Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

đánh giá tác động của các chương trình đào tạo, tập huấn khuyến nông đến đội ngũ cán bộ khuyến nông và nông dân trên địa bàn tỉnh thái nguyên 2005 đến 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.78 KB, 72 trang )


TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

[\[\

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP


ĐỀ TÀI:

Đánh giá tác động của các chương trình
đào tạo, tập huấn khuyến nông đến đội
ngũ cán bộ khuyến nông và nông dân trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2005 đến 2007
1

Phần 1. Mở đầu
1.1. Đặt vấn đề
Trong thời gian qua, nền nông nghiệp nớc ta có những bớc phát
triển mạnh mẽ, đã và đang chuyển dần từ nền sản xuất tiểu nông, tự cung tự
cấp sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa. Từ một nớc phải nhập khẩu
gạo, Việt Nam đã trở thành nớc xuất khẩu nông sản có thứ bậc trên thế giới:
Đứng thứ nhất về điều với sản lợng xuất khẩu là: 127.000 tấn (năm 2006)
[29]. Đứng thứ hai về gạo, chè, cà phê: 14.106.443 tấn chỉ sau Brasil [28],
đứng thứ t về cao su. Ngoài ra còn xuất khẩu nhiều loại lơng thực khác nh
rau quả, thịt Đời sống của đại bộ phận nông dân ngày càng đợc cải thiện.
Có đợc những thành tựu này là nhờ sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, sự
nỗ lực của hàng chục triệu nông dân và đóng góp to lớn của tất cả các ban
ngành từ Trung ơng đến địa phơng trong đó có hệ thống khuyến nông Việt
Nam


(Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2005) [1].
Hệ thống khuyến nông Việt Nam đợc chính thức hình thành sau khi
Chính phủ ban hành nghị định 13/CP về công tác khuyến nông, ngày 2 tháng
3 năm 1993. Sự ra đời của hệ thống khuyến nông Việt Nam đáp ứng yêu cầu
mới của sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn nớc ta. Qua hơn 10 năm
hoạt động khuyến nông đã có những đóng góp to lớn trong quá trình phát triển
nông nghiệp, nâng cao dân trí và trình độ kỹ thuật cho nông dân. Hầu hết các
giống cây, con mới trong sản xuất hiện nay, chủ yếu do kênh khuyến nông
(Khuyến nông nhà nớc và khuyến nông tự nguyện) chuyển giao và tham gia
phát triển, làm tăng nhanh năng suất, chất lợng cây trồng, vật nuôi. Một
trong những hoạt động khuyến nông đợc quan tâm đến trong những năm trở
lại đây, đó là hoạt động đào tạo, tập huấn khuyến nông. Công tác đào tạo, tập
huấn khuyến nông đang ngày càng đợc chú trọng hơn cả về mặt số lợng và
chất lợng (Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2005)
[1].
Hiện nay với sự phát triển nh vũ bão của khoa học - kỹ thật, nhiều
tiến bộ mới đợc ra đời và cần thiết đợc áp dụng ngay vào thực tế cuộc sống.
Vì vậy đào tạo, tập huấn ngày càng trở nên cần thiết hơn. Qua đây ngời nông
dân sẽ nhanh chóng có thể tiếp nhận đợc những kiến thức mới, công nghệ
mới để ứng dụng ngay vào sản xuất nông nghiệp góp phần thúc đẩy nền nông
2

nghiệp của đất nớc. Bên canh đó, do hệ thống tổ chức khuyến nông cha
hoàn chỉnh, đội ngũ cán bộ khuyến nông cha đợc đào tạo bài bản từ các
trờng Đại học nên hàng năm hệ thống khuyến nông cũng đã tổ chức rất nhiều
khóa đào tạo về kỹ năng, phơng pháp khuyến nông và các giải pháp kỹ thuật
mới cho cán bộ khuyến nông các cấp, nông dân. Tuy nhiên, một vấn đề vô
cùng quan trọng đặt ra là liệu rằng các chơng trình đào tạo, tập huấn khuyến
nông đã và đang tiến hành có thực sự đáp ứng đợc những nhu cầu cũng nh
mong đợi của ngời học (nông dân và cán bộ khuyến nông) hay không? Nó có

đem lại hiệu quả về mặt kinh tế, nhận thức và về mặt xã hội hay không? Đánh
giá tác động của hoạt động đào tạo, tập huấn là một nội dung quan trọng để
xem liệu một chơng trình đào tạo có thành công hay không? Nó có thể giúp
xác định mục tiêu đào tạo xác đáng hơn, tránh đợc những nội dung đào tạo
không cần thiết, đảm bảo các phơng pháp đào tạo đáp ứng đợc yêu cầu của
các học viên và giảm đợc chi phí đào tạo.
Đợc sự đồng ý của Ban giám hiệu nhà trờng, Ban chủ nhiệm Khoa
và sự giúp đỡ của Ths. Vũ Đức Hải, Ths. Nguyễn Hữu Thọ, tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: Đánh giá tác động của các chơng trình đào tạo, tập
huấn khuyến nông đến đội ngũ cán bộ khuyến nông và nông dân trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2005 - 2007, với mong muốn có cái nhìn
tổng thể về thực trạng của công tác đào tạo, tập huấn khuyến nông cũng nh
các kết quả đạt đợc sau mỗi một khóa đào tạo, tập huấn cho cán bộ khuyến
nông và nông dân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, từ đó đề xuất những giải
pháp cơ bản nhằm góp phần bổ sung v hon thiện nội dung chơng trình
đào tạo, tập huấn khuyến nông trên địa bn tỉnh Thái Nguyên để nâng cao
hiệu quả của các chơng trình ny trong giai đoạn tới. Đây l một vấn đề cần
thiết khách quan, cả giá trị về mặt lý luận cũng nh thực tiễn rất sâu sắc.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá đợc thực trạng và tác động của công tác đào tạo, tập huấn
khuyến nông đến đội ngũ cán bộ khuyến nông các cấp và nông dân trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên, từ đó đa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
các chơng trình đào tạo, tập huấn trong giai đoạn mới.

3

1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá thực trạng của công tác đào tạo, tập huấn khuyến nông đối
với cán bộ khuyến nông và nông dân trên địa bàn tỉnh.
Đánh giá tác động của các chơng trình đào tạo, tập huấn khuyến

nông đến đội ngũ cán bộ khuyến nông và nông dân.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các chơng
trình đào tạo, tập huấn khuyến nông đến đội ngũ cán bộ khuyến nông và nông
dân.
1.4. ý nghĩa của đề tài
1.4.1. ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Bổ sung các kiến thức thực tế của các chơng trình đào tạo và tập huấn
khuyến nông đã đợc học về lý thuyết trong nhà trờng.
Bổ sung thêm những kiến thức mới về đánh giá tác động của đào tạo,
tập huấn.
Có đợc cái nhìn tổng thể về thực trạng công tác đào tạo, tập huấn
khuyến nông đến cán bộ khuyến nông và nông dân trên địa bàn tỉnh.
Đề tài cũng đợc coi là một tài liệu tham khảo cho Trờng, Khoa, các
cơ quan trong ngành và sinh viên các khóa tiếp theo.
1.4.2. ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
Đề tài có thể là cơ sở để có những định hớng nhằm nâng cao hiệu
quả của các chơng trình đào tạo, tập huấn đối với đội ngũ cán bộ khuyến
nông và nông dân không chỉ cho Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thái Nguyên
mà còn cho khuyến nông các tỉnh, địa phơng khác trong cả nớc.









4


Phần 2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Nhận thức con ngời
Con ngời sinh ra, sống và tồn tại trong một ngôi nhà chung của nhân
loại đó chính là trái đất. Hằng ngày họ phải tiếp xúc, đối mặt với hàng trăm sự
việc, tình huống xảy ra trong cuộc sống thông qua nghe, nhìn, thậm chí là
những cảm giác nh sờ mó, nếm, ngửi đòi hỏi mình phải suy ngẫm, phân tích
và hành động sao cho hợp lý để mang lại hiệu quả cao nhất. Nhng kết quả
của những việc làm đó có thực sự nh họ mong muốn? Và điều gì quyết định
đến sự thành công hay thất bại? Một phần là khả năng nhận thức của chính
bản thân mình.
Nhận thức là một quá trình tiếp nhận thông tin hay những sự tác động
từ môi trờng bên ngoài chúng ta và truyền nó vào sự hiểu biết về tâm lý học
(A.W.Van den Ban & H.S.Hanwkins, 1998) [19]. Những ngời làm công tác
khuyến nông không thể chờ để hiểu đợc tâm lý phức tạp của nhận thức con
ngời - nông dân, nhng họ đánh giá đúng tại sao ngời ta lại giải thích những
cái xảy ra xung quanh họ một cách hoàn toàn khác nhau và những nhận thức
khác nhau này ảnh hởng đến thái độ thông tin của họ nh thế nào. Ngời làm
công tác khuyến nông phải có khả năng xây dựng kế hoạch và sử dụng sự hỗ
trợ này một cách thành công hơn trong các chơng trình của họ nếu nh họ
hiểu đợc một số nguyên tắc cơ bản của nhận thức:
2.1.1.1. Quan hệ
Những nhận thức của chúng ta có quan hệ với nhau chứ không phải
độc lập thuần tuý. Mặc dù chúng ta không có khả năng nói chính xác trọng
lợng hay diện tích bề mặt của một vật thể nhng chúng ta có thể nói rằng nó
nặng hay nhẹ, rộng hay hẹp hơn so với một vật thể tơng tự. Vì thế khi soạn
thảo ra những bức thông điệp chúng ta nhớ rằng một nhận thức cá nhân ở bất
kì một phần nào đó của bức thông điệp sẽ phụ thuộc vào đoạn ở ngay trớc
đó. Khi một nhà soạn thảo đang chuẩn bị in một bức thông điệp và muốn gây
sự chú ý cho ngời đọc đến một thay đổi nào đó trong bức thông điệp thì anh

ta có thể để những chỗ trống hay thay đổi kích cỡ. Nhận thức về bức thông
điệp cũng chịu ảnh hởng bởi những cái xung quanh nó. Là ngời làm công
5

tác khuyến nông cần phải chủ động, linh hoạt, biết liên hệ với thực tiễn gắn
với điều kiện cụ thể của ngời nông dân, để họ hiểu đợc điều mà ta muốn
truyền đạt tới cho họ.

2.1.1.2. Chọn lọc
Nhận thức của chúng ta mang tính chọn lọc rất kĩ lỡng. Các chuyên
gia thông tin - ngời hiểu rất rõ những nhân tố này, chắc chắn sẽ tạo đợc sự
chú ý của ngời tiếp nhận thông tin ở những phần nào đó của bức thông điệp
mà họ muốn nhấn mạnh. Họ cũng biết thông điệp cần nhấn mạnh chỗ nào,
nhắc lại hay lợc bỏ để làm cho ngời nhận thông tin không phải bận bịu với
những thông tin thừa và vô bổ. Trong công tác chuyển giao tiến bộ khoa học -
kỹ thuật đến với ngời nông dân, ta cần biết điểm nào, chỗ nào là quan trọng,
cần phải nhấn mạnh, để họ có thể chú ý, quan tâm nhiều hơn đến vấn đề đó.
Nh vậy sẽ tạo ra một khoảng cách nhất định, giúp họ nhận biết đợc những
thông tin nào là quan trọng và những thông tin nào là bổ trợ.
Những kinh nghiệm trớc đây cũng có ảnh hởng đến sự chọn lọc
nhận thức của chúng ta. Những nông dân đã làm chăn nuôi nhiều năm sẽ hiểu
rất rõ sự khác nhau dù rất nhỏ về ngoại hình, chất lợng lông và những điều
kiện chung của vật nuôi hơn là những ngời cha quen làm công việc chăn
nuôi. Sinh viên nông nghiệp đợc đào tạo về nông học và thực vật học sẽ hiểu
đồng cỏ nh là một sự su tập của những cây trồng đặc biệt, một vài loại trong
số đó có giá trị dinh dỡng cao, còn một số khác thì coi nó có thể chỉ là những
thứ cỏ vô tác dụng. Mặt khác một ngời không đợc đào tạo về thực vật có thể
chỉ quan sát thấy đơn giản đó là một thảm cỏ. Do đó, ngời làm công tác
khuyến nông không chỉ truyền đạt một loại thông tin mà cần đa tới cho
ngời nông dân nhiều loại thông tin khác nhau, thuộc các lĩnh vực khác nhau,

để có thể thay đổi đợc cách nhìn, cách nghĩ của họ tới cùng một đối tợng.
2.1.1.3. Tổ chức
Nhận thức của chúng ta đợc tổ chức lại. Chúng ta có xu hớng sắp
xếp những nhận biết của cảm giác theo cách chúng có thể có ý nghĩa nào đó
cho chúng ta. Vì thế, chúng ta có thể giải thích một bức ảnh của một ngời
đàn ông với một bộ mặt, đôi tay bẩn thỉu và bộ quần áo cũ kĩ nh là một ngời
lời biếng hay rất nghèo. Mặt khác chúng ta có thể giải thích bức tranh đó nh
6

là một ngời nông dân chăm chỉ nếu nh bức tranh đó còn có cả một trang trại
ở phần nền. Vì vậy, khi truyền đạt thông tin đến với ngời nông dân, ngời
làm công tác khuyến nông cần lồng ghép các khuôn mẫu, điển hình trên thực
tế để bổ sung, chứng minh, giải thích cho các thông tin mà mình đa tới. Có
nh vậy ngời nông dân mới tiếp nhận thông tin một cách hiệu quả.
2.1.1.4. Hớng dẫn
Những sắp đặt thần kinh của chúng ta tác động đến những gì chúng ta
lựa chọn và làm thế nào để chúng ta tổ chức và giải thích nó. Sắp đặt là một
khái niệm nhận thức quan trọng có thể đợc nhà thiết kế thông tin sử dụng để
giảm bớt những giải thích có thể có cho một sự vật nào đó. Một ngời viết bài
cho một tập san khuyến nông bắt đầu bài viết của mình bằng một tóm tắt sẽ
sắp đặt cho ngời đọc tìm ra những điểm chính trong bài viết đó.
Việc hỏi một câu hỏi cụ thể nào đó trong một cuộc phỏng vấn có thể
điều khiển ngời trả lời theo một định hớng đặc biệt nào đó. Vì thế khi soạn
thảo ra các bộ câu hỏi, việc tránh câu trả lời đợc sắp đặt sẵn bằng cách
chuyển từ những câu hỏi chung chung sang những câu hỏi cụ thể là rất quan
trọng.
Ngời làm công tác khuyến nông thờng đợc đào tạo chu đáo và có
những kiến thức mang tính khoa học mà họ đã học đợc để nhận thức các điều
kiện nông nghiệp theo một cách nào đó. Những ngời này mà họ phục vụ -
nông dân có thể nhận thức các điều kiện ấy một cách khác hẳn. Họ có thể đặc

biệt nhấn mạnh những hiện tợng thần bí nh các giai đoạn của mặt trăng khi
trồng trọt. Ngời làm công tác khuyến nông phải học để hiểu đợc những
nhận thức này trớc khi cố gắng làm thay đổi nó.
2.1.1.5. Loại nhận thức
Một cá nhân này sẽ có những nhận thức rất khác với cá nhân kia trong
cùng một tình huống xảy ra, bởi vì họ có những loại nhận thức khác nhau.
Nhiều kết quả bằng mắt hay những chứng minh quang học phụ thuộc vào một
thực tế là chúng ta không thể nhận thức không gian một cách trực tiếp mà phải
suy luận chúng từ những kí hiệu. Chúng ta có xu thế dự tính quá độ dài của
đờng kẻ dọc trong hình 2.1, trong khi thực tế thì cả đờng kẻ dọc lẫn đờng
ngang đều có độ dài bằng nhau.
7

Vì thế ngời soạn thảo thông tin nên chọn những phơng pháp giới
thiệu phù hợp với kĩ năng của thính giả. Ngời làm công tác khuyến nông ở
các nớc đang phát triển thờng phải làm việc với những nông dân ít đợc học
hành, vì thế họ phải tập trung vào việc trình bày những thông tin thật cụ thể
chứ không phải những thông tin trừu tợng.





Hình 2.1: Sự chứng minh về cảm quang
(A.W.Van den Ban & H.S Hanwkins, 1998) [19]
2.1.2. Một vài hớng dẫn giúp truyền đạt thông tin một cách có hiệu quả
2.1.2.1. Thu hút và gây sự chú ý
Một bức thông điệp khuyến nông sẽ không có tác dụng nếu nông dân
không tiếp nhận chúng. Thậm chí, nếu họ tiếp nhận nó thì họ phải chú ý xem
có thể học hỏi đợc điều gì không. Họ có thể tiếp nhận một tạp chí khuyến

nông nhng chẳng bao giờ đọc nó cả, hoặc mở đài để nghe chơng trình ca
nhạc thay cho việc nghe chơng trình khuyến nông trên vô tuyến. Một ngời
làm thông tin giỏi vì thế phải soạn thảo những bức thông điệp có thể thu hút
hay giữ đợc sự chú ý trong quá trình thông tin.
Một nhà khuyến nông nào đó định sử dụng bộ ảnh đèn chiếu, cũng
thỉnh thoảng nên chú ý bao gồm cả một số ảnh đen trắng trong bộ su tập của
mình. Tính độc đáo cũng là một yếu tố rất quan trọng trong các thông điệp
khuyến nông.
2.1.2.2. Sử dụng tranh ảnh hay từ ngữ
Chuẩn bị một thông điệp có cả tranh ảnh lẫn từ ngữ là công việc
thờng làm của cán bộ khuyến nông. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: các
bức tranh có hiệu quả hơn là những từ ngữ khi phân biệt về mặt không gian.
Một bức ảnh hay tranh về một cây hay một con vật chắc chắn sẽ tạo ra một ý
nghĩa chung hơn là mô tả bằng lời nói hay viết ra. Tuy nhiên, sử dụng các từ
sẽ rất tốt cho việc phân biệt các yếu tố về thời gian nh tần suất và trình tự.
8

Các khái niệm nh: sự sinh trởng của cây trồng, chu kì sinh trởng và xói
mòn đất bao gồm cả không gian và thời gian thì sử dụng cả tranh ảnh lẫn từ
ngữ là rất thích hợp. Các từ ngữ cũng có thể tạo ra sự chú ý đối với những sự
thay đổi về không gian mà nó đợc nhìn bằng mặt.
2.1.2.3. Học bằng thực hành
Những ngời nông dân thờng học nghề bằng thực tế làm nông nghiệp
và quan sát những kết quả lao động của họ. Hầu hết nông dân ở các nớc công
nghiệp coi kinh nghiệm thực tế là tốt nhất và họ thờng cố gắng học hỏi, mặc
dù họ có rất nhiều cơ hội để học về phơng pháp phát triển nông nghiệp mới
bằng cách tham gia các lớp tập huấn, hoặc đọc báo chí
Khái niệm phát triển trong các chơng trình khuyến nông bao gồm
một tiến trình mà chúng ta lựa chọn giữa những kinh nghiệm cụ thể và những
khái quát hoá trìu tợng. Những khái quát hoá giúp chúng ta hiểu đợc và đặt

những kinh nghiệm cụ thể mới vào phạm vi của nó. Sau đó những kinh
nghiệm cụ thể lại giúp ta mở mang và sàng lọc những khái quát hoá của chúng
ta. Đôi khi trong khuyến nông, chúng ta có xu hớng chuyển quá nhanh từ
những kinh nghiệm cụ thể và thực tế tới những khái quát hoá trừu tợng.
Nh vậy, trên cơng vị là nhà thông tin, tuyên truyền nói chung và
ngời cán bộ khuyến nông nói riêng, nghiên cứu nhận thức của con ngời -
nông dân sẽ giúp ta biết cách sử dụng kênh thông tin nào để truyền đạt tới
ngời nông dân sao cho đơn giản và dễ dàng nhất mà ngời tiếp nhận thông
tin có thể hiểu đợc một cách nhanh chóng, đầy đủ và chính xác.
Con ngời tiếp nhận thông tin, kiến thức, kĩ thuật mới qua rất nhiều
kênh truyền khác nhau nh: tivi, đài, báo, sách vở, trao đổi với bạn bè, tham
quan, trình diễn, tập huấn Đề tài tiến hành nghiên cứu sự tác động của một
loại kênh truyền đến đội ngũ cán bộ khuyến nông và nông dân đó là: Đào tạo,
tập huấn khuyến nông. Thực chất, vai trò của đào tạo, tập huấn đến cán bộ
khuyến nông và nông dân nh thế nào?
2.1.3. Đánh giá trong khuyến nông
2.1.3.1. Vài nét cơ bản về đánh giá trong khuyến nông
Đánh giá là định một giá trị hoặc một phần xét đối với một sự vật nào
đó. Đánh giá công tác khuyến nông là đa ra những nhận xét về giá trị các
9

hoạt động khuyến nông (PGS.TS Chanoch Jacobsen, 1996) [18]. Trong các
đánh giá khuyến nông, chúng ta sẽ trả lời câu hỏi cơ bản là: Nỗ lực đã thực
hiện có xứng đáng với những gì định ra hay không? Nói cách khác chúng ta
đã thực hiện đợc các mục tiêu của chúng ta đến mức nào?
Chẳng có gì mới lạ hay bí hiểm. Trong cuộc sống thờng nhật ta luôn
luôn thực hiện đánh giá. Vào bữa ăn tối, ta nếm món súp và nói ôi, mặn quá,
đó là đánh giá. Hoặc một nông dân nhìn con bò chửa đang ăn cỏ và nghĩ
thầm: Rồi ngày nào đó nó sẽ là con bò sữa tốt đây. Đó cũng là một sự đánh
giá.

Mọi đánh giá gồm ba bớc cơ bản. Trớc tiên, nhận thông tin, song so
sánh thông tin đó với một tiêu chuẩn nào đó và cuối cùng đa ra một nhận xét
dựa trên so sánh đó. Ngay cả đánh giá nh nếm bữa súp cũng trải qua ba bớc
nh vậy. Ta thu thập thông tin bằng cách húp một thìa hoặc hơn, ứng dụng
tiêu chuẩn do ta định (theo ta, súp phải nh thế nào?) vào vị nếm trong miệng.
Sau đó nhận xét súp ngon, tồi hoặc bình thờng, ăn đợc, mặn hay quá lửa
trên cơ sở so sánh giữa bằng chứng (súp) với tiêu chuẩn.
Tuy nhiên, các đánh giá khác nhau về định lợng thu thập thông tin,
mức độ khách quan của tiêu chuẩn đã sử dụng và trình độ chính xác của các
nhận xét. Về cơ bản đó là chỗ khác biệt giữa các đánh giá hàng ngày nh
trờng hợp đĩa súp với các bảng nghiên cứu đánh giá. Đánh giá hàng ngày
nhìn chung là bộc phát, chủ quan và cũng có khi lệch lạc. Và kết quả là những
kết luận không mấy đáng tin cậy. Nghiên cứu khoa học nhằm đạt đợc độ tin
cậy bằng cách lập kế hoạch cẩn thận, dùng những tiêu chuẩn khách quan để so
sánh và bằng cách tránh lệch lạc (càng nhiều càng tốt) trong việc thu thập
thông tin và rút ra kết luận.
Không phải bất cứ đánh giá khuyến nông nào cũng phải qua nghiên
cứu mổ xẻ khoa học, nhng cũng không thể thực hiện giống nh một nhận xét
ngẫu nhiên. Có thể sử dụng nhiều mức chính xác và tinh vi khác nhau. Chẳng
hạn, nghe xong một bài nói chuyện, ta có thể đa ra một đánh giá ngay dựa
trên cảm giác của bản thân với ngời nói và dừng lại ở đó. Cũng có thể trao
đổi với những ngời nghe khác và rút ra kết luận từ các ý kiến kết hợp đó. Nếu
muốn có số liệu chính xác hơn, có thể cấu trúc một bảng câu hỏi và thu thập
10

thông tin về định lợng để thực hiện phân tích thông kê. Để đánh giá khoa học
hơn nữa, nên rút ra một mẫu đại diện, thử trớc bằng câu hỏi đó và kiểm tra
giá trị của tiêu chuẩn để so sánh.
Song, tuy có những khác biệt, tất cả các ví dụ trên đều là việc đánh
giá. Vì chúng ta không có đủ thời gian để đạt đợc độ chính xác và khoa học

cho mọi sự vật, nên tất cả chúng đã có tính sử dụng trong công tác khuyến
nông. Vả lại, ta không thể nào trình bày mọi chi tiết của một công trình đánh
giá khoa học trong một chơng ngắn. Mặt khác phải làm sao cho những đánh
giá về công tác khuyến nông đáng đợc tin cậy hơn đôi chút so với hiện nay
bằng việc lập kế hoạch cẩn thận và có hệ thống cho bất cứ công việc phải làm.
2.1.3.2. Đánh giá cái gì?
Lý do rõ rệt và đơng nhiên nhất phải thực hiện việc đánh giá bất kể ở
trình độ chính xác nào là xem có vấn đề gì đó sai, rằng có vấn đề không
những kết quả mà cả các tình trạng hoạt động cũng có thể phải đợc đánh giá
nhằm hiểu chính xác hơn tính chất của vấn đề để có thể phải làm gì trớc mắt.
Chẳng hạn, giả thiết rằng đã chuẩn bị một ngày trình diễn cho 500
nông dân trong huyện, nhng chỉ có 50 ngời đến dự. Nh vậy vẫn phải đánh
giá chơng trình và chuẩn bị cho ngày trình diễn đó. Hoặc có thể ta đã mời
chuyên gia đến nói chuyện cho một nhóm nông dân về một vấn đề trồng trọt.
Song khi giảng hóa ra anh ta nói về những nhận thức, hoạt động trên thế giới
và chủ đề hơn là vấn đề thực tiễn trớc mắt của nông dân nh đã định. Đánh
giá việc xác định các mục tiêu cho bài nói chuyện có thể giúp tìm ra nguyên
nhân của việc thất bại đó.
Tóm lại, đánh giá khuyến nông không nên chỉ giới hạn ở việc đánh giá
kết quả cuối cùng. Kết quả cuối cùng đơng nhiên là quan trọng, song các
khuyến nông viên phải tạo cho mình thói quen đánh giá có hệ thống tất cả các
giai đoạn của công việc, đặc biệt khi sự việc diễn ra không trôi chảy.
2.1.3.3. Ai phải đánh giá?
Về nguyên tắc, đánh giá khuyến nông có thể do một trong bốn thành
phần sau đây: nông dân (hoặc khách hàng), bản thân các khuyến nông viên,
những cấp trên quản lý, hoặc chuyên gia bên ngoài đánh giá. Mỗi thành phần
đó có vị trí riêng trong việc đánh giá công tác khuyến nông tùy theo mục đích
11

của việc đánh giá.

Phần lớn nông dân sau khi xem trình diễn sẽ thực hành so sánh và
đánh giá ngay một cách hoàn toàn tự nhiên cho bản thân họ. Có thể họ còn
thảo luận ý kiến của họ với gia đình, láng giềng và bạn bè. Khuyến nông viên
khi thu thập hệ thống các ý kiến đó có thể thu thập đợc các phản hồi có giá
trị về các hoạt động của bản thân. Rõ ràng là ngời dự nghe càng nói lên
nhiều ý kiến và càng có nhiều sự đồng tình trong số họ thì đánh giá càng đáng
tin cậy.
Các khuyến nông viên có nhiều cơ hội để tự mình thực hiện đánh giá.
Tổ chức những cuộc họp thành viên để xem xét những hoạt động quy mô lớn
nh ngày trình diễn chẳng hạn hay những cuộc hội thảo là những cơ hội tốt để
thu thập thông tin và đánh giá công việc khi kết quả còn mới đọng lại trong trí
nhớ. Ngoài ra khuyến nông viên còn có thể quan sát một cách hệ thống và ghi
lại những tiến bộ về mùa vụ, gia súc, bảo dỡng máy móc và những vấn đề đã
xúc tiến nếu anh ta hỏi han đều đặn các nông dân. Loại thông tin đó rất có thể
là cơ sở hoàn toàn đáng tin cậy để đánh giá chơng trình khuyến nông của anh
ta về các chủ đề đó.
Nếu các cấp trên nh giám sát viên cấp huyện hoặc các giám đốc cỡ
quốc gia chỉ đạo việc đánh giá thì luôn luôn xảy ra tình trạng các nhân viên tại
chỗ hoặc cả nông dân sợ hãi có một nguy cơ to lớn nào đó hay sẽ bị phê phán.
Và kết quả là xảy ra sự hợp tác thậm chí giấu giếm các sự kiện có tính toán để
che chở và bảo vệ những ai bị đe dọa. Vì vậy, loại đánh giá trình độ đó thờng
thiếu cơ sở tin cậy. Mặt khác, để đánh giá trình độ thực thi của nhân viên
khuyến nông nhằm huấn luyện, đề bạt, thuê mớn hoặc loại bỏ, thì việc cấp
trên trực tiếp hoặc các trợ thủ điều khiển việc đánh giá là hoàn toàn phù hợp.
Việc đánh giá các chơng trình cỡ quốc gia hay khu vực gồm nhiều
hoạt động bộ phận dân c rộng lớn, một phần lớn cán bộ và có nhiều chủ đề,
thờng tốt nhất là giao cho các chuyên gia thực hiện bằng những công trình
đánh giá. Những chuyên gia đó nên tìm trong lĩnh vực giáo dục, xã hội, tâm lý
học và công tác xã hội. Họ có đủ bí quyết cần thiết để cấu trúc những bảng
câu hỏi, kỹ thuật điều tra mẫu điển hình, phơng pháp phân tích thống kê và

suy luận để thực hiện tốt công tác. Dùng họ sẽ đạt đợc độ tin cậy lớn hơn vào
12

các kết luận. Điều khó khăn chủ yếu là những đề nghị thay đổi do các chuyên
gia ngoài ngành đề xuất, cho dù tỏ thái độ tán thành hay có logic đi nữa thì
cũng ít khi đợc các quan chức tiếp thu có thiện cảm ngay cả khi chính họ cho
phép nghiên cứu và dùng ngân sách của họ để tài trợ.
Nhìn chung, ngời đánh giá càng cố gắng đa ra kết quả đánh giá thì
càng có cơ may các kết luận đợc thực hiện đúng nh vậy và ngợc lại, nếu
những bằng chứng đánh giá bị lệch lạc và thiếu độ tin cậy. Vậy hãy tìm cách
giữ một sự cân đối giữa hai tình huống.
2.1.3.4. Lập kế hoạch đánh giá
Phần này trình bày trình tự các bớc tuân theo một cách hệ thống
trong việc lập kế hoạch nghiên cứu đánh giá. Số lợng các chi tiết sự kiện tùy
thuộc chủ yếu vào phạm vi đánh giá định sẵn. Nói chung phạm vi càng rộng,
thì càng phải cần nhiều chi tiết song với cả những đánh giá tủn mủn cũng cần
phải giành mạch và tránh tình trạng đánh giá theo lối ứng khẩu. Có năm bớc:
1. Định nội dung vấn đề:
Ta không bao giờ có đủ thời gian và t liệu để đánh giá những gì có
thể hoặc thậm chí cần phải đợc đánh giá. Vậy phải chọn lọc và thực hiện một
lựa chọn hợp lý. Hãy tự hỏi vấn đề gì cần giải quyết hoặc tạo điều kiện để giải
quyết bằng việc đánh giá này? Vấn đề nào quan trọng hơn, cấp thiết hơn các
vấn đề khác? Có thể đặt câu hỏi theo cách khác: Vấn đề nào thực sự cần đánh
giá và tại sao cần đánh giá?
Những câu trả lời cho các câu hỏi trên sẽ là lý do cơ bản để chọn từng
vấn đề cần đánh giá và vấn đề nào không cần. Ngoài ra chúng còn giúp xác
minh nỗ lực ta cần đòi hỏi hỗ trợ tài chính và hợp tác.
2. Xác định mục đích:
Sau khi chọn nội dung đánh giá, cần phải rành mạch hơn nữa. Cần biết
gì để giải quyết vấn đề đã chọn lựa? Cần những câu hỏi nào để có lời giải đáp?

Đặt câu hỏi nh thế nào để khi có câu trả lời thì có thể đa thành đầu
vào của vấn đề và đạt đợc giải pháp.
Chẳng hạn, đã quyết định đánh giá các báo cáo đã định ký gửi đến văn
phòng vùng.
13

Trớc kia vì có thể ta có thời gian để viết các báo cáo vấn đề và xem ra
chúng chẳng có gì khác nhau lắm. Nay cần đặt ra những câu hỏi nào để đợc
trả lời nhằm tìm ra giá trị các báo cáo về công tác khuyến nông? Có thể có
những ví dụ sau:
- Cái gì xảy ra khi văn phòng vùng nhận đợc các báo cáo trên?
- Ai đọc chúng và vào lúc nào?
- Những báo cáo nào đã khêu gợi phản ứng xảy ra trớc kia và những
báo cáo đó khác với những báo cáo xem ra đã bị bỏ qua ở chỗ nào?
- Khi làm các báo cáo đó, phần nào mất nhiều thời gian nhất? Khi thu
thập thông tin? Hay sắp đặt suy nghĩ lại? Hay là khi viết? Có thể cần phải
khoa học hơn nữa và đặt giả thuyết từ những câu hỏi đó. Sau đó, những giả
thuyết phải đợc đối chiếu kiểm tra với dữ liệu thu thập đợc. Chẳng hạn, với
ví dụ thứ nhất, có thể ta muốn thử nghiệm giả thuyết rằng: 50% hoặc hơn các
báo cáo đã gửi không hề đợc đọc, vậy thu thập dữ liệu để tìm chúng có là
điên rồ không?
3. Định rõ các dữ liệu:
Đến bớc này hãy tự hỏi: Cần thông tin nào để giải đáp các câu hỏi
hay thử nghiệm các giả thuyết? Hoặc là loại thông tin có thể trực tiếp quan
sát, đếm, đo đợc nh số lợng nông dân dự trình diễn hoặc năng suất mùa
màng trên mỗi ha? Hay cần thông tin trừu tợng hóa trong suy nghĩ của nông
dân nh d luận, thái độ, động cơ hoặc trình độ thỏa mãn của họ với vấn đề?
Từng câu hỏi cần loại thông tin khác nhau, vì vậy phải thu thập đủ loại
thông tin cho một nội dung đánh giá và hãy liệt kê ra cho từng câu hỏi.
Khi đã có bảng liệt kê thông tin, phải tìm cách thu thập đợc thông tin

đó. Trong một số trờng hợp, chỉ là một việc đơn giản nh đo năng suất sữa
hoặc tính toán tiêu thụ nớc cần cho một tấn nông sản. Trờng hợp khác
không có cách gì khác hơn là đi hỏi hoặc phỏng vấn yêu cầu nông dân điền
vào một bảng thăm dò. Phơng pháp này đòi hỏi nhiều kinh nghiệm hơn,
nhiều kỹ thuật phức tạp hơn. Khi cha đạt đợc kinh nghiệm thì có lẽ tốt nhất
là mời chuyên gia giúp đỡ.


14













Hình 2.2: Chu kỳ đánh giá
(Chanoch Jacobsen, 1996) [18]
Còn một phơng pháp khác để thu thập dữ liệu là dùng biện pháp kín
đáo hoặc những chỉ báo gián tiếp của những thông tin cần có. Sau đây là ví
dụ của một cán bộ điều tra xã hội học nông thôn. Anh nghiên cứu viên này
muốn tìm ra những cơ sở của tác động qua lại về mặt xã hội trong một vùng
nông thôn bang Wicsconsia - Mỹ, hồi đầu thế kỷ này. Anh ta đo vết lún bánh
xe ở các giao lộ khác nhau hồi đó cha có đờng lát cứng mặt ở khu vực

trên. Vết lún càng sâu, lu lợng giao thông qua đó càng nhiều. Đó là một
chỉ báo gián tiếp đo tần số tơng đối của giao lu giữa các trung tâm buôn
bán.
Có nhiều cách thu thập dữ liệu: Đọc vài công trình về vấn đề quan tâm
đã đăng tải để xem ngời khác xử lý vấn đề ra sao. Bằng trí tởng tợng và
thông minh ta có thể phát triển những chỉ báo khác cho báo cáo. Song khi thực
hiện phải đảm bảo tính giá trị của các chỉ báo, nghĩa là chúng thực hiện sự chỉ
ra cái mà ta muốn đo đạc chứ không phải cái gì khác.
4. Thiết kế phân tích:
Đến bớc này, đã biết rõ vấn đề của ta là vấn đề gì, câu hỏi nào cần có
trả lời, thông tin nào cần có và tìm nó ở đâu, bằng cách nào? Và đến đây, phải
định ra phơng pháp xử lý dữ liệu khi đã thu thập đợc.
Vấn đề

Mục đích

Dữ liệu

Kết quả

Phân tích

15

Điều đầu tiên phải làm là xác định tiêu chuẩn xuất phát để đánh giá dữ
liệu. Trong đánh giá công tác khuyến nông, tiêu chuẩn đó nếu là mục đích
hoặc mục tiêu hoạt động ta đang đánh giá. Chính vì thế xác định rõ và chính
xác các mục tiêu sẽ giải quyết một cách tốt đẹp. Mục tiêu đợc xác định càng
chính xác, tiêu chuẩn định ra càng rõ ràng và càng đáng tin cậy. Ngợc lại,
nếu không kịp xác định mục tiêu hoặc nếu việc xác định không đầy đủ và

nhập nhằng thì ta sẽ hoang mang. Hãy tự vấn Tôi đang làm gì đây để thực
hiện hoạt động này?. Sau đó không dễ gì đa ra đợc một câu trả lời không
lệch lạc. Vì vậy, tinh thần là các mục tiêu phải đợc xác định thận trọng trớc
khi chuẩn bị một hoạt động khuyến nông.
Thiết lập đợc tiêu chuẩn ta phải sắp xếp sao cho dữ liệu có thể dùng
để so sánh đợc nếu mục tiêu (tức tiêu chuẩn) là do nông dân trong nớc phải
thực hành trồng trọt theo đờng đồng mức thì dữ liệu phải là số nông dân, mà
không phải là - ví dụ - bằng diện tích Bao nhiêu tấc đất trồng theo đờng
đồng mức? nếu mặt khác mục 60% diện tích trồng trọt trong huyện phải
đợc trồng theo đờng đồng mức, thì dữ liệu thu đợc phải là % diện tích đất
trồng trọt hiện có trong huyện.
Hi vọng rằng với ví dụ đó đã nói rõ vì sao nên thiết kế việc phân tích
trớc khi thu thập dữ liệu. Nếu không sẽ kết thúc bằng những dữ liệu không
thể so sánh đợc với tiêu chuẩn đã định. Từ dữ liệu nh vậy, ngời ta không
thể rút ra những kết luận có giá trị về các hoạt động khuyến nông.
5. Chuẩn bị cho việc phản hồi:
Giả thiết rằng đã thực hiện các đánh giá nh đúng dự tính. T liệu đó
có thể đảm bảo cho ta các câu trả lời cho những câu hỏi đã đặt ra trong bớc
hai. Vậy đó là cái gì, đó là những câu trả lời phải đợc phản hồi vào hệ thống
để cho đầy đủ mọi thứ, nghĩa là để giúp giải quyết vấn đề trong bớc một. Rõ
ràng là phải tận dụng các kết quả, việc đó cũng phải đợc lập kế hoạch từ
trớc.
Từ đầu, đề tài đã nói về việc các quan chức rất ngần ngại khi tiếp thu
các giải pháp do chuyên gia bên ngoài hệ thống kiến nghị. Cũng nh vậy, bản
thân ta cũng ngần ngại chấp nhận những kết luận của bản thân, nếu những giải
pháp đó đề ra sự cần thiết phải thay đổi mật độ số dự án hay vấn đề ta vốn
16

nâng niu. Cũng đúng nh khi anh phải đứng trớc một vấn đề trớc khi quyết
định đánh giá. Đánh giá là đa một nhận xét, hãy nhớ nh vậy và nhận xét

không phải lúc nào cũng xuôi chiều. Ta đã chuẩn bị tinh thần cho việc tự phê
bình loại đó cha? Nếu câu hỏi gây cho ta đôi chút khó chịu, thì hãy xem khó
chịu biết bao khi đánh giá các hoạt động có thể đa lại cảm giác không thuận
lợi cho ngời khác.
Không có phơng pháp nào có đủ cơ sở chắc chắn để đảm bảo trớc
rằng những ngời liên quan sẽ sử dụng những kết quả đánh giá của ta. Song
khả năng họ sẽ thực hiện có thể đợc tăng lên mạnh mẽ nếu họ biến thành
những ngời tham gia trong toàn bộ dự án. Nói cách khác, ngời tham gia vào
việc lập kế hoạch, chuẩn bị và thực thi một chơng trình khuyến nông cũng sẽ
đợc huy động tích cực vào việc đánh giá. Tuy nhiên, nếu đợc vậy thì việc
đánh giá của ta sẽ góp phần vào cải thiện công tác khuyến nông và suy cho
cùng thì đó là toàn bộ vấn đề.
Sau đây là một đề cơng ngắn gọn ta có thể sử dụng khi lập kế hoạch
các công trình đánh giá cụ thể:
- Định nội dung vấn đề:
+ Cần đánh giá vấn đề gì?
+ Tại sao cần phải đánh giá?
- Xác định mục đích:
+ Câu hỏi nào cần đợc trả lời?
+ Để giải quyết vấn đề cần trả lời thế nào?
- Quy định dữ liệu:
+ Cần loại thông tin nào để giải đáp các câu hỏi?
+ Tìm thông tin đó ở đâu và bằng cách nào?
- Thiết kế phân tích:
+ Tiêu chuẩn nào đợc sử dụng để đánh giá?
+ Dữ liệu phải dới dạng nào để thực hiện so sánh đợc?
- Thu xếp phản hồi:
+ Kết quả sẽ đợc sử dụng ra sao?
+ Cần ai tham gia để kết luận đợc chấp nhận?
+ Mọi việc ta đã làm cho đến nay là hãy tiếp tục công việc.

17

2.1.4. Đánh giá tập huấn khuyến nông
2.1.4.1. Khái niệm
Đánh giá đào tạo, tập huấn là việc phân tích kết quả đạt đợc so với
mục tiêu đào tạo và mục tiêu học tập đã đề ra. Những thông tin cần thiết về
chất lợng cũng nh số lợng đợc thu thập một cách hệ thống, để từ đó hoàn
thiện chơng trình đào tạo với kết quả cao (Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Mạnh
Thắng, 2007) [6].
2.1.4.2. Sự cần thiết phải đánh giá đào tạo, tập huấn
Thông thờng đánh giá đào tạo, tập huấn là bớc cuối cùng trong chu
trình thiết kế đào tạo, tập huấn. Tuy nhiên, chúng ta nên lồng ghép việc đáng
giá vào trong các chơng trình đào tạo, tập huấn nhằm giúp chúng ta nắm
đợc chất lợng đào tạo, tập huấn khi nhận đợc những phản hồi.
- Những mục tiêu đạt đợc của cả học viên và giảng viên.
- Kết quả đạt đợc của các phơng pháp và tiến trình đào tạo, tập
huấn.
- Liệu chơng trình đào tạo, tập huấn có đáp ứng đợc những nhu cầu
đã đặt ra ở cấp thôn bản, tổ chức và cá nhân hay không?.
2.1.4.3. Đánh giá cái gì và khi nào
Mục tiêu của việc đánh giá là tìm hiểu sự hứng thú và hài lòng của các
học viên. Tuy nhiên, đánh giá cuối khoá học cần tập trung vào những mục tiêu
học tập cụ thể. Nói cách khác, sự hứng thú và hài lòng của học viên vẫn cha
đủ mà chúng ta phải nắm đợc sự thay đổi về mặt kiến thức, kỹ năng và quan
điểm của học viên cuối khoá học.
Chúng ta thờng đánh giá các hoạt động đào tạo, tập huấn vào cuối
chơng trình đào tạo, tập huấn. Tuy nhiên nếu muốn đạt đợc mục tiêu tổng
thể/ mục đích cuối cùng, chúng ta cũng nên đánh giá hiệu quả sau đào tạo, tập
huấn.
2.1.4.4. Các loại đánh giá trong tập huấn

Có nhiều loại đánh giá, trong phạm vi tổ chức tập huấn thì đánh giá
bao gồm các loại sau:
1. Đánh giá nhu cầu đào tạo:
Là một khâu rất quan trọng khi tổ chức các khóa tập huấn trong
18

khuyến nông, khuyến lâm. Trớc đây, theo cách tiếp cận cũ việc đánh giá nhu
cầu đào tạo không hề quan trọng trong đào tạo khuyến nông, khuyến lâm.
Ngời ta chỉ thực hiện các khóa đào tạo theo kế hoạch đã định trớc, theo
những kế hoạch chuyển giao công nghệ đã thực hiện ở đó. Hiện nay, việc đào
tạo trong khuyến nông, khuyến lâm đợc chuyển sang cách tiếp cận có sự
tham gia, nên điều tra đánh giá nhu cầu đào tạo là một bớc rất quan trọng.
Đánh giá nhu cầu đào tạo thực sự đợc coi là bớc quan trọng nhất, có
tính quyết định xem việc đào tạo có đáp ứng nhu cầu thực tế hiện nay hay
không. Đánh giá nhu cầu đào tạo là một công cụ có giá trị để biết về những
ngời tham gia trớc khi đào tạo. Nó cho ngời cán bộ đào tạo biết trớc
những thông tin về những chủ đề cần đợc thảo luận và làm thế nào để thực
hiện nó dựa vào những đặc điểm của ngời tham gia. Việc đánh giá nhu cầu
đào tạo có hiệu quả sẽ thúc đẩy việc tập huấn lấy ngời học làm trung tâm và
xây dựng những khóa học dựa trên những kiến thức và kinh nghiệm của ngời
học. Cần lu ý rằng, xác định nhu cầu đào tạo nhằm tìm ra những kiến thức và
kỹ năng mà ngời học cần chứ không phải cái mà chúng ta có thể cung cấp
cho họ. Đánh giá nhu cầu đào tạo gồm nhiều bớc với sự tham gia của nhiều
đối tợng khác nhau (ngời dạy, ngời học, ngời xây dựng chơng trình,
ngời dân, nhà tài trợ và ngời sử dụng kết quả đào tạo ).
Đánh giá nhu cầu đào tạo sẽ giúp giảng viên biết trớc đợc những gì
mà họ cần để:
- Quyết định xem đào tạo có phải là một giải pháp tốt hay không.
- Xây dựng chiến lợc đào tạo đáp ứng nhu cầu đào tạo.
- Đa ra chơng trình đào tạo lấy học viên làm trung tâm, chơng trình

này đợc xây dựng dựa trên kinh nghiệm và kiến thức của học viên.
- Lu ý lựa chọn những chủ đề thảo luận đợc học viên quan tâm,
không theo ý muốn chủ quan của giảng viên.
- Lựa chọn những biện pháp thích hợp cũng nh các phơng pháp học
phù hợp với đặc điểm của học viên.
Đánh giá nhu cầu đào tạo cũng đa ra những dữ liệu hữu ích giúp cho
việc theo dõi chặt chẽ những thay đổi, tiến bộ của mỗi học viên cũng nh toàn
bộ học viên trong và sau khóa học.
19

Đánh giá nhu cầu đào tạo đợc tiến hành để phân tích nhu cầu đào tạo
trớc khi xây dựng khóa học. Tuy nhiên, chúng ta không nên chỉ dừng lại sau
khi đã hoàn thành việc xây dựng ban đầu, mà chúng ta vẫn nên tiếp tục quy
trình này. Khi đã biết về các học viên, thì việc điều chỉnh chơng trình khóa
học bắt đầu cùng với việc đa chơng trình đào tạo ra áp dụng cho phù hợp
với đặc điểm của từng nhóm học viên cụ thể. Mong đợi của học viên dần dần
đợc đáp ứng và ở mỗi chủ đề mới cần phải khái quát lại.
Đánh giá nhu cầu đào tạo có thể là đánh giá:
- Nhu cầu cộng đồng
- Nhu cầu tổ chức
- Nhu cầu học viên
Đánh giá nhu cầu đào tạo đợc thực hiện qua nhiều bớc:














Hình 2.3: Các bớc thực hiện đánh giá nhu cầu đào tạo
(Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Mạnh Thắng, 2007) [6]
2. Đánh giá học viên:
Một câu hỏi thờng xuyên đặt ra trong quá trình tập huấn là tại sao cần
phải đánh giá học viên? Sở dĩ nh vậy là vì trong quá trình tập huấn, học viên
phải hiểu và tiếp thu đợc những kiến thức đã học. Học viên phải nắm đợc
mức độ tiến bộ của bản thân, những điểm còn hạn chế, những trở ngại và nhu
Xác định đối tợng
đào tạo và đối
tợng điều

tra

Lập kế hoạch
điều tra
Ti
ến hành

điều tra
Đánh giá,

viết báo cáo
Tổng hợp

thông tin

Sự tham gia

20

cầu của mình, khả năng tiếp thu của bản thân so với các học viên khác ở trong
lớp. Đánh giá học viên còn có tác dụng kích thích học viên học tập.
Có hai kiểu đánh giá học viên đó là:
Đánh giá nhằm mục đích đào tạo: là kiểu đánh giá đợc lồng ghép vào
quá trình học nhằm điều chỉnh công việc dạy và học. Loại đánh giá này có thể
do tập huấn viên, học viên hoặc đối tác của học viên đánh giá. Đánh giá cần
tiến hành dựa trên những điều kiện và nguyên tắc sau:
- Chỉ tiến hành trong thời gian tập huấn.
- Đánh giá nhằm giúp học viên tự đánh giá và xác định vị trí của mình
trong quá trình học.
- Không đợc chỉ trích hay phê phán học viên. Trong bất kỳ trờng
hợp nào cũng không đợc phê phán học viên hay chỉ trích học viên nếu đánh
giá của bạn nhằm vào mục đích đào tạo, ngợc lại không nên để học viên cho
rằng bạn đã biết mọi điều về họ.
Đánh giá nhằm mục đích cấp chứng chỉ: là loại đánh giá nhằm cấp
chứng chỉ, bằng hay kiểm tra kiến thức để xác nhận một trình độ mà xã hội
thừa nhận. Loại đánh giá này do tính chất quan trọng nên ngời đánh giá là
ngời có chuyên môn cao, có trách nhiệm đảm nhận nh tập huấn viên, cơ
quan cấp kinh phí, cơ quan đào tạo.
Nội dung đánh giá:
- Khối kiến thức đã có so với nhu cầu đào tạo của học viên
- Sự tiếp thu kiến thức, trình độ và khả năng áp dụng của học viên
- Sự tham gia, thái độ và mối quan hệ của học viên đối với tập huấn
viên và bạn học.
- Sự thay đổi thái độ, hành vi ứng xử, chất lợng các công việc mà học
viên làm sau khóa học.

Phơng pháp và công cụ đánh giá có thể là:
- Kiểm tra viết: là phơng pháp đánh giá dựa trên mẫu câu hỏi đã
chuẩn bị sẵn, tập huấn viên giao cho học viên trả lời bằng cách viết ra giấy
trong một thời gian cho phép. Khi hết giờ làm bài, tập huấn viên thu bài đó về
chấm và đánh giá theo thang điểm quy định.
- Kiểm tra vấn đáp: là phơng pháp đánh giá dựa trên các đối thoại
21

trao đổi, phỏng vấn, đóng vai, thuyết trình cá nhân hay nhóm giữa học viên
với tập huấn viên. Tập huấn viên nghe trình bày đánh giá và cho điểm.
- Đánh giá thực hành: là phơng pháp đánh giá dựa trên quan sát, tham
quan, hoặc kiểm tra kỹ năng thực hành của tập huấn viên đối với học viên. Sau
đó tập huấn viên có thể trao đổi, đặt câu hỏi thêm và đánh giá.
Yêu cầu của các công cụ đánh giá:
- Có đáp án và thang điểm tơng ứng làm cơ sở đánh giá kết quả.
- Đã đợc thử nghiệm trớc và có giá trị thực tiễn (chính xác, đầy đủ
và phù hợp với mục tiêu đào tạo).
- Khách quan.
- Đáng tin cậy.
3. Đánh giá phơng pháp tập huấn:
Nhằm mục đích đánh giá mức độ thành công của buổi tập huấn. Nó
cho phép xem xét và trả lời câu hỏi liệu cách tổ chức và điều khiển tập huấn
có đáp ứng đợc mục tiêu đề ra hay không, từ đó cải thiện chất lợng buổi tập
huấn lần sau hoặc điều chỉnh một số khâu trong kế hoạch tập huấn. Cụ thể là:
để xem xét kỹ năng, phơng pháp, giáo án, giáo cụ và các mục trình có phù
hợp với học viên, với mục tiêu và yêu cầu đề ra hay không.
Việc đánh giá này phải do một ngời từ bên ngoài có kinh nghiệm
đánh giá. Ngời đánh giá phải khách quan, không có định kiến với học viên và
tập huấn viên. Nội dung đánh giá phơng pháp tập huấn:
- Cách thức tiến hành: Mục tiêu của buổi tập huấn có rõ ràng không?

Diễn biến của buổi tập huấn có logic không? Nội dung có phù hợp hay không?
- Phơng pháp s phạm: Cách điều khiển tập huấn cho phép đạt mục
tiêu không? Nó có phù hợp với nội dung tập huấn và với học viên hay không?
- Năng lực của cán bộ tập huấn: Anh ta có chuyên môn hay không?
Anh ta có trình độ nghiệp vụ s phạm hay không? Có am hiểu thực tế không?
Thái độ đối với học viên nh thế nào?
- Sự tham gia của học viên: Học viên có tham gia tích cực vào bài
giảng hay không? Bầu không khí lớp học có thoải mái hay không? Động cơ
học tập của học viên thế nào?
- Giáo cụ đợc sử dụng trong tập huấn: Gồm những giáo cụ gì? Có
22

phong phú và sinh động không? Bài giảng có phù hợp không? Có rõ ràng, dễ
hiểu và trình bày đẹp hay không? Nó có giúp ích cho việc học của học viên
hay không?
- Địa điểm của phòng tập huấn: ở đâu? Có phù hợp với số lợng của
học viên hay không?
- Số ngày, thời lợng và cách bố trí thời gian: Thời lợng trong từng
ngày có tuân thủ theo lịch trình hay không? Nhiều hay ít? Sự phân bổ giữa lý
thuyết và thực hành?
4. Đánh giá tác động của tập huấn:
Khi khóa tập huấn kết thúc, đánh giá tác động của tập huấn đợc thực
hiện. Đây là loại đánh giá mang tính chất tổng hợp tất cả những đánh giá đợc
trình bày ở trên và đánh giá kết quả thu đợc từ tập huấn trên thực địa. Loại
đánh giá chủ yếu là do các cơ quan tập huấn, các nhà tài trợ, các tổ chức quản
lý và đôi khi do tập huấn viên tiến hành.
Đánh giá tác động của tập huấn nhằm trả lời các câu hỏi:
- Mục đích của buổi tập huấn và mục tiêu học tập có đạt đợc không?
- Tập huấn có phù hợp với điều kiện thực tế sản xuất của hộ nông dân
và tại địa phơng?

- Tập huấn có đáp ứng đợc nhu cầu của học viên (cán bộ khuyến
nông và nông dân) hay không?
- Có sự thay đổi hoặc cải thiện trình độ kiến thức, thực hành, thái độ,
cách c xử hay không?
Đánh giá tác động của tập huấn thờng đợc thực hiện bằng các công
việc sau:
- Đánh giá số lợng: thờng dùng các chỉ tiêu nh: Số lợng ngời
đợc tập huấn, số lợt ngời tham gia tập huấn. Số lớp tập huấn đợc tổ chức.
Số ngày tập huấn. Số lợng kỹ thuật đã sử dụng. Số bài giảng, chủ đề, mô hình
đợc tập huấn. Số giáo cụ, số lợng kinh phí đã sử dụng.
- Tổng hợp đánh giá của học viên: dựa vào các phiếu đánh giá của học
viên, tập huấn viên tổng hợp kết quả đánh giá đầu và cuối buổi tập huấn để
xác minh đợc sự tiến triển trong việc tiếp thu kiến thức của học viên (Kiến
thức, thái độ, phơng pháp, cách c xử )
23

- Tổng hợp đánh giá chất lợng của buổi tập huấn: Nội dung tập huấn,
phơng pháp tập huấn, những thay đổi của cả giảng viên và học viên.
- Tổng hợp việc theo dõi trên thực địa: Tập huấn viên cho theo dõi thực
hành của học viên trên thực địa để một mặt vừa hỗ trợ học viên, mặt khác phát
hiện những ý tởng đầu tiên mà tập huấn có tác động. Học viên có khả năng
hay không có khả năng?
- Có thể đánh giá thêm tác động của đào tạo, tập huấn đến năng suất
cây trồng, vật nuôi. Vì mục tiêu chính của công tác chuyển giao tiến bộ khoa
học - kỹ thuật không chỉ làm thay đổi kiến thức, nhận thức, hành vi, thái độ,
cách c xử của ngời nông dân mà còn tác động đến năng suất nh thế nào
hay không liên quan gì cả?
2.1.4.5. Các công cụ sử dụng trong đánh giá tập huấn
Các công cụ sử dụng trong đánh giá tập huấn rất nhiều và đa dạng.
Tùy thuộc từng loại hình tập huấn, loại hình đánh giá và đối tợng tập huấn

mà áp dụng các công cụ cho phù hợp. Bảng tổng hợp các công cụ đánh giá tập
huấn sau đây là một tham khảo có thể sử dụng trong các loại hình đánh giá tập
huấn.
Bảng 2.1: Các công cụ đánh giá tập huấn.
Các loại đánh giá
Công cụ đánh giá
Nhu cầu
tập huấn

Kiến thức
của học
viên
Phơng
pháp tập
huấn
Tác
động
của tập
huấn
Điều tra X X X
Trao đổi, đối thoại X X X
Theo dõi trên thực địa X X X
Câu hỏi mở X
Thi viết
Câu hỏi động não

X
Thi thực hành X
Cá nhân X
Thi vấn đáp


Theo nhóm X
(Nguồn: Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Mạnh Thắng, 2007) [6]
24

Ngoài ra trong tập huấn còn sử dụng một số phơng pháp đánh giá rất
nhanh, đơn giản nhng có hiệu quả. Ví dụ: Tập huấn viên sử dụng một tờ giấy
A
0
dán lên bảng rồi dùng bút chia thành các phần, ghi các nội dung cần đánh
giá nh: nội dung giảng dạy, phơng pháp giảng, tài liệu phát, công tác hậu
cần rồi yêu cầu các học viên dùng bút dạ lên đánh giá và cho điểm theo các
tiêu chí đánh giá. Sau đó tập huấn viên tổng kết lại và từ đó có những điều
chỉnh
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nớc và ngoài nớc
2.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nớc
Việc đánh giá tác động sau mỗi một khóa học tới các học viên là hết
sức cần thiết, thông qua đánh giá các nhà tổ chức, quản lý biết đợc hiệu quả
của một chơng trình, một khóa học tới các học viên tham gia. Trên cơ sở đó
để có những thay đổi sao cho hợp lý. Từ lâu trên thế giới đã có rất nhiều nhà
tổ chức, nhà nghiên cứu đánh giá tác động của các lớp đào tạo, tập huấn
khuyến nông về một lĩnh vực nhất định. Sau các lớp tập huấn cho đối tợng
tham gia mà cụ thể là cán bộ khuyến nông và nông dân, họ đã tiếp nhận đợc
những gì? Kết quả áp dụng vào thực tế sản xuất? Và ảnh hởng đến năng suất
cây trồng, vật nuôi? Từ đó có kế hoạch hành động cụ thể cho các hoạt động
tập huấn tiếp theo. ở đây đề tài xin liệt kê một số nghiên cứu của các tác giả
trên thế giới về đánh giá tác động của các lớp tập huấn cho ngời nông dân
khi áp dụng vào sản xuất.
Một báo cáo đánh giá tác động của lớp tập huấn kỹ thuật IPM đến
cách quản lý dịch hại của ngời nông dân trên cây lúa vào năm 1993 theo

chơng trình IPM quốc gia ở Indonexia cho thấy: 61% giảm việc sử dụng
thuốc trừ sâu trên cây trồng đối với ngời nông dân sau khi tham gia khóa tập
huấn, giảm 60% chi phí cho các thuốc diệt côn trùng. Qua báo cáo cũng cho
thấy, lớp tập huấn đã làm thay đổi cách quản lý dịch hại của ngời nông dân
từ việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đến cách quản lý cây trồng bằng việc
thờng xuyên quan sát, thăm nom cây trồng. (Monitoring and Evaluation
Team, 1993) [24].


×