PHƯƠNG PHÁP TRÌNH BÀY CÔNG
TRÌNH NGHIÊN CỨU Y HỌC
CÁC TÁC GIả
Bác sỹ Claude-Laurent Benhamou, nhà thấp khớp học ở Trung tâm bệnh viện v
ùng Orléans, là thành
viên của Ban biên tập tạp chí Thấp khớp và các bệnh Xương-Khớp. Ông đã từng chủ trì các bu
ổi thảo
luận giảng dạy về phương pháp viết báo y học ở trường đại học Tours, nơi mà ông từng là thư ký c
ủa
đơn vị giúp đỡ viết báo y học.
Bác sĩ Loic de Calan, Giáo sư phẫu thuật tiêu hoá tại đại học Tours, đã từng là thành viên của Ban bi
ên
tập tạp chí Gastroenterologie Clinique et Biologique. Ông chủ trì các bu
ổi thảo luận giảng dạy về
phương pháp viết báo y học ở trường đại học Tours.
Bác sĩ Dominique Franco, Giáo sư về phẫu thuật tiêu hoá ở đại học Paris Sud, đã từng là tổng biên t
ập
tạp chí Gastroenterologie Clinique et Biologique. Bác sĩ Jean Paul Galmiche, Giáo s
ư chuyên ngành
Gan-Tiêu hoá tại trường đại học Nantes, đã từng là tổng biên t
ập tạp chí Gastroenterologie Clinique et
Biologique. Ông là người sáng lập và lãnh đạo tạp chí chuyên về đào tạo y học liên tục "Hépato-
Gastro".
Ông là thành viên ban biên tập tạp chí “Gut” và tạp chí "European Journal of Gastro-
Enterology and
Hepathology". Bác sĩ Bernard Grenier, Giáo sư danh dự của đại học Y khoa Tours, đã chủ trì các bu
ổi
sinh hoạt khoa học đào tạo chuyên ngành về phân tích các quyết định y học, về phương pháp đọc v
à
phân tích cũng như biên tập báo y học ở nhiều trường đại học Pháp ngữ.
Bác sĩ Michel Huguier, Giáo sư chuyên ngành phẫu thuật tiêu hoá ở đại học Paris VI, đã từng l
à thành
viên ban biên tập tạp chí Gastroentérologic Clinique et Biologique. Ông là đồng biên t
ập của tạp chí
Hepato-Gastroenterology và phó biên tập tạp chí Chirurgie. Ông là chủ tịch của Hội vì s
ự phát triển
giảng dạy và nghiên cứu trong viết báo y học (ADERREM) và chủ trì các bu
ổi thảo luận giảng dạy về
viết báo y học.
Bác sĩ Gérard Lorette, Giáo sư chuyên ngành Da liễu trường đại học Tours. Ông là tổng biên t
ập tạp chí
Annales de Dermatologie. Ông là Giám đốc bộ phận nhận bài của nhà xuất bản Doin. Ông chủ tr
ì các
buổi thảo luận giảng dạy viết báo y học ở Pháp và ở nước ngoài.
Bác sĩ Hervé Maisonneuve là giám đốc bộ phận thẩm định của cơ quan quốc gia về tín nhiệm v
à đánh
giá trong y tế (ANAES). Ông đã từng là chủ tịch Hiệp hội Âu Châu của các nhà xu
ất bản khoa học. Ông
là thành viên các ban biên tập (JAM, Journal of Evaluation in Clinical Pratice) và đã chủ trì các h
ội thảo
về giảng dạy viết báo y học
LờI NÓI ĐầU
Mục đích của cuốn sách này là nh
ằm giúp cho những ai muốn viết một luận án, một bản thu hoạch hay
một bản báo cáo khoa học. Sách trình bày những nguyên tắc viết một tài liệu khoa học y học (ch
ương 1
và 2) và cách sử dụng chúng trong công trình nghiên cứu (chương 3 đến chương 13). Hi
ểu biết những
nguyên tắc này giúp cho tác giả biết cách viết một cách chính xác, rõ ràng và súc tích. Bên c
ạnh giá trị
khoa học của công trình, nó góp phần làm cho công trình nghiên cứu được Ban biên t
ập của các tạp chí
khoa học chấp nhận. Rất nhiều trong số những nguyên tắc này cũng có thể áp dụng để viết một bài gi
ảng
hay một cuốn sách. Hiểu biết các nguyên tắc viết bài trong y học cũng giúp cho việc nhận biết những b
ài
báo kém sáng sủa, không chuẩn xác hay thiếu súc tích. Để tiết kiệm thời gian thì không c
ần đọc những
bài như vậy.
Để viết một bài báo cần phải biết có thể tìm tài liệu tham khảo ở đâu và như thế nào. Chủ yếu nhờ v
ào
công nghệ tin học, ta sẽ thực hiện việc lựa chọn nhanh lần đầu các tài liệu và lưu tr
ữ thông tin để có thể
sử dụng dễ dàng: chương 14 dành cho vấn đề này.
Các tác giả thường không biết con đường của một bài báo t
ừ khi gửi bản thảo tới một tạp chí cho tới khi
nó được đăng. Điều này tác động ngay tới chính việc viết bài báo. Thông tin này nằm trong chương 15.
Chương cuối cùng của cuốn sách cho những lời khuyên để chuẩn bị trình bày báo cáo miệng hay d
ùng
bảng trưng bày (poster) trong một hội nghị khoa học.
Chương 1
PHƯƠNG PHÁP VIếT BÁO KHOA HọC
Cách viết một bài báo khoa học đồng thời vừa là yếu tố cơ bản, vừa là yếu tố phụ của nội dung b
ài báo.
Để có thể hiểu rõ về sự tưởng như đối nghịch này, ta có thể ví cách viết như mặt kính của một bể nu
ôi cá
cảnh, nội dung khoa học của bài báo như những con cá nuôi trong bể này (1). Lợi ích mà cách vi
ết mang
lại là rất quan trọng: nếu mặt kính của bể cá mờ đục thì không thể chiêm ngưỡng những gì chứa b
ên
trong dù nó có đẹp đến đâu chăng nữa. Tuy nhiên tự bản thân cách viết không mang lại mục đích v
ì
chẳng ai ngắm một cái bể cá chỉ vì cái mặt kính. Học cách viết cũng giúp ta biết cách đọc tốt h
ơn. Trên
thực tế, một độc giả nắm được cách viết sẽ nhận ra dễ dàng lợi ích khoa học của một bài báo đư
ợc viết
chuẩn xác nghĩa là viết một cách chính xác, rõ ràng và súc tích. Một bài báo không chính xác, t
ối nghĩa,
với những chỗ lạc đề, sẽ làm cho người đọc phải mất một thời gian dài c
ố gắng, đôi khi một cách vô
vọng, để tìm hiểu nội dung bài báo. Hiểu biết những nguyên tắc viết bài báo khoa học cho phép ngư
ời
đọc loại bỏ ngay khi mới xem qua những bài báo không tôn trọng những nguyên tắc này. Do đó ngư
ời
đọc sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian mà không s
ợ bỏ sót một thông điệp khoa học ẩn chứa trong một
bài báo trình bày tồi vì nguy cơ này rất thấp. Kinh nghiệm cho thấy thường có sự đồng hành gi
ữa nội
dung và hình thức: "những gì người ta biết rõ thì sẽ được trình bày rõ ràng" (2). Hệ quả là những g
ì
không rõ ràng thường chứa đựng một lợi ích khoa học rất hạn chế.
MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC VIẾT BÁO KHOA HỌC
Mục đích đặc trưng của việc viết báo y học là truyền đạt một thông điệp khoa học mà thể thức thư
ờng
gặp là bài báo đăng kết quả nghiên cứu hay là "Bản báo cáo nghiên cứu". Mục đích này giải thích r
õ
cách viết bài báo khoa học phải là m
ột kỹ thuật xuất phát từ khoa học chứ không xuất phát từ văn
chương hay thơ ca. Trên thực tế, việc viết báo khoa học được hướng dẫn bởi những nguyên t
ắc tự bản
thân nó nói lên tính chặt chẽ khoa học. Đó phải là những nguyên tắc xuất hiện dần, đáp
ứng theo một
logic chứ không phải là những giáo điều áp đặt. Ví dụ, các tài liệu tham khảo phải được tr
ình bày sao
cho người đọc có thể tham chiếu dễ dàng nhất. Điều này không tuân theo m
ột quy tắc duy nhất: Có
nhiều hệ thống tham khảo mà mỗi hệ thống đều có điểm mạnh và điểm yếu riêng. Tuy nhiên các t
ạp chí
y học tìm cách tốt nhất để trình bày tài liệu tham khảo một cách hài hoà(3).
Mục đích thứ hai của cách trình bày một bản báo cáo khoa học không phải là m
ột mục đích đặc biệt: đó
là phải viết sao cho để bài báo được độc giả hưởng ứng. Trong văn chương, mục đích này đạt đư
ợc nhờ
cốt truyện hấp dẫn, sự giàu có v
ề từ vựng, văn phong của tác giả. Trong khoa học, giá trị của nội dung
khoa học là trên hết. Tuy nhiên sự xuất hiện ngày càng nhiều các tạp chí và bài báo y học làm cho ngư
ời
đọc phải chọn lựa nên đọc cái gì (4). Khi lợi ích khoa học tương đương nhau, chúng ta có xu hư
ớng đọc
các bài báo rõ ràng, chính xác, và súc tích hơn. Do vậy, chúng ta chỉ đặt mua những tạp chí n
ào có
những bài báo đáp ứng những nguyên tắc đó nhiều nhất. Hơn nữa, thường những tạp chí có uy tín l
à nơi
thu hút được những bài có giá trị. Những tạp chí đó có nhiều khả năng chọn lựa bài: T
ạp chí British
Medical Journal nhận được khoảng 5000 bài báo gửi đăng một năm mà chỉ có 600 bài đư
ợc đăng. Một
nửa số bài báo gửi đến thậm chí không nhận được sự phân tích tỷ mỷ vì đó không phải là những b
ài báo
đăng kết quả nghiên cứu, hoặc quá chuyên sâu, tối nghĩa hoặc có giá trị tầm thư
ờng về mặt khoa học (5).
Ba tiêu chu
ẩn chất lượng một bài báo khoa học gồm:
1) Giá trị khoa học;
2) Chất lượng của sự trình bày khoa học;
3) Sử dụng thành thạo thứ ngôn ngữ dùng viết bài báo.
Rất tiếc một thực trạng đã xảy ra là sự xuất hiện bùng nổ các bài báo và t
ạp chí do sự cần thiết phải có
danh mục công trình nghiên cứu, sự cần thiết phải đăng bài để có số lượng bài báo (6). S
ự cần thiết phải
đăng báo dù với động cơ nào đi nữa đã làm xu
ất hiện cả những sự không trung thực. Tháng 4 năm 1987
vấn đề này đã trở thành chủ đề một cuộc bàn luận ở Hội nghị khoa học Hoa Kỳ(7). Người ta đã đ
ề nghị
lập ra một uỷ ban kiểm tra và cả hình thức phạt trong trường hợp gian lận khoa học! Phương thu
ốc tốt
nhất có lẽ là sự tiến bộ trong cách nhìn nhận của các thành viên các h
ội đồng thi hay các uỷ ban quy
định số lượng bài báo. Việc cho điểm đánh giá các tạp chí khoa học có thể là m
ột cách xác định giá trị
các tạp chí nào chỉ nhận đăng các bài báo có chất lượng. Trường đại học Y Havard đã đ
ề nghị một biện
pháp phòng ngừa có tính hiện thực: Trường này yêu cầu các ứng viên dự tuyển chỉ xuất trình m
ột số
lượng hạn chế các công trình của họ: 7 công trình với ứng viên cho vị trí phó giáo sư, 10 công tr
ình cho
vị trí giáo sư (7). Cũng với tinh thần đó mà người ta yêu cầu các ứng viên cho giải thư
ởng Nobel hay
Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Hoa Kỳ chỉ trình tối đa 12 công trình (8). Nhưng đ
ối với hội đồng xét
duyệt thì đếm đầu các bài báo dễ hơn là đọc bài báo đó (9).
VIẾT BÁO KHOA HỌC VÀ VIỆC SỬ DỤNG TỐT NGÔN NGỮ
Các nguyên tắc viết một bài báo khoa học trong bất cứ trường hợp nào c
ũng không bỏ qua việc tôn trọng
các quy tắc ngữ pháp dù viết ở ngôn ngữ nào chăng n
ữa. Sự trộn lẫn giữa việc viết báo khoa học với
việc sử dụng không tốt ngôn ngữ thể hiện sự lẫn lộn hoàn toàn giữa hai khái niệm khác nhau: Nguy
ên
tắc viết bài và ngữ pháp. Ví dụ: thật là kỳ lạ khi Ban biên tập của một tạp chí lại có thể bảo vệ đư
ợc văn
phong y học của ngôn ngữ trong khi chấp nhận đăng một bài báo có những câu không thể hiểu đư
ợc đại
loại như: “chỉ có thể nghĩ tới một carcinome epidermoide tiên phát và một Sarcome là chẩn đoán vì b
ệnh
phẩm phẫu thuật đã bị làm hỏng do điều trị coban trước đó”.
Chặt chẽ, sáng sủa, súc tích
Khi một tác giả băn khoăn về cách viết một câu, một đoạn hay một chương nào đó, người đó phải trả lời
được 3 câu hỏi sau đây:
1) Dạng thức nào thích hợp nhất với ý tưởng và hiện tượng mà ta muốn trình bày?
2) Kiểu diễn đạt nào là đơn giản và rõ ràng nhất cho người đọc?
3) Kiểu diễn đạt nào súc tích nhất?
Ba câu hỏi này có tầm quan trọng giảm dần: Đừng hy sinh sự chặt chẽ cho lối hành văn sáng sủa cũng
như không hy sinh sáng sủa cho sự súc tích.
HỌC CÁC NGUYÊN TẮC PHỔ BIẾN TOÀN CẦU TRONG VIẾT BÁO KHOA HỌC
Các nguyên tắc viết báo khoa học không phải là tự nhiên mà có: Để biết đọc thì ch
ỉ biết các chữ cái thôi
chưa đủ; cũng như vậy, để viết đúng một bài báo khoa học thì việc biết viết bằng một thứ ngôn ngữ n
ào
đó vẫn chưa đủ. Vì vậy việc học những nguyên tắc viết báo khoa học dù rất đơn giản là cần thiết.
Việc cần thiết phải dạy những nguyên tắc này đã được đặt ra từ lâu ở nhiều nước (10). Ví d
ụ ở Hoa Kỳ,
những khoa giảng dạy phương pháp viết báo khoa học đã được thành lập ở các trư
ờng đại học: L.
Debakey lãnh đạo khoa thông tin khoa học (11) tại trư
ờng đại học Y Baylor ở Houston,. F.P Woodford
đã sáng lập chương trình giảng dạy 18 tháng cho các biên tập viên khoa học chuyên nghi
ệp (12) tại
trường đại học Rockerfeller ở New York. Tại Mayo Clinic ở Rochester đã tổ chức chương trình gi
ảng
dạy về viết báo khoa học cho sinh viên và các thầy thuốc (13). Khoa xuất bản y học giúp các thầy thuốc
viết các công trình ngay từ khi có ý tưởng. Cách làm này là s
ự bổ sung tốt nhất cho việc giảng dạy lý
thuyết (14).
Ở Anh cách viết công trình khoa học đã được dạy ở Viện khoa học và kỹ thuật Cardiff. Những ch
ương
trình giảng dạy tích cực đã được tổ chức dưới sự lãnh đạo của S. Lock, "biên tập viên" c
ủa tạp chí
British Medical Journal (15).
Ở Pháp, G. P. Revillard đã nêu lên sự cần thiết phải giảng dạy về kỹ thuật viết các bản thu hoạch nghi
ên
cứu trong chương trình học sau đại học "3ème cycle" (16). Năm 1975, J. A. Farfor đã đề nghị thành l
ập
một tổ chức giảng dạy cách viết công trình y học ở ba mức độ (1,17): 1) Một đợt giảng có thời lượng v
ài
giờ cho sinh viên y khoa năm thứ nhất hay thứ hai để giúp họ viết một bệnh án và tr
ả lời các câu hỏi thi;
2) Một khoá học từ bốn đến sáu buổi rưỡi cho các sinh viên đại học năm thứ ba giúp họ viết luận án v
à
nhất là các bản tóm tắt nghiên cứu; 3) Một khoá giảng sâu hơn nhiều dành cho các bác s
ĩ khi họ hợp tác
với ban biên tập các tạp chí y học. Mặc dù khá muộn màng so với các nư
ớc khác, việc giảng dạy về
phương pháp viết công trình y học đã được bắt đầu nhờ những ý tưởng của từng cá nhân, nhất là
ở Paris,
Tours, Nantes, Angers, Lille. Các ý tưởng này đã tập hợp lại năm 1987 bằng việc thành l
ập Hội phát
triển giảng dạy và nghiên cứu về viết công trình khoa h
ọc y học (Association pour le developpement de
l'enseignement et de la rechercher en rédaction médical - ADERREM).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Farfor JA. Enseigner la rédaction médicale. Chapitre II. La structure du compte rendu de recherche.
Cah Med 1976;2:783-5.
2. Boileau-Despréaux N. L'art poétique. Chant I. In: (Euvres, nouvelle édition. Paris: Billiot, 1726:7-
33.
3. International Committee of Medical Journal Editors. Uniform requirements for manuscrips
submitted to biomedical journals. N Engl J Med 1997;336:309-15 (traduction fran†aise voire page 149)
4. Department of Clinical Epidemiology and Biostatistics, McMaster University Health of Science.
How to read clinical journals: I. Why to read them and how to start reading them critically. Can Med
Assoc J 1981;124:555-8.
5. Smith R. Steaming up windows and refereeing medical papers. Br Med J 1982;285:1259-61.
6. Garfield E. In thuth, the “flood” of scientific literature is only a myth. Scientist 1991;2:11-25.
7. Angell M, Relman AS. Fraud in biomedical research. A time for congressional restraint. N Engl J
Med 1988;318:1462-3.
8. Stossel TP. Volume: papers and academic promotion. Ann Intern Med 1987;106:146-8.
9. Stetten D. Publication: numbers and quality. Science 1986;232:4746.
10. Farfor JA. Pour une réhabilitation de la presse médicale fran†aise: à quand la fin de
l'amateurisme? Cah Med 1977;3:683-7.
11. DeBakey L. The scientific journal:
editorial policies and pratices: guidelines for editors, reviewers,
and subauthors. In collaboration with PF Cranefield et al. St Louis: Mosby, 1976,129p.
12. Woodford FP. Training professional editors for scientific journals. Scholarly Publishing 1970;2:41-
6.
13. Roland CG, Cox BG. A mandatory course in scientific writing for undergraduate medical students.
J Med Educ 1976;51:89-93.
14. Cox BG. The author's editor. Mayo Clin Proc 1974;49:314-7.
15. Lock S. Introduction (à l'enseignement de la rédaction médicale). Cah Med 1976;2:630-2.
16. Revillard JP. Pour un enseignement de l'expession médicale et scientifique. La rédaction d'un
article. Lyon Médical 1970;224:1-9.
17. Farfor JA. Pourquoi la recherche médicale fran†aise est-elle sous-
estimatée dans les pays de langue
anglaise? Cah Med Lyonnais 1975;51:11-4.
18. Huguier M, Poitout D. Diplôme d' études approfondies en sciences chirurgicales. Ann Chir
1986;40:449-53
Chương 2
CÁC DạNG BÀI VIếT VÀ BÀI BÁO TRONG Y HọC
Sự đa dạng của các bài viết và bài báo trong y học là để đáp ứng với s
ự đa dạng về mục đích của chúng.
Các tạp chí y học cho phép các tác giả trình bày theo ít nhất tám cách khác nhau, mỗi cách tương
ứng
với một dạng bài báo đã được xác định. Hệ quả là việc xếp loại các bài báo trong y học thành các d
ạng
khác nhau mang lại cho người đọc thông tin về mục đích chung của bài báo, như vậy hướng ngư
ời đọc
chọn lựa ngay từ đầu.
Các dạng bài viết và bài báo khác nhau trong y học:
Bài đăng công trình nghiên cứu (article original)
Bài xã luận (editorial)
Thông báo lâm sàng (cas clinique ou fait clinique)
Thư gửi Ban biên tập ( lettre à la rédation)
Tổng quan (revue generale)
Hiệu chỉnh (mise au point)
Phân tích bình luận (analyse commentée)
Bài giảng (article didactique)
Sách (livres)
Luận án bác sỹ y học, khi trình bày một công trình nghiên cứu phải được viết như một bài báo khoa h
ọc,
nghĩa là như một bài đăng công trình nghiên cứu.
Mỗi dạng bài báo có điểm đặc trưng riêng. Việc không tuân thủ những đặc điểm này th
ể hiện sự thiếu
nghiêm túc của người viết.
BÀI ĐĂNG CÔNG TÌNH NGHIÊN CỨU
Đây là bài báo nguyên thuỷ còn gọi là khoá luận hay báo cáo khoa học ở một số tạp chí, trình bày m
ột
công trình nghiên cứu theo một chủ đề nào đó. Các tác giả trình bày phương pháp nghiên cứu, đ
ưa ra các
kết quả nghiên cứu của mình và bàn luận về các kết quả đó.
Cấu trúc một bài báo nghiên cứu là sự lặp lại một cách máy móc vì nó là k
ết quả của logic khoa học.
Phần Đặt vấn đề phải nói rõ tại sao công trình được thực hiện. Phần Tư liệu và phương pháp nghiên c
ứu
phải chỉ ra công trình được thực hiện thế nào. Phần kết quả mô tả những gì đã nhận thấy và chỉ những g
ì
đã nhận thấy. Ngược lại phần Bàn luận hay bình luận có thể viết tự do hơn, mặc dù v
ẫn phải tôn trọng
những nguyên tắc chung. Tài liệu tham khảo giúp để chứng minh những điều các tác gi
ả khẳng định,
chủ yếu ở phần đặt vấn đề và phần bàn luận. Cấu trúc này phù h
ợp với một logic chứ không phải với
một sự giáo điều áp đặt. Bài báo nghiên cứu cũng khác với bài giảng ở chỗ mục đích của bài giảng l
à
giảng dạy cho người đọc. Việc nhầm lẫn giữa các thể loại thể hiện sự thiếu chặt chẽ trong việc viết b
ài
báo. Cấu trúc một bài báo nghiên cứu thường được gọi là IMRAD (1). Nó có nghĩa l
à: I = Introduction =
Đặt vấn đề, M = Matériel et méthodes = Tư liệu và phương pháp, R = Résultats = Kết quả, A
= and = và,
D = Discussion = Bàn luận.
Cấu trúc một bài báo nghiên cứu (gọi là cấu trúc IMRAD)
Tên bài báo và tóm tắt
I = Introduction = Đặt vấn đề,
M = Matériel et méthode = Tư liệu và phương pháp,
R = Résultat = Kết quả,
A = and = và,
D = Discussion = Bàn luận.
Tài liệu tham khảo
Hai sai lầm lớn nhất và thường gặp nhất là: thứ nhất là đặt trong một chương nh
ững vấn đề không có vị
trí ở đó như đưa nhận xét vào chương Tư liệu và phương pháp nghiên cứu hay chương K
ết quả, mô tả
đối tượng nghiên cứu trong chương Kết quả Sai lầm thứ hai là biến một phần hay toàn bộ ch
ương Bàn
luận thành một bài giảng sư phạm (2).
BÀI XÃ LUẬN
Bài xã luận thường được Ban biên tập của một tạp chí yêu c
ầu một tác giả có uy tín trong lĩnh vực
chuyên môn đó viết. Tác giả tự do bày tỏ quan điểm, phân tích các công trình nghiên cứu đã xu
ất bản,
đưa ra các giả thuyết hoặc đề xuất những nghiên cứu mới. Vì lý do đó, tác giả của bài xã lu
ận khi viết
không phải tuân theo cấu trúc IMRAD. Định nghĩa về bài xã luận cho thấy nó chỉ do m
ột tác giả viết.
Một bài xã luận phải ngắn vào khoảng 6 trang đánh máy. Trong một bài xã luận nên tránh đưa ra các k
ết
quả nghiên cứu cụ thể. Tác giả cần giữ một thái độ phê phán đối với các kết quả nghiên cứu của ri
êng
mình. Bài xã luận là một dạng bài báo y học rất cụ thể: Các kết quả thống kê cho thấy đó là loại b
ài
được đọc nhiều nhất trong các tạp chí y học nổi tiếng (3). Trên thực tế với tư cách là ngư
ời đọc, cách rất
tốt để tạo ra quan điểm về một vấn đề là đọc bài xã luận về vấn đề đó. Một bài xã luận có thể có c
ùng
chủ đề với bài nghiên cứu trong cùng một số của tạp chí, đó là dạng bài xã luận "chủ đề" .
THÔNG BÁO LÂM SÀNG
Thông báo lâm sàng có mục đích trình bày một bệnh án và bình luận ngắn về bệnh án đó. Vì lý do đó đ
ộ
dài bản thảo không nên vượt quá 4-6 trang đánh máy. Thông báo lâm sàng phải đưa ra các thông tin đ
ộc
đáo về sinh bệnh học, lợi ích của quá trình chẩn đoán hay điều trị một bệnh lý nào đó. Các t
ạp chí nổi
tiếng có một chính sách rất chặt chẽ trong việc đăng các thông báo lâm sàng. Chính sách này là do có r
ất
nhiều thông báo lâm sàng được gửi tới. Không phải bao giờ cho đăng những trư
ờng hợp hiếm gặp cũng
có ích, thường vì đó là những trường hợp không có lợi ích rõ ràng về tính sư ph
ạm (4). Việc viết một
thông báo lâm sàng nên tránh hai xu hướng: Từ một trường hợp đã gặp làm m
ột điểm báo y học hay viết
một bài giảng dưới vỏ bình luận một bệnh án.
Thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng gần với dạng thông báo lâm sàng (5). Việc này đư
ợc thực hiện bởi
một hay nhiều bác sĩ thảo luận những vấn đề về chẩn đoán hay điều trị đặt ra nhân một trư
ờng hợp bệnh
nhân. Thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng là một bài báo có tính giảng dạy mà một minh họa là m
ục
"Bệnh án lâm sàng" hay “Thảo luận lâm sàng - giải phẫu bệnh” của Bệnh viện Trung tâm Masachus
sets
được đăng hàng tu
ần trong tạp chí New England Journal of Medicine (6). Tại Pháp, có những tạp chí
đăng thường kỳ những bài thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng.
Thảo luận lâm sàng giống như thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng, trình bày những vấn đề về ch
ẩn đoán
và điều trị của một bệnh án lâm sàng. Khác với thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng mà mỗi phần đư
ợc
thảo luận bởi một chuyên gia khác nhau (5), thảo luận lâm sàng là một dạng bài báo gi
ảng dạy, cập nhập
một vấn đề qua một bệnh án cụ thể được trình bày. Dạng thảo luận lâm sàng được đăng thư
ờng kỳ trong
tạp chí Annals of Internal Medicine.
Đôi khi có người chỉ trích dạng thông báo lâm sàng (6,7). Tuy nhiên khi nó có chất lượng tốt thì l
ại
mang lại rất nhiều kết quả bởi vì 56% độc giả của tạp chí New England Journal of Medicine nói r
ằng họ
đọc ít nhất ba lần một tháng mục "Bệnh án lâm sàng" trong báo này (8). Vì vậy Ban biên t
ập các tạp chí
y học nên khuyến khích đăng dạng bài này với điều kiện phải kiểm soát chất lượng (4).
THƯ GỬI BAN BIÊN TẬP
Thư gửi Ban biên tập là một bức thư gửi cho Ban biên tập của một tạp chí với mục đích được đăng tr
ên
tạp chí đó. Nội dung của thư gửi Ban biên tập có thể là một thông báo lâm sàng ng
ắn hoặc các kết quả
bước đầu một công trình nghiên cứu hay có thể là lời bình luận về một bài báo đã đăng trư
ớc đó trong
chính tạp chí đó. Thư gửi ban biên tập phải ngắn, ít hơn hai trang đánh máy và có dưới sáu tài li
ệu tham
khảo.
Các kết quả trình bày trong thư gửi Ban biên tập có thể sẽ được đăng sau này một cách chi tiết hơn. Thư
gửi Ban biên tập cho phép các tác giả tính ngày công bố nếu công trình không đăng hay chỉ đư
ợc thảo
luận miệng. Lợi điểm của thư gửi ban biên tập là nó được đăng nhanh sau khi được Ban biên t
ập chấp
nhận, thường chỉ trong vòng vài tuần, trong khi muốn đăng một công trình nghiên cứu thì th
ời gian chờ
đợi là vài tháng thậm chí một năm hoặc hơn.
Thư gửi Ban biên tập có thể là lời trả lời, một bình luận hay có thể là một quan điểm ngư
ợc lại với một
bài báo đã đăng trước đó trong cùng tạp chí (9). Khả năng trao đổi này giữa các tác giả và người đọc l
à
một thói quen rất được ưa chuộng ở các tạp chí Anh-Mỹ (9) đã phát tri
ển trong các tạp chí tiếng Pháp.
Có những tạp chí chỉ chấp nhận loại thư gửi Ban biên tập kiểu này mà thôi.
TỔNG QUAN
Bài tổng quan là một bài điểm lại một cách đầy đủ nhất có thể đư
ợc những hiểu biết về một chủ đề xuất
phát từ việc phân tích toàn bộ mọi mặt các công trình đã đăng. Trong phần tài li
ệu tham khảo có thể dẫn
hàng vài trăm tài liệu. Một bài tổng quan tốt phải đáp ứng được những yêu cầu sau (10): 1) chỉ hư
ớng tới
một chủ đề cụ thể đã được trình bày rõ ở phần mở đầu. 2) trình bày những nguồn tài liệu đã đư
ợc sử
dụng để thu thập thông tin và chỉ rõ những tiêu chuẩn nào để sử dụng tài liệu trong số những tài liệu đ
ã
đọc, ví dụ như tác giả một bài tổng quan về điều trị một bệnh chỉ lấy những nghiên c
ứu tiền cứu có kiểm
chứng. 3) phân tích phương pháp luận và giá trị của các kết quả thu được trong các công tr
ình khác nhau
được sử dụng trong bài. 4) trình bày tóm tắt trong những đoạn cuối của bài tổng quan những số liệu v
à
kết quả có giá trị nhất và gợi ý những hướng nghiên cứu cho các công trình trong tương lai. Ngư
ời đọc
nhờ vậy nhận được một cái nhìn tổng thể bao quát về một vấn đề cả về mặt lịch sử và tri
ển vọng mở ra
từ đó.
HIỆU CHỈNH
Hiệu chỉnh là một thể loại nằm giữa hai thể loại có tính hoàn chỉnh hơn là bài xã luận và bài t
ổng quan.
Ngư
ời viết bài này phải là tác giả của những công trình chủ yếu trong vấn đề đó. Bài này c
ũng giống
như bài xã luận thường được viết theo yêu cầu của Ban biên tập một tạp chí.
Bài hiệu chỉnh có nội dung tập trung vào một chủ đề hạn hẹp xuất phát từ những b
ài báo đăng trong
những năm gần đây và từ kinh nghiệm bản thân của tác giả. Sự khác biệt giữa hai nguồn thông tin n
ày
phải thể hiện rõ ràng. Ngay từ phần đặt vấn đề, các tác giả phải giải thích bài hiệu chỉnh đư
ợc viết bởi lý
do gì. Trong phần nội dung chính của bài báo phải tránh việc chỉ đơn gi
ản sắp xếp các kết quả trái
ngược cạnh nhau mà phải đưa ra sự giải thích các điều trái ngược, quan điểm cá nhân của tác giả, đ
ưa ra
gợi ý giải quyết những điểm bất đồng để cho phép người đọc có thể tự sàng l
ọc những quan niệm của họ
về chủ đề đó. Tài liệu tham khảo nên chọn lọc và chỉ giới hạn ở vài chục tài liệu.
BÀI ĐIỂN HÌNH
Bài điểm bình có nội dung là phân tích và bình luận về những bài báo xu
ất hiện trong những tháng gần
đây trong những tạp chí khác. Tốt nhất là bài này do một tác giả hiểu biết sâu về chủ đề đó viết. B
ài
dạng này chỉ nên có 2-3 trang đánh máy và bao gồm hai phần: Phần đầu tóm tắt bài báo v
ới sự tham
khảo phần tóm tắt của các tác giả, phần thứ hai là phần bình luận và phê phán v
ề giá trị của các kết quả
và những điều mà kết quả đó mang lại cho sự hiểu biết về chủ đề. Sự xuất hiện của phần bình lu
ận bộc
lộ nhân thân tác giả. Một vài tài liệu tham khảo, thường là khác với những tài liệu được dẫn trong b
ài
báo được điểm có thể làm nòng cốt cho phần bình luận.
Loại bài này rất được độc giả quan tâm. Có những tạp chí chỉ đăng những bài điểm bình, th
ậm chí có cả
những cuốn sách xuất bản thường kỳ đăng loạt bài này như cuốn "Year Books".
BÀI GIẢNG
Mục đích của bài giảng là giảng dạy cho người đọc như chính tên của loại bài này chỉ ra. Một bài gi
ảng
đòi hỏi phải chuyên sâu về vấn đề và có khả năng mang lợi ích cho tất cả mọi độc giả muốn tìm hiểu v
ề
chủ đề đó, dù đó là người chưa biết gì hay chỉ biết một phần vấn đề.
Kèm theo bài giảng có phần hướng dẫn đọc sách gọi là phần danh mục tài liệu liên quan dành cho nh
ững
ai muốn biết sâu hơn về chủ đề. Danh mục tài liệu khác tài liệu tham khảo. Tuy nhiên một bài gi
ảng,
ngoài danh mục tài liệu liên quan còn có thể có tài liệu tham khảo là những tài liệu làm nòng cốt cho b
ài
viết và được trích dẫn trong bài.
LUẬN ÁN BÁC SỸ
Luận án bác sỹ thường là dịp đầu tiên sinh viên tiếp xúc với việc viết báo y học. M
ục đích của một luận
án phải được xác định một cách cẩn thận trước khi bắt tay vào thực hiện: tra cứu hàng chục hay h
àng
trăm tài liệu để rồi sau đó tự hỏi có thể rút ra những cái gì là trái ngược với việc đáng phải làm. M
ục
đích của một luận án cũng như tất cả các công trình khoa học là trả lời câu hỏi được đặt ra một cách r
õ
ràng. Việc bảo vệ luận án phải là việc trình bày một công trình nghiên cứu cá nhân và những ảnh hư
ởng
mà công trình đó tạo ra.
Một luận án vì vậy phải được trình bày theo cấu trúc của một công trình nghiên c
ứu: Đặt vấn đề, Đối
tượng và phương pháp, Kết quả, Bàn luận và Tài liệu tham khảo. Cách thức viết một luận án như v
ậy
giúp cho sau này dễ dàng đăng công trình trong một tạp chí dưới dạng một bài báo nghiên cứu, đó l
à
cách duy nhất để thông báo các kết quả của công trình. Trong th
ực tế, rất nhiều tạp chí y học từ chối
chấp nhận khi đưa một luận án vào phần tài liệu tham khảo một bài báo vì đó là một công trình khó ti
ếp
cận cho những ai không sống ở thành phố có trường đại học mà luận án đó được bảo vệ v
à càng khó hơn
cho các người đọc ở nước ngoài khi muốn tham khảo tài liệu đó.
TÀI LIỆU THAM KIHẢO
1. Farfor JA. Enseigner la rédaction médicale. Chapitre II. La structure du compte rendu de recherche.
Cah Med 1976;2:783-5.
2. Huguier M, Molkhou JM. La rédaction médicale. Gastroenterol Clin Biol 1986;10:29-33.
3. Morgan PP. Scientific editorials. A precious and scarce element in medical journals. Can Med Assoc
J 1985;132:315.
4. Amsler R. De l'honnêteté fondamentale des publications médicales. Concours Médical 1971;93:647-
50.
5. Pariente A. Le cas clinique est-il un genre désuet? Ann Gastroenterol Hepatol (Paris) 1987;23:1.
6. Relman AS. Are the case records obsolete? N Engl J Med 1979;301:1112-3.
7. Lipkin M. The CPC as an anachronism. N Engl J Med 1979;301:1113-4.
8. Scully RE. In defence of the CPC. N Engl J Med 1979;301:1114-6.
9. Morgan PP. How to write a letter to editor that the editor will want to publish. Can Med Assoc J
1985;132:1344.
10. Murlow CD. The medical review article: state of the science. Ann Intern Med 1987;106:485-8.
CHƯƠNG 3:
VĂN PHONG
Văn phong tốt nhất cho một bài báo khoa học là không có văn phong (1): Ba yếu tố cơ b
ản nhất của một
bài báo khoa học là chính xác, rõ ràng và ngắn gọn. Cách viết một bài báo khoa h
ọc tự bản thân nó thể
hiện tính chặt chẽ khoa học. Nó khác biệt một cách cơ bản với văn phong trong văn chương.
CÁCH VIẾT TRONG KHOA HỌC KHÁC VỚI CÁCH VIẾT TRONG VĂN CHƯƠNG
N
ền văn hoá và việc học ở nhà trường đã ảnh hưởng tới việc viết văn trong khoa học và có lẽ đã có
ảnh
hưởng xấu tới việc đó. Trên th
ực tế việc viết văn trong khoa học y học có những điểm đặc biệt biểu hiện
ở nhiều nguyên tắc: sử dụng tốt thì c
ủa động từ, loại bỏ những kiểu diễn đạt hoa mỹ, những biểu hiện có
tính cảm tính, những thể bị động không cần thiết.
Việc sử dụng đúng thì của động từ
Tính logic khoa học đòi hỏi sử dụng thì quá khứ cho tất cả những hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ v
à
chỉ sử dụng thì hiện tại trong những trường hợp được xác định. Như vậy, trong một bài báo nghiên c
ứu,
thì quá khứ phải được dùng cho tất cả những gì liên quan tới kinh nghiệm cá nhân của các tác giả bởi v
ì
những cái đó đã xảy ra trong quá khứ dù chỉ mới vừa xảy ra: cách thức tiến hành nghiên cứu (tư liệu v
à
phương pháp), những cái nhận được (kết quả). Thì quá khứ cũng phải được dùng cho tất cả những đi
ều
xuất phát từ kinh nghiệm của các tác giả khác, cả ở phần đặt vấn đề cũng như ở phần bàn luận.
Khi viết trong khoa học, việc sử dụng thì hiện tại tư
ờng thuật cho những sự kiện xảy ra trong quá khứ
thường dẫn tới sự không logic trong dạng thức: “bệnh nhân đang đến bệnh viện ng
ày 15 tháng 9 năm
1983” (sử dụng thì động từ thời hiện tại cho một hiện tượng đã xảy ra nhiều năm trư
ớc. Một cuộc phẫu
thuật đã được thực hiện. Khi mổ "đang" tìm thấy một khối u (nhận xét như trên) và khối u này đã đư
ợc
cắt bỏ. Bệnh nhân "sẽ" được xuất viện (động từ ở thì tương lai cho một sự kiện trong quá khứ) ngày th
ứ
tám sau mổ”.
Hơn nữa, việc sử dụng thì hiện tại để mô tả những hiện tượng trong quá khứ là ngu
ồn gốc của sự phóng
đại: một khẳng định kiểu như "những cystadenomes của tuỵ đư
ợc quan sát thấy ở phụ nữ từ 40 đến 60
tuổi" là muốn nói đến kinh nghiệm cá nhân của tác giả hay là số liệu trong y văn? Nếu là đ
ể nói tới kinh
nghiệm cá nhân của tác giả thì phải chia động từ ở thì quá khứ. Nếu là để nói đến những điều đã biết
trong y văn thì phải chia ở hiện tại. Khi đọc một câu viết "Tất cả những bệnh nhân bị ung thư tuy
ến tuỵ
khi có di căn hạch đã chết trong vòng 5 năm" người đọc sẽ hiểu rằng đó là kinh nghi
ệm của bản thân tác
giả. Ngược lại khi viết "Tất cả bệnh nhân ung thư tuỵ chết trong năm năm" là muốn nói tới một điều đ
ã
được tất cả mọi người biết. Vì vậy cần khẳng định điều này bằng một hay các tài liệu tham khảo.
Các diễn đạt văn hoa
Chúng ta đã được học để không dùng một từ nhiều lần sát nhau, ngoại trừ khi muốn tạo ra nh
ững tác
dụng lặp lại. Vì vậy ta được khuyên tìm các diễn đạt hoa mỹ bằng cách dùng các từ đồng dạng.
Ngư
ợc lại, tính logic của việc viết báo khoa học đòi hỏi sử dụng cùng một từ để chỉ một hiện tư
ợng
(1,2). Việc sử dụng trong một bài báo các từ "sốt", "sốt nhẹ", "thay đổi nhiệt độ", "tăng nhiệt độ" l
àm
người đọc phải tự hỏi tại sao tác giả không sử dụng một từ duy nhất và cố đi tìm nguyên nhân c
ủa việc
dùng các từ khác nhau do trong thực tế y học các từ này có ý nghĩa khác nhau. Việc cấm sử dụng các
dạng diễn đạt hoa mỹ bắt buộc tác giả phải chọn lựa trong số những từ có nghĩa gần nhau từ n
ào phù
hợp nhất với hiện tượng quan sát thấy và sau đó chỉ sử dụng duy nhất từ đó cả trong bài báo l
ẫn trong tất
cả các bảng hay chú thích của các minh hoạ. Trong một bài báo thuộc ngành giải phẫu tạo hình, m
ột độc
giả khi đọc bài báo có các cụm từ "vạt có cuống của phần dưới cơ thang hay "phần chính dưới c
ơ
thang", nếu không phải là nhà giải phẫu học sẽ không biết đó chỉ là một cơ và một nhà gi
ải phẫu sẽ tự
hỏi tại sao tác giả không sử dụng theo danh pháp quốc tế.
Những diễn đạt cảm tính
Ngôn ng
ữ trong văn chương chấp nhận và đôi khi tìm ki
ếm những biểu đạt có tính cảm tính. Điều đó
không có bất cứ vị trí nào trong văn phong khoa học. Tại sao lại viết "sau nhiều gi
ờ cố gắng vất vả
chúng tôi đã tham gia một cách vô vọng vào sự tiến triển của "mà không viết là "bệnh nhân đã ch
ết".
Liệu chúng ta có thấy lợi ích gì cho người đọc khi viết một câu như: "chúng tôi biết rõ là nh
ững bệnh
nhân sau mổ bệnh cường tuyến cận giáp mà có biến chứng về tiết niệu thì tiên lư
ợng bệnh rất nặng, tuy
nhiên những biến chứng đó đòi h
ỏi chúng tôi phải cố gắng rất nhiều". Độc giả không quan tâm tới
những cố gắng của bạn. Cũng với lý do như vậy, tốt nhất đừng sử dụng những cách diễn đạt
có tính xã
giao như kiểu "nhờ sự giúp đỡ của người bạn đồng nghiệp tuyệt vời và b
ạn của chúng ta, bác sỹ X". Nếu
bạn muốn cảm ơn bác sỹ X đã gửi bệnh nhân cho bạn, đã đọc xét nghiệm này hay xét nghiệm khác, đ
ã
đọc lại và cho ý kiến về bản thảo của bạn, hãy cảm ơn ông ấy ở cuối bài báo bằng một phụ ch
ương có
tên là cảm ơn. Hãy viết ở đó: "Chúng tôi cảm ơn bác sỹ X đã đọc các phim chụp cắt lớp vi tính".
Trong một bài báo khoa học
Hãy nhắc lại cùng một từ để chỉ cùng một sự vật, không nên sử dụng các danh từ tương tự như :
Sốt, nhiệt độ cao, hơi sốt, tăng nhiệt độ, tình trạng sốt
47%, gần một nửa, một nửa, vào khoảng 1 lần trên hai
Ung thư, u, adenocarcinome, tổ chức tân tạo.
Loại bỏ các diễn đạt cảm tính.
"Chúng tôi đã phát hiện "
"Không may, may mắn "
"Chúng tôi rất ngạc nhiên nhận thấy rằng "
"Chúng tôi đã ngạc nhiên "
"Rất hay, rất ấn tượng, thất vọng "
Việc sử dụng chủ từ "tôi" hay "chúng tôi" không được gây ra sự mơ h
ồ. Trong viết báo khoa học không
còn vị trí cho sự khiêm tốn hay cho các cách diễn đạt cảm tính khác (1). Tốt nhất hãy viết: "chúng tôi đ
ã
khám 10 bệnh nhân" hay "tôi đã khám" tuỳ theo có một hay nhiều tác giả.
SỰ CHÍNH XÁC THỂ HIỆN TÍNH NGHIÊM TÚC KHOA HỌC
Tính nghiêm túc khoa học phải đặt dấu ấn trên một công trình khoa h
ọc từ khi chuẩn bị cho tới khi thực
hiện giai đoạn cuối cùng là viết bài báo. Hậu quả là nếu không cẩn thận khi soạn thảo bài báo s
ẽ dẫn đến
việc độc giả sẽ hỏi là công trình được thực hiện với mức độ nghiêm túc như thế nào. Sự chính xác l
à
biểu hiện chủ yếu của tính nghiêm túc khoa học.
Sự chính xác thể hiện bằng định nghĩa trong chương Tư liệu và phương pháp nghiên c
ứu. Trong một
nghiên cứu lâm sàng, quần thể nghiên cứu phải được xác định, các tiêu chuẩn đánh giá phải đư
ợc mô tả
chính xác và không được thiếu hay bỏ sót. Trong một nghiên cứu về thời gian sống của bệnh nhân x
ơ
gan đã có búi giãn tĩnh mạch thực quản, các nhà gan học của trường đại học Havart ở Boston đ
ã không
bị coi là thừa khi định nghĩa thế nào là xơ gan, là búi giãn tĩnh mạch thực quản, là cổ chư
ớng (3). Trong
một công trình nghiên cứu thực nghiệm, việc trình bày phương pháp phải đủ rõ ràng đ
ể thực nghiệm đó
có thể được lặp lại trong công trình nghiên cứu của người khác.
Tính chính xác phải thể hiện khi trình bày phương pháp nghiên cứu và k
ết quả: một khối u không phải
ước lượng là kích thước nhỏ, bằng quả cam hay bằng quả dưa mà ph
ải đo bằng centimet (4). Không viết
là nặng, nhẹ mà cân nặng bao nhiêu gram. Một bệnh nhân gầy đi 5 kg không có cùng ý ngh
ĩa khi trọng
lượng ban đầu là 30 kg hay 90 kg. Việc gầy đi từ 90 kg xuống 85 kg không có cùng ý ngh
ĩa khi xảy ra
trong 2 tháng hay trong 1 năm.
Sự chính xác khi trình bày các kết quả đòi hỏi phải kiểm tra sự tương ứng của tất cả các số liệu trong b
ài
và trong các bảng số liệu. Một nhà khoa học đã bỏ hàng tháng để mô tả các khó khăn của một nghi
ên
cứu hay tính chính xác các kết quả cho tới 4 số thập phân, phải dành sự chú ý để người thư k
ý không
nhầm miligram thành mililitre và nhà xuất bản không chuyển thành millimetre (5).
Sự chính xác.
B
ỏ những danh từ trống rỗng:
"U to" là bao nhiêu: 3 cm, 15 cm, 27 cm
" Quan sát mới đây" là khi nào: 1970, 1980, 1985
"Một số nhất định" chính xác là số nào: 10, 23, 67
"Khổng lồ", "hẹp", "rộng", "mênh mông", "nhỏ nhắn", "nặng", "nhẹ", "thường gặp", "hiếm", "rất hiếm",
"hiện tại", "cổ xưa", "quan trọng".
Tỷ lệ creatinin máu cao: là bao nhiêu
B
ỏ những đại từ trống rỗng:
"Rất nhiều, ít, nhiều, một cách sâu sắc, một cách trung bình, khá đủ, quá, thường, hiếm khi"
Trong một bài báo, nhất là bài gi
ảng dạy, việc ghi số tỷ lệ phần trăm có thể gây khó khăn cho việc đọc
và nhớ. Vì những lý do này, có những tính từ hay đại từ được sử dụng. Một nghiên c
ứu tiến cứu nhiều
trung tâm ở Pháp (6) đã cho phép đề nghị các thuật ngữ tương ứng tốt nhất với các t
ỷ lệ phần trăm (bảng
1). S
ự thiếu vắng trong từ vựng các thuật ngữ để chỉ các tỷ lệ từ 40 đến 60 % dẫn tới việc sử dụng cách
diễn đạt "1 trên 2".
TỶ LỆ
THU
ẬT NGỮ ĐỀ
NGHỊ
THU
ẬT NGỮ CHẤP
NHẬN ĐƯỢC
THUẬT NGỮ NÊN TRÁNH
0% Không bao giờ Vắng
5% (2-6) Hầu như không bao giờ Rất đặc biệt
10% 8-15) Hiếm Khá hiếm, thỉnh thoảng
20% (15-25) ít gặp Đôi khi Không thường xuyên, có thể
30% (25-33) Không hằng định Có thể
50% (33-55) Một lần trên hai
60% (58-62) Hay gặp Khá thường gặp
70% (65-72) Thường thấy Thường gặp Thông thường, bình thường
75% Thường
80% (75-82) Phần lớn thời gian
Nói chung, rất thường thấy, b
ình
thường, một cách bình thường
95% (85-95) Hầu như hằng định
100% Luôn luôn Hằng định, không thay đổi
B
ảng 1: Các tính từ và đại từ đề nghị để biểu thị tỷ lệ (6)
SỰ SÁNG SỦA CHO PHÉP BÀI BÁO ĐƯỢC VÀ HIỂU
Sau sự chính xác, sự sáng sủa là yếu tố thứ hai của một bài báo khoa h
ọc.
Một bài báo đăng kết quả nghiên cứu không chỉ có mục đích để được đăng báo, trước hết nó ph
ải để
được đọc (5). Số lượng các tạp chí y học và số bài báo đăng trong đó bắt buộc ngư
ời đọc phải chọn lựa.
Sự chọn lựa này được hướng dẫn bởi ngôn ngữ mà bài báo được viết, nội dung tạp chí có chuy
ên sâu
hay không cũng như danh tiếng của tờ báo, cuối cùng bằng chính sự sáng sủa của bản thân b
ài báo:
những bài báo kém sáng sủa sẽ ít có cơ hội được đọc hơn. Mặc dù vẫn còn nh
ững tạp chí chấp nhận
đăng những bài báo như vậy.
Viết bằng một ngôn ngữ sao cho đơn giản và rõ ràng
Sự sáng sủa
"Việc xem xét kỹ lưỡng bảng II chỉ ra ": hoặc bảng II đã được trình bày tốt và tính từ "kỹ lưỡng" l
à
không cần thiết còn khi sự kỹ lưỡng là cần thiết trong trường hợp này thì cần phải trình bày lại bảng.
Sự sáng sủa đòi hỏi sử dụng các từ và thuật ngữ đơn giản. Có lẽ sự lan rộng của tiếng Anh như là m
ột
ngôn ngữ của khoa học một phần là do ngôn ngữ đó sử dụng các từ vựng chặt chẽ nhưng đơn giản v
à rõ
ràng. Điều này có được nhờ sự thống nhất và một cố gắng của bản thân các nhà Anh ngữ như trong đ
ầu
đề một bài báo của F. Savage và P.Godwin: "Kiểm soát ngôn ngữ của bạn: viết tiếng Anh rõ ràng". Đi
ều
này có thể áp dụng cho mọi ngôn ngữ (7). Mục đích của một bài báo khoa h
ọc không phải để khoe sự
phong phú từ vựng của mình mà để trình bày công trình nghiên cứu. Tất cả các tác gi
ả phải luôn luôn tự
hỏi liệu có thể sử dụng một thuật ngữ đơn giản hơn, liệu từ được sử dụng có thể hiểu đư
ợc bởi một độc
giả nước ngoài không nói được tiếng ta sử dụng mà chỉ có một vài khái ni
ệm về ngôn ngữ đó. Các qui
tắc này càng quan trọng hơn do ngôn ngữ y học làm bi
ến dạng việc sử dụng một số từ, tạo ra một số từ
mới, thậm chí một từ lóng. ở điểm này các nguyên tắc viết bài báo khoa h
ọc gặp gỡ với việc sử dụng tốt
ngôn ngữ. Tại sao lại viết: những vết loét này là những nguồn cung cấp bổ trợ cho tỷ lệ tử vong thay v
ì
"các vết loét đã dẫn tới tỷ lệ tử vong cao hơn"?
Sự biến dạng của ngôn ngữ y học thậm chí dẫn tới việc một sinh viên đã vi
ết trong một bản dự thi tuyển
nội trú: "Ta đặt bệnh nhân dưới sự che phủ kháng sinh!" .
Vị trí chủ chốt
Một từ ở vị trí chủ chốt khi nó bắt đầu một câu, một đầu đề hay một đoạn. Vị trí chủ chốt tạo ra sự r
õ
ràng của bài báo b
ằng cách thu hút sự chú ý của độc giả. Một sai lầm hay gặp, cần phải chỉ trích mạnh
mẽ là việc đặt ở vị trí chủ chốt trong đầu đề một bài báo nh
ững từ có nội dung thông tin yếu: bắt đầu
một đầu đề bằng "thực trạng hiện nay của" là đặt ở vị trí chủ chốt một từ và m
ột tính từ ít có lợi ích. Nếu
các tác giả cho rằng việc viết một bài báo về điều trị loét hành tá tràng là có ích, ngư
ời đọc có thể hy
vọng là công trình sẽ trình bày những tài liệu hiện tại về bệnh này mà không phải là những cái đ
ã làm
trong quá khứ.
Việc sử dụng dấu phẩy
Sự thiếu vắng dấu phảy có thể là ngu
ồn gốc của sự tối nghĩa "ba bệnh nhân đều bị theo thứ tự đau, buồn
nôn và nôn và ỉa chảy". Bệnh nhân thứ hai đã bị buồn nôn và nôn, b
ệnh nhân thứ ba bị ỉa chảy, hay bệnh
nhân thứ hai bị buồn nôn, và bệnh nhân thứ ba buồn nôn và nôn! (1). Vi
ệc đặt một dấu phảy ở đúng vị
trí loại bỏ sự tối nghĩa. Ngược với văn chương và thơ ca, trong một bài báo khoa học, ưu tiên s
ử dụng
dấu phảy giữa một loạt các từ, chỉ sử dụng chữ "và" khi nó đứng giữa hai từ có liên quan v
ới nhau.
Chính sách này đã được áp dụng bởi các báo nh
ư British Medical Journal, Lancet và New England
Journal of Medicine (1).
Sử dụng sai từ "vân vân"
Et coetera mà dạng viết tắt là etc có nghĩa là "và những cái còn l
ại" trong một sự tiếp nối có thể xác
định. Dạng thức "etc" chỉ được sử dụng trong một bài báo khoa h
ọc chỉ sử dụng nếu nó không dẫn tới
bất kỳ sự hiểu lầm nào: đó là trường hợp một xét nghiệm viên s
ử dụng hai nhóm ống nghiệm, nhóm đầu
có 50 ống đánh dấu từ A1 đến A50, chứa một dung dịch có độ pha loãng khác nhau và nhóm th
ứ hai
gồm 50 ống nghiệm khác đánh số từ B1đến B50 chứa một dung dịch khác. Nếu người làm thí nghi
ệm
trộn lẫn ống A1 với ống B1, rồi ống A2 với ống B2, có thể sử dụng "etc" để tránh giải thích 48 quy tr
ình
tiếp theo.
Et coetera sử dụng sai sẽ dẫn tới sự không chính xác: Bạn muốn nói gì khi vi
ết "các xét nghiệm sinh
học, huyết đồ, tốc độ máu lắng etc"? li
ệu bạn có xét nghiệm cả bilirubin, canxi máu? Et coetera mở rộng
cửa về một chân trời vô định và không thể chấp nhận trong một bài báo khoa học. Đó là m
ột ngân phiếu
trắng đưa cho độc giả (1). Việc sử dụng sai "etc" là gần với sự không chính xác của "ví dụ" hay "nh
ư là"
(1). Sau đây là một ví dụ về điều không nên làm "bệnh nhân đã được dùng kháng sinh kinh điển nh
ư là,
ví dụ Penicilline etc" thêm vào với việc sử dụng sai etc, cái gì được gọi là "kháng sinh ki
ểu kinh điển"?
muốn nói gì ở đây với "ví dụ"?.
Một ngôn ngữ đơn giản . Sử dụng tốt ngôn ngữ
Tìm để loại bỏ các tiếng lóng y học:
Dùng "che phủ" kháng sinh thay vì "điều trị" kháng sinh hay "kháng sinh liệu pháp"
Hội chứng "tăng nhiệt" thay cho "sốt". Bệnh nhân bị "hội chứng khó nuốt" thay vì bệnh nhân bị "khó
nuốt".
Các kết quả này "làm xuất hiện" thay vì : "các kết quả này đã chỉ ra".
Ruột thừa nằm ở "vị trí dưới gan" thay cho "ruột thừa nằm dưới gan"
Kinh nghiệm đã "giới hạn các sự vượt tràn" của biến chứng thay vì kinh nghiệm đã "giảm" các biến
chứng.
Một "biểu hiện cổ chướng" thay cho "cổ chướng"
Một phim X quang "nói". Ai đã nghe một phim X quang nói?
Một "vật mang ung thư" có đặt nó trên một cái đĩa?
"Một thang bậc" điều trị: theo mặt bắc?
"Quả cầu ORL" đó có phải là một quả cầu thuỷ tinh?
Các dấu hiệu siêu âm không thể giả định về chẩn đoán bản chất của hình ảnh.
Sử dụng các động từ và các từ cho chính xác
Thăm khám "phát hiện": phát hiện có nghĩa là làm xuất hiện cái mà trước đây không được biết và bí
mật.
Tại sao không nói một cách đơn giản "thăm khám cho thấy"?
Bệnh nhân "bày tỏ" một sự đau đầu thay vì bệnh nhân "bị" đau đầu (ngược lại bệnh nhân có thể bày tỏ
một điều xin lỗi)
Ta chỉ có thể "tìm thấy" một khối u khi nó đã bị mất và "trở lại bệnh viện" nếu người ta đã đi ra trước
đó. "Bằng" không có nghĩa là "tương đương với", "theo" không có nghĩa là "tuỳ theo", "nhờ vào" không
có nghĩa là "do", "hội chứng" không có nghĩa "triệu chứng học" hay "triệu chứng", "thay thế" không
phải là "khả năng" (8)
Một phẫu thuật viên "nhi" là một phẫu thuật viên có đặc điểm của trẻ em.
Nh
ững danh từ và tính từ có một nghĩa thống kê chính xác khác với nghĩa thông thường: tương ứng, tỷ
xuất, tần suất, rõ rệt.
Không đưa ra các từ mới:
Số lượng bệnh nhân "được cắt"
"Sự tiến triển" của thai nghén
Bệnh nhân đã được dùng thuốc chống đông, dùng thuốc kháng sinh, được xét nghiệm toàn diện, được
sàng lọc.
Bệnh nhân đã được "cho đường" (bạn đọc hãy bình tâm, đó chỉ là một trường hợp giảm đường huyết)
Tránh những tính từ liên tiếp:
"Bệnh nhân xơ gan cổ chướng nhiễm trùng": ai nhiễm trùng, bệnh nhân xơ gan hay dịch cổ chướng của
xơ gan?
"Tăng huyết áp nặng": nặng như thế nào ?
Khi bạn viết, đừng dùng các từ Anh hoá, nhất là khi không có ý thức:
Cần phải tính đến một "liệu pháp ngược" cho "căn bệnh nghiện" của các thầy thuốc với ngày càng nhiều
"ao" tiếng nước ngoài đang dần dần làm ô nhi
ễm ngôn ngữ y học của ta (2): planing, cocktaik, screening
thay cho kế hoạch, hỗn hợp, sàng lọc. Shunt, thrill, feed-back thay cho cầu nối, run, phản hồi?
Các chữ viết tắt
Việc sử dụng các chữ viết tắt các đơn vị đo lường quốc tế khi chúng đứng sau một số là h
ợp pháp thậm
chí được khuyến khích, có thể viết "bệnh nhân nặng 50 kg" nhưng không đư
ợc viết "sự tiến triển của
trọng lượng bằng kg", trong ví dụ này, kilogramme không có số đứng trước nó nên phải đư
ợc viết đầy
đủ bằng chữ. Nếu bạn không chắc chắn về một chữ viết tắt, hãy kiểm tra lại nó: m là vi
ết tắt của metre,
min là chữ viết tắt của minute (không phải là mn), G là viết tắt của gauss, Gy là chữ viết tắt của g
ray, g
của gramme. Những chữ viết tắt các đơn vị này là không đ
ổi. Danh sách các chữ viết tắt quốc tế chủ yếu
cùng với danh sách các chữ viết tắt của các đơn vị nằm ở cuối sách.
Ngoài nh
ững chữ viết tắt của các đơn vị đo, các chữ viết tắt có lợi ích là làm bài viết được rút ngắn, l
àm
bài viết dễ đọc hơn thay cho các khái niệm hay các từ quá dài, được sử dụng nhiều lần trong bài như
ống
mật chủ có thể viết tắt là OMC. Nhưng việc lạm dụng các chữ viết tắt sẽ đi ngược lại mục đích của nó l
à
làm cho việc đọc bài báo dễ dàng hơn, do đó chỉ nên sử dụng chữ viết tắt cho một từ khi từ đó đư
ợc sử
dụng trên ba lần trong một bài báo. Hơn nữa không nên dùng quá hai hay ba ch
ữ viết tắt, ngay cả khi nó
đã được giải thích vì sẽ dẫn tới việc làm bài báo rất khó đọc, ví dụ:
"83 Bn có 1 TV+D, 93 Bn có 1
SV+D và 83 Bn có 1 PVC"!
Tất cả các chữ viết tắt phải được viết đầy đủ khi xuất hiện lần đầu. Phải viết "đã phát hi
ện sỏi ống mật
chủ (OMC)". Từ tiếp sau đó mỗi khi nói tới ống mật chủ, ta chỉ cần sử dụng chữ viết tắt OMC. Qui t
ắc
này áp dụng cho tất cả các chữ viết tắt cho dù ch
ữ viết tắt đó có vẻ rất thông dụng. Tất cả các thầy thuốc
biết tiếng Pháp đều biết là ECBU muốn nói tới "examen cyto - bacteriologique des urines - xét nghi
ệm
tế bào và vi khuẩn học nước tiểu". Khi đọc một đoạn như sau chúng ta sẽ nghĩ gì?: "Trên Px c
ủa
w.d.w.n.w.m có BP, P, R và T trong giới hạn bình thường"?. Chữ AFC có thể có nghĩa là h
ội ngoại khoa
Pháp (Association fran†aise de chirurgie) theo cách hiểu của các nhà ngoại khoa trong khi lại có nghĩa
là
phân tích từng phần của mối tương quan theo các nhà lập trình tin học. Qui tắc này cũng bao hàm v
ới
các dấu hiệu: Khi sự biến đổi của một nhóm xung quanh một giá trị trung bình bi
ểu thị bằng ± 4, phải
chỉ rõ ± là biểu thị cho kiểu khoảng cách, sai số chuẩn, hay phương sai.
Nh
ững nguyên tắc này cũng áp dụng cho tóm tắt của bài báo. Tuy nhiên tốt nhất nên tránh ch
ữ viết tắt
trong tóm tắt, trừ khi đó là một từ hay một nhóm từ khá dài và được sử dụng trên ba l
ần trong tóm tắt,
mà điều này hiếm khi xảy ra. Cũng như vậy đối với các bảng biểu, tuy nhiên n
ếu có sử dụng chữ viết tắt
ở đây thì phải giải thích bằng chú thích dưới bảng hay trong chú giải của biểu đồ.
SỰ SÚC TÍCH
Tính súc tích là đặc trưng thứ ba của một bài báo khoa học (9). J.A. Farfor đã so sán
h hai câu sau:
1) "Bạn đồng nghiệp tuyệt vời và người bạn của tôi, giáo sư N, người trong nhiều năm là m
ột chủ nhiệm
khoa sáng chói của Khoa Da Liễu Trư
ờng Đại Học Y Khoa thuộc Đại Học Tổng Hợp X ở Y, vừa mới
công bố một thống kê rất quan trọng những trường hợp bệnh rất hiếm gặp và rất hay mà ông đ
ã trình bày
m
ột cách tuyệt vời ở hội nghị da liễu quốc tế diễn ra mới đây ở Stockholm"
2) "N đã công bố 11 trường hợp" câu đầu tiên gồm 68 từ, câu thứ hai có 5 từ. Thế mà câu th
ứ hai chứa
đựng nhiều thông tin khoa học hơn so với câu đầu. Những cụm từ "bạn đồng nghiệp tuyệt vời và ngư
ời
bạn", "chói sáng", "rất hay", "tuyệt vời" là nh
ững diến đạt cảm tính. "Nhiều", "quan trọng", "hiếm",
"mới đây" là những từ trống rỗng. Theo J.A. Farfor, sau thí dụ này, những từ và câu không cần thiết l
à
một trong những nguyên nhân chính gây ra dài dòng vô ích cho bao nhiêu bài báo y h
ọc ở mọi thể loại
(1). Ông gọi những từ, tính từ, đại từ này là "gỗ mục".
Việc loại bỏ các danh từ, đại từ , tính từ trống rỗng là việc phải làm. Hãy đừng viết câu dạng như: th
ật
thú vị khi chỉ ra rằng ". Nếu bạn thấy việc chỉ ra điều đó là thú vị, hãy chỉ ra điều đó và đ
ừng phải nói
rằng bạn thấy thú vị làm điều đó, nếu điều đó bạn thấy không hay thì hãy đ
ừng nói tới. Cũng với sự chú
ý đến tính súc tích của bài báo, hãy đừng đưa ra các thông tin ngoài lề (1). Khi ta muốn xem trên b
ảng
thông báo ở nhà ga giờ khởi hành của chuyến tàu đi t
ừ Paris đến Chantilly, chúng ta đâu đó cần biết gần
Chantilly có một khu rừng đẹp mà vào mùa xuân, nếu buổi sáng dậy sớm ta có thể hái đư
ợc những bông
hoa huệ chuông tuyệt đẹp.
Sự súc tích
Lo
ại bỏ những diễn đạt trống rỗng:
"Có lẽ có ích khi lưu ý rằng ": nếu đó là điều có ích hãy chỉ ra, nếu không thì đừng nói đến nó.
"Thật đúng lúc chỉ ra rằng "
"Thật là diều rất thú vị khi chỉ ra rằng "
"Có một số điểm có vẻ đáng để chúng ta thảo luận"
"Chúng tôi muốn kêu gọi sự chú ý tới sự kiện "
Loại bỏ từ ngữ rườm ra, thừa:
"Tuyệt đối" bình thường; tiên lượng "đi trước", điều trị "kháng sinh liệu pháp"; ống "hoàn toàn" đầy
Tránh lặp lại
Sự lặp lại một sự kiện hay một ý tưởng đi ngược lại nguyên tắc súc tích. Chỉ có một sự lặp lại là đư
ợc
phép và thậm chí là cần thiết đó là nội dung của phần tóm tắt tương quan với bài báo. Ngoài trư
ờng hợp
đặc biệt này ra phải tránh lặp lại. Không nhắc lại câu đầu tiên c
ủa đầu đề trong phần tóm tắt. Đừng nhắc
lại các kết quả trong phần bàn luận. Đừng nhắc lại các đoạn của phần đặt vấn đề trong phần bàn luận.
Không phải khi nào cũng dễ tránh được sự lặp lại, vì vậy cần cân nhắc xem một điều nên nói
ở phần đặt
vấn đề hay phần bàn luận thì có lợi hơn. Tất nhiên có thể cụ thể hoá trong phần bàn luận những điều đ
ã
gợi ra ở phần đặt vấn đề. Để tránh lặp lại các kết quả trong phần bàn luận, thì nên trình bày kết quả dư
ới
dạng bảng hay biểu đồ. Khi đó có thể viết trong phần bàn luận: "Tỷ lệ sống mà chúng tôi quan sát đư
ợc
(bảng II) khác với kết quả thu được ". Việc trích dẫn bảng II cho phép tránh việc nhắc lại tỷ lệ sống l
à
bao nhiêu.
Sự tĩnh lược
Sự súc tích thái quá dẫn tới việc lược bớt những từ hay ý tưởng bắt buộc phải có để có thể hiểu đư
ợc câu
văn hay nội dung bài. Ta có thể thấy: sự quá ngắn gọn làm hỏng tính sáng sủa của một bản tr
ình bày
khoa học. Sự rút gọn thái quá trong một báo cáo khoa học có thể so sánh với một cái thang th
ỉnh thoảng
lại bị thiếu một bậc (1). Nhà khoa học phải trình bày từng giai đoạn lý luận của mình đ
ể độc giả tránh
phải suy diễn ngay cả khi một số giai đoạn có vẻ là tất yếu. Ngược lại với một bài thơ, ở đây tránh kh
êu
gợi sự tưởng tượng của độc giả. Khi chứng minh rằng a=b và b=c thì phải chỉ rõ là như v
ậy a cũng =c
Trong thực tế sự rút gọn có thể dẫn tới việc suy diễn quá mức các qui tắc logic. Một nhóm nghiên c
ứu y
học gửi đến một tạp chí một bài báo công bố kết quả của một nghiên cứu thực nghiệm trên đ
ộng vật về
tử vong do một loại thuốc gây ra (1): Các tác giả đã viết: "không chứng minh được bất kỳ mối li
ên quan
nào giữa tỷ lệ tử vong với số lượng thuốc hấp thụ khi số lượng này dưới 15mg". Trong lời ph
ê bình bài
báo, biên tập viên đã trả lời các tác giả: "Các bạn đã thông báo không có bất kỳ mối liên quan nào gi
ữa
tỷ lệ tử vong và liều thuốc sử dụng chỉ khi liều lượng này dưới 15mg. Điều này dẫn tới giả thiết l
à có
mối tương quan đó khi liều cao hơn 15mg. Bạn phải chỉ rõ là mối tương quan đó có hay không?". M
ột ví
dụ khác của sự lược bớt là "trong số 16 máu tụ, 4 trường hợp phàn nàn ". Ai đã t
ừng thấy một khối máu
tụ phàn nàn? Vì vậy phải viết "Trong số 16 bệnh nhân bị máu tụ, 4 người phàn nàn ".
KẾT LUẬN
Để kiểm tra sự tôn trọng các nguyên tắc này, chúng tôi khuyên các tác giả là trước khi gửi một b
ài báo
tới một tạp chí, hãy đọc lại bốn lần, mỗi lần có một mục đích r
õ ràng:
1) Đảm bảo sử dụng đúng thì của động từ trong các chương tư liệu và phương pháp, kết quả ở th
ì quá
khứ và không dùng thì hiện tại trong các ch
ương này.
2) Loại bỏ các danh từ, tính từ, đại từ trống rỗng, không có vai tr
ò.
3) Kiểm tra sự liên quan giữa các số liệu trong bài, các b
ảng, các biểu đồ.
4) Tự hỏi xem liệu các danh từ, các tính từ, các đại từ và động từ được sử dụng liệu có thể hiểu đư
ợc bởi
một người nước ngoài chỉ biết chút ít về ngôn ngữ của bài viết được không.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Farfor JA.
Enseigner la rédaction médicale. Chapitre III. Le style. Cah Med 1976;1-2:1053-9.
2. Vigy M. Le fran†aise est une langue vivante qui peut être malade. Concous Médical 1975;97:1727-
8.
3. Garceau AJ, Chalmers TC, and the Boston Inter Hospital Liver Group. The natural history of
cirrhosis. I Survival with esophageal varices. N Engl J Med 1963;268:469-73.
4. DeBakey L, DeBakey S. Medical writing. The case report. II Style and form. Int J Cardiol
1984;6:247-54.
5. Day RA. How to write and publish a scientific paper. Cambridge: Cambridge University Press,
1989:87-93.
6. Les Associations de Recherche en Chirurgie. Hay JM, Michot F, Flamant Y, Leblanc Y.
Comment traduire en pourcentages les mots exprimant la fréquence (ou sensibilité) des signes dans une
maladie. Gastroenterol Clin Biol 1991;15:481-8.
7. Savage F, Godwin P. Controlling your language: making English clear. Trans R Soc Trop Med Hyg
1981;75:583-5.
8. Maillard JN, Benhamou JP. L'article médical et la communication orale. Paris: Expansion
Scientifique Fran†aise, 1970;31-6.
9. Ramon Y, Cajal S. On the writing of scientific paper. Clin Orthop Related Res 1981;155:1-6.
Chương 4
ĐầU Đề BÀI BÁO
Tất cả những độc giả của một bài báo ít nhất cũng sẽ đọc đầu đề của bài báo. Vì vậy đầu đề bài báo ph
ải
được đặt đặc biệt cẩn thận và trau chuốt lại mỗi khi xem lại bản thảo (1) và các ban biên tập thư
ờng phải
đề nghị tác giả sửa lại đầu đề bài báo. Viết một đầu đề tốt là một nhiệm vụ khó khăn nhưng là vi
ệc bắt
buộc phải làm.
Đầu đề bài báo phải nói lên nội dung của bài báo với sự chính xác và súc tích nhất. Đầu đề b
ài báo cùng
với phần tóm tắt phải tạo thành một cấu trúc hoàn toàn độc lập với phần còn lại của bài báo, nhưng ph
ải
phản ảnh chính xác nội dung của toàn bài báo. Phần đầu đề và tóm tắt có thể so sánh với một b
ài báo
được viết trên một tấm bưu thiếp (2).
Với người đọc, đầu đề có vai trò thu hút và chọn lọc (2): khi đọc đầu đề, ngư
ời ta sẽ quyết định xem có
đọc phần tóm tắt hay không. Có thể xem đầu đề bài báo bằng hai cách: Đọc lư
ớt các bản mục lục của
các tạp chí hay cuốn tập hợp các bản tóm tắt như cuốn Current Contents; hoặc có thể thực hiện một th
ư
mục theo chủ đề: nghĩa là tìm tất cả những bài báo viết về một chủ đề bằng cách tra trong các cuốn ni
ên
giám như cuốn Index Medicus hay tra ở các hệ thống tin học thống kê về vấn đề đó nh
ư Medline hay
Internet .
Một đầu đề tồi sẽ làm cho một công trình không được biết đến
Một đầu đề phải tránh hai khuynh hướng:
Quá ngắn gọn, có nguy cơ không phản ánh được nội dung đặc trưng của bài báo.
Quá chi tiết, có nguy cơ quá dài.
Nh
ững tiêu chuẩn của một đầu đề bài báo tốt:
Một đầu đề tốt phải sáng sủa, đặc trưng, không có tính gợi ý.
Độ dài của đầu đề:
Đ
ầu đề phải ngắn (10 đến 15 từ) để có thể cho phép đọc nhanh (2): "Các biểu hiện khác nhau giữa các
khối u lymphome angiocentriques nguyên phát và thứ phát của virus Epstein-Barr", "Calcitonin v
ới việc
đề phòng mất xương thời kỳ sau mãn kinh". Các đầu đề trên không vượt quá 14 từ, tuy nhiên khá c
ụ thể.
Tuy vậy sự ngắn gọn của đầu đề không được làm độc giả nhầm lẫn về nội dung bài báo. Ví d
ụ một đầu
đề chung chung như kiểu "Đái đường" không phù hợp với một bài báo nghiên c
ứu về một mặt đặc hiệu
nào đó trong chẩn đoán hay trong điều trị đái tháo đường. Nói chung, đầu đề càng dài khi n
ội dung đề
cập càng cụ thể: "Ung thư dạ dày", "Điều trị ngoại khoa ung thư dạ dày", "Kết quả điều trị ngoại khoa
ung thư dạ dày", "Kết quả điều trị ngoại khoa ung thư nông của dạ dày".
Nh
ững đầu đề chi tiết tạo ra sự rất cụ thể "Tác dụng của Levamisole trong dự phòng nh
ững đợt tiến triển
của bệnh Crohn tiềm ẩn: nghiên cứu tiến cứu có kiểm chứng tại nhiều trung tâm trên 155 b
ệnh nhân".
Trong ví dụ này, đầu đề rất cụ thể nhưng số từ được sử dụng vượt quá 20 từ. Một đầu đề dài như v
ậy
làm khó đọc. Tuy nhiên có thể rút ngắn lại đầu đề đó mà vẫn giữ được tính chính xác.
Các đầu đề phụ
Sử dụng các phụ đề chỉ là một thoả hiệp. Ví dụ: "Những u xơ khu trú lành tính của màng phổi. Nghi
ên
cứu giải phẫu bệnh lâm sàng và hoá miễn dịch tế bào trên sáu trường hợp”, "Ung thư đại tràng. K
ết quả
điều trị ngoại khoa. Trình bày một thống kê 234 bệnh nhân". Đầu đề được chia thành hai hay ba ph
ần
bằng các dấu chấm, dấu phẩy hay hai chấm. Điểm lợi là cho phép đọc với hai tốc độ, phần đầu là ch
ủ đề,
phần sau nêu cụ thể về nghiên cứu được tiến hành. Tuy nhiên tốt nhất là nên cô đọng toàn b
ộ thông tin
vào một đầu đề duy nhất. Trên thực tế, nguy cơ của những phụ đề này là làm cho đầu đề gần như tr
ở
thành một tóm tắt, do đó thành những đầu đề dở kiểu như "Nh
ững triển vọng của ghép gan khác chỗ ở
người. Xơ gan và u nguyên phát của gan. Nghiên cứu chủ yếu là thống kê dựa trên nh
ững bệnh nhân tử
vong trong thời gian một năm trong một bệnh khoa tiêu hoá vùng Paris". Phụ đề thứ ba ám chỉ ph
ương
pháp nghiên cứu là hoàn toàn không cần thiết. Hơn nữa, trong phụ đề đầu tiên, t
ừ có tính chủ quan
"Triển vọng" có thể được thay bằng từ "Kết quả" là một từ có tính mang thông tin nhiều hơn và đ
ầu đề
đáng ra phải bắt đầu bằng "Ghép gan khác chỗ ở người" rồi tiếp bằng phụ đề: "Kết quả ở bệnh x
ơ gan và
u nguyên phát của gan" "Một bệnh khoa ở Paris" rõ ràng là hoàn toàn không cần thiết và hơn n
ữa không
chính xác.
Văn phong
Nh
ững từ chứa đựng thông tin nhiều nhất phải đặt ở đầu của đầu đề, đó là v
ị trí nhấn mạnh, thu hút sự
chú ý. Những khái niệm không cần thiết, không chứa đựng thông tin thì không nên sử dụng nh
ư là
"Những nghiên cứu mới đây về " "Nhân ", "Nh
ận xét về " Sai lầm sẽ nhân đôi nếu lại đặt những
cách diễn đạt như vậy ở vị trí nhấn mạnh.
Đừng đưa vào đầu đề những từ không mang thông tin.
Tác dụng của
Nh
ững hiểu biết mới đây về
Nhân
Nh
ận xét về
Đóng góp vào nghiên cứu
Vấn đề của
Nhìn l
ại về (thật là một cách bắt đầu quá dở cho một bài báo công bố
Kết quả nghiên cứu).
Thường nên dùng một văn phong trung tính không khẳng định kiên quyết "Hội chứng Gardner-
Diamond
trên một bé gái 14 tuổi. Thảo luận về giá trị chẩn đoán của các thử nghiệm bì". Có nh
ững tác giả muốn
chỉ ra kết quả trong kiểu đặt đầu đề "Không có sự khác nhau giữa tăng huyết áp ác tính và tăng huy
ết áp
tiến triển”. Điều này làm nhầm tưởng là kết quả có giá trị không thể chối cãi, n
ếu không những kết luận
có thể được ngoại suy một cách lạm dụng chỉ đơn giản do đọc đầu đề. Đặc biệt có những đầu đề t
ìm
cách gợi sự tò mò ở người đọc: "Đề phòng chảy máu tái phát ở người xơ gan. Liệu pháp tiêm xơ có t
ốt
hơn propranolol?", "Nội soi hay X quang? Lựa chọn của bệnh nhân. Nghiên c
ứu so sánh tiến cứu về sự
chấp nhận của người bệnh đối với nội soi phần trên ống tiêu hoá và ch
ụp X quang". Một sự chất vấn
người đọc như vậy phù hợp với dạng bài xã luận hơn là một bài đăng kết quả nghiên cứu.
Dạng đầu đề hỏi cũng tìm cách gợi ra phản ứng của người đọc nhưng với cách ít khêu gợi hơn "
ảnh
hưởng của thai nghén trên tiến triển của bệnh Hodgkin?", "Trong điều trị cơn hen cấp có nên ch
ỉ định
phối hợp sympathomimetics với methylxanthines?". Đầu đề ở đây tương ứng với câu hỏi ai đặt v
ấn đề
nghiên cứu" Một số đầu đề khác có cấu trúc phức tạp. Nó bao gồm sự pha trộn các văn phong tr
ên đây:
Dạng hỏi, phụ đề, dạng hỏi-trả lời. Chúng tôi không khuyên kiểu trình bày đó: sự phức tạp l
àm khó có
thể đọc nhanh được. Nếu đầu đề bắt buộc phải phức tạp, không nghi ngờ gì nữa bài báo đáng đư
ợc chia
ra thành nhiều bài riêng biệt.
LÀM THẾ NÀO XÂY DỰNG MỘT ĐẦU ĐỀ
Nên tham kh
ảo một vài số của một tạp chí để quen với cách sử dụng đầu đề của tạp chí đó. Cũng n
ên
tham khảo phần lời khuyên cho các tác giả trong đó đôi khi giới hạn số lư
ợng từ hay phong cách của đầu
đề.
Để xây dựng đầu đề, chúng tôi khuyên nếu có thể được, nên dùng nh
ững từ khoá trong bộ Index
Medicus. Cách chọn từ cho một đầu đề như vậy có hai điểm lợi: tránh được việc dùng trong đầu đề
những từ không có tính thông tin, những danh từ không thường dùng, nh
ững từ mới hay những từ quá
cổ. Hơn nữa, điều đó đảm bảo rằng bài báo sẽ đư
ợc ghi đúng đắn trong những cuốn chỉ dẫn có đăng lại
trực tiếp những từ của đầu đề như trong cuốn Current Contents. Khi đã chọn được từ cho đầu đề, cần t
ìm
cách xếp đặt chúng theo trật tự, tốt nhất là tôn trọng nguyên tắc vị trí chủ chốt, có tính đến tính riêng bi
ệt
của bài báo.
Cần đọc lại toàn bộ đầu đề một lần cuối để đảm bảo rằng không có lỗi về cú pháp, không có l
ỗi chính tả,
không viết tắt và không có các danh từ mà người đọc có thể hiểu nước đôi.
Nên đưa d
ự thảo đầu đề cho một hay hai đồng nghiệp đọc để đề nghị họ cho lời khuyên. N
ếu kết quả
không được hài lòng, điều đó có nghĩa là phải viết lại đầu đề. Đầu đề có thể viết rất nhanh trư
ớc khi bắt
đầu viết bài báo, tuy nhiên khi kết thúc bài báo, bao giờ cũng phải xem lại đầu đề để đảm bảo đ
ã suy
nghĩ kỹ về việc chọn từng từ và sử dụng tốt nhất các từ đó (4).
ĐẦU ĐỀ THÔNG DỤNG
Một đầu đề thông dụng (titre courant, running title) là một đầu đề rút gọn đư
ợc một số tờ tạp chí đặt ở
phần trên các trang của bài báo. Nó bao gồm ít hơn 40 ký tự hay khoảng trống. Ví dụ, một b
ài báo có tên
"Đánh giá chủ quan và khách quan lâu dài phẫu thuật chống trào ngược ở bệnh nhân viêm th
ực quản
trào ngược: nghiên cứu trên 215 bệnh nhân" có đầu đề thông dụng là "phẫu thuật chống trào ngư
ợc".
Một số tạp chí tự đặt đầu đề này, một số yêu cầu tác giả đặt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Roberts WC. The article's title. Am J Cardiol 1985;56:210-2.
2. Farfor JA. Cours élémentaire de rédaction médicale. Chapitre IV. Le titre et le résumé. Cah med
1977;2:1153-5.
3. DeBakey S, DeBakey L. The title what's in a name. Int J Cardiol 1983;2:401-6.
4. Huth EJ. Writing the first draft. In: Huth EJ. How to write and publish papers in the medical scien
Chương 5
TÁC GIả
Khi một tạp chí có uy tín chấp nhận một bài báo là đồng nghĩa với sự công nhận tính nghi
êm túc và tính
chính xác của một công trình. Việc đăng bài báo là kết quả cuả điều đó và rất bình thường là tác gi
ả của
bài báo đó sẽ được biết tới. Việc tham gia với tư cách là tác giả các bài báo được đăng là m
ột yếu tố
quan trọng trong sự thăng tiến nghề nghiệp. cVì những lý do đó, tên của một hay nhiều tác giả đư
ợc đặt
ngay dưới tên bài báo. Việc sử dụng tên tác giả phải tuân theo những nguyên tắc chặt chẽ.
AI LÀ TÁC GIẢ ?
Về lý thuyết câu trả lời thật đơn giản: tác giả là người đã viết bài báo. Trong thực tế vấn đề thư
ờng phức
tạp hơn vì một tác giả hầu như không bao giờ làm việc một mình và các thành viên trong nhóm làm vi
ệc
muốn sự tham gia của họ vào công trình phải được công nhận chính thức; nhiều người mong muốn t
ên
của họ xuất hiện trong phần tên tác giả để có thể được thăng tiến hay được ghi nhận trong nghiên c
ứu.
Vì vậy có xu hướng là một công trình mang rất nhiều tên tác giả. Số lượng trung bình các đ
ồng tác giả
một bài báo không ngừng tăng lên. Ngược lại, tỷ lệ phần trăm bài báo vi
ết bởi một tác giả trong tạp chí
New England Journal of Medicine gi
ảm từ 49% năm 1946 xuống 4% năm 1977 (1); tình trạng tương t
ự
cũng xảy ra ở tạp chí Lancet giữa 1930 và 1975.
Tác giả ở vị trí thứ nhất
Tác giả ở vị trí thứ nhất là người thực hiện phần chính của công trình hay là ngư
ời chỉ đạo thực hiện
nghiên cứu. Đó là người viết bản thảo bài báo. Nếu người đó thực hiện công trình và viết một m
ình thì
đó là tác giả duy nhất của bài báo. Điều này rất hiếm xảy ra với một công trình nghiên c
ứu khoa học
nhưng đó lại là quy tắc với bài xã luận.
Tên của chủ nhiệm khoa hay trưởng phòng xét nghiệm
Tên của chủ nhiệm khoa hay trưởng phòng xét nghiệm thường xuất hiện trong nhóm tên tác giả khi đó l
à
người đề ra ý tưởng nghiên cứu, tập hợp nhóm nghiên cứu, tìm nguồn tài chính khi c
ần thiết để thực
hiện công trình. Thường tên của những người này được đặt ở vị trí cuối cùng (3). Nó có tác d
ụng bảo
lãnh khi những tác giả khác trong công trình còn chưa được biết tới rộng rãi trong c
ộng đồng khoa học.
Khi một chủ nhiệm khoa hay trưởng phòng xét nghiệm chấp nhận đứng tên trong một bài báo, đi
ều đó
có nghĩa người đó đã kiểm chứng quá trình nghiên cứu, xác định tính khách quan của các kết quả v
à
chất lượng viết bài báo. Đòi hỏi bắt buộc này là điều rất khó thực hiện do thường khó mà theo dõi m
ột
cách chặt chẽ việc thực hiện đúng đắn quá trình nghiên cứu đặc biệt là trong những phòng xét nghi
ệm
lớn, nơi có nhiều đề tài được đồng thời tiến hành. Nó đòi hỏi ít nhất một chủ nhiệm khoa hay trư
ởng
phòng xét nghiệm khi chấp nhận đứng tên trong một bài báo phải chịu trách nhiệm về bài báo và nh
ững
phê bình nếu có. Vì lý do này, có những tạp chí bắt buộc mỗi tác giả phải ký tên đảm bảo trách nhi
ệm
của mình về bài báo.
Tất cả các công trình đăng tải phải được tác giả hay những đồng tác giả ký tên b
ảo đảm trách nhiệm của
mình, sẵn sàng chấp nhận các nhận xét, phê bình, nhưng cũng được hư
ởng sự nổi tiếng nhờ việc đăng tải
công trình mang lại
.
Theo thoả thuận nhóm Vancouver, những người ký tên vào một bài báo phải đồng thời (4):
1) Đã tham gia và tổ chức công trình nghiên cứu dẫn tới bài báo hay đã phân tích, đánh giá các k
ết quả.
2) Đã tham gia chính vào việc biên soạn bàn thảo đầu tiên hay s
ửa các bản thảo tiếp theo.
3) Đã chấp nhận bản thảo chính thức.
Các tác giả khác
Các tác giả khác phải tham gia tuỳ mức độ vào nghiên cứu và vào việc biên soạn bài báo. Việc b
ài báo
có nhiều tác giả không có ảnh hưởng rõ ràng với người đọc (3). Lý do của xu hướng này có nhiều: l
àm
việc theo nhóm (5) sự tham gia ngày càng nhiều hơn của những chuyên gia khác nhau khi họ đư
ợc xin ý
kiến dù chỉ với một thông báo lâm sàng (5); nhất là vai trò của việc có bài đăng báo trong cu
ộc đời khoa
học, điều này do khái niệm "đăng báo hay là chết" (6). Có 3 cách đơn giản để tăng số bài đăng báo c
ủa
một tác giả: Đăng những bài báo có ít lợi ích, nhân lên nhiều tác giả cho một bài báo hay chia một b
ài
thành nhiều bài khác nhau. Tăng số lượng tác giả sẽ giúp cho một đồng nghiệp có cơ hội thăng tiến v
à
đến lượt họ cũng sẽ làm như thế với mình. Cách làm này có vẻ rất hấp dẫn và có hiệu quả. Tuy nhi
ên
các hội đồng giữ quyền đánh giá sự tham gia của mỗi tác giả vào công trình: n
ếu có nhiều tác giả quá
thường bài báo đó bị chỉ trích hay nghi ngờ (2,7).
Có những tạp chí bắt đầu lo ngại về sự bùng nổ số lư
ợng tác giả. Họ luôn chấp nhận danh sách đầy đủ
tên tác giả ở đầu bài báo nhưng hạn chế số lượng tên tác giả trong phần tài liệu tham khảo khi số lư
ợng
này quá nhiều. Uỷ ban quốc tế của các ban biên t
ập báo y học (International Committee of Medical