Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN phát triển nguồn tài nguyên trí lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở tổng công ty CN xi măng việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.04 KB, 17 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
PHÁT TRIỂN NGUỒN TÀI NGUYÊN TRÍ LỰC PHỤC VỤ
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA GẮN VỚI PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở
TỔNG CÔNG TY CN XI MĂNG VIỆT NAM - THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
PHÁT TRIỂN NGUỒN TÀI NGUYÊN TRÍ LỰC
I.
PHỤC VỤ CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA
Vai trị của nguồn tài ngun trí lực trong sự nghiệp cơng
1.1.
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
Tính tất yếu khách quan phải phát triển nguồn tài ngun trí
1.2.
lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
Quan điểm của Đảng ta về phát triển nguồn tài nguyên trí lực


1.3.
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
PHÁT TRIỂN NGUỒN TÀI NGUN TRÍ LỰC
PHỤC VỤ CƠNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
II.
GẮN VỚI PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO Ở TỔNG CÔNG TY CN XI MĂNG
VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
2.1.
Tổng công ty CN xi măng Việt Nam
Giải pháp triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Tổng công
2.2.
ty CN xi măng Việt Nam
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
3
5

8

8
12
14
15



MỞ ĐẦU
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường cơ bản và duy nhất để phát
triển nền kinh tế - xã hội đối với bất cứ quốc gia nào, nhất là các nước chậm và
đang phát triển. Chỉ có cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa mới có thể rút ngắn được
thời gian phát triển kinh tế - xã hội so với những nước “đi trước”. Và nước ta
không phải là ngoại lệ.
Trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nguồn nhân lực (xét ở
phạm vi lực lượng lao động gồm những người từ 15 tuổi trở lên đang làm việc
trong nền kinh tế quốc dân và những người trong độ tuổi lao động đang thất
nghiệp) - với tư cách là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội, chính là yếu tố
quyết định quan trọng nhất, là động lực cơ bản nhất.
Đề cập tới vai trò của nguồn nhân lực, Mác và Ăngghen đã từng chỉ ra
rằng, “muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên đến mức độ cao mà
chỉ có phương tiện cơ giới và hóa học phù trợ thì khơng đủ, mà cịn cần phải
phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương
tiện đó nữa” [1, tr.271]. Người nông dân và người công nhân, sau khi được thu
hút vào đại cơng nghiệp, đã thay đổi tồn bộ lối sống của họ và bản thân họ đã
trở thành những con người hoàn toàn khác hẳn. Trong xã hội tương lai cũng vậy,
việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển
mới của nền sản xuất do việc đó mang lại, sẽ cần đến những con người hoàn
toàn mới và sẽ tạo nên những con người mới. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Phát
triển nguồn tài nguyên trí lực phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Tổng công ty CN xi măng Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.

3



NỘI DUNG
I. PHÁT TRIỂN NGUỒN TÀI NGUYÊN TRÍ LỰC PHỤC VỤ
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA
1.1. Vai trị của nguồn tài ngun trí lực trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước
Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo quan điểm của Đảng ta xác định cơng
nghiệp hóa là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ cơng là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng khoa học công nghệ
tiên tiến hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Cơng nghiệp hóa ở nước ta có đặc điểm phải gắn liền với hiện đại hóa bởi
vì cuộc cách mạng khoa học hiện đại đã và đang diễn ra một số nước phát triển
bắt đầu nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Do đó chúng ta cần
phải tranh thủ ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, tiếp cận với
nền kinh tế tri thức để hiện đại hóa những ngành, những khâu những lĩnh vực có
điều kiện nhảy vọt.
Ở nước ta cơng nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội; tăng cường sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc. Mục tiêu tổng
qt của sự nghiệp cơng nghiệp hóa của nước ta được Đảng cộng sản Việt Nam
xác định tại Đại hội lần thức VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX.
Vai trò của nguồn tài ngun trí lực lực đối với q trình cơng nghiệp hóa
- hiện đại hóa đất nước. Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là con đường duy nhất
để phát triển nền kinh tế - xã hội đối với bất cứ quốc gia nào nhất là các nước
chậm phát triển và đang phát triển. Trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa, con người - nguồn nhân lực với tư cách là lực lượng sản xuất hàng đầu của
xã hội. Chính là yếu tố quyết định nhất, động lực cơ bản nhất. Đảng ta xác định
nhân tố con người chính xác là vốn con người, vốn nhân lực bao gồm cả sức lao
động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc là vốn quý nhất, quyết

định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện
4


đại hóa đất nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì thế giải phóng tiềm năng con
người, để phát huy tối đa nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa là một trong những quan điểm đổi mới có tính đột phá trong đường lối
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Con người Việt
Nam trong giai đoạn cách mạng đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 - Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII xác định xây dựng với những đức tính
“Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng suất
cao. Vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội, thường xuyên học tập,
nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình độ thẩm mỹ và thể lực”.
1.2. Tính tất yếu khách quan phải phát triển nguồn tài ngun trí lực
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
Một là, yêu cầu ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội từ điều kiện một nền kinh tế thấp kém, chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Dù miền Bắc đã có hơn 50 năm và cả
nước đã có trên 30 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng một phần lớn thời
gian vẫn là tình trạng “một chủ nghĩa xã hội thời chiến”. Bên cạnh thành tựu to
lớn phục vụ cho công cuộc kháng chiến và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật thì chúng ta cũng mắc phải những khuyết điểm nghiêm trọng trong tổ chức
quản lý, những năm 80 lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sau 20
năm đổi mới nền kinh tế đã có những thay đổi quan trọng, đã tương đối ổn định
và phát triển tạo nên thế và lực mới của cách mạng nước ta, nâng cao vị thế
nước ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên, trình độ lực lượng sản xuất kém phát
triển đang còn là cản trở chủ yếu của việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa mà quan hệ sản xuất này vốn mang bản chất xây dựng hoá nền sản xuất xã
hội. Người lao động yếu tố động nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất

vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo của ta còn thấp chủ yếu vẫn là lao động giản
đơn. Thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề và lành nghề cao; chưa có tác phong
cơng nghiệp, cơ cấu cấp trình độ chun mơn kỹ thuật của lao động qua đào tạo
5


còn bất hợp lý. Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cịn nhiều yếu kém, chương
trình học khơng phù hợp với thực tế của thị trường lao động. Sinh viên học thụ
động, thiếu tính sáng tạo. Các trường đào tạo nghề sử dụng các máy móc đã lỗi
thời, lạc hậu mà thực tế đã khơng cịn sử dụng….
Chất lượng thì đã vậy, lại kết hợp thêm việc phân bổ, sử dụng nguồn nhân
lực bất cập, thiếu đồng bộ càng tăng thêm mâu thuẫn về cung cầu nguồn nhân
lực cả về số lượng và chất lượng ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa thừa
lao động giản đơn nhưng lại thiếu nghiêm trọng lao động có trình độ, gây rất
nhiều khó khăn cho việc phát triển về nhiều mặt ở vùng này. Những nơi cần thì
khơng có, cịn những nơi đã có nhiều rồi như ở các thành phố lớn thì lại càng
nhiều thêm gây ra một sự lãng phí rất lớn cho xã hội. Trước thực trạng đó việc
phát triển và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả cao là một vấn đề bức thiết.
Nguồn nhân lực chính là yếu tố quyết định thành công của công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nhất là trong thời đại của khoa học công nghệ hiện nay.
Hai là, phát triển nguồn tài nguyên trí lực cũng là yêu cầu và xu thế
chung của thế giới. Ngày nay khi loài người đã bước vào cuộc cách mạng khoa
học công nghệ lần thứ 4 thì nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế
đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Các nước công nghiệp phát triển đã chuyển từ
nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hàm lượng chất xám trong
các sản phẩm làm ra ngày càng tăng lên. Khoa học công nghệ phát triển như vũ
bão, nhanh chóng được ứng dụng vào q trình sản xuất tạo ra khối lượng sản
phẩm đồ sộ. Các sản phẩm này ngày càng tiến tới phục vụ tối đa cho nhu cầu
của con người. Nhiều ngành sản xuất mới, máy móc thiết bị, cơng nghệ mới, các
nguồn năng lượng mới… ra đời tạo bước phát triển nhảy vọt cho lực lượng sản

xuất. Suy đến cùng những thành tựu ấy đều ra con người sáng tạo ra, con người
đóng vai trị chủ thể.
Chính vì thế xu thế phát huy yếu tố, nguồn nhân lực là xu thế chung toàn
cầu. Nguồn nhân lực có chất lượng cao về trí tuệ và tay nghề ngày càng trở
thành một lợi thế cạnh tranh cho mỗi quốc gia. Nếu nguồn nhân lực chỉ hàm
6


chứa lao động giản đơn thì sẽ là một sức ép đối với quá trình tăng trưởng và phát
triển ở các nước chậm phát triển.
1.3. Quan điểm của Đảng ta về phát triển nguồn tài nguyên trí lực
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
Đáp ứng với tình hình phát triển mới của đất nước, nhất là yêu cầu của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế hiện nay, trên lĩnh
vực giáo dục và đào tạo, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng đã xác định: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người” [4, tr.136]. Đây là
quan điểm, chủ trương lớn của Đảng, thể hiện sự nhất quán của Đảng về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, phát triển con người qua các kỳ Đại hội, song đã có những phát triển mới
đáp ứng với sự phát triển của tình hình thế giới và đất nước. Sự nhất quán và
những phát triển mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trên lĩnh vực giáo dục và
đào tạo trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng được thể hiện trên một số
nội dung cơ bản sau.
Thứ nhất, khẳng định rõ giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Báo
cáo chính trị tại Đại hội XIII chỉ rõ: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để
thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước” [4,
tr.136]. Đây là sự nhất quán quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của giáo dục

và đào tạo cùng với khoa học cộng nghệ gắn với yêu cầu của công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước. Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đã xác định:
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [3, tr.114]; đồng thời cũng chỉ rõ:
“Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với tiến bộ của khoa học - công nghệ, yêu cầu phát
triển nguồn nhân lực và thị trường lao động” [3, tr.115].
7


Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu Cách mạng cộng nghiệp lần thứ tư và hội nhập
quốc tế. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là nền tảng để nền kinh tế chuyển
đổi mạnh mẽ từ mô hình dựa vào tài ngun, lao động chi phí thấp sang kinh tế
tri thức; làm thay đổi cơ bản khái niệm đổi mới công nghệ, trang thiết bị trong
các dây chuyền sản xuất. Đồng thời, Cách mạng cộng nghiệp lần thứ tư sẽ tạo ra
những thay đổi lớn về cung - cầu lao động. Trong cuộc cách mạng này, thị
trường lao động sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động cũng
như cơ cấu lao động.
Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mơ, mức độ và hình thức
biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen
phức tạp. Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước
ngày càng trở thành phổ biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó nguồn
nhân lực chất lượng cao càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi
quốc gia. Đảng ta chủ trương phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt
coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia,
quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và khoa học - công nghệ đầu
đàn; coi đây là điều kiện cần thiết để hội nhập và cạnh tranh trong khu vực và
quốc tế, cũng như khẳng định vị thế của tri thức và trí tuệ Việt Nam trên trường
quốc tế.

Ở nước ta, từ trước đến nay, nền kinh tế vẫn dựa nhiều vào các ngành sử
dụng lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên thiên nhiên; trình độ của người lao
động nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung cịn lạc hậu. Đây là một trong
những thách thức lớn nhất khi đối diện với cuộc cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư và việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế của nước ta. Nguồn nhân lực
quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, trong đó nguồn
nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và
tái tạo các nguồn lực khác đạt hiệu quả cao nhất. Hiện nay nước ta đang ở trong
thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”, nhưng nguồn nhân lực chất lượng cao luôn thiếu
hụt về số lượng, hạn chế về chất lượng và bất cập về cơ cấu. Để tận dụng tốt thời
8


cơ và vượt qua những nguy cơ, thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp thứ
tư và hội nhập quốc tế, vấn đề khai thác nguồn lực con người, nhất là xây dựng,
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đang đã và được đặt ra cấp thiết đối
với nước ta hiện nay.
Thứ ba, phát triển con người đáp ứng yêu cầu của Các mạng công nghiệp
lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển con người là quan điểm nhất quán của
Đảng thể hiện rõ sự nhận thức đúng về vai trò của con người, là trung tâm của
chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Trong q trình sản xuất,
con người khơng chỉ là một yếu tố cấu thành, mà còn là nhân tố quyết định việc
khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Thực tế cho thấy, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học cơng nghệ đều hữu hạn, nó
chỉ có thể phát huy tác dụng khi kết hợp, sử dụng hiệu quả với phát huy nhân tố
con người. Trong khi đó, nguồn lực con người có ưu thế nổi bật là khơng bị cạn
kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý. Để phát huy vai trị đó, con
người phải được giáo dục, được đào tạo, bồi dưỡng. Trong Văn kiện Đại hội
VIII, Đảng ta đã đưa ra quan điểm: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của

cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” [2, tr.21]. Điều đó cho thấy, Đảng đã
xác định đúng vai trò quan trọng của nguồn lực con người đối với sự thành công
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển bền vững.
Văn kiện Đại hội XIII xác định phát triển con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước trước tác động của Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế là con người phát triển tồn diện. Do
đó nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo phải “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức,
năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự
hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội
cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [4,
tr.136]. Việc xác định các chuẩn mực, định hướng các giá trị cốt lõi trong Văn
9


kiện Đại hội XIII của Đảng là sự phát triển mới, cụ thể hóa các tiêu chí trong
giáo dục và đào tạo phát triển con người đáp ứng yêu cầu Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Trong xu thế tồn cầu hố nền kinh tế thế
giới, người lao động phải biết chủ động hội nhập quốc tế. Khác với tồn cầu
hố, hội nhập quốc tế là hành động chủ quan, có chủ đích của chủ thể là những
là những chủ nhân của đất nước nhằm khai thác nguồn lực bên ngoài để tăng
cường sức mạnh của đất nước mình. Hội nhập quốc tế cũng có nghĩa là chấp
nhận cạnh tranh với thế giới bên ngoài; hội nhập nhưng khơng hồ tan, vẫn bảo
tồn bản sắc văn hố dân tộc mình và nhất là bảo vệ được nền độc lập dân tộc.
Trong điều kiện như vậy, giáo dục, đào tạo phải chuẩn bị cho người lao động
ngồi bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức dân tộc cao, cịn phải có đạo đức, tình
cảm trong sáng.
II. PHÁT TRIỂN NGUỒN TÀI NGUN TRÍ LỰC PHỤC VỤ
CƠNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN NGUỒN

NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở TỔNG CÔNG TY CN XI MĂNG
VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Tổng
công ty CN xi măng Việt Nam
* Những kết quả đạt được
Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam (VICEM). Tiền thân là
Liên hiệp các Xí nghiệp Xi măng được thành lập ngày 01/10/1979, Liên hiệp
các xí nghiệp Xi măng được thành lập để quản lý các nhà máy xi măng trong cả
nước. Ngày 05/10/1993 Bộ xây dựng có Quyết định số 456/BXD-TCLĐ đổi tên
Liên hiệp các xí nghiệp Xi măng thành Tổng công ty Xi măng Việt Nam; Ngày
14/11/1994 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 670/TTg về việc
thành lập Tổng công ty Xi măng Việt Nam hoạt động theo mơ hình tổng cơng ty
91. Trải qua hơn 120 năm xây dựng và phát triển (kể từ khi xây dựng nhà máy
Xi măng Hải Phòng) và hơn 40 năm thành lập VICEM được sự quan tâm của
Đảng, Chính phủ, Bộ Xây dựng, hiện nay VICEM có 10 nhà máy sản xuất Xi
10


măng với 16 dây chuyền sản xuất, công xuất 20 triệu tấn Clinker và 27 triệu tấn
xi măng/năm. Với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước
phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, tặng thưởng Huân
chương Độc lập hạng Nhất, nhiều tập thể, cá nhân của VICEM được phong tặng
danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động và nhiều phần
thưởng cao q.
Những năm qua, cơng ty đã chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao và đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Con người chính là chủ thể
sáng tạo ra những giá trị mới và cán bộ, người lao động chính là người tạo ra
những giá trị vượt trội cho công ty. Do vậy, người đứng đầu công ty trước hết
phải làm gương, biết đứng ra dẫn dắt, khơi gợi sự sáng tạo của mỗi cá nhân

trong doanh nghiệp để họ tạo ra những sản phẩm cống hiến cho tập thể. Đó
chính là bài tốn về mặt con người, nhân sự trong một công ty. Thời gian qua,
ngồi việc tái cơ cấu để có được bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
thì Tổng cơng ty cũng tập trung làm tốt công tác cán bộ, khơng chỉ là việc đào
tạo, sắp xếp bố trí nhân sự mà còn là định hướng tư duy, khơi dậy tiềm năng,
khuyến khích sự sáng tạo của mỗi người lao động trong Tổng công ty. Lãnh đạo
Tổng công ty đã tập trung nâng cao trình độ lý luận chính trị, giáo dục rèn luyện
đạo đức cách mạng, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên kiên định trong điều
kiện cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế. Chú trọng công tác đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực, tái cấu trúc nguồn nhân lực, tái cơ cấu ngành nghề trên cơ sở
xây dựng định biên chuẩn về phương án sử dụng, sắp xếp, bố trí lao động, tinh
gọn các phịng, ban, giảm các đầu mối trung gian… Bên cạnh đó, Đảng ủy
VICEM quán triệt sâu sắc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ
và quản lý đội ngũ cán bộ bảo đảm tiêu chuẩn, quy trình; phân cấp, phân quyền
mạnh mẽ trong công tác cán bộ, từ việc tuyển chọn, đánh giá cán bộ theo hướng
đa chiều, khách quan; phấn đấu đội ngũ cán bộ bảo đảm 3 độ tuổi; đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ được rèn luyện, trưởng thành trong thực tiễn; chú trọng quy hoạch
11


cán bộ nữ, cán bộ trẻ; bổ sung những nhân tố có triển vọng phát triển đáp ứng
được yêu cầu công việc. Hằng năm, Tổng công ty đều tổ chức rà soát, bổ sung
quy hoạch, đồng thời đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không đủ tiêu chuẩn;
xây dựng, hoàn thiện quy chế, quy định giám sát quyền lực, bảo đảm chất lượng
đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của VICEM.
Với đặc thù là ngành công nghiệp nặng kết hợp với một số ngành nghề
dịch vụ, đòi hỏi đội ngũ cán bộ vừa phải có trình độ chun mơn giỏi, sâu, vừa
có năng lực điều hành nên công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ có vai
trị rất quan trọng. Nhận thức được vai trò quan trọng ấy, tất cả các đơn vị thành
viên của Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam (VICEM) đều đã và

đang tập trung đào tạo nguồn cán bộ, công nhân kỹ thuật chất lượng cao. Tổng
công ty đã xây dựng và triển khai chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đổi mới
về tổ chức bộ máy, định biên, áp dụng các kỹ năng quản trị mới…
* Hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những kết quả đã đạt trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở Tổng cơng ty cịn có những hạn chế nhất định. Chất lượng nguồn nhân lực
trong Tổng công ty VICEM hiện nay còn thấp, chưa đáp ứng được với nhu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế cũng như yêu cầu về vấn đề sử dụng nguồn nhân lực
hiện nay. Kỹ năng quản lý yếu: Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, địi hỏi
lãnh đạo Tổng cơng ty VICEM khơng chỉ có trình độ chun mơn, có khả năng
quản trị tốt, mà phải có khả năng nhanh nhạy, nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị
trường, có đủ các kỹ năng về quản lý, ngoại ngữ, tin học, sự hiểu biết về văn
hóa, phong tục tập quán của các nước trên thế giới,… Tuy nhiên, trình độ quản
lý của các lãnh đạo Tổng cơng ty VICEM cịn yếu, thiếu rất nhiều kỹ năng cần
thiết. Năng lực đội ngũ công nhân viên hạn chế, chưa được đào tạo bài bản.
Thực tế thường thấy là các nhà quản lý Tổng công ty VICEM thường ưu tiên
tuyển dụng người quen, người thân, mặc dù họ khơng có đủ bằng cấp u cầu,

12


hoặc làm việc trái ngành được đào tạo. Chính vì vậy, năng lực của cơng nhân
viên cịn hạn chế, họ khơng đáp ứng được nhu cầu cơng việc.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Tổng công ty
VICEM còn nhiều hạn chế dẫn đến sự yếu kém về chất lượng người lao động
trong cả ngắn hạn và dài hạn. Sự hạn chế về tầm nhìn và năng lực của nhà quản
lý Tổng công ty VICEM dẫn đến Tổng cơng ty VICEM chưa thực hiện tốt các
chính sách về quản trị nhân lực; cụ thể: Chưa thực hiện tốt việc lập kế hoạch
nhân lực trong dài hạn; Chưa quan tâm đến hoạt động đào tạo và phát triển cho
người lao động do chưa nhận thức được tầm quan trọng của đào tạo. Các hoạt

động quản trị nhân lực khác như phân tích cơng việc, đánh giá thực hiện công
việc, tuyển dụng,… cũng chưa bài bản, không phát huy được vai trò của chúng
đối với sự phát triển năng lực người lao động trong Tổng công ty VICEM…
Những hạn chế trên đã ít nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển của Tổng công ty
VICEM trong thời gian vừa qua.
* Nguyên nhân hạn chế, yếu kém
Quản lý về phát triển nguồn nhân lực còn nhiều vấn đề bất cập so với yêu
cầu. Chưa có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực toàn diện và dài hạn để
định hướng cho Tổng công ty VICEM tổ chức thực hiện. Nhận thức của một bộ
phận lãnh đạo Tổng công ty VICEM và cả người lao trộng chưa chú trọng đến
vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Hệ thống giáo dục, tự giáo dục, bồi dưỡng của Tổng công ty VICEM còn
bộc lộ nhiều hạn chế, dù đã trải qua rất nhiều cải cách, đổi mới. Vấn đề gửi đi
đào tạo ngoài nước các ngành, lĩnh vực hoạt động của Tổng cơng ty VICEM
chưa được chú trọng.
Q trình hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn
nhân lực của Tổng công ty VICEM chưa theo kịp quá trình hội nhập kinh tế, văn
hố, xã hội ngày càng sâu rộng.
Nguồn lực và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của Tổng cơng ty
VICEM cịn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm chất lượng
nguồn nhân lực chất lượng cao.
13


Công tác tuyển dụng nguồn nhân lực vào làm việc tại Tổng cơng ty
VICEM cịn bất cập, chưa khoa học dẫn đến chưa chọn được người tài, người
lao động giỏi vào làm việc trong cơng ty. Bên cạnh đó, chính sách đãi ngộ,
lương, phụ cấp của Tổng công ty VICEM sơ với các đơn vị, cơng ty khác cịn
chưa phù hợp, thậm chí cịn thấp hơn, do vậy chưa tạo được cơ chế thu hút
người tài vào làm việc tại công ty.

2.2. Giải pháp triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Tổng công ty
CN xi măng Việt Nam
Một là, tiếp tục đổi mới quản lý Nhà nước. Tập trung hồn thiện bộ máy
quản lý của Tổng cơng ty, phát triển nguồn nhân lực, đổi mới phương pháp quản
lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát
triển nguồn nhân lực. Đổi mới các chính sách, cơ chế phát triển và quản lý
nguồn nhân lực bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc
làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh
sống, định cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao,
nhân tài… trong Tổng cơng ty.
Hai là, hồn thiện thể chế, cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân
lực Tổng cơng ty. Rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới những quy định có
liên quan đến phát triển nguồn nhân lực cho phù hợp với bối cảnh, tình hình
mới. Có chính sách hỗ trợ, nâng cao năng lực đào tạo của cơ sở đào tạo nghề
trong Tổng công ty gắn với việc ứng dụng cơng nghệ tiên tiến; Có cơ chế đãi
ngộ tốt và cơ chế thu hút hiền tài cho Tổng công ty. Tạo thuận lợi về điều kiện
công tác, môi trường làm việc cho nguồn nhân lực có trình độ cao về cơng nghệ
trong Tổng cơng ty. Có cơ chế khuyến khích, khen thưởng kịp thời đối với
người lao động trong Tổng cơng ty có ý tưởng đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu, áp
dụng những thành tựu công nghệ tiên tiến nâng cao năng suất, chất lượng hiệu
quả trong công việc.
Ba là, tăng cường tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại cho nguồn
nhân lực Tổng công ty. Nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng về cách mạng công
nghệ số; nâng cao năng lực sử dụng công nghệ thông tin trong công việc của
14


người lao động; nâng cao trình độ, hiểu biết của người lao động về những công
nghệ nguồn, công nghệ cốt lõi của cách mạng công nghệ số và khả năng ứng
dụng vào cơng việc. Đổi mới chương trình, phương pháp và nâng cao chất lượng

đào tạo tại cơ sở đào tạo của Tổng công ty để đảm bảo nguồn nhân lực trong
tương lai (sau khi người học tốt nghiệp) có thể đáp ứng ngay các vị trí việc làm
với yêu cầu về trình độ, kỹ năng sử dụng cơng nghệ trong công việc.
Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường phối hợp liên ngành trong
công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Trao đổi chuyên gia, nhà khoa học, cử
cán bộ, người lao động đi học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ về cơng nghệ ở
nước ngồi, học hỏi kinh nghiệm ứng dụng cơng nghệ tiên tiến vào sản xuất.
Liên kết, phối hợp với các học viện, nhà trường trong cả nước nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực ngành xi măng, đảm
bảo nguồn nhân lực vừa chắc chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ vừa chắc kiến
thức, kỹ năng sử dụng công nghệ trong công việc.

15


KẾT LUẬN
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con
người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực; tu dưỡng rèn luyện phẩm
chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự
biến đổi khoa học cơng nghệ hết sức nhanh chóng [5, tr.120].
Trong thời đại ngày nay, khi loài người đã bước sang cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật lần thứ 4 thì khoa học kỹ thuật đã thực sự trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp như lời Mác đã tiên đoán. Với sự phát triển mạnh mẽ của
nhiều ngành khoa học và công nghệ hiện đại, với hàm lượng chất xám chiếm tỷ
lệ ngày càng cao trong các sản phẩm làm ra, con người càng tỏ rõ vai trò quyết
định của mình trong tiến trình phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại. Biện
chứng của sự phát triển trong thời đại ngày nay đòi hỏi con người phải bộc lộ
đầy đủ hơn nữa “sức mạnh của bản chất con người” của mình một cách hiện
thực và sinh động hơn, phong phú và đa dạng hơn, văn hoá và trí tuệ với những
cá tính độc đáo và những phẩm chất năng động, sáng tạo của con người hiện đại.

Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất, có tính chất quyết định đối với sự
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia [6, tr.67].
Ngày nay, trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước mục
tiêu quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì nguồn
nhân lực chính là chìa khố của sự thành cơng. Nguồn nhân lực với trình độ tiên
tiến sẽ chính là nhân tố đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất
nước. Với một nước đang ở trình độ thấp kém phát triển như nước ta hiện nay
không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, nâng cao dần chất
lượng của người lao động, phát huy nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho
mục tiêu lớn lao của toàn dân tộc, đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2017), Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư - thời cơ và thách thức đối với Việt Nam, Nxb Lý luận Chính
trị, Hà Nội.
6. Phạm Thị Bạch Tuyết (2017), Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối
với lao động ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Đại học Khoa học Sư phạm TP. Hồ
Chí Minh, số 60/2017.


17



×