Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

tiểu luận cao cấp chính trị thúc đẩy phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong khu vực công sự cần thiết, thách thức và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.08 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II


BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ…
MƠN: GIỚI TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

THÚC ĐẨY PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ TRONG KHU VỰC CÔNG. SỰ CẦN
THIẾT, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP. LIÊN HỆ
THỰC TIỄN TẠI CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
MỘT THÀNH VIÊN CÀ PHÊ 731

ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số
Bằng chữ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II


BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ…
MƠN: GIỚI TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ


THÚC ĐẨY PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ TRONG KHU VỰC CÔNG. SỰ CẦN
THIẾT, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP. LIÊN HỆ
THỰC TIỄN TẠI CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
MỘT THÀNH VIÊN CÀ PHÊ 731

Họ và tên học viên:
Mã học viên:
Lớp:
Hệ:
Khóa học:

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
BÌNH ĐĂNG GIỚI VÀ SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY
I.
PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
TRONG KHU VỰC CƠNG
Quan niệm về bình đẳng giới
1.1.
1.2.
1.3.
II.
2.1.
2.2.


2.3.

Bình đằng giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
Tầm quan trọng của việc thúc đẩy bình đằng giới trong khu
vực cơng
THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHỤ
NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG
KHU VỰC CÔNG
Thách thức thúc đẩy phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
trong khu vực công
Giải pháp thúc đẩy phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
trong khu vực công

1
2
2
2
2
5
7
7

9

Liên hệ Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà
phê 731

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


13
16
17


4

MỞ ĐẦU
Bình đẳng giới là một nội dung quan trọng trong thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa của nước ta. Đấu tranh cho bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ
luôn gắn với các cuộc cách mạng xã hội. Việc giải phóng phụ nữ, phát huy
tiềm năng của phụ nữ là đòi hỏi khách quan và bức thiết của sự phát triển xã
hội. Sự bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý
nói riêng sẽ tạo điều kiện khai thác và phát huy một cách có hiệu quả tài lực,
trí lực của phụ nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay. Luật Bình đẳng giới do Quốc hội nước Cộng hịa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua (năm 2006) và Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số 2351/QDTTG ngày 24/12/2010 trong đó mục tiêu thứ nhất
là: “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm
từng bước giảm dần khoảng cách giới tính trong lĩnh vực chính trị”.
Ở Việt Nam, Vị thế của phụ nữ ngày càng được nâng cao, nhất là trong
lãnh đạo, quản lý ở nước ta có xu hướng gia tăng. Tuy nhiên, so với tiềm năng
của phụ nữ và với yêu cầu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam thì sự tham gia
của phụ nữ vào lĩnh vực lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị
cịn ít về số lượng, thấp về chất lượng trong tương quan với nam giới. Do đó,
nghiên cứu vấn đề “Thúc đẩy phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong khu
vực công. Sự cần thiết, thách thức và giải pháp. Liên hệ thực tiễn tại Công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê 731” làm đề tài thu hoạch có

ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.


5

NỘI DUNG
I. BÌNH ĐĂNG GIỚI VÀ SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY PHỤ NỮ
THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG KHU VỰC CƠNG
1.1. Quan niệm về bình đẳng giới
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Bình đẳng là ngang nhau về địa vị và quyền
lợi” [6, tr. 68]. Theo đó bình đẳng là khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn,
là quyền cơ bản của con người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã nội, không
phân biệt giai cấp, dân tộc, tơn giáo, các tầng lớp dân cư, các nhóm tuổi. Tại
Điểm 3, Điều 5, Luật Bình đẳng giới nước ta năm 2006 đã khẳng định: “Bình
đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ
hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và
thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Bình đẳng giới là tình trạng khơng có sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới
tính (về quyền, trách nhiệm và cơ hội). Nhờ vậy, nừ giới và nam giới được tôn
trọng ngang nhau, được tiếp cận các nguồn lực như nhau, được thụ hưởng
thành quả như nhau, có cơ hội và điều kiện như nhau để nhận biết được các
quyền con người của mình và khả năng đóng góp của bản thân vào sự phát
triển kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội của đất nước.
1.2. Bình đằng giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự thống nhất hành động trong
cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, nhất là vai trò tích cực của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp và Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ
Việt Nam, cơng tác cán bộ nữ nói chung và sự tham gia của phụ nữ vào cấp
ủy, Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp nói riêng trong thời gian qua đã đạt
nhiều thành tựu quan trọng. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nữ trong hệ

thống chính trị các cấp tăng cả về số lượng và chất lượng.


6

Đội ngũ cán bộ, công chức nữ đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức,
khơng ngừng học tập, rèn lụn, phấn đấu nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng trong thời kỳ mới; nhiều cán bộ nữ được giao trọng trách, giữ
những cương vị lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đồn thể chính trị - xã hội, cũng như các cương vị lãnh đạo, quản
lý các cấp. Nhiều cán bộ nữ được đào tạo cơ bản, có trình độ chun mơn,
nghiệp vụ cao; nhạy bén, năng động, sáng tạo; có phẩm chất đạo đức, lối sống
tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, tuân thủ pháp luật, có trách nhiệm cao trong
cơng việc và ln hồn thành tốt nhiệm vụ được giao, điển hình như tại Đại
hội XII của Đảng, lần đầu tiên trong lịch sử của Đảng, có 3 nữ Ủy viên Bộ
Chính trị và cả 3 người đều là đại biểu Quốc hội.
Đây là minh chứng cho thấy sự ưu việt trong sự nghiệp giải phóng phụ
nữ, giải phóng con người của Đảng, Nhà nước ta và cũng cho thấy sự vươn lên
của phụ nữ Việt Nam, đưa vị thế phụ nữ Việt Nam tham gia Quốc hội đứng thứ 2
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đứng thứ 6 ở châu Á, vượt qua mức trung
bình là 19% của các nước châu Á và 21% của thế giới [3, tr.28].
Đánh giá cao vai trò của phụ nữ cũng như việc thực hiện bình đẳng giới,
Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết như Nghị quyết số 04-NQ/TW,
ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị khóa VII về đổi mới và tăng cường công tác
vận động phụ nữ trong tình hình mới; Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày
27/4/2007 của Bộ Chính trị khóa X về cơng tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày
20/1/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình
hình mới… đến việc cụ thể hóa bằng chính sách của Nhà nước như: Luật
Bình đẳng giới (2006); Nghị định số 56/2012/NĐ-CP, ngày 16/7/2012 của

Chính phủ quy định trách nhiệm của Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp


7

trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia
quản lý nhà nước, hay mới đây vào ngày 03/3/2021, Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết số 28/NQ-CP về Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2021 - 2030…
Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết nêu trên, thời gian qua vấn đề bình
đẳng giới và công tác phụ nữ của nước ta thời gian qua đã đạt được những
thành tựu to lớn. Các tầng lớp phụ nữ đã phát huy truyền thống đoàn kết, sáng
tạo trong học tập, lao động và công tác, đạt nhiều thành tích xuất sắc trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng, góp phần
quan trọng xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, tham gia
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội của đất nước. Nhận thức xã
hội về bình đẳng giới được nâng lên, phụ nữ được tơn trọng và bình đẳng hơn,
địa vị của người phụ nữ trong xã hội và gia đình ngày càng được cải thiện.
Bình đẳng giới của Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong
thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ.
Vì vậy, để phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị
phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng
Việt Nam trong thời kỳ mới Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII
tiếp tục khẳng định: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần
làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ
Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương trình
phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ có hồn cảnh khó

khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hồn thiện và thực hiện tốt
luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới. Kiên


8

quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua
bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em” [3, tr.182].
1.3. Tầm quan trọng của việc thúc đẩy bình đằng giới
trong khu vực cơng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nói phụ nữ là nói
phân nửa xã hội. Nếu khơng giải phóng phụ nữ thì khơng giải phóng một nửa
lồi người. Nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ
một nửa” [5, tr,125]. Vì vậy, sự nghiệp giải phóng phụ nữ khơng chỉ là cơng
việc riêng của phụ nữ mà gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
Bình đẳng giới là một mục tiêu quan trọng cần hướng đến không chỉ của
Việt Nam, mà của các nước trên thế giới, là một trong những tiêu chí đánh giá
sự phát triển của một xã hội. Theo quan niệm của Liên hợp quốc, bình đẳng
giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới được hưởng những điều kiện như nhau để
thực hiện đầy đủ quyền con người, có cơ hội đóng góp cũng như thụ hưởng
những thành quả phát triển của quốc gia trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa. Nhiều năm qua, chính phủ nhiều nước trên thế giới đã nỗ lực để
mang lại bình đẳng giới cho con người, để con người thật sự được sống trong
một xã hội văn minh, phát triển bền vững, nhân văn. Và, Việt Nam là một
trong số các nước có nhiều thành tựu về thực hiện bình đẳng giới đã được ghi
nhận, như: xây dựng và ban hành văn bản pháp quy thể hiện nguyên tắc về
bình đẳng giới, là một trong các quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất
trong vịng 20 năm qua, đã hồn thành trước thời hạn mục tiêu bình đẳng nam
nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ (đây là một trong các Mục tiêu Thiên niên

kỷ mà chúng ta phấn đấu đạt tới); Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nữ
đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước trên thế
giới và thứ 2 trong ASEAN); là nước dẫn đầu khu vực châu Á - Thái Bình


9

Dương về các chỉ số bình đẳng giới thơng qua việc cung cấp các dịch vụ y tế,
giáo dục tới trẻ em gái, trẻ em trai, phụ nữ, nam giới, tỷ lệ mù chữ của nữ giới
so với nam giới ngày càng giảm… Đây là những con số rất có ý nghĩa, bởi việc
thực hiện bình đẳng giới sẽ giúp mang lại các nguồn lợi lớn cho sự phát triền
bền vững của mỗi quốc gia. Về điều này, bà Tôn Nữ Thị Ninh, Phó Chủ tịch
Ủy ban Hịa bình Việt Nam, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Liên hiệp châu Âu
(EU) đã đưa ra một quan điểm đúng đắn về bình đẳng giới rằng, bình đẳng giới
khơng đơn thuần là quyền lợi của chị em, mà chính là quyền lợi chung của một
đất nước muốn phát triển bền vững. Bởi, nếu một đất nước chỉ sử dụng một
nửa dân số, không phát huy được đầy đủ và tối đa năng lực của mọi người, của
mọi công dân bất kể nam hay nữ thì thật là điều đáng tiếc [1, tr208].
Bình đẳng giới là một trong các yếu tố để xác định một xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Thực hiện bình đẳng giới tạo điều kiện cho phụ nữ được
tham gia cơng tác quản lý, hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Chiến
lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 coi việc nâng cao quyền
năng chính trị cho phụ nữ là mục tiêu hàng đầu. Với mục tiêu này Chiến lược
Quốc gia về bình đẳng giới. Phấn đấu đạt chỉ tiêu tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy
Đảng đến năm 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp phấn đấu đến năm 2021 trên 35% [4, tr.92].
Không thể phủ nhận trong xã hội hiện đại, định kiến về giới vẫn còn
nhưng chỉ là trong tư tưởng của một số ít người dân. Sự bình đẳng giới, vai
trị cân bằng giữa nam và nữ đã được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực. Trong
lĩnh vực chính trị, khơng chỉ tăng lên về số lượng mà chất lượng phụ nữ tham

gia cũng được tăng lên về trình độ và năng lực quản lý. Rất nhiều phụ nữ đã
trở thành các nhà lãnh đạo, quản lý, nắm giữ những vị trí chủ chốt tại các cơ
quan mà mình tham gia. Với những tính cách ưu việt của người phụ nữ Việt
Nam, rất nhiều người trong số họ đã trở thành những nhà lãnh đạo xuất sắc.


10

Thực tế đó đã khẳng định sự hịa nhập của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo
xã hội và các hệ thống khác trong đời sống đang trở nên cần thiết; các phẩm
chất của phụ nữ đang mở rộng từ gia đình đến xã hội. Những biến đổi cần
thiết này giúp tăng cường vai trò của phụ nữ trong một thế giới đầy biến động,
cũng như phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong
phát huy vai trò, tiềm năng của phụ nữ trong điều kiện mới. Qua đó thấy được
tầm quan trọng của việc thúc đẩy bình đằng giới trong lãnh đạo, quản lý ở
Việt Nam hiện nay.
II. THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHỤ NỮ THAM
GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG KHU VỰC CÔNG
2.1. Thách thức thúc đẩy phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong
khu vực công
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, khung thể chế, chính
sách về bình đẳng giới trong chế độ cơng vụ, cơng chức ở Việt Nam vẫn còn
những hạn chế nhất định. Cụ thể là:
Thứ nhất, những hạn chế trong thể chế về bình đẳng giới. Hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về giới, lồng ghép giới và các văn bản liên quan vẫn
cịn chung chung, chưa có các tiêu chí cụ thể để xác định vấn đề giới, lồng
ghép giới. Chưa có chế tài cụ thể đối với các cơ quan khơng thực hiện đầy đủ
các quy định về bình đẳng giới trong tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức,
viên chức. Các quy định về bình đẳng giới thường mang tính định hướng,
khuyến khích nhiều hơn là những ràng buộc, những quy định bắt buộc phải

thực hiện.
Quy định về bình đẳng giới trong Luật Cán bộ, công chức vẫn thiên về
định tính, thiếu định lượng. Từ đó, tạo ra sự nhận thức và cách hiểu chưa


11

thống nhất về vấn đề bình đẳng giới trong quá trình thực hiện xây dựng đội
ngũ cơng chức, tỷ lệ và cơ cấu giữa nam và nữ chưa được bảo đảm, việc
thống kê các chỉ tiêu liên quan nam, nữ cán bộ, công chức thường chưa được
chú ý đúng mức. Quy định về bình đẳng giới chưa phân biệt biện pháp thúc
đẩy bình đẳng giới với chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ.
Thứ hai, hạn chế trong việc thực thi chính sách, pháp luật về vấn đề giới
trong quản lý cán bộ, cơng chức. Việc thực thi chính sách bình đẳng giới chưa
đáp ứng yêu cầu về bình đẳng giới, lồng ghép giới trong quản lý cán bộ, cơng
chức. Sự thiếu vắng các cơng cụ đảm bảo chính sách, pháp luật về giới trong
đời sống chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến cơ hội tham chính của phụ nữ trong
hệ thống chính trị các cấp hiện nay. Vì vậy, để thúc đẩy phụ nữ tham gia lãnh
đạo, quản lý, cần bổ sung những chế tài đảm bảo qùn tham chính của phụ
nữ. Chưa có sự đồng bộ, thống nhất về quyết tâm chính trị của cấp ủy đảng và
chính quyền địa phương với nhận thức của cộng đồng về tăng cường tham gia
lãnh đạo, quản lý của phụ nữ, nhất là đối với lãnh đạo cấp chiến lược.
Các quy định về nội dung mang tính bình đẳng, nhưng khi thực hiện có
sự khác biệt về kết quả giữa nam và nữ. Tồn tại khoảng trống giữa quy định
với thực thi chính sách quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ nữ. Trong Văn kiện Đại
hội Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định cần phải “làm
tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc
thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến
lược”. Tuy nhiên, Văn kiện Đại hội Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng đánh giá công tác quy hoạch ở một số nơi vẫn cịn khép kín, chưa

bảo đảm sự liên thơng, gắn kết. Tỉ lệ cán bộ lãnh đạo và cấp ủy là người dân
tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, việc luân chuyển bố trí một số chức danh
cán bộ lãnh đạo không là người địa phương thực hiện chưa đạt yêu cầu.


12

Từ thực tế trên cho thấy được tầm quan trọng của việc thúc đẩy bình
đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Điều
đó xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề bình đẳng giới trong sự phát triển
của đất nước, đồng thời điều đó cũng xuất phát từ chính thực trạng vấn đề
bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Trong xu thế mở cửa, hội nhập vấn đề
bình đẳng giới càng trở nên quan trọng, thực tốt bình đẳng giới sẽ là động lực
cho phát triển đất nước, đưa nước ta tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
2.2. Giải pháp thúc đẩy phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong
khu vực cơng
Một là, hồn thiện chính sách, pháp luật về vấn đề giới trong lãnh
đạo, quản lý.
Các cơ quan Đảng và Nhà nước, các bộ, ngành và địa phương cần rà
soát để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật
từ góc độ giới. Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tư pháp cần rà sốt chính sách của
Đảng và pháp luật có liên quan đến độ tuổi quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề
bạt, bổ nhiệm để thống kê tất cả các quy định khác nhau về độ tuổi giữa nam
và nữ đang tồn tại trong các văn bản hiện nay, gồm nội dung quy định, cơ
quan ban hành, năm ban hành, hiệu lực thi hành, đối tượng thực hiện...
Trong quá trình xây dựng và ban hành chính sách, các cơ quan chức
năng cần tiến hành điều tra, khảo sát để đánh giá nhu cầu của các bên liên
quan để có sự phân nhóm xã hội trong khung chính sách nhằm vừa đảm bảo
được quyền lợi cho các bên liên quan vừa thu hút được nguồn nhân lực chất
lượng cao vào quá trình lãnh đạo, quản lý. So sánh với nhóm nam giới, phụ

nữ dẫu có năng lực nhưng với thiên chức làm vợ, làm mẹ của mình đã bị gián
đoạn những thời gian nhất định nên nếu khung chính sách quy định tuổi quy


13

hoạch, đào tạo, bổ nhiệm thấp hơn so với nam giới thì đó là chưa bình đẳng
đối với phụ nữ.
Cần quy định rõ về bình đẳng giới trong nền cơng vụ. Đó là sự bình đẳng
về cơ hội, bình đẳng trong đánh giá, trong đóng góp và thụ hưởng những đóng
góp trong hoạt động cơng vụ. Việc bảo đảm bình đẳng không chỉ đơn thuần về
cơ hội hay trong tiếp cận, mà yêu cầu phải bình đẳng thực sự về kết quả.
Tăng cường tiếng nói, sự tham gia của nữ cán bộ cấp chiến lược trong việc tạo
lập thể chế, chính sách về cơng vụ nhằm bảo đảm bình đẳng giới trong pháp luật
thực định và trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.
Nâng cao chất lượng báo cáo đánh giá tác động, báo cáo thẩm định văn
bản quy phạm pháp luật về khía cạnh bình đẳng giới, lồng ghép giới. Việc
thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật cũng cần bổ sung khía cạnh về
bình đẳng giới nếu văn bản dự kiến sẽ tác động đến nam giới và nữ giới. Thực
hiện nghiêm túc việc kiểm tra, thanh tra, giám sát quy trình xây dựng, soạn
thảo thông qua các dự án văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo lồng ghép
vấn đề bình đẳng giới. Kiên quyết khơng thẩm định, thẩm tra và thơng qua
nếu khơng có báo cáo đánh giá hoặc làm hình thức, sơ sài vấn đề lồng ghép
bình đẳng giới.
Khung pháp lý và chính sách bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý khu
vực công cần đảm bảo những yêu cầu như: đưa chỉ tiêu/tỷ lệ về sự tham gia
của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý vào quá trình hoạch định và thực thi chính
sách; điều chỉnh quy định tuổi quy hoạch, bổ nhiệm lãnh đạo, quản lý, tuổi
nghỉ hưu một cách linh hoạt phù hợp với từng nhóm ngành nghề, lĩnh vực
hoạt động tổng kết, đánh giá thường xuyên, định kỳ về quá trình triển khai và

thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới trong chính trị.


14

Hai là, tăng cường thực thi chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm bình
đẳng giới trong lãnh đại, quản lý.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả chiến lược truyền thông về thực thi
quyền tham chính của phụ nữ. Giáo dục, tuyên truyền và vận động, trước hết
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là người đứng đầu về
bình đẳng giới và xác định cơ hội học tập của cán bộ nữ là quyền cơ bản mà họ
được hưởng. Công tác truyền thông phải làm nâng cao nhận thức của nam cán
bộ, công chức, những người chồng của nữ cán bộ, công chức và người dân về
hình ảnh lãnh đạo của người phụ nữ, từ đó làm thay đổi hành vi của cử tri khi
đi bầu cử. Cần thay đổi các hình ảnh truyền thống bằng hình ảnh phụ nữ tự tin,
bản lĩnh, phụ nữ thành đạt trong khoa học, chính trị và có thể chinh phục những
vị trí cao trong xã hội và tạo ra những thành quả trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Các cơ quan, ban, ngành, địa phương cần chú trọng công tác quy hoạch
đội ngũ cán bộ nữ làm công tác lãnh đạo, quản lý. Các nghiên cứu đã chỉ rõ
rằng, tỷ lệ tham gia hoạt động chính trị của phụ nữ vừa thiếu về số lượng, vừa
hạn chế về vị trí đảm nhận. Trình độ chun mơn, lý luận chính trị và sự trải
nghiệm của phụ nữ qua thực tiễn còn khiêm tốn khi so sánh với nam giới. Bởi
vậy, để phụ nữ có đủ điều kiện tham gia vào lãnh đạo, quản lý thì cần xem
đây là công việc quan trọng và thường xuyên của Đảng và Nhà nước, đặc biệt
ở cấp cơ sở để tránh sự thiếu hụt về số lượng cán bộ nữ.
Công tác tạo nguồn cán bộ nữ cũng cần được quan tâm nhằm đảm bảo
không thiếu hụt cán bộ nữ khi được quy hoạch ở chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Để thực hiện điều này, lãnh đạo các cấp đặc biệt chú ý tới việc tạo điều kiện,
cơ hội cho phụ nữ tham gia vào các khố đào tạo về lý luận chính trị, quản lý



15

nhà nước và kiến thức chuyên môn cũng như việc tham gia hoạt động xã hội.
Bởi vì đầu tư giáo dục cho phụ nữ là một trong những loại hình đầu tư đem lại
nhiều lợi ích nhất cho một quốc gia.
Cần có cơ chế đảm bảo phụ nữ là chủ thể của qùn chính trị chứ
khơng phải là khách thể của quyền. Từ trước đến nay, chúng ta thường nhấn
mạnh đến trao quyền cho phụ nữ mà không thấy rằng điều này đồng nghĩa với
việc xem phụ nữ là khách thể của quyền chứ không phải là chủ thể. Chủ thể
của qùn là người phụ nữ phải biết mình có qùn và tự địi hỏi lấy qùn
đó, sử dụng các qùn có được để thực hiện mục đích của họ. Quyền chính trị
là một trong những quyền cơ bản của phụ nữ được quy định cụ thể ở Cơng
ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) và pháp luật
Việt Nam. Mặc dù vậy, quyền chính trị bị hạn chế rất nhiều bởi nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan chi phối; nhận thức và hành vi trao quyền cho phụ nữ
với tư cách phụ nữ là khách thể quyền đã khiến cho họ không thực hiện một
cách trọn vẹn.
Ba là, tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, đánh giá việc tuân thủ
pháp luật về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý.
Giám sát về thực hiện pháp luật bình đẳng giới cần được đưa vào
chương trình giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Theo
những địa bàn, ngành, lĩnh vực cơng tác cụ thể, vấn đề giám sát bình đẳng
giới cần xây dựng thành giám sát chuyên đề để nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của các cơ quan trong việc bảo đảm thực hiện bình đẳng giới trong
quản lý cán bộ, cơng chức. Bên cạnh đó, cần tăng cường vai trị giám sát của
các đồn thể chính trị - xã hội, đặc biệt là vai trò của tổ chức Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam các cấp trong việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.



16

Các cơ quan nhà nước cần tổ chức các hoạt động kiểm tra thực hiện
pháp luật về bình đẳng giới. Cần nhận thức rằng việc bảo đảm thực hiện bình
đẳng giới trong quản lý cán bộ, công chức không chỉ có ý nghĩa tích cực đối
nam giới hay nữ giới, mà cịn có tác động tích cực đối với nền công vụ. Hoạt
động giám sát, kiểm tra thực hiện pháp luật về bình đẳng giới cần phải đa
dạng hóa về hình thức và phương thức, khơng chỉ dừng lại ở việc nghe các
báo cáo đánh giá về bình đẳng giới mà cần phải tăng cường sự trao đổi, đối
thoại với cán bộ, công chức nam và công chức nữ; từ những ý kiến của cán
bộ, cơng chức có thể nhận ra mức độ tồn tại của các định kiến giới, mức độ
nhận thức về sự cần thiết về bình đẳng giới trong quản lý cán bộ, công chức
và khả năng tổ chức thực hiện các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới trong
quản lý cán bộ, cơng chức.
Cần có chính sách biểu dương, khen thưởng kịp thời những cá nhân, tổ
chức có đóng góp cho những vấn đề cần được giải quyết, nhưng chưa được
quan tâm và có áp dụng hệ thống thi đua, khen thưởng đối với những cơ quan,
tổ chức thực hiện tốt chính sách cũng như cơng tác bộ nữ. Các giải pháp này
được gợi mở xuất phát từ thực tiễn chưa có cơ chế khuyến khích các cơ quan,
tổ chức thực thi tốt chủ trương bình đẳng giới trong quản lý cán bộ, công chức
cũng như chế tài đối với những trường hợp thiếu sự quan tâm hay sai sót
trong việc thực thi các chính sách liên quan đến giới và bình đẳng giới.
Do đó, cần xây dựng quy chế khen thưởng và xử phạt một cách
nghiêm túc đối với cá nhân, tổ chức thực hiện tốt chính sách, pháp luật về
bình đẳng giới. Đồng thời, xử lý kịp thời những cá nhân, tổ chức có biểu hiện
định kiến giới đối với phụ nữ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và
bổ nhiệm để góp phần tăng cường bình đẳng giới trong nền cơng vụ.



17

2.3. Liên hệ Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên cà phê 731
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê 731 là doanh nghiệp
Nhà Nước trực thuộc Tổng Công ty cà phê Việt Nam; địa bàn Công ty nằm trên
khu vực thị trấn Đăk Hà và xã Hà Mòn, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum. Tổng số
cán bộ cơng nhân, lao động trong tồn Cơng ty là 252 người, trong đó lao động
nữ: 100 người; lao động là người dân tộc thiểu số: 03 người.
Về cơ cấu tổ chức của Công ty bao gồm: Ban Giám đốc; 03 phòng chức
năng; Cơ quan; 04 đội SX; các tổ chức chính trị và chính trị - xã hội, bao
gồm: Đảng bộ công ty gồm Ban chấp hành Đảng ủy, Uỷ ban kiểm tra Đảng
ủy và 05 chi bộ trực thuộc; Cơng đồn Cơ sở; Đồn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh cơ sở; Hội Cựu chiến binh Cơng ty; Ban nữ công Công ty.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tổng Công ty cà phê Việt Nam,
Huyện ủy Đăk Hà, Ban chấp hành Đảng bộ, Ban Giám đốc Cơng ty đã tích
cực lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh; ổn định đời sống, việc làm, thực hiện tốt các chế độ chính sách
cho cán bộ, đảng viên, công nhân, người lao động; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
quy định của Nhà nước; làm tốt công tác dân chủ tại cơ sở; tích cực tham gia
cơng tác an sinh xã hội trong doanh nghiệp cũng như địa phương nơi đóng
chân. Qua đó từ 2015 tới nay, Đảng bộ công ty luôn được Huyện ủy đánh giá
đạt trong sạch vững mạnh, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ, trong đó 03 năm
liên tục từ 2018-2020 Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu; các đoàn
thể đều đạt hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; đời sống cán bộ, công nhân người
lao động ổn định, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ Tổng Công ty,
Đảng bộ huyện Đăk Hà và của Đảng bộ Công ty, sự quản lý điều hành của
Ban giám đốc Công ty; chấp hành tốt các quy định của Nhà nước, của Công
ty và quy định của địa phương nơi cư trú.



18

Những năm qua, cấp ủy Đảng Cơng ty có những quan điểm, chủ trương
đúng đắn về phụ nữ tham chính, có nhiều giải pháp xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ can bộ nữ của Cơng ty. Nhìn chung số lượng, chất lượng đội
ngũ cán bộ nữ Công ty đã cơ bản đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ. Đội
ngũ cán bộ nữ tham gia công tác quản lý, lãnh đạo phát huy tốt vai trò và khả
năng của mình, khơng ngừng nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý, điều hành,
góp phần quan trọng vào sự đổi mới hoạt động của Công ty.
Đa phần đội ngũ cán bộ nữ Công ty đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
đặt ra, có tinh thần trách nhiệm trong cơng việc, giữ vững đạo đức, phẩm chất
cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và chấp hành sự phân công của tổ chức,
có lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với người lao động Cơng ty.
Đội ngũ cán bộ nữ Công ty đã luôn gương mẫu, tu dưỡng và rèn luyện
đạo đức, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó. Họ là những người đã ln
nỗ lực học tập, trau dồi tri thức, kỹ năng, nghiệp vụ và luôn vì Cơng ty mà hết
lịng, hết sức hồn thành tốt mọi nhiệm vụ. Họ luôn tu dưỡng đạo đức, sống
cần, kiệm, liêm, chính, làm việc chí cơng vơ tư; khơng công thần, không lo
kèn cựa chế độ đãi ngộ; không quan liêu, kiêu ngạo; ln gắn bó mật thiết với
người lao động Công ty; luôn nghiêm khắc, thường xuyên tự phê bình và phê
bình... để ngày càng tiến bộ.
Đội ngũ cán bộ nữ V Cơng ty có sự tự giác, tích cực trong học tập, rèn
lụn và có sự chuyển biến tốt về phong cách lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị. Trong những năm qua, nhất
là từ khi thực hiện “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”, Cơng ty đã quan tâm nhiều hơn cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng, phẩm chất đạo đức lối sống, ý thức tự giác, tích cực trong học tập, rèn
luyện và tự bồi dưỡng phong cách cho đội ngũ cán bộ nữ, đồng thời luôn tạo
điều kiện thuận lợi cho họ tự học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực,



19

làm theo tấm gương của Người để càng phát triển và hoàn thiện hơn về phong
cách. Bản thân từng cán bộ nữu trong Công ty cũng chủ động xây dựng kế
hoạch, sắp xếp thời gian hợp lý, vượt qua khó khăn,… để tự học tập, bồi dưỡng
nâng cao phẩm chất, năng lực, xây dựng phương pháp, tác phong làm việc
khoa học, năng động sáng tạo, nói đi đơi với làm, làm việc có trách nhiệm với
tập thể Cơng ty… những điều này là nền tảng vững chắc để tạo nên một phong
cách lãnh đạo tốt, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.


20

KẾT LUẬN
Bình đẳng giới vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
của xã hội; thể hiện trình độ giải phóng phụ nữ và là thước đo của sự tiến bộ
xã hội. Kế thừa và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới, Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra những chính sách, pháp luật để thực hiện bình đẳng giới trên
thực tế. Thực hiện tốt bình đẳng giới là cơ sở để phát huy vai trò của người
phụ nữ trong mọi điều kiện hoàn cảnh, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta ln quan tâm đến vấn
đề bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý, phát huy được vai trò của người
phụ nữ trong hoạt động chính trị - xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số
bất cập trong thực hiện bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý. Để thực hiện
tốt hơn nữa bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý hiện nay cần quán triệt và
thực hiện tốt các phương hướng, giải pháp và đặc biệt phải bám sát vào cơ sở

chính trị, pháp lý. Thực tiễn thực hiện bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý là
q trình lâu dài, phức tạp địi hỏi phải có sự sáng tạo trong vận dụng các giải
pháp, đồng thời cần có sự tổng kết, bổ sung các biện pháp cho phù hợp.


21

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Anh (2018), Vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ
sở trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
2. Kim Dung (lược dịch) (2015), “Vấn đề giới trong các báo cáo thực
hiện và phát triển mục tiêu thiên niên kỷ”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 6.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn
q́c lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Đức Hạt (Chủ biên) (2017), Nâng cao năng lực lãnh đạo
của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011.
6. Viện ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.



×