Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

vai trò của quan hệ sản xuất đối với vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.41 KB, 12 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: Vai trò của quan hệ sản xuất đối
với vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.
GVHD: Trần Thị Hương Nhóm sinh viên thực hiện: N02
1. Trần Đức Mạnh.
2. Nguyễn Mạnh Hùng.
3. Nguyễn Huy Cường.
4. Nguyễn Ngọc Tuấn.
5. Nguyễn Tuấn Thọ.
6. Phomvongsa Phetoudone
Lớp: K44KTCT
Huế, 12/2012
1
A. Lời Mở Đầu.
Xã hội loài người đã phát triển qua năm hình thái khác nhau đặc biệt là khi xã
hội có giai cấp hay có nhà nước thì vai trò của nhà nước ngày càng được khẳng
định trong việc điều tiết nền kinh tế và xây dựng sự tiến bộ và công bằng của xã
hội ngày càng quan trọng nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã giành được những thắng
lợi, những thành tựu của cách mạng luôn gắn liền với quá trình vận dụng sáng tạo
trong hoàn cảnh cụ thể của thời đại, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam.
Những đóng góp, bổ sung và phát triển cũng như sự vận dụng sáng tạo những
quy luật của học thuyết Mác - Lênin vào quá trình phát triển nền kinh tế đất nước
đã mang lại những chuyển biến tích cực. Trong đó có việc đổi mới và cải tạo quan
hệ sản xuất đã mang lại những thành công nhất định. Trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội của một nước chưa thuần nhất, các lực lượng sản xuất
phát triển với quy mô và trình độ khác nhau, cho nên có sự đa dạng các hình thức
sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thường
xuyên hoàn thiện QHSX, duy trì sự thích ứng ổn định của nó với lực lượng sản


xuất đang phát triển, kịp thời phát hiện những mâu thuẫn giữa chúng, xem đó là
tiền đề tất yếu để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cũng như tiến bộ và công
bằng xã hội.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách
quan trong quá trình sản xuất và có sự tác động rất to lớn lên đời sống xã hội của
con người. Có vai trò quan trọng đối với vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội. Nhất
là đối với nước ta – một đất nước đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội
thì việc quan tâm đến vấn đề này lại càng quan trọng. Vì thế, nhóm chúng tôi chọn
chọn vấn đề: “Vai trò của quan hệ sản xuất đối với vấn đề tiến bộ và công bằng
xã hội” để hiểu rõ về quan hệ sản xuất và vai trò của quan hệ sản xuất đối với vấn
đề tiến bộ và công bằng xã hội.
2
Sơ đồ thể hiện vai trò, vị trí của Quan hệ sản xuất trong Kiến trúc thượng tầng
3
Hình Thái Kinh Tế - Xã Hội
Kiến Trúc
Thượng Tầng
Phương Thức
Sản Xuất
Quan Hệ Sản
Xuất
Lực Lượng
Sản Xuất
Quan Hệ Phân
Phối
Quan Hệ Sở
Hữu
Quan Hệ Quản

Người Lao

Động
Tư Liệu Sản
Xuất
Tư Liệu Lao
Động
Đối Tượng Lao
Động
Có Sẵn
Nguồn
Nguyên
Nhiên Liệu
Kết Cấu Hạ
Tầng
Các Vật
Chứa
Công Cụ
Lao Động
B. Nội Dung.
I. Quan Hệ Sản Xuất.
1. Khái niệm về Quan hệ sản xuất.
• Để tiến hành quá trình sản xuất nhất định con người phải có mối quan hệ với nhau.
Tổng thể nhưng mối quan hệ này gọi là quan hệ sản xuất. Nói cách khác Quan hệ
sản xuất là nhưng mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản
xuất và tái sản xuất xã hội).
• Nó bao gồm tất cả các mối quan hệ kinh tế diễn ra giữa người với người trong quá
trình sản xuất, theo nghĩa rộng bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng.
Các mối quan hệ này do lực lượng sản xuất quyết định. Mỗi sự thay đổi của quan
hệ sản xuất đều là kết quả của sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất và
đến lượt mình, sự thay đổi của quan hệ sản xuất sẽ kích thích lực lượng sản xuất
phát triển.

• Mỗi loại QHSX đặc trưng cho một hình thái kinh tế - xã hội.
• Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là kết quả của một quá trình xã hội hóa lâu dài
trong nền kinh tế thị trường. Không có kinh tế thị trường thì không thể có xã hội
hóa trên thực tế cả về quan hệ sản xuất lẫn lực lượng sản xuất.
2. Kết cấu quan hệ sản xuất.
• Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
• Quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý.
• Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.
=> 3 mặt của QHSX có mối quan hệ biện chứng thống nhất với nhau, trong đó
quan hệ sở hữu đối với TLSX là quan trọng nhất. Nó quyết định và chi phối tới tất
cả các quan hệ khác. Mác nói “Trong mối quan hệ này thì quan hệ sản xuất là quan
trọng nhất nhưng QH sở hữu này không phải đơn giản mà có được”.
a) Quan hệ sở hữu.
• Là mối quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu của cải vật chất. Nó chỉ
rõ, vật là của người này chứ không phải là của người khác.
• Sở hữu là một khái niệm rộng, theo học thuyết Mácxít, dưới giác độ quan hệ sản
xuất, sở hữu chỉ bao gồm những tư liệu sản xuất được đưa vào sản xuất kinh doanh
trong các loại hình kinh tế (thành phần kinh tế), chứ không bao gồm sở hữu các
nguồn lực nằm ngoài hoặc chưa đưa vào sản xuất kinh doanh.
• Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão và đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì kinh tế tri thức đã bắt đầu xuất hiện. Do đó
các hình thức sở hữu phát triển ngày càng đa dạng và đan xen phức tạp, trong đó
sở hữu hỗn hợp ngày càng phát triển, Phạm vi của sở hữu cũng không chỉ dừng lại
ở tư liệu sản xuất, mà sở hữu trí tuệ, sở hữu công ngày càng có vai trò quan trọng.
4
• Nói đến sở hữu người ta xem xét dưới 2 góc độ:
- Sở hữu về mặt pháp lý quy định đối tượng sở hữu vật thuộc quyền sở hữu của ai. Nó
quy định bằng luật pháp quan hệ giữa người này và người kia trong việc chiếm
hữu và từ chiếm hữu đó, nó quy định quyền sử dụng, định đoạt, chuyển nhượng,
cho thuê, thừa kế, thế chấp tài sản đó.

- Sở hữu về mặt kinh tế là một khoản thu nhập mang lại cho người sở hữu. Ví dụ như
địa tô,…
b) Quan hệ tổ chức quản lý.
• Là quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lý sản xuất, sản xuất hóa
và trong trao đổi hoạt động cho nhau biểu hiện ở những địa vị khác nhau của các
tập đoàn người, của các giai cấp trong xã hội có giai cấp.
c) Quan hệ phân phối.
• Là quan hệ giữa người với người trong phân phối, lưu thông xã hội.
• Quan hệ phân phối chỉ là QHSX dưới một góc độ khác, là sự phản ánh quan hệ sở
hữu về mặt kinh tế. Phương thức mà người lao động và các chủ thể sở hữu và kinh
doanh chiếm hữu sản phẩm của mình (hoặc một bộ phận sản phẩm đó) phụ thuộc
và phương thức mà họ có quan hệ với những điều kiện sản xuất của mình.
• Trong bất kỳ nền kinh tế nào, mô hình sản xuất nào cũng cần có sự phối hợp giữa
các hình thức sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Phân phối luôn thể hiện một
vị trí hết sức quan trọng. Nó phụ thuộc vào sản xuất nhưng phân phối tốt hay
không lại ảnh hưởng đến sản xuất, đến trao đổi tiêu dùng và đời sống nhân dân.
• Các nguyên tắc phân phối cơ bản ở nước ta hiện nay:
- Phân phối theo lao động là hình thức phân phối căn bản, là nguyên tắc phân phối
chủ yếu và thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất hoặc các hợp tác xã cổ phần.
- Phân phối theo vốn và các nguồn lực khác: Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,
nên tất yếu có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và cũng sẽ xuất hiện
nhiều hình thức sản xuất kinh doanh khác nhau.
- Phân phối theo phúc lợi xã hội không phải là phân phối theo nhu cầu, cũng không
phải phân phối theo lao động mà đây là phân phối của thời kỳ quá độ. Nó đảm bảo
cho tất cả mọi thành viên trong xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu và có
tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi
thành viên trong xã hội. Nó góp phần thúc đẩy sự phát triển của một đất nước.
• Việc phân phối theo nghĩa rộng được hiểu là phân phối cả các “yếu tố đầu vào” và
“kết quả đầu ra” của sản xuất.

3. Tiến bộ và công bằng xã hội.
a) Quan niệm về tiến bộ xã hội.
5
• Đó là sự phát triển xã hội từ trình độ thấp lên trình độ cao hơn, bao gồm nhiều nội
dung tiến bộ xã hội xét về góc độ kinh tế là sự tiến bộ về lực lượng sản xuất, xét về
góc độ chính trị là hiệu quả các chính sách xã hội, sự công bằng, dân chủ, đời sống
tinh thần, xã hội ngày càng cao hơn.
• Mặc dù C.Mác không đưa ra một định nghĩa cụ thể về tiến bộ, nhưng trong toàn bộ
sự nghiệp nghiên cứu của ông nói chung, cũng như trong tuyên ngôn Đảng Cộng
Sản nói riêng, chủ đề tiến bộ đã có một nội dung nổi bật, toàn diện. khái niệm về
tiến bộ của C.Mác là một khái niệm phù hợp, nghĩa là không có một tiến bộ liên
tục theo một tuyến thẳng, không đứt quãng và chi phối tổng hợp mọi khu vực của
hiện thực xã hội, mà là những tiến bộ trong hình thái này hoặc hình thái khác của
đời sống xã hội, những tiến bộ đó không nhất thiết bảo đảm tính liên tục của tiến
bộ trong tổng thể của nó xã hội có thể tiến bộ ở măt này, nhưng lại trì trệ hoặc thụt
lùi ở mặt khác (hoặc ngược lại) trong một quá trình thể hiện rõ rệt tính mâu thuẫn
của nó.
• Có thể hiểu tiến bộ xã hội là một khái niệm nói lên trình độ của một xã hội đã đạt
tới, không những trong lĩnh vực sản xuất vật chất dựa trên một nền khoa học kỹ
thuật nhất định, mà con trên cả các lĩnh vực chính trị, văn hóa, tinh thần, tiến bộ xã
hội thể hiện trên sự kết hợp tương đối thích ứng của các mối quạn hệ giữa người
với người, giữa con người với xã hội, giữa con người với thiên nhiên thông qua tác
động thường xuyên điều chỉnh của chủ thể quản lý sự phát triển xã hội theo hướng
phục vụ cuộc sống ngày càng tốt đẹp của con người.
b) Quan niệm về công bằng xã hội.
• Trong các thời đại khác nhau, dù ở phương Đông hay phương Tây, con người đều
quan tâm tới công bằng xã hội và đã có rất nhiều cách hiểu và cách giải quyết khác
nhau đối với vấn đê công bằng xã hội. Ph.Ăngghen viết “công lý của người Hy
Lạp và người La Mã cho rằng chế độ nô lệ là công bằng: công lý của những nhà tư
sản năm 1789 đòi hỏi thủ tiêu chế độ phong kiến, vì chế độ ấy không công bằng”.

• Cuối thế kỷ XIX, nhà xã hội học Pháp E.Durkheim nhận định: các xã hội hiện đại
chỉ có thể ổn định nếu tôn trọng công bằng xã hội.
• Nhà xã hội học Mỹ Frank Scarpati nhận định mục tiêu của công bằng xã hội chỉ có
thể được thực hiện thông qua một chính sách làm giảm sự tập tung quyền lực về
những nguồn tài nguyên kinh tế trong Tay một tầng lớp ít người nắm độc quyền
trong xã hội, nhưng ông ta không nói rõ điều quan trọng là làm thế nào để thực
hiện được chính sách đó trong lòng xã hội tư bản
• Trong tác phẩm “một lý thuyết về công bằng”, nhà xã hội học Mỹ John Rawls nhận
xét những bất công về kinh tế và xã hội phải được tổ chức sao cho mọi người có
6
thể chấp nhận được và chúng được gắn với những vị trí và chức năng được mở ra
cho tất cả mọi người. Ông ta đưa ra nguyên tắc “tối đa hóa cái tối thiểu” (nguyên
tắc maximin) cho những người bị thiệt thòi, yếu thế trong xã hội, xem đó như lý
tưởng xã hội công bằng và con đường tiến lên xã hội đó bằng đạo đức.
• Cần thấy rằng công bằng của xã hội cần phải được đặt trong khuôn khổ kinh tế và
chính trị cụ thể của từng quốc gia có tính thời đoạn riêng. Đối với nước ta, công
bằng xã hội phải được xét một cách toàn diện bao gồm cả công bằng trong lĩnh
vực kinh tế, công bằng trong cả lĩnh vực chính trị - xã hội, trong đó công bằng
trong kinh tế là gốc. Công bằng trong kinh tế cũng không phải chỉ có công bằng
trong hưởng thụ, mà trước hết và quan trọng phải là sự công bằng ngay trong việc
tiếp cận với điều kiện làm kinh tế, điều kiện phát huy sức sáng tạo của các cá nhân
và cộng đồng. Công bằng xã hội phải dựa trên sự công bằng về kinh tế.
II. Vai Trò Của Quan Hệ Sản Xuất Đối Với Vấn Đề Tiến Bộ Và Công Bằng Xã
Hội.
Trong sự phát triển đất nước hiện nay, Quan hệ sản xuất luôn là một nhân tố có
vai trò rất lớn trong việc gìn giữ cũng như phát cải thiện vấn đề tiến bộ và công
bằng xã hội. Điều này được thể hiện rõ qua vai trò của ba mặt của Quan hệ sản
xuất đối với vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.
1. Vai trò Quan hệ sở hữu với vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.
• Là một bộ phận quan trọng nhất của quan hệ sản xuất Sở hữu đóng một vai trò rất

quan trọng trong đối với vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội. Là cơ sở, là nền tảng
vững chắc để mỗi quốc gia tạo nên tiền đề về tiến bộ và công bằng xã hội.
• Sở hữu là vấn đề cốt lõi trong việc xây dựng nền kinh tế tăng trưởng cao gắn với
tiến bộ và công bằng xã hội. Đồng thời cũng là cơ sở để tạo sự phát triển nhằm
từng bước tạo nên mức đồng đều về công bằng xã hội.
- Mở rộng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước – loại hình sở hữu tiến bộ nằm trong
cơ cấu của quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa – cũng là một trong
những cách thức để thu hút nguồn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng vật
chất bảo đảm công bằng xã hội.
- Sở hữu tư nhân nhỏ của kinh tế cá thể, của doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn Việt Nam
có vị trí không kém phần quan trọng. Hình thức sở hữu này giúp cho kinh tế cá thể
đi vào co chế thị trường thuận lợi hơn, tạo ra nhiều việc làm, nhất là trong mùa vụ
cũng như khi nhàn rỗi. Điều quan trọng là sở hữu này đang góp phần vào việc thực
hiện công bằng xã hội không chỉ ở quy mô mà ở tính chất rộng khắp của nó, giúp
cho sản xuất và đời sống được ổn định hơn ngay từ cơ sở.
7
• Lịch sử thế kỷ XX đã đứng trước vấn đề “chế độ sở hữu và công bằng xã hội”,
nhưng cho đến nay vẫn chưa có lời giải đáp hữu hiệu về mối quan hệ giữa sở hữu
với vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội.
- Muốn có công bằng, trước hết phải có tăng trưởng kinh tế cao. Muốn vậy, hình thức
sở hữu nào còn phù hợp và có tiềm năng tăng trưởng cao thì phải được phát huy
rộng rãi, không hạn chế quy mô. Mọi cản trở đối với sự phát triển của doanh
nghiệp, của đất nước đều có hại cho việc thực hiện công bằng. Tăng trưởng là tiền
đề, là điều kiện để thực hiện công bằng.
- Trong nền kinh tế thị trường không phải chỉ có sở hữu nhà nước mà cả sở hữu tư
nhân có vai trò, vị trí quan trọng đối với tăng trưởng kịnh tế, tạo việc làm, sử dụng
các nguồn lực phân tán, nguồn lực truyền thống. Cần phải khuyến khích đầu tư tư
nhân vào các địa bàn cần khai thác, kể cả việc tạo điều kiện cho họ liên doanh với
nước ngoài, tạo ra mọi cơ hội cho sự phát triển nhằm từng bước tạo nên mức đồng
đều về công bằng xã hội.

2. Vai trò của Quan hệ Phân phối đối với tiến bộ và công bằng xã hội.
• Về phân phối tuy phụ thuộc vào sở hữu và quản lý nhưng phân phối có vai trò
không kém phần quan trọng đối với tăng trưởng và công bằng xã hội:
- Giải quyết tốt vấn đề phân phối các yếu tố đầu vào, đầu ra của sản xuất sẽ tạo điều
kiện cho mọi doanh nghiệp, mọi người được bình dẳng trong việc tiếp cận các cơ
hội ngang nhau để phát triển.
- Trong điều kiện lực lượng sản xuất phát triển cao, nền kinh tế thị trường còn ở trình
độ thấp, thậm chí còn sơ khai cũng vẫn phải giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công
bằng xã hội.
• Trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải huy động và sử dụng tốt
hơn các nguồn nội lực, ngoại lực vào phát triển kinh tế để có điều kiện ngày càng
thực hiện tốt hơn vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội.
- Quan hệ phân phối tạo được động lực kinh tế để huy động mọi nguồn nhân lực vào
quá trình sản xuất, đồng thời phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của mọi chủ thể kinh tế góp phần xây dựng nền kinh tế
ngày càng giàu mạnh – chính là tiền đề cho việc thực hiện công bằng trong xã hội.
- Thực hiện tốt phương châm vì con người trong chính sách phân phối sẽ có vai trò
tích cực trong việc thực hiện mục tiêu cao cả vì sự tiến bộ, công bằng, dân chủ,
văn minh.
• Phân phối trở thành yếu tố quyết định sự công bằng và tiến bộ xã hội, đảm bảo định
hướng phát triển xã hội trong điều kiện tồn tại nhiều loại hình sở hữu và quan hệ
sản xuất.
8
- Quan hệ phân phối thúc đẩy tăng trưởng đất nước tạo động lực cho người lao động
sản xuất cũng như làm việc ngày càng nhiều vì lợi ích bản thân, của nhân dân cũng
như toàn xã hội, quan đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước từng bước nâng
cao thu nhập của các tầng lớp dân cư.
- Hình thành cơ chế phân phối hợp lý và hiệu quả tạo được nguồn thu cho ngân sách
để giải quyết những vấn đề về kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao phồn vinh và
phúc lợi xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

- Thông qua việc phân phối động viên tối đa sức sáng tạo và cống hiến mọi nguồn lực
có thể có của xã hội vào việc thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.
- Phân phối thông qua phúc lợi xã hội góp phần hình thành quỹ hỗ trợ giải quyết việc
làm cho phân phối sản phẩm, sở hữu sẽ quyết định nhưng phân phối sẽ tác động
ngược trở lại, giải quyết tốt các yếu tố đầu vào, đầu ra trong sản xuất sẽ tạo điều
kiện cho mọi người được bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội ngang nhau để
phát triển. khuyến khích xóa đói giảm nghèo, quỹ hỗ trợ cho các xã miền núi có
điều kiện khó khăn, khơi giậy phong trào đền ơn đáp nghĩa… đã làm sự chênh lệch
quá mức trong phân phối phần nào được thu hẹp và góp phần giảm những yếu tố
tiêu cực về mặt xã hội do cơ chế thị trường sinh ra.
3. Vai trò của Quan hệ Tổ chức quản lý đối với vấn đề tiến bộ và công bằng xã
hội.
• Đứng bên cạnh Quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối với vai trò là một bộ phận của
Quan hệ sản xuất. Cùng với Quan hệ Sở hữu và quan hệ phân phối đóng vai trò
không nhỏ vào xây dựng nền tiến bộ và công bằng xã hội.
• Xây dựng và hoàn thiện quan hệ quản lý có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng
và hoàn thiện quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vì quan hệ
quản lý được hoàn thiện sẽ phát huy vai trò của quan hệ sở hữu và quan hệ phân
phối là nền tảng cho xây dựng tiến bộ và công bằng xã hội.
• Mặt khác, quản lý vĩ mô của nhà nước được hoàn thiện sẽ phát huy và nâng cao vai
trò định hướng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước sẽ góp phần thúc đẩy
tiến bộ và công bằng xã hội sẽ ngày càng đi lên.
• Cơ chế quản lý của nền kinh tế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát
huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững
9
nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
• Đứng trên phạm vi xã hội, cũng nhờ từng cơ sở giải quyết vấn đề công bằng xã hội
phụ thuộc nhiều vào quản lý nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, điều đó cũng có ý nghĩa quyết định. Thực hiện tốt vấn đề công bằng

xã hội đòi hỏi quản lý nhà nước phải đổi mới theo hướng “tăng trưởng phát triển”
nghĩa là tăng trưởng đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Muốn vậy phải xây dựng quy hoạnh phân bổ kinh tế hợp lý, hình thành cơ cấu
vùng kinh tế, kết hợp chặt chẽ quản lý kinh tế theo ngành với vùng, lãnh thổ - giải
quyết tốt mối quan hệ vi mô, vĩ mô trong quan hệ quản lý kinh tế ở nước ta. Đặc
biệt nhà nước phải đóng vai trò như là một trọng tài để tất cả các chủ thể kinh
doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có được điều kiện kinh doanh công bằng và
tiếp cận với các tiến bộ của nhân loại.
III. Quan hệ sản xuất đối với vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam.
1. Thực trạng tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
a) Những thành tựu đạt được.
• Một là, cùng với hệ thống phát luật về kinh tế, hàng loạt văn bản pháp luật có liên
quan đến việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội đã được xây dựng và ban
hành.
• Hai là, trong điều kiện môi trường pháp lý ngày càng thông thoáng, tính năng động
và chủ động xã hội của các tầng lớp nhân dân được phát huy, đời sống của họ được
cải thiện một bước.
• Ba là, đầu tư của nhà nước và đóng góp của cộng đồng cho việc giải quyết các vấn
đề đã gia tăng đáng kể.
b) Những yếu kém và khó khăn và thách thức đang đặt ra.
• Kinh tế:
- Nước ta còn nghèo, là nước đang phát triển có thu nhập ở mức trung bình dưới của
thế giới.
- Cơ cấu kinh tế chưa hợp lý và chuyển dịch chậm.
- Kết cấu hạ tầng còn yếu kém.
- Năng suất lao động còn thấp và có nguy cơ tụt hậu về kinh tế.
• Xã hội:
- Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm khá cao.
- Phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo có xu hướng tăng.
- Chất lượng giáo dục còn thấp.

- Khoa học công nghệ kém phát triển.
- Cơ sở vật chất, y tế còn thiếu thốn, lạc hậu.
10
- Văn hóa nghệ thuật chưa tương xứng với tiềm năng.
- Có nhiều biểu hiện do mặt trái của cơ chế thị trường.
2. Quan hệ sản xuất đối với vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam.
• Ở nước ta, nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác
định từ Đại hội VII: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” và được tiếp tục khẳng định qua các Đại hội VIII, IX và
X.
• Do điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của nước ta còn thấp cả về
LLSX và QHSX, nên việc xây dựng từng bước QHSX mới để thúc đẩy sản xuất
phát triển và xã hội phát triển là một yêu cầu tất yếu để phát triển kinh tế đi đôi với
xây dựng tiến bộ và công bằng xã hội.
• Trong thời kỳ quá độ lên CNXH tính đan xen tác động lẫn nhau trong QHSX thể
hiện ở chỗ sự tồn tại của nhiều QHSX: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã phát huy tác
dụng và đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển. Đó là nền tảng cho việc phát
huy những ưu điểm cũng như khắc phục những hạn chế để chúng ta ngày càng
hoàn thiện vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta.
• Vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội được đề cập trong tất cả các văn kiện chính thức
của Đại hội XI của Đảng và thể hiện những nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về bề
rộng cũng như bề sâu của vấn đề quan trọng này. Đồng thời chúng ta cũng nhận
thức được tầm quan trọng của việc xây dựng Quan hệ sản xuất phù hợp góp phần
vào phát triển nền kinh tế và xây dựng tiến bộ, văn minh xã hội.
• Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của QHSX trong vấn đề xây dựng
tiến bộ và công bằng xã hội.
- Về mặt sở hữu, Đảng ta xác định trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta có cả công hữu, tư hữu và sở hữu tập thể với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không

ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là
một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được
khuyến khích phát triển. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh.
- Về mặt tổ chức và quản lý sản xuất, Đảng ta nhất quán xác định phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự
11
lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường,
vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
chủ nghĩa xã hội. Cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy
mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền
kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
- Về mặt phân phối, Đảng ta nêu rõ cần phân phối công bằng cả các yếu tố sản xuất,
các cơ hội, điều kiện phát triển và sản phẩm làm ra. Trong phân phối sản phẩm,
chủ yếu căn cứ vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng
góp vốn cùng các nguồn lực khác; phân phối thông qua hệ thống phúc lợi và an
sinh xã hội. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách phát triển kinh tế
- xã hội.
C. Kết Luận.
Trong thời gian qua QHSX ở nước ta đã có nhứng thay đổi đáng kể, phù hợp
với từng thời kỳ lịch sử. Tuy đã có những giai đoạn lịch sử sai lầm nhưng nhìn
chung QHSX ở nước ta phù hợp với LLSX và đã và đang góp phần thúc đẩy lực
lượng sản xuất nói chung, nền kinh tế nói riêng phát triển ngày càng đi lên góp
phần vào việc xây dựng tiến bộ và công bằng xã hội.
Việc xây dựng Quan hệ sản xuất tiến bộ là các quan hệ sản xuất khắc phục được

những tính chất lạc hậu, tiêu cực của các quan hệ sản xuất trước kia đã từng tồn tại
ở đất nước; phòng tránh, khắc phục được tính chất lạc hậu, tiêu cực của một số
quan hệ sản xuất đang tồn tại trên thế giới; chứa đựng ngày càng nhiều giá trị nhân
văn, dân chủ, công bằng. Đó là các quan hệ sản xuất đi trước một bước, định
hướng phát triển cho các lực lượng sản xuất hiện đại và chủ động đảm bảo cơ sở
vật chất - kinh tế cho chế độ xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Vì thế xây dựng và hoàn thiện QHSX có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát
triển nền kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội.
12

×