 01 tháng 6 năm
2005 của thủ tướng chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển nuôi trồng
thuỷ hải sản trên biển và hải đảo.
• Vấn đề về vốn, tín dụng và đầu tư trong NTTS:
Các chính sách có liên quan là: Thông tư liên tịch số 56/2001/TTLT-BTC-BTS
ngày 09/7/2001 (về việc hướng dẫn chế độ quản lý Tài chính các dự án khuyến khích
phát triển giống thủy sản do Ngân sách Nhà nước bảo đảm); Quyết định 67/1999/QĐ-
TTg ngày 30 tháng 3 năm 1999 và Quyết định 148/1999/QĐ-TTg ngày 7 tháng 7 năm
1999 của Thủ tướng Chính phủ (ban hành chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát
triển nông nghiệp, nông thôn).
Lĩnh vực NTTS vẫn còn thiếu các chính sách về vốn vay, tín dụng và đầu tư cụ
thể, đặc trưng cho phát triển NTTS. Hiện nay, các cơ chế về tín dụng và vốn vay trong
NTTS được thực hiện theo cơ chế tín dụng và cho vay đối với các trang trại sản xuất
nông-lâm-ngư nghiệp nói chung. Điều này được thể hiện trong Quyết định
67/1999/QĐ-TTg ngày 30 tháng 3 năm 1999 và Quyết định 148/1999/QĐ-TTg ngày 7
tháng 7 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ (ban hành chính sách tín dụng ngân hàng

phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn).

6.2.2. Chính sách khuyến ngư
Quyết định 18/2003/QĐ-BTS ngày 05/8/2003 về việc Quy định chức năng,
nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Khuyến ngư Quốc gia
Nghị định 56/2005/NĐ-CP ngày 26/4/2005 về Khuyến nông, khuyến ngư.
Thông tư 60/2005/TT-BNN ngày10/10/2005 về Hướng dẫn Nghị định 56.
Thông tư 01/2005/TTLT-BTS-BNV ngày 03/2/2005 về Hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý nhà nước về thuỷ sản.
Thông tư liên tịch 30/2006/TTLT-BTC-BNN&PTNT-BTS ngày 06 tháng 4 năm
2006 về Hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp kinh tế đối với hoạt
động khuyến nông, khuyến ngư

6.2.3. Chính sách quản lý sự phát triển khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản
• Chính sách hỗ trợ giảm bớt khó khăn trong khai thác hải sản
Thực hiện các Quyết định số 289/QÐ-TTg ngày 18-3-2008 và Quyết định số
965/QÐ-TTg ngày 21-7-2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ nhằm giảm bớt
khó khăn cho ngư dân trong khai thác thủy sản. Ngay sau khi có Quyết định số
289/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 6-5-2008, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đã ban hành Quyết định số 1381/2008-BNN-KTBVNL về việc quy định tiêu
chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật với tàu cá được hỗ trợ theo Quyết định 289 của Thủ
tướng Chính phủ, đồng thời phối hợp Bộ Tài chính xây dựng, ban hành Thông tư số


22

35/2008/TT-BTC về việc hướng dẫn thực hiện Quyết định 289 của Thủ tướng Chính
phủ. Cuối tháng 7, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 71/2008/TT-BTC hướng dẫn
thực hiện Quyết định 965/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Trước khi Quyết định số 965/QÐ-TTg ra đời, dựa theo mức hỗ trợ và đối tượng
được hỗ trợ theo Quyết định số 289/QÐ-TTg, 28 tỉnh, thành phố có nghề khai thác hải
sản đã có kế hoạch dự trù kinh phí hỗ trợ gửi cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Bộ Tài chính với tổng mức dự kiến được hỗ trợ gần hai nghìn tỷ đồng; trong đó
hỗ trợ đóng mới và mua tàu mới là 105,91 tỷ đồng; hỗ trợ thay máy tàu 91,12 tỷ đồng,
hỗ trợ mua bảo hiểm 125,28 tỷ đồng, hỗ trợ giá dầu 1.612,27 tỷ đồng. Tính đến ngày 7-
8-2008, có 8/28 tỉnh, thành phố đã hỗ trợ kinh phí đến tận tay ngư dân gồm: Thanh
Hóa, Thừa Thiên - Huế, Ðà Nẵng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tiền Giang,
Cà Mau, gồm 8.159 trường hợp, với số tiền hỗ trợ là 45 tỷ đồng.
• Quy định khu vực cấm đánh bắt có thời hạn và cấm hoàn toàn
Bộ Thuỷ sản đã ban hành Thông tư số 01/2002/TT - BTS ngày 28/04/2000 để sửa
đổi bổ sung 1 số điểm trong Thông tư số 04 - TS/TT ngày 30/08/1990 hướng dẫn thực
hiện pháp lệnh ngày 25/04/1989 của HĐNN và Nghị định 195 - HĐBT ngày 2/6/1990
của HĐBT về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản. Trong thông tư này có quy định
cấm đánh bắt có thời hạn tại 8 vùng biển của nước ta.
UBND tỉnh Kiên Giang đã ra Quyết định 1236/QĐ - UB ngày 26/9/1999 cấm các
loại nghề Te, xiệp, Bóng mực, lưới Kéo ven bờ hoạt động tại vùng biển Kiên Giang.
Ngày 1/6/1994 UBND tỉnh Khánh Hoà ra chỉ thị 26 CT - UB nghiêm cấm việc sử
dụng các nghề lưới Kéo và Xiệp điện trong đầm Nha Phu, đồng thời tạo sinh kế cho
những ngư dân làm nghề này chuyển sang nuôi Sò huyết, Vẹm xanh, Ngao, ương Tôm
hùm con
Khu bảo tồn biển Rạn Trào nằm trong vịnh Văn Phong thuộc vùng biển xã Vạn
Hưng tỉnh Khánh Hoà được thành lập theo Quyết định 2479/QĐ - UB ngày 7/11/2001
của UBND tỉnh Khánh Hoà và do Liên minh sinh vật biển quốc tế (IMA) thực hiện.
Khu bảo tồn có diện tích được bảo vệ là 40 ha, vùng lõi là 27 ha.
Khu bảo tồn biển (KBTB) Hòn Mun là KBTB cấp quốc gia đầu tiên được Chính
phủ phê duyệt tại Công văn 1777/CP - QHQT ngày 20/12/2000 và do Tổ chức Bảo tồn
thiên nhiên thế giới (IUCN), Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF), Ngân hàng thế giới (WB)
cùng với Tổ chức phát triển quốc tế của Đan Mạch (DANIDA) đồng tài trợ.


7. Tài liệu tham khảo chính
1)
Nguyễn Chu Hồi và Cao Lệ Quyên, 2005
. Rapid overview on the nature and
distribution of benefits from fresh-water aquaculture in the Red River Delta in
Viet Nam. Technical report, WorldFish Center.
2)
Bộ Thuỷ sản, 2006.
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện chương trình phát triển
NTTS giai đoạn 2000-2005 và biện pháp thực hiện đến năm 2010.
3)
FAO, 2008.
The state of the World Fisheries and Aquaculture 2006
4)
FAO, 2008
. Aquaculture Production Statistics.
5)
FAO, 2008
. Aquaculture Trade Statistics
6)
FAO, 2008
. Aquaculture Value Statistics
7)
Lê Thanh Lựu, 2006
. Xu thế phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên thế giới và Việt
Nam những vấn đề cần quan tâm. Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản 1.
8)
Hồ Công Hường, 2006
. Hiện trạng nuôi biển và một số vấn đề trong quy hoạch
phát triển ở Việt Nam. Hội Nghị về nuôi biển toàn Quốc, Hạ Long 9-10/2006.



23

9)
Tổng Cục thông kê, 2007. Số liệu thống kê năm 2006,
www.gso.gov.vn

10)
Trung tâm tin học thuỷ sản, 2008. Thủy sản Việt Nam,












































×