Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

tiểu luận PHÂN TÍCH đặc điểm sự PHÁT TRIỂN xã hội TRONG THỜI đại NGÀY NAY và ĐÁNH GIÁ NHỮNG ẢNH HƯỞNG của nó đến GIÁO dục TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.58 KB, 27 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI TRONG THỜI ĐẠI
NGÀY NAY VÀ ĐÁNH GIÁ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN
GIÁO DỤC TIỂU HỌC

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1.
Phân tích đặc điểm sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay
Từ đặc điểm sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay tạo
2.
ra những thời cơ đến giáo dục tiểu học
Từ đặc điểm sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay tạo
3.
ra những thách thức đến giáo dục tiểu học
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


2
2
12
18
24
25


MỞ ĐẦU
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đóng một vai trị quan
trọng trong việc tạo ra các sản phẩm và dịch vụ cho phép chúng ta có một cuộc
sống tốt đẹp hơn. Ngược lại, cuộc cách mạng này cũng có thể dẫn đến sự bất
bình đẳng thậm chí cịn cao hơn khi các cơng nghệ mới sẽ thay thế các công việc
sử dụng nhiều lao động. Đây được coi là thách thức lớn nhất do cuộc cách mạng
này mang lại. Bên cạnh đó, cịn một thách thức khác là làm sao để tạo ra các
công việc yêu cầu kỹ năng cao hơn dành cho con người khi các công nghệ tự
động đã và đang thay thế lao động trong rất nhiều các công việc hằng ngày. Một
trong những yêu cầu để chuẩn bị cho cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại là cải thiện nguồn vốn con người để có thể đáp ứng được các yêu cầu về
kiến thức và kỹ năng liên tục thay đổi trong môi trường lao động mới. Điều này
đặt ra cho giáo dục và đào tạo sứ mệnh to lớn là chuẩn bị đội ngũ nhân lực đáp
ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Vấn đề mà nhiều quốc gia đều nhận thấy và
đặt ra đó là chuyển từ một nền giáo dục nặng về trang bị kiến thức, kỹ năng cho
người học sang một nền giáo dục giúp phát triển năng lực, thúc đẩy đổi mới và
sáng tạo cho người học, đáp ứng những yêu cầu đặt ra cho công dân trong thời
đại cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề
“Phân tích đặc điểm sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay và đánh giá
những ảnh hưởng của nó đến giáo dục tiểu học” làm đề tài tiểu luận có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.


1


NỘI DUNG
1. Phân tích đặc điểm sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay
Sự “bùng nỗ” thông tin do sự phát triển nhanh khoa học công nghệ dẫn
đến kết qủa là xuất hiện nhanh, nhiều những tri thức, những kĩ năng và những
lĩnh vực nghiên cứu mới. Đồng thời những tri thức cũ nhanh chóng trở nên lỗi
thời, lạc hậu. Hiện tượng “lão hoá” tri thức diễn ra với tốc độ ngày càng tăng.
Theo tính tốn của các nhà khoa học, thời gian để lượng tri thức tăng gấp
đôi ngày càng rút ngắn: từ hàng ngàn năm rút xuống còn vài ba năm. Ngày nay,
cứ khoảng 7 đến 10 năm, thậm chí 3 đến 7 năm lượng thơng tin khoa học tăng
lên gấp hai lần, 2/3 lượng tri thức và 90% thông tin khoa học kĩ thuật của nhân
loại là do con người thu được trong thế kỷ XX này. Hiện nay hằng năm thế giới
có khoảng 4 triệu bài báo và hàng vạn đầu sách mới.
Hiện tượng “lão hoá” tri thức đang diễn ra hàng năm với tốc độ 15 đến
20%; tri thức nghề nghiệp 30% trong vòng 5 đến 7 năm.
Theo Alvin Tofler-nhà tương lai học Mỹ - thế giới đã trải qua hai làn sóng,
hai nền văn minh và đang bước vào làn sóng thứ ba: nền văn minh siêu công
nghiệp với những thành tựu lớn lao và những biến đổi kì diệu trong đời sống
nhân loại.
Đáp ứng những địi hỏi bức bách nói trên, khoa học và công nghệ thế kỉ
XX đã phát triển như vũ bão, vượt xa thế kỷ XIX cũng như toàn bộ thành tựu
mà nhân loại đã đạt được trong những thiên niên kì trước. Nguồn gốc của sự
phát triển mang tính đột biến này là ba phát minh vĩ đại nhất của trí tuệ nhân loại
nửa đầu thế kỳ XX: Thuyết tương đối của Anhxtanh, Thuyết lượng tử của
Plăngcơ và sự phát triển mật mã di truyền của Oatxơn và Gricơ. Đặc trưng của
các phát minh này là đã mở cửa thế giới vi mô của vật chất, đánh dấu một bước
tiến vĩ đại của khoa học và công nghệ. Chỉ sau ba thế kỷ, lồi người đã nhanh
chóng mở rộng tri thức từ chỗ khám phá các quy luật vận động của thế giới vĩ

mô (thế kỷ XVII), đến chỗ đột nhập được vào thế giới vi mô, tạo ra một hệ
thống công nghệ mới cao cấp hơn hẳn hệ thống cơng nghệ cũ: đó là các cơng
nghệ vi điện tử, máy tính, quang điện tử, lade, vật liệu mới, hạt nhân, gen, tế
2


bào, … quá tình xuất hiện và phát triển bùng nổ của những cơng nghệ cao này
chính là đặc trưng cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới, cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại ở thế kỷ XX.
Hiện nay, những lĩnh vực công nghệ thuộc lĩnh vực công nghệ cao, được
kể đến là: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, năng lượng mới, vật liệu
mới, công nghệ vũ trụ, công nghệ biển, công nghệ sạch, cơng nghệ quản lý,…
Bốn cơng nghệ trụ cột chính, tác động mạnh và sâu sắc nhất đến phát triển
kinh tế - xã hội, trước hết đến sự phát triển lực lượng sản xuất, đó là những cơng
nghệ quan trọng mà bất kỳ một nền kỹ thuật nào cũng phải dựa vào để phát
triển, là đặc trưng chủ yếu của trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
Một là, công nghệ sinh học. Nó dựa vào sự hiểu biết về sự sống, về bản
thân con người cũng như về sự sống xung quanh mình. Phải có sự hiểu biết đầy
đủ thì con người mới phát triển, có sức khoẻ, có cuộc sống tốt đẹp. Trong công
nghệ sinh học, các lĩnh vực công nghệ cao bao gồm: công nghệ tế bào và công
nghệ enzim; công nghệ gen, công nghệ lên men vi sinh vật, công nghệ nuôi cấy
mô tế bào thực vật, công nghệ nuôi cấy mô tế bào động vật, cơng nghệ chuyển
hố thơng qua enzim,… trong đó kỹ thuật máu chốt quyết định sự ra đời của
công nghệ sinh học học hiện đại là kỹ thuật ADN tái tổ hợp và công nghệ gen.
Các công nghệ này đã cho phép con người tạo được các loại thần dược chữa trị
các bệnh hiểm nghèo, kéo dài tuổi thọ; tạo được các giống cây trồng, vật ni có
năng suất chất lượng cao theo ý muốn con người.
Hai là, công nghệ vật liệu. Vật liệu là yếu tố quyết định trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất; vật liệu sử dụng trong nền sản xuất thể hiện trình độ văn
minh của loài người. Các giai đoạn lịch sử phát triển loài người đã được phân

chia trên cơ sở phát triển của vật liệu qua các thời kỳ: đồ đá, đồ đồng, đồ sắt.
Vật liệu thể hiện sự phát triển của nền văn minh, vật liệu thay đổi, nền văn
minh cũng thay đổi theo. Khái niệm vật liệu mới không chỉ bao gồm những vật
liệu mới xuất hiện như vật liệu sợi quang, vật liệu siêu dẫn, vật liệu tổng hợp
sinh học, … mà cịn bao gồm những vật liệu đã có từ trước nhưng trong quá
trình chế biến đã được áp dụng nhũng nguyên lý khoa học mới, những phương
3


pháp cơng nghệ mới nên đã có được những tính năng mới nhiều ưu điểm hơn
hẳn trước.
Ba là, công nghệ năng lượng. Khơng có năng lượng thì khơng có các hoạt
động sản xuất. Nền sản xuất nào cũng phải dựa vào năng lượng; một dạng năng
lượng mới ra đời tiến bộ hơn, có hiệu qủa hơn sẽ tạo sự nhảy vọt trong phát triển
sản xuất.
Thế giới vẫn đang phải đương đầu với khủng hoảng năng lượng, song
việc giải quyết khủng hoảng cũng chỉ cịn là thời gian vì triển vọng xuất hiện và
khả năng sử dụng các nguồn năng lượng mới đã rất rõ ràng.
Về năng lượng mặt trời. Hiện nay, loại năng lượng này còn đắt tiền,
nhưng cũng đã có nhiều cơng nghệ đang được tập trung đầu tư nghiên cứu. Nhờ
những vât liệu mới và công nghệ mới, năng lượng mặt trời trong tương lai gần
sẽ rất rẻ và được sử dụng rộng rãi.
Về năng lương nguyên tử. Sau cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ nhất
năm 1973, các nước tư bản phương Tây phát triển rất mạnh điện nguyên tử. Đến
nay, trong cơ cấu năng lượng, tỉ trọng điện nguyên tử đã đạt xấp xỉ tỉ trọng thuỷ
điện đã có trong q trình phát triển hàng trăm năm. Thấy rõ vai trò quan trọng
của năng lượng nguyên tử, Hội nghị năng lượng thế giới lần thứ XIV ở Canada
năm 1989 có 93 nước tham gia cùng với 25 tổ chức quốc tế đã khẳng định: “loài
người sẽ không thể giải quyết được vấn đề năng lượng nếu không phát triển
năng lượng hạt nhân” [3, tr.190].

Hướng nghiên cứu cơng nghệ nhiệt hạch tổng hợp vẫn đang được tích cực
tiến hành. Dự kiến đến năm 2030 những kết quả phản ứng nhiệt hạch tổng hợp
sẽ được đưa ra thị trường.
Nguồn năng lượng sinh học mới đang phát triển mạnh sẽ là nguồn năng
lượng sạch môi trường, vừa giải quyết vấn đề nguồn năng lượng truyền thống
đang ngày càng cạn kiệt vừa giải quyết vấn đề chống ô nhiễm môi trường. Đến
năm 2030, các dạng năng lượng hạt nhân, mặt trời, sinh học, địa nhiệt, thuỷ triều
và năng lượng gió sẽ vượt quá toàn bộ năng lượng truyền thống như giàu mỏ,
than, khí tự nhiên và thuỷ lực. Khi đó, vai trò của nguồn năng lượng truyền
4


thống đối với sức mạnh của một quốc gia sẽ giảm bớt, nguồn năng lượng mới sẽ
trở nên ngày càng quan trọng.
Bốn là, việc tổ chức điều khiển, xử lý thơng tin, đó là cơng nghệ thơmg
tin. Đây là yếu tố quan trọng nhất có tác động sâu sắc đến tồn xã hội, là yếu tố
có ý nghĩa quyết định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của tổ chức quản lý;
giúp cho con người phương pháp, phương tiện để rút ngắn thời gian và không
gian, tác động vào đối tượng lao động ngày càng có hiệu quả, chất lượng hơn.
Nếu những công nghệ sinh học, vật liệu, năng lượng là những công nghệ cơ bản
của một nền sản xuất thì cơng nghệ thơng tin giữ vai trị tổng hợp hơn, nó thể
hiện hiệu quả của sự tác động của con người đối với quá trình sản xuất và các
hoạt động khác.
Thông tin và tri thức là cơ sở cho việc ra quyết định và hành động. Chất
lượng của các quyết định, hiệu quả của các hành động phụ thuộc vào số lượng
và chất lượng của thông tin. Sử dụng nhiều thơng tin và tri thức trong q trình
thực hiện công việc sẽ đạt được chất lượng và hiệu quả tốt hơn. Nếu tồn dân
được truy cập vào thơng tin ngày càng nhiều hơn với tri thức ngày càng cao hơn
thì chất lượng cuộc sống sẽ nâng lên và tốt đẹp hơn.
Công nghệ thông tin là hệ thống các tri thức và phương pháp khoa học,

các kỹ thuật, công cụ và phương tiện hiện đại, các giải pháp công nghệ, … được
sử dụng để thu thập, lưu trữ, xử lý, sản xuất, xuất bản, phát hành và truyền thông
tin nhằm giúp con người nhận thức, tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả
nhất nguồn tài ngun thơng tin vào mọi lĩnh vực hoạt động của con người.
Công nghệ thơng tin có các chức năng quan trọng như sáng tạo, truyền tải
thông tin, xử lý thông tin và lưu giữ thơng tin.
Q trình phát triển cơng nghệ thơng tin có thể chia ra bốn giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (thủ công): Việc thu thâpk thông tin và xử lý thông tin
được thực hiện bằng những phương pháp thủ công là chủ yếu.
Giai đoạn thứ hai (cơ giới hoá): Sử dụng máy tính tham gia vào một số
cơng đoạn trong q trình thu nhập và xử lý thơng tin như tính tốn, phân tích,
thống kê, tổng hợp thơng tin.
5


Giai đoạn thứ ba (tự động hố): Tồn bộ qua trình thu thập thơng tin và
xử lý thơng tin được tự động hoá trên cơ sở sử dụng những hệ thống máy tính
mạnh. Nhờ tự động hố, khối lượng lớn thơng tin được phân tích, xử lý nhanh
hơn nhiều.
Giai đoạn thứ tư (thơng tin thơng minh): Hệ thống máy tính tích luỹ được
một khối lượng rất lớn thơng tin và tri thức, có khả năng xử lý rất lớn, giúp con
người phan tích các tình huống, chọn ra các giải pháp, trợ giúp đắc lực cho con
người nâng cao tri thức, phát triển khả năng sáng tạo, thông minh cho con người.
Trong hai thập kỷ qua, bốn trụ cột ấy đã phát triển cực kỳ mạnh mẽ, đang
gây những biến đổi to lớn, sâu sắc đến mọi mặt đời sống xã hội loài người.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, với tư cách là một xu thế tất yếu
khách quan trong tiến trình phát triển của nhân loại, sự phát triển xã hội trong
thời đại ngày nay đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực đời sống của tất cả
các nước trong cộng đồng quốc tế bao gồm cả tác động tích cực lẫn tiêu cực, cụ
thể như sau:

Tồn cầu hóa kinh tế thơng qua tự do hố thương mại có thể tác động xấu
đến cán cân vãng lai (dễ gây ra thâm hụt thương mại); làm gia tăng nợ nước
ngoài, nền thương mại sẽ phụ thuộc nhiều vào xu hướng giá cả hàng hoá thế
giới, nền kinh tế mỗi nước sẽ phụ thuộc nhiều vào biến động của nền kinh tế thế
giới, đặt các doanh nghiệp của các nước đang phát triển vào cuộc cạnh tranh gay
gắt không cân sức.
Tồn cầu hóa kinh tế tăng tính phụ thuộc của các nước chậm và đang phát
triển vào bên ngoài về vốn, công nghệ và thị trường; mặt trái của cơ chế thị
trường như tệ nạn xã hội, văn hoá đồi truỵ, tội phạm và bn lậu quốc tế có cơ
hội phát triển và lây lan. Tồn cầu hóa làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
quốc gia, từ đó có thể hạn chế, làm suy giảm sự độc lập tự chủ về kinh tế của các
nước; Toàn cầu hóa kinh tế có thể dẫn đến phá hoại mơi trường sinh thái, có
nguy cơ biến các nước đang phát triển thành bãi chứa các cơng nghệ lạc hậu.
Tồn cầu hóa, trước hết trên lĩnh vực kinh tế, có nguy cơ khoét sâu thêm hố
phân cách giàu nghèo giữa các quốc gia, giữa các khu vực, giữa các châu lục của
6


thế giới, làm trầm trọng thêm tình trạng các vấn đề xã hội và hệ quả tiêu cực của
nó. Thực ra trong lịch sử loài người, do nhiều nhân tố khác nhau, sự phát triển
không đều giữa các quốc gia là hiện tượng phổ biến, tự nhiên. Chỉ có điều trong
bối cảnh tồn cầu hóa với sự phát triển tăng tốc, các chủ bài của sự tăng trưởng
lại nằm trong tay một số ít nước cơng nghiệp phát triển, nên sự phân hoá giàu nghèo càng tăng nhanh và sâu sắc hơn.
Với nhận thức tồn cầu hóa là một xu thế khách quan, hội nhập kinh tế
quốc tế là con đường tất yếu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, trong đường
lối cải cách, đổi mới của mình, các nước xã hội chủ nghĩa luôn coi trọng nội
dung hội nhập kinh tế quốc tế, xem đây là một trong những nhân tố quan trọng
bảo đảm thành công của sự nghiệp cải cách, đổi mới nói riêng, sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội nói chung.
Có thể khẳng định rằng, chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế

quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa, trước hết là của Trung Quốc và Việt Nam
nhằm tận dụng những mặt tích cực của tồn cầu hóa đang góp phần quan trọng
vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở các nước này. Điều quan trọng hơn,
thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, các nước xã hội chủ nghĩa có điều kiện để
mở rộng giao lưu và hợp tác với các nước, đặc biệt là các nước tư bản phát triển,
trên cơ sở đó mà tiếp thu những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại và
những tiến bộ khác của nền văn minh nhân loại nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất. Đây cũng
chính là hiện thực hố một trong những nội dung cơ bản, một trong những
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước có
xuất phát điểm thấp như các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Về mặt kinh tế, sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay sẽ tác động
mạnh mẽ đến sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri
thức - thông minh. Các thành tựu mới của khoa học, công nghệ được ứng dụng
để tối ưu hóa q trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng và quản lý, quản
trị. Với việc tăng cường tự động hóa và ứng dụng số hóa trong q trình sản
xuất, tài ngun thiên nhiên, lao động phổ thơng chi phí thấp ngày càng mất dần
7


lợi thế; sản xuất đang chuyển dịch dần từ các nước có nhiều lao động phổ thơng
và tài ngun sang những nước có nhiều trung tâm nghiên cứu, phát triển, nhiều
lao động có kỹ năng, chun mơn cao và gần thị trường tiêu thụ. Kinh tế thế giới
bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào công nghệ và đổi mới, sáng tạo;
đây là những động lực không giới hạn thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào
khai thác tài nguyên, sử dụng vốn, lao động phổ thông là những yếu tố đầu vào
ln có giới hạn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng sẽ tác động tích
cực đến tiêu dùng và giá cả. Theo đó, người dân được hưởng lợi nhờ tiếp cận
được với những sản phẩm và dịch vụ mới với chi phí thấp hơn, như: gọi taxi, đặt
vé máy bay, mua bán sản phẩm, thanh toán, nghe nhạc, xem phim qua mạng.

Những đột phá về công nghệ trong các lĩnh vực năng lượng, vật liệu, internet kết
nối vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, in 3D giúp giảm mạnh áp lực chi phí,
qua đó làm giảm giá cả hàng hóa và dịch vụ. Tất cả sẽ giúp mở rộng thị trường
và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Về mặt môi trường, sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay có tác động
tích cực trong ngắn hạn và hết sức tích cực trong trung hạn và dài hạn nhờ các
ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên vật liệu thân thiện với môi
trường và các công nghệ giám sát môi trường đang phát triển nhanh được hỗ trợ
bởi internet kết nối vạn vật, giúp thu thập và xử lý thông tin liên tục theo thời
gian thực cũng như đưa ra cảnh báo sớm về các thảm họa thiên nhiên.
Về mặt xã hội, sự phát triển xã hội trong thời đ ại ngày nay thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu lao động xã hội ở nhiều nước với sự xuất hiện ngày càng đông đảo
tầng lớp sáng tạo trong các lĩnh vực khoa học, cơng nghệ, thiết kế, văn hóa, nghệ
thuật, giải trí, truyền thông, giáo dục, đào tạo, y tế, pháp luật. Về việc làm, trong
trung hạn và dài hạn, các ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều lao động kỹ năng thấp
sẽ bị tác động trực tiếp và nhiều nhất do nhu cầu sử dụng lao động tay nghề cao
tăng trong khi nhu cầu sử dụng lao động kỹ năng thấp ngày càng giảm. Nhóm
lao động chịu tác động mạnh nhất là lao động phổ thông do rất dễ bị thay thế bởi
quá trình tự động hóa và người máy. Chênh lệch giàu nghèo có khả năng tiếp tục
gia tăng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần này cùng với những thay đổi nhanh
8


chóng và rộng khắp, đặt các nhà quản lý trước những thách thức ở mức độ chưa
từng có về yêu cầu nâng cao trình độ quản lý và tốc độ ra quyết định.
Đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế sâu rộng; do đó, sự phát triển xã hội trong thời đ ại ngày nay sẽ tác động
mạnh đến Việt Nam, cả tích cực cũng như bất lợi. Sự phát triển xã hội trong thời
đại ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, xã hội thông
tin, kinh tế tri thức và sự biến chuyển trong các chuỗi giá trị toàn cầu đang tạo ra

thời cơ mới cho Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn và hiệu quả hơn vào nền kinh
tế thế giới. Do điều kiện chiến tranh và hồn cảnh lịch sử, Việt Nam đã khơng có
cơ hội để tiếp cận và bắt nhịp ngay từ đầu cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ
ba. Vì vậy, việc thế giới mới khởi phát cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là
cơ hội rất quý giá mà Việt Nam khơng có được trong suốt hơn 30 năm qua để
nhanh chóng đón bắt, tiến thẳng vào lĩnh vực công nghiệp mới, tranh thủ các
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến để đẩy nhanh hơn tiến trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và thu hẹp khoảng cách phát triển. Tiềm năng phát
triển của Việt Nam hiện nay còn rất lớn, chúng ta vẫn đang ở trong giai đoạn cơ
cấu dân số vàng, song thách thức đặt ra với nước ta là làm sao tranh thủ phát huy
tối đa và hiệu quả các tác động tích cực của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Nếu tận dụng tốt cơ hội và vượt qua được các thách thức, Việt Nam sẽ có khả
năng thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, sớm thực hiện được
mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ngược lại, nếu khơng
có chiến lược phù hợp thơng qua đổi mới giáo dục, đào tạo, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển khoa học, cơng nghệ thì sức ép đối với phát triển của Việt
Nam còn lớn hơn nhiều, khoảng cách giữa nước ta với các nước phát triển sẽ
ngày càng tang.
Bên cạnh những lợi ích và cơ hội to lớn, sự phát triển xã hội trong thời đ ại
ngày nay cũng đang đặt ra những thách thức gay gắt, đặc biệt là thách thức an
ninh phi truyền thống. Sự ra đời của thuật ngữ “an ninh phi truyền thống” phản
ánh sự thay đổi nhận thức của con người về an ninh và việc mở rộng nội hàm khái
niệm an ninh quốc gia. “Nếu an ninh truyền thống coi an ninh quốc gia là bảo vệ
9


đất nước trước các mối đe dọa hoặc tấn công qn sự cả từ bên ngồi và bên
trong, thì an ninh phi truyền thống - ngoài việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, còn
bao gồm cả việc bảo vệ con người (cá nhân) và cộng đồng trước những mối đe
dọa và nhân tố mang tính xuyên quốc gia, phi chính trị, phi quân sự. Hiện nay,

bên cạnh những thách thức an ninh truyền thống, đất nước ta đang phải đối mặt
với những nguy cơ an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh thông tin, an ninh
mạng, an ninh kinh tế, an ninh nguồn nước, năng lượng, lương thực, ô nhiễm
mơi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia, tội
phạm sử dụng công nghệ cao. Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo và kịp thời đưa ra nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp ứng phó có hiệu
quả với các nguy cơ an ninh phi truyền thống.
Mỗi cuộc cách mạng công nghiệp là một bước tự động hóa cao hơn. Từ
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đến cách mạng cơng nghiệp lần thứ
ba, tự động hóa là thay thế việc làm tay chân bằng máy móc. Tuy nhiên, “máy
móc chỉ cạnh tranh với con người về năng lực thể chất, nhưng đồng thời lại
tạo ra việc làm mới là việc làm trí óc - những cơng việc địi hỏi khả năng
nhận thức. Nhận thức và tư duy của con người là cái riêng mà máy móc
khơng thể thay thế được. Ví dụ: nghề dệt vải, bắt đầu từ dệt đan bằng tay, đến
máy dệt đạp bằng chân, đến máy dệt bằng sức nước, rồi máy dệt chạy bằng
điện và đến nay xuất hiện máy dệt điều hành bằng máy tính/phần mềm,
nhưng tất cả các bước tự động hóa này vẫn cần tới con người để vận hành
máy, thiết kế sản phẩm, thiết kế hoa văn trang trí, kiểm tra lỗi sản phẩm…
Chỉ con người mới có thể học tập và giao tiếp với nhau, hiểu được cảm xúc
của nhau để thiết kế ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của nhau. Tuy nhiên,
cách mạng công nghiệp lần thứ tư là một bước tiến vượt bậc về tự động
hóa, bởi giờ đây tự động hóa khơng chỉ lấy đi việc làm tay chân mà cịn có
khả năng lấy đi phần lớn việc làm cần trí óc của con người. Các cơng nghệ
cảm ứng, học máy, trí tuệ nhân tạo, chúng giúp cho máy móc có thể tạo ra
sản phẩm đáp ứng nhu cầu riêng của mỗi cá nhân. Rất nhiều việc làm trí óc
10


hiện nay đều có thể được thực hiện bằng máy; nếu để cơng nghệ phát triển
tự do thì rất có thể một ngày nào đó sẽ khơng cịn việc làm cho con người.

Sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay, thị trường lao động sẽ bị
thách thức nghiêm trọng giữa cung - cầu lao động cũng như cơ cấu lao động.
Nền kinh tế với trình độ tự động hóa cao và có tính sáng tạo, địi hỏi người lao
động phải thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất nếu không sẽ bị dư thừa,
bị thất nghiệp. Để tránh viễn cảnh người lao động mất việc làm, đầu tiên cần
tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển sản
xuất kinh doanh các sản phẩm có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao, nếu
chậm trễ trong đào tạo nhân sự phù hợp, các nhà máy nước ngoài sẽ chuyển đến
bất cứ nơi nào tận dụng được lợi thế công nghệ robot và khi ấy lao động giá rẻ
trở nên vô nghĩa. Người lao động phải đánh giá trình độ bản thân, phải vừa làm
vừa học để không ngừng nâng cao trình độ chun mơn, ngoại ngữ, giỏi một
nghề, biết nhiều nghề, sẵn sàng đáp ứng u cầu cơng nghiệp, có thể làm việc
độc lập lại vừa có thể làm việc tập thể, thậm chí có thể kết hợp làm việc cùng
robot. Bất cứ thời kỳ phát triển xã hội nào, con người cũng là yếu tố trung tâm.
Thế giới trải qua nhiều cuộc cách mạng kỹ thuật và lần nào con người cũng bị
đặt trước nguy có mất việc, nhưng điều đó đã khơng xảy ra nhờ vào khả năng
thích ứng với những công việc mới ra đời.
Việc sử dụng cơng nghệ và tri thức làm người lao động có thể phải
chuyển đổi nghề, có thể mất việc. Sự thay đổi này diễn ra từ từ, vì vậy trong
tương lai gần, có thể trước mắt người lao động sẽ khơng cảm nhận được, nhưng
khi giá thành máy móc rẻ, sự thay đổi sẽ diễn ra rất nhanh, người lao động
không thích ứng được sẽ thất nghiệp. Cách mạng cơng nghiệp 4.0 hiện đang
diễn ra, Việt Nam chưa định hình được những việc làm mới nên khó khăn cho
đào tạo nghề đối với người lao động. Bên cạnh các việc Chính phủ đã làm như
đầu tư cơ sở hạ tầng công nghiệp, khuyến khích tư duy sáng tạo, khởi nghiệp,
nghiên cứu khoa học cơng nghệ… Việt Nam cần đa dạng hóa ngành nghề,
khuyến khích đầu tư và phát triển các ngành kỹ năng cao, giá trị gia tăng cao để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
11



2. Từ đặc điểm sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay tạo ra
những thời cơ đến giáo dục tiểu học
Một là, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định vị trí, vai trị quan trọng
của giáo dục đối với sự phát triển xã hội.
Giáo dục và đào tạo luôn được coi là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được
ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã nêu rõ mục tiêu: “Tạo
chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp
ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập
của nhân dân” [1, tr.6].
Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu
đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học,
thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp
lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng;
chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống
giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.
Phấn đấu đến năm 2030, “nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu
vực” [4, tr.65].
Sau khi Nghị quyết số 29-NQ/TW ra đời, mặc dù trong bối cảnh đất nước
cịn nhiều khó khăn và nguồn lực còn hạn hẹp, song với sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, sự nghiệp
giáo dục và đào tạo nước ta đã có những chuyển biến căn bản về chất lượng và
hiệu quả, được các tổ chức giáo dục thế giới ghi nhận, đánh giá cao.
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng
về phát triển giáo dục - đào tạo. Các nghị quyết của đảng về giáo dục - đào tạo

được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đạt được thành quả nhất định. Quy
12


mô, mang lưới cơ sở giáo dục - đào tạo tiếp tục được mở rộng, cả nước hiện có
gần 24 triệu cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh, sinh viên. Hệ thống
giáo dục - đào tạo các cấp từ cơ sở đến đại học, dạy - Hồ được tổ chức lại một
bước. Quan tâm đầu tư cho giáo dục - đào tạo được chú ý hơn, chi ngân sách
nhà nước cho giáo dục - đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách. Chất lượng
giáo dục - đào tạo có bước tiến bộ. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục - đào tạo
được cải thiện và có bước hiện đại hóa. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh.
Công tác quản lý giáo dục - đào tạo có bước chuyển biến. Chủ trương đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho con người, cho phát triển đã được các cấp ủy, chính
quyền quan tâm chỉ đạo thực hiện và nhận được sự ủng hộ của toàn xã hội.
Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu học tập của nhân dân. Mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển rộng khắp
trong toàn quốc đã mở rộng cơ hội học tập cho mọi người, bước đầu xây dựng
xã hội học tập.
Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo có tiến bộ. Trình
độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh, sinh viên được nâng
cao một bước. Số đông học sinh, sinh viên tốt nghiệp có hồi bão lập thân, lập
nghiệp và tinh thần tự lập; đại bộ phận sinh viên tốt nghiệp đã có việc làm. Phát
triển giáo dục và đào tạo đã chuyển theo hướng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ; đã mở thêm nhiều ngành
nghề đào tạo mới, bước đầu đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt
người dân tộc thiểu số, con em các gia đình nghèo, trẻ em gái và các đối tượng
bị thiệt thòi ngày càng được quan tâm. Về cơ bản, đã đạt được sự bình đẳng nam
nữ trong giáo dục phổ thơng và giáo dục đại học. Giáo dục ở vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa tiếp tục phát triển. Một số chính sách miễn,

giảm học phí, cấp học bổng, cho vay đi học và hỗ trợ khác đối với học sinh, sinh
viên thuộc diện chính sách đã mang lại hiệu quả thiết thực trong việc thực hiện
công bằng xã hội và phát triển nguồn nhân lực chất lượng ngày một cao.
13


Cơng tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực theo hướng: khắc
phục các tiêu cực trong ngành, chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục; đổi mới cơ chế tài chính của ngành giáo dục; tăng cường phân cấp
quản lý giáo dục, quyền tự chủ và trách nhiệm của các cơ sở giáo dục; ứng dụng
rộng rãi cơng nghệ thơng tin; hình thành giám sát xã hội đối với chất lượng giáo
dục và đào tạo; xây dựng hệ thống quản lý chất lượng từ Trung ương đến địa
phương và các cơ sở giáo dục; đẩy mạnh cải cách hành chính trong tồn ngành;
mở rộng mơi trường giáo dục thân thiện, khuyến khích tính tích cực, chủ động
trong học sinh, sinh viên; đổi mới và tăng cường giáo dục truyền thống và văn
hóa dân tộc.
Trong những năm qua, những thành tựu của giáo dục nước ta đã đóng góp
quan trọng trong việc nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện cho
đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Từ những thành tựu đó tạo ra
những thời cơ để giáo dục tiểu học phát triển.
Hai là, những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ đã góp
phần hiện đại hố nhà trường, hỗ trợ dạy học, nâng cao chất lượng, hiệu quả
dạy học, giáo dục hiện nay.
Đây là một thời cơ lớn mà sự phát triển của xã hội trong thời địa ngày nay
mang lại. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc UNESCO
dự báo: Cơng nghệ thông tin sẽ làm thay đổi nền giáo dục một cách cơ bản và
tồn diện, có hệ thống và mang tính hội nhập cao vào đầu thế kỉ XXI. Sự bùng
nổ và phát triển về công nghệ giáo dục sẽ tạo ra những phương thức giáo dục phi
truyền thống, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền giáo dục mang tính

chuyển đổi sâu sắc vì con người (“dạy học cho mọi người và mỗi người”, “sự
gia tăng tri thức và nhu cầu chia sẻ”, “tập trung hóa kiến thức và dịch chuyển
năng lực”, “các yếu tố bền vững, truyền thống và sự hội nhập trong không gian
giáo dục”…). Quá trình này dẫn đến sự cần thiết phải nhìn nhận lại giá giá trị và
ý nghĩa của việc dạy học (giáo dục nói chung) dưới góc độ mối quan hệ giữa sự
14


phát triển của công nghệ và những thay đổi về bản chất của quá trình thực thi
các chương trình giáo dục.
Sự ra đời của công nghệ thông tin là sự tích hợp đồng thời các tiến bộ về
cơng nghệ và tổ chức thơng tin, đem đến nhiều ảnh hưởng tích cực cho sự phát
triển của giáo dục. Công nghệ thông tin và đặc biệt là sự phát triển của internet
mở ra một kho kiến thức vô cùng đa dạng và phong phú cho người học và người
dạy, giúp cho việc tìm hiểu kiến thức đơn giản hơn rất nhiều, cải thiện chất
lượng học và dạy.
Công nghệ thông tin thúc đẩy một nền giáo dục mở, giúp con người tiếp
cận thông tin đa chiều, rút ngắn khoảng cách, thu hẹp mọi khơng gian, tiết kiệm
tối ưu về thời gian. Từ đó con người phát triển nhanh hơn về kiến thức,, nhận
thức và tư duy. Chương trình giáo dục mở giúp con người trao đổi và tìm kiếm
kiến thức một cách hiệu quả. Đi kèm với giáo dục mở là tài nguyên học liệu mở,
giúp người học, người dạy kết nối với kiến thức hiệu quả dù họ ở đâu và trong
khoảng thời gian nào. Tài nguyên học liệu mở là một xu hướng phát triển tất yếu
của nền giáo dục hiện đaị. Nếu như trước đây, việc tiếp thu kiến thức được cung
cấp từ sách vở và giáo viên thì hiện nay, nguồn kiến thức đa dạng này được cung
cấp trực tuyến qua kết nối internet. Người thầy chủ yếu là người truyền thu kiến
thức. Điều này đóng một vai trị to lớn trong quá trình đổi mới giáo dục.
Đổi mới giáo dục phải chuyển nền giáo dục từ chủ yếu là truyền thụ kiến
thức sang phát triển năng lực người học, bằng cách giúp người học phương pháp
tiếp cận và cách tự học, cách giải quyết vấn đề. Việc truyền thụ, cung cấp kiến

thức, dần dần sẽ do công nghệ thơng tin đảm nhận, giải phóng người thầy khỏi
sự thiếu hụt thời gian, để người thầy có thể tập trung giúp học sinh phương pháp
tiếp cận và giải quyết vấn đề, tổ chức các hoạt động học tập gắn với thực tiễn
nhằm phát triển năng lực của học sinh.
Công nghệ cũng đồng thời tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận với các
nguồn tài liệu mở. Với giáo dục truyền thống, học sinh, sinh viên tiếp nhận kiến
thức chủ yếu từ sách vở, giáo trình và ngồi nghe giáo viên giảng trên lớp thì hiện
nay, nguồn kiến thức đa dạng này được cung cấp trực tuyến qua kết nối internet,
15


chúng ta có thể tìm thấy hàng nghìn hàng triệu kết quả tra cứu sau một cú click
chuột. Từ đó, các em chọn lọc các nguồn thông tin và tự tìm tịi kiến thức thơng
qua sách điện tử, thư viện online, từ điển trực tuyến, các nền tảng tìm kiếm
thơng tin, các trò chơi kỹ thuật số về lĩnh vực giáo dục…
Với việc tạo nên không gian và thời gian học linh động nhờ công nghệ,
người học giờ đây trở thành trung tâm của quá trình học. Cùng với sự thuận tiện
cho việc học ở mọi lúc mọi nơi thì công nghệ thông tin cũng sẽ tạo ra cơ hội cho
người học tiếp cận, lựa chọn vấn đề phù hợp với bản thân để từ đó phát triển
theo thế mạnh của mình. Người học có thể chủ động lựa chọn nội dung, chương
trình học tập theo năng lực, sở thích, phong cách, nhu cầu của mình. Từ đó giúp
cá nhân hóa học tập, rèn luyện, nâng cao tinh thần học tập chủ động, học tập đi
đôi với thực tiễn, nhằm phát huy tối đa tính sáng tạo của mình.
Cùng với đó, với việc sử dụng các thiết bị cơng nghệ, việc kết nối giữa
thầy cô và học sinh được thực hiện dễ dàng và thường xuyên hơn bao giờ hết.
Nhờ đó, học sinh được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn hẳn
phương pháp đọc - chép truyền thống; học sinh có nhiều cơ hội được thể hiện
quan điểm cũng như chính kiến riêng của mình, giúp cho giáo viên hiểu thêm về
năng lực, tính cách và mức độ tiếp thu kiến thức của học trị, từ đó có những
điều chỉnh phù hợp và khoa học để thúc đẩy phát triển năng lực của từng cá

nhân người học. Bên cạnh việc tiếp thu kiến thức từ việc sử dụng các nền tảng
số, từ người dạy, trong thời đại công nghệ số, học sinh, sinh viên hiện nay cũng
được trang bị những kỹ năng làm việc độc lập, cũng như làm việc nhóm để đảm
bảo hiệu quả việc học tập. Phương thức học tập làm việc nhóm này đang ngày
càng được ứng dụng rộng rãi trong các trường học giúp học sinh rèn luyện tính
chủ động, phát huy chính kiến, sở trường, phát triển những kỹ năng cá nhân, thu
nạp những kiến thức, kinh nghiệm, đồng thời rèn luyện các tính cách, kỹ năng
làm việc cho cơng việc tương lai.
Như vậy, thành tựu của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ đã góp phần
hiện đại hố nhà trường, hỗ trợ dạy học, nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học,
giáo dục hiện nay, trong đó có giáo dục tiểu học.
16


Ba là, sự hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo giữa các quốc gia đã
góp phần tạo điều kiện thuận lợi để nước ta phát triển giáo dục.
Hiện nay, Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và
giáo dục đào tạo được xác định là chìa khóa quan trọng trong việc phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp phát triển quốc gia. Trong hơn 30
năm qua, Việt Nam đã ghi nhận những thành công lớn trong hợp tác quốc tế về
giáo dục và đào tạo. Đã có nhiều chương trình hợp tác đào tạo, dự án ODA, dự
án trao đổi giáo viên, sinh viên, giảng viên và các chương trình liên kết đào tạo
thực tế giữa Việt Nam và các trường của quốc gia khác.
Trong bối cạnh hội nhập quốc tế giáo dục ngày càng phát triển mạnh đó,
Việt Nam đã và đang tiếp tục triển khai Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ
thống giáo dục quốc dân, nhằm nâng cao chất lượng dạy - học ngoại ngữ cho
các cấp học và trình độ đào tạo, khuyến khích đưa ngoại ngữ vào nhà trường từ
bậc mầm non và các hoạt động xã hội. Đề án này còn đẩy mạnh dạy ngoại ngữ
tích hợp trong các mơn học khác và dạy các mơn học khác (như Tốn, các môn
khoa học, môn chuyên ngành...) bằng ngoại ngữ.

Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, giai đoạn 2013-2016, đã có 68
thỏa thuận quốc tế và 23 điều ước quốc tế được ký kết; Giai đoạn 2016 - 2020,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì đàm phán, ký kết 75 thỏa thuận và điều ước
quốc tế cấp Chính phủ và cấp Bộ. Đặc biệt, năm học 2019-2020, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã chủ trì, ký kết được 21 văn bản hợp tác quốc tế (gồm 6 văn bản cấp
Chính phủ, 15 văn bản cấp Bộ) và ký kết thỏa thuận về công nhận văn bằng để
thúc đẩy việc dịch chuyển sinh viên với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Cũng trong năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều diễn đàn, hội nghị
để kết nối hợp tác giữa các chuyên gia giáo dục, nhà đầu tư, cơ sở giáo dục trong
và ngoài nước để chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác và đầu tư, nâng cao
chất lượng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo như: Diễn đàn tồn cầu của
UNESCO về giáo dục vì Phát triển bền vững và Cơng dân tồn cầu tại, triển lãm
giáo dục Việt Nam tại Lào; Hội nghị hiệu trưởng các trường đại học Việt Nam 17


Liên bang Nga, Hội nghị Giáo dục Việt Nam - Đài Loan (Trung Quốc), Hội nghị
thúc đẩy cơ hội học tập các chương trình giáo dục quốc tế tại Việt Nam [5, tr.34].
Sự hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo giữa các quốc gia đã góp
phần tạo điều kiện thuận lợi để nước ta phát triển giáo dục, tạo tiền đề giúp
chúng ta tiếp thu các thành tựu của các nền giáo dục hiện đại, tận dụng nguồn
lực để phát triển nền giáo dục nước nhà, trong đó có giáo dục bậc tiểu học.
3. Từ đặc điểm sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay tạo ra
những thách thức đến giáo dục tiểu học
Một là, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại hiện nay
đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và nhà giáo có trình độ cao.
Trước tác động của sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay, nhiều quốc
gia ngày càng nhận thức rõ xã hội muốn tiến bộ thì phải dựa vào sức mạnh của
tri thức, được bắt nguồn từ việc khai thác tiềm năng sáng tạo vơ tận của con
người. Vì vậy, việc phát huy nguồn lực của con người là nhân tố cơ bản của sự
phát triển nhanh, bền vững. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai

đoạn 2011-2020, Đảng ta khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và
ứng dụng khoa học công nghệ”. Để hiện thực hóa chủ trương của Đảng, cần phải
phát triển toàn diện, hiện đại nền giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học. Bởi vì,
giáo dục đại học là bậc học cao nhất, là giai đoạn cuối cùng của q trình học
tập theo trường lớp, nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới
và cải cách hệ thống giáo dục của mỗi quốc gia. Nhiệm vụ quan trọng này đòi
hỏi đội ngũ giáo viên, nhà quản lý giáo dục ở Việt Nam cần đáp ứng những yêu
cầu cơ bản như sau: Cách mạng công nghiệp 4.0 địi hỏi phải có nguồn nhân lực
chất lượng cao, đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và phẩm chất,
vốn liên tục thay đổi trong môi trường lao động mới. Do đó, danh mục ngành,
nghề đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục, từ đó hàng loạt ngành, chuyên
ngành cũ sẽ mất đi và thay vào đó là cơ hội cho sự phát triển của những ngành,
chuyên ngành đào tạo mới, đặc biệt là liên quan đến sự tương tác giữa con người
18


và máy móc. Vì vậy, giáo dục nước ta sẽ phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mơ
hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần”, những nội dung của các môn học cơ
bản sẽ phải được rút ngắn và thay thế vào đó là những nội dung cần thiết để đáp
ứng nhu cầu của thị trường lao động và giúp người học thực hiện được phương
châm “học tập suốt đời”. Bên cạnh đó, giáo dục phải giúp người học phát triển
về năng lực, thúc đẩy đổi mới và sáng tạo để thích ứng trong mơi trường làm
việc thường xun thay đổi.
Ngày nay, môi trường giáo dục không chỉ diễn ra trong phạm vi nhà
trường mà mở rộng ra phạm vi tồn cầu. Người học có thể chủ động nghiên cứu
tài liệu cũng như tương tác với giảng viên ở mọi thời điểm bằng máy tính hoặc
điện thoại thơng minh. Cơng nghệ thực tế tăng cường/thực tế ảo (AR/VR) được
sử dụng rộng rãi, giúp người học trải nghiệm và rèn luyện kỹ năng. Theo nghiên

cứu của các nhà khoa học giáo dục trên thế giới, hiện nay có khoảng hơn 200
cơng cụ hỗ trợ có thể áp dụng vào q trình giảng dạy và nghiên cứu. Đồng thời,
nhờ ứng dụng các công nghệ AI, Big Data và IoT, lãnh đạo nhà trường, giảng
viên có thể thu thập dữ liệu, phân tích và đánh giá chính xác về người học; theo
dõi quá trình học tập tại nhà, kiểm tra mức độ hồn thành bài tập và thông báo
kết quả học tập tới sinh viên cũng như gia đình. Tuy nhiên, khơng ít giảng viên
chưa hiểu và sử dụng được những công cụ mới này trong thực tiễn, hiệu quả
giảng dạy vì vậy khơng cao. Do đó, để có thể cập nhật những kiến thức hiện đại
mang tính tồn cầu, cũng như ứng dụng cơng nghệ thơng tin thành thạo trong
q trình giảng dạy, đội ngũ giáo viên phải giỏi về chuyên môn, ngoại ngữ và
công nghệ thông tin, làm chủ công nghệ và tạo ra sự tự do, sáng tạo trong công
tác đào tạo.
Hai là, giáo dục phải tạo ra những con người mới, có đầy đủ kỹ năng cần
thiết để thích ứng với sự phát triển khoa học kỹ thuật.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển như vũ bão
của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi sâu sắc về cách sống, cách
làm việc trong mối quan hệ tương tác với nhau. Sự biến đổi khơng ngừng của
hồn cảnh xã hội địi hỏi mỗi con người cần phải liên tục cập nhật kỹ năng, hoàn
19


thiện mình để thích ứng với tình hình mới. Chính vì vậy, giáo dục càng phải tập
trung phát triển tồn diện năng lực của cá nhân dựa trên việc áp dụng các cơng
nghệ đột phá. Xu hướng cá nhân hóa học tập liên quan đến việc giảng dạy phải
được thực hiện theo nhịp độ phù hợp với nhu cầu học tập, được thiết kế theo sở
thích và sự hứng thú cụ thể của từng người học; được thực hiện bằng cách cung
cấp các lựa chọn từ nhiều chương trình giáo dục (từ nhiều trường phái, môn học,
kỹ năng và năng lực khác nhau), nhiều tiếp cận giảng dạy (trực tiếp, gián tiếp,
tương tác, thực nghiệm hoặc độc lập), trải nghiệm học tập (truyền thống như
trong lớp học, phi truyền thống như trực tuyến hoặc kết hợp) và các chiến lược

hỗ trợ học tập (các dịch vụ giáo dục sẵn có để hỗ trợ người học và thúc đẩy quá
trình học tập). Về mặt nội dung, các chương trình giáo dục phải giúp người học
hình thành năng lực sáng tạo và tư duy phản biện, khả năng giao tiếp và hợp tác,
kỹ năng tự học, có kiến thức về kỹ thuật số và dữ liệu, có kiến thức liên ngành
để có thể chuyển đổi công việc. Về mặt phương pháp sư phạm, phải tạo ra cơ
hội để xây dựng một “hệ sinh thái” học tập cho phép cá nhân hóa việc học tập về
mặt thời gian và địa điểm.
Những yêu cầu hiện đại hóa, quốc tế hóa giáo dục với mục tiêu đào tạo ra
những “cơng dân tồn cầu” đã đặt ra trách nhiệm của từng học sinh là phải chủ
động với bản thân mình và với xã hội. Cơng dân tồn cầu là người có khả năng
hành động hợp tác, có trách nhiệm, sáng tạo giải quyết những vấn đề chung của
cộng đồng, góp phần làm cho địa phương, đất nước, thế giới tốt đẹp và phát
triển bền vững; giao tiếp, thích ứng trong những mơi trường văn hóa khác nhau,
mơi trường đa văn hóa; tơn trọng quyền con người, sự đa dạng; trân trọng, phát
huy những giá trị văn hóa của dân tộc, đất nước mình, đồng thời có ý thức học
hỏi những tinh hoa văn hóa của các dân tộc, quốc gia khác.
Những quan điểm về giáo dục cơng dân tồn diện hướng tới cơng dân tồn
cầu hiện đã được phản ánh trong việc xác định mục tiêu đổi mới chương trình,
sách giáo khoa, giáo dục phổ thơng “phát triển con người Việt Nam tồn diện về
đức, trí, thể, mỹ”, hướng tới “cơng dân tồn cầu” và cụ thể hóa thành những
phẩm chất chủ yếu là yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm và
20


phát triển toàn diện các năng lực gồm các năng lực chung, như năng lực tự chủ
và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo;
năng lực đặc thù, như năng lực ngơn ngữ, năng lực tính tốn, năng lực khoa học,
năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất.
Ba là, giáo dục góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, tham gia giải
quyết những vấn đề tồn cầu.

Việt Nam có những thuận lợi khi hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, đó là
có nền chính trị ổn định, con người Việt Nam đang khát khao cống hiến phát
triển đất nước, nhưng cũng đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, như ở
một số nơi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên ngày càng
cạn kiệt, an sinh xã hội và sức khỏe cộng đồng chưa được cải thiện như mong
muốn, khoảng cách và sự phân hóa giàu nghèo gia tăng, tệ nạn xã hội, tội phạm
xã hội phức tạp hơn.
Bối cảnh thế giới có những bất ổn và sự cạnh tranh giữa các quốc gia, dân
tộc để phát triển ngày càng trở nên gay gắt. Trong khi đó, đạo đức xã hội ở nhiều
nơi đang có xu hướng suy giảm, thể hiện qua hành vi ứng xử thường ngày. Điều
này càng cho thấy để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trên con đường
xã hội chủ nghĩa thì khơng có gì hơn là xây dựng đất nước dựa trên phát triển
con người. Những con người có đủ phẩm chất và năng lực, phải là những người
bằng bàn tay khối óc của chính mình xây dựng đất nước, đưa dân tộc ta phát
triển trong xu thế hội nhập toàn cầu.
Để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trên con đường xã hội chủ
nghĩa cần chăm lo, phát triển tồn diện con người. Chính vì vậy, giáo dục khơng
chỉ là quốc sách mà cịn là sinh mệnh chính trị của dân tộc. Chúng ta có thể nhìn
thấy tương lai của đất nước qua việc đánh giá nền giáo dục. Hiện nay, tồn cầu
hóa đang là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực,
vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa
nhiều quốc gia. Bên cạnh những ưu điểm, toàn cầu hóa đang đặt ra cho các nước
trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, những thách thức và nguy cơ
hết sức to lớn. Về mặt xã hội, hiện nay, các nước đều đang phải đối mặt với
21


những vấn đề chung trong sự phát triển kinh tế quốc gia, như sinh thái, ô nhiễm
môi trường, cạn kiệt tài nguyên, dân số, sức khỏe cộng đồng, sự phân hóa giàu
nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế.

Do vậy, đặc điểm sự phát triển xã hội trong thời địa hiện nay đặt ra những
thách thức, trong đó giáo dục phải trực tiếp góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế,
xã hội, tham gia giải quyết các vấn đề tồn cầu.
Bốn là, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong giáo dục hiện nay.
Đứng trước sự bùng nổ của mạng internet và hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay, văn học nghệ thuật nói chung, văn hóa, văn nghệ dân gian nói riêng đang
đối mặt với những tác động vô cùng mạnh mẽ, đặc biệt là nguy cơ mai một văn
hóa dân tộc, xuống cấp đạo đức và các giá trị nhân bản của cha ông để lại. Nhiều
dân tộc đã không còn chữ viết, tiếng nói, trang phục…, tình trạng thương mại
hóa, biến tướng, lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi... có chiều hướng gia tăng, giới
trẻ quay lưng và khơng cịn mặn mà với văn hóa dân tộc... thực trạng này khiến
những nhà nghiên cứu, nhà quản lý trong lĩnh vực văn hóa lo ngại. Chúng ta
đang đứng trước những thách thức nhiều mặt. Một trong những thách thức của
tồn cầu hóa hiện nay là việc một bộ phận lớn thanh niên muốn “chạy theo”
luồng văn hóa mới từ bên ngồi vào. Do bản lĩnh còn chưa vững vàng nên dễ bị
tiêm nhiễm và đua địi, ăn chơi nên bỏ qn, thậm chí coi thường văn hóa dân
tộc, làm cho văn hóa dân tộc mất chỗ đứng trong bản thân họ và nguy hiểm hơn
là thậm chí họ “quay lưng” với văn hóa truyền thống.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, con
người Việt Nam phát triển tồn diện phải là con người có văn hóa, mang bản sắc
văn hóa dân tộc Việt Nam cùng năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại,
thể hiện qua phẩm chất năng lực của cơng dân tồn cầu. Con người Việt Nam
phát triển tồn diện đức, trí, thể, mỹ phải bao gồm: Có lịng u nước nồng nàn
từ yêu quê hương, yêu con người và yêu những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, có lịng nhân ái thể hiện qua việc yêu thương, quý trọng con người
khơng chỉ trong phạm vi gia đình, nhà trường, quốc gia mà cả quốc tế. Đó cịn là
người có lý tưởng sống, có ý thức trách nhiệm, có ý chí phấn đấu khơng ngừng,
22



có lối sống giản dị vì cộng đồng, hành động cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ
tư. Phải xây dựng nền giáo dục con người có đủ sức khỏe thể chất và tâm trí để
phát huy trí tuệ, tối đa hóa tiềm năng lao động sáng tạo của bản thân, có năng
lực tự học suốt đời. Do vậy tất yếu giáo dục phải hướng đến xây dựng hình mẫu
con người Việt Nam mới, đồng thời ln giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong
từng bước tiến của giáo dục hiện nay.

23


×