Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I:CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LEENIN, TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh.
II. QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TÔN GIÁO CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
III. THỰC HIỆN TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA VÀ TỈNH BẮC
NINH HIỆN NAY.
1. Thực tiễn tôn giáo ở nước ta hiện nay.
2. Thực tiễn tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VIỆC XÂY
DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở XÃ ĐÌNH TỔ, HUYỆN THUẬN
THÀNH.
I. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH KINH TẾ.
1. Về phát triển kinh tế.
2. Về xây dựng cơ sở hạ tầng.
3. Về lĩnh vực văn hoá xã hội.
4. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân:
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
Ở XÃ ĐÌNH TỔ.
1. Hoạt động tín ngưỡng dân gian.
2. Hoạt động tôn giáo.
1
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
3. Công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo.
4.Đánh giá về thục trạng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của xã Đình
Tổ
III. ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG, TÔN
GIÁO ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở XÃ ĐÌNH
TỔ.
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
CÔNG TÁC TÔN GIÁO VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TÍN
NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở XÃ ĐÌNH TỔ.
I. PHƯƠNG HƯỚNG.
II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
1. Đối với hoạt động quản lý Nhà nước.
2. Công tác tuyên truyền giáo dục.
3. Đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
III. KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT:
C. KẾT LUẬN
2
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Chúng ta đang tiến gần đến ngày kỷ niệm trọng đại: 67 năm thành
lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2012).
Sáu mươi bảy năm qua là quá trình xây dựng và trưởng thành của Nhà
nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân. Trong các thành tựu của Nhà
nước Việt Nam có thành tích về công tác tôn giáo mà ưu điểm lớn nhất là
vừa đảm bảo cho các sinh hoạt tôn giáo được diễn ra bình thường, tuân thủ
luật pháp vừa tập hợp được đông đảo các tín đồ trong khối đại đoàn kết
toàn dân, chống lại âm mưu chia rẽ của kẻ thù. Đồng thời cũng làm cho các
tôn giáo phát triển lành mạnh, gắn bó với cộng đồng dân tộc hơn. Đây là
một lĩnh vực hết sức nhạy cảm, và phức tạp bởi nó không chỉ là quan hệ
giữa Nhà nước với các tôn giáo mà còn là quan hệ giữa Đảng, chính quyền
và các đoàn thể xã hội với nhân dân là các tín đồ tôn giáo. Nó cũng không
chỉ bó hẹp trong nội bộ quốc gia mà còn có quan hệ quốc tế vì bản thân
nhiều tôn giáo cũng mang tính quốc tế. Hơn nữa, vấn đề này luôn bị nhiều
thế lực thù địch nhòm ngó, lợi dụng với những ý đồ kinh tế, chính trị khác.
Tuy nhiên, công tác tôn giáo ở nước ta thời gian qua cũng bộc lộ những
thiếu sót mà Nghị quyết 25- NQ/TW “về công tác tôn giáo” đã chỉ ra. Để
khắc phục những thiếu sót này, chúng ta có thể tìm thấy những chỉ dẫn quý
giá trong các di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo.
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị
trí là cửa ngõ của khu vực Đông Nam Á, chúng ta rất thuận lợi trong mối
giao lưu với các nước trên thế giới và đây cũng là điều kiện thuận lợi cho
các luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới du nhập vào Việt Nam.
3
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
và đang tồn tại cùng dân tộc trong quá xây dựng CNXH ở nước ta. Về khía
cạnh văn hoá, sự đa dạng của các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo đã góp
phần làm cho nền văn hoá Việt Nam phong phú và đặc sắc. Về khía cạnh
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tinh thần của
nhân dân và ảnh hưởng đến việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Dưới
góc độ quản lý Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính
sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật của
công dân.
Tuy nhiên, tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo còn có những
diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Với
nhiều loại hình tôn giáo như vậy đặt ra cho chúng ta không ít khó khăn
trong việc đưa ra những chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói chung,
từng tôn giáo cụ thể và việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.
Trong thời gian tới, chúng ta cần phải phát huy những kết quà đã đạt
được trong công tác tôn giáo và khắc phục những hạn chế còn tồn tại để
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh, đúng pháp luật và có nhiều tác
động tích cực đến việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trong giai đoạn
hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo và những ảnh hưởng của nó đến việc xây dựng đời
sống văn hoá ở Xã Đình Tổ - huyện Thuận Thành. Thực trạng và giải
pháp" làm đề tài tiểu luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích, yêu cầu và phạm vi nghiên cứu:
- Mục đích: Qua nghiên cứu, đề tài sẽ làm rõ hơn thực trạng hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo và những ảnh hưởng của nó đến việc xây dựng
4
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
đời sống văn hoá ở xã Đình Tổ. Chỉ ra những hạn chế còn tồn tại và
phương hướng, giải pháp khắc phục.
- Yêu cầu: Căn cứ trên quan điểm lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chi Minh. quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về
công tác tôn giáo và tình hình thực tế tại địa phương để chỉ ra những điểm
mạnh đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại một cách trung thực, đề ra
được những phương hướng và giải pháp thực hiện một cách có hiệu quả.
- Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận đề cập đến tình hình hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo, những ảnh hưởng của nó đến việc xây dựng đời sống văn
hoá ở xã Đình tổ- huyện Thuận Thành. Thời điểm nghiên cứu thực tiễn và
khảo sát số liệu từ năm 2010 đến năm 2012 .
3. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, ngoài ra
còn vận dụng tổng hợp các phương pháp: phân tích, tổng hợp, khái quát
hoá, hệ thống hoá. kết hợp phương pháp lô gíc với phương pháp lịch sử,
phương pháp đối chiếu, so sánh; kết hợp giữa lý luận với thực tiễn khi
nghiên cứu đề tài.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
Đề tài là sự vận dụng lý luận vào thực tiễn của bản thân nhưng cũng
có giá trị nghiên cứu lý luận chính trị về tôn giáo, việc xây dựng đời sống
văn hoá và quản lý Nhà nước về văn hoá ở cơ sở.
Đề tài là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến việc giải
quyết vấn đề hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và những ảnh hưởng của nó
đến việc xây dựng đời sống văn hoá ở xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay.
5. Kết cấu của tiểu luận:
A. Phần mở đầu.
B. Phần nội dung: Gồm 3 chương:
5
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và những ảnh
hưởng của nó đến việc xây dựng đời sống văn hoá ở Xã Đình Tổ, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp và đề xuất, kiến nghị.
C. Phần kết luận.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
I. QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin:
Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một lực
lượng siêu nhiên, thần bí. Tôn giáo là một trong những hình thái của ý thức
xã hội, phản ánh một cách hư ảo, lệch lạc hiện thực khách quan; là sản
phẩm của con người phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự
nhiên và xã hội.
Thế giới quan duy vật macxít và thế giới quan tôn giáo là đối lập
nhau. Tuy nhiên Chủ nghĩa Mác - Lê nin chỉ ra rằng: không bao giờ được
phép xem thường hoặc trấn áp tôn giáo hợp pháp của nhân dân; phải tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Tôn giáo là một phạm trù lịch sử, nó ra đời, tồn tại và phát triển
trong những điều kiện lịch sử nhất định. Không phải loài người từ khi thoát
thai khỏi loài vượn đã có tôn giáo, mà phải trải qua một thời kỳ khá lâu dài,
khi loài người đạt đến một trình độ tư duy trừu tượng nhất định mới có tôn
giáo. Tôn giáo có nguồn gốc kinh tế - xã hội, nguồn gốc nhận thức và
nguồn gốc tâm lý .
6
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo đó là trước những thách thức của
tự nhiên và xã hội đã tác động trực tiếp đến đời sống của con người, trong
đó có những hiện tượng tự nhiên, những vấn đề xã hội mà con người chưa
lý giải được Vì vậy họ tìm đến tôn giáo để lý giải những hiện tượng đó.
Nguồn gốc tâm lý và tình cảm của tôn giáo đó là con người tìm đến
tôn giáo như một niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần của họ cả hai mặt trong
cuộc sống, sự may mắn và rủi ro.
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh một cách hoang
đường, hư ảo hiện thực khách quan, qua sự phản ánh của tôn giáo, những
sức mạnh tự nhiên, xã hội trở nên thần bí và chi phối hoàn toàn đời sống
của con người. Khi bị giai cấp thống trị bóc lột, các thế lực phản động
xuyên tạc và lợi dụng tôn giáo để chống phá làm các khả năng nhận thức và
cải tạo thế giới của con người bị hạn chế.
Những biến động trong đời sống chính trị - xã hội thế giới trong thời
gian gần đây, nhất là sau khi hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông âu sụp đổ
làm xuất hiện tâm trạng hoài nghi, hoặc khủng hoảng niềm tin vào xã hội
tương lai nên tôn giáo có điều kiện để tồn tại và phát triển.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy linh là trái ngược nhau, nhưng không phải như vậy là bài
xích, kỳ thị nhau, cần phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, tạo điều kiện cho các
giáo sĩ, mục sư tu hành của các tôn giáo vì mục đích chung của xã hội đối
với con người. Bác nghiêm khắc phê phán các giáo sĩ lợi dụng tôn giáo,
ngược lại đối với các giáo sĩ cống hiến cho sự nghiệp cứu nước, kiến quốc
thì Bác mến mộ một cách thực sự. Đối với các giáo chủ của các tôn giáo thì
Bác luôn tìm đến sự tương đồng các quan điểm chung của học thuyết
macxít với mục tiêu của các tôn giáo, làm cho các tôn giáo gắn với CNXH
mà không đối lập, tách biệt nhau. Bác ca ngợi lòng bác ái của Chúa Giê su,
7
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
tấm lòng vô nghĩa của đức phật Thích ca và sự tu dưỡng đạo đức cá nhân
của Không Tử vì họ đã khuyên con người làm những điều thiện, không làm
điều ác, phải tôn trọng lẫn nhau, phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất giữa
các tôn giáo; các dân tộc phải có tình thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải tu
dưỡng đạo đức, phẩm chất của con người. Mỗi con người đều có quyền
được sống và bình đẳng như nhau, không được tuyên chiến và sát phạt lẫn
nhau.
Đối với những quần chúng tín đồ các tôn giáo, Bác tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng của bà con có niềm tin tôn giáo, Bác sẵn sàng nhận trách
nhiệm và kiên quyết sửa chữa khi Đảng và Nhà nước mắc sai lầm trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
II. QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG
VÀ NHÀ NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOAN HIỆN NAY:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(Khoá XI) ghi rõ: "Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm
tăng cường đoàn kết các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dụng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh ".
Công tác tôn giáo, thực hiện chính sách tôn giáo đòi hỏi phải quán
triệt đầy đủ một số quan điểm, chính sách, từ đó để có những giải pháp
thích hợp trong tình hình hiện nay.
Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo lợi ích vật chất, văn hoá, tinh
thần để nâng cao trình độ về mọi mặt cho nhân dân nói chung và đồng bào
có đạo nói riêng trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH cũng xác định: tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất
8
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng. Chống mọi
hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín
ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích xã hội của Tổ quốc và nhân dân.
Đối với các tín đồ tôn giáo được đảm bảo sinh hoạt tôn giáo bình
đẳng, có nơi thờ tự, có chức sắc để hướng dẫn việc đạo và có đồ dùng trong
việc đạo. Bởi vì có như vậy thì đồng bào có đạo mới tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước và tin tưởng vào con đường đi lên CNXH, cùng
nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đối với các chức sắc tôn giáo được thừa nhận để có quyền bình đẳng
trước pháp luật và được đối xử tương xứng với vị trí, trách nhiệm của họ
trong tôn giáo. Các chức sắc tôn giáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
và Nhà nước về nội dung và phạm vi hoạt động của mình; được hoạt động
tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật cho phép tại nơi mình phụ trách. Các
giáo hội được phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc và tu hành
theo quy định của pháp luật và sự quản lý của Nhà nước. Được hoạt động
vì lợi ích của tổ quốc và nhân dân, những chức sắc, nhà tu hành có vi phạm
pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật.
Đối với các tổ chức tôn giáo có đường hướng hành đạo gắn bó với
dân tộc, có tôn chỉ mục đích, điều lệ phù hợp với pháp luật của Nhà nước,
có cơ cấu tổ chức hợp lý và bộ máy nhân sự đảm bảo tốt về hai mặt: đạo và
đời thì được xem xét từng trường hợp cụ thể để được phép hoạt động.
Đối với các cơ sở hoạt động kinh tÕ- xã hội từ thiện của tôn giáo.
Các tổ chức tôn giáo, các chức sắc, nhà tu hành được hoạt động kinh tế,
văn hoá, xã hội theo quy định của pháp luật như mọi công dân. Việc tổ
chức lao động sản xuất, làm dịch vụ của các chức sắc, nhà tu hành theo
đúng chính sách pháp luật của Nhà nước được khuyến khích. Các hoạt
động nhân đạo, từ thiện xã hội trong lĩnh vực được Nhà nước cho phép
khuyến khích.
9
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
III. THỰC TIỄN TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA VÀ TỈNH BẮC
NINH hiÖn NAY:
1. Thực tiễn tôn giáo ở nước ta hiện nay:
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc
đều lưu giữ được những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo riêng của mình.
Người Kinh (Việt) có các hình thức tín ngưỡng dân gian như: gia đình thờ
cúng tổ tiên, cộng đồng thờ Thành hoàng làng, thờ những người có công
với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân
nông nghiệp lúa nước. Đồng bào dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng
nguyên thuỷ (còn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tô tem giáo, Bái vật giáo,
Sa man giáo. Quốc gia thờ Vua Hùng, các vị Vua , việc duy trì các hoạt
động tín ngưỡng này chính là góp phần vào việc gìn giữ bản sắc văn hoá
của dân tộc.
Theo Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 7 - Khoá IX, nước ta
có khoảng hơn 20 triệu tín đồ tôn giáo của 6 tôn giáo chính, trong đó: Phật
giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành, Đạo hồi là những tôn giáo ngoại nhập; Đạo
Cao đài (ra đời vào năm 1926), Hoà hảo (ra đời vào năm 1939) là những
tôn giáo nội sinh. Đến nay có thêm 6 tôn giáo nữa được Nhà nước cho phép
hoạt động, có những tôn giáo hoàn chỉnh, có những hình thức tôn giáo còn
sơ khai, có những tôn giáo đã phát triển và đang hoạt động ổn định.
Tín đồ có niềm tin tôn giáo thiêng liêng, bao dung, cởi mở, không
hẹp hòi, vị kỷ, sẵn sàng tiếp nhận sự du nhập của các tôn giáo mới nếu
không ảnh hưởng đến bản thân và lợi ích quốc gia.
Ước tính hiện nay nước ta có khoảng hơn 80% dân số có đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng hơn 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo
chính đang hoạt động bình thường, ổn định chiếm khoảng 25% dân số, cụ
thể.
10
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
- Phật giáo: là một tôn giáo thế giới, xuất hiện ở Ấn Độ từ thế kỷ VI
trước công nguyên và được truyền vào Việt Nam vào những thế kỷ đầu
công nguyên, theo hai con đường từ ấn Độ và Trung Quốc. Đây là một tôn
giáo có quá trình phát triển gắn bó với dân tộc từ lâu đời, góp phần quan
trọng vào việc hình thành, phát triển đạo đức, phong tục, tập quán và văn
hoá của nhân dân ta. Số lượng tín đồ tôn giáo hiện nay có khoảng 11 triệu
(những người quy y Tam bảo) có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành trong cả
nước, trong đó tập trung đông nhất ở Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Khánh
Hoà, thành phố Hồ Chí Minh. Đồng Nai, Lâm Đồng, Trà Vinh
- Công giáo: cũng là một tôn giáo thế giới, xuất hiện cách đây
khoảng 2000 năm, được du nhập vào nước ta từ thế kỷ XVI. Hiện nay có
khoảng hơn 6 triệu tín đồ, có mặt ở khoảng 50 tỉnh, thành phố, trong đó có
một số tỉnh, thành phố tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Thái
Bình, Hải Phòng, Nghệ An, Kom Tum, Đắc Lắc, Tiền Giang, Vĩnh Long,
thành phố Hồ Chí Minh
- Đạo Tin lành: xuất hiện vào thế kỷ XVI ở châu Mỹ, được du nhập
vào nước ta từ năm 1911, do tổ chức Tin lành Mỹ (CMA) truyền vào. Hiện
nay cả nước ta có khoảng trên 450.000 tín đồ đạo Tin lành tập trung ở các
tỉnh phía Nam và Tây Nguyên. Như thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng,
Bến Tre, Đà Nẵng, Quảng Nam, Đắk Nông, Gia Lai, Bình Phước
- Hồi giáo: là một tôn giáo thế giới ra đời vào đầu thế kỷ VII và được
truyền vào Việt Nam. Hiện nay ở nước ta có khoảng 95.000 tín đồ, bao
gồm khối: Hồi giáo chính thống (Islam) Ở An Giang, thành phố Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Tây Ninh và Hồi giáo Bà ni ở Ninh Thuận, Bình Thuận.
- Đạo Cao đài: là tôn giáo bản địa ra đời ở Nam bộ vào năm 1926,
hiện nay có khoảng hơn 2 triệu tín đồ với nhiều hệ phái khác nhau, nhưng
phần lớn là hệ phái Cao đài Tây Ninh.
11
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
Đạo Hoà hảo: cũng là một tôn giáo ở nước ta ra đời vào năm 1939 ở
An Giang, chịu ảnh hưởng lớn của Phật giáo nên được gọi là Phật giáo Hoà
hảo.
Hiện nay có khoảng trên 1,2 triệu tín đồ, chủ yếu ở An Giang và các
tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài 6 tôn giáo chính đang hoạt động, còn có một số nhóm tôn giáo
địa phương mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo hoặc đang nhập
từ nước ngoài vào như: Tịnh độ cư sỹ, Bưu Sơn, Kỳ Hương, Tứ ân Hiếu
Nghĩa
Hầu hết tín đồ các tôn giáo là nhân dân lao động, họ là những người
bị áp bức, bóc lột dưới chế độ cũ nên ở họ có nhu cầu giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp. Từ lòng yêu nước, thương nòi, cần cù lao động, yêu
hoà bình, tự do, bình đẳng nên đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo đã góp
phần tích cực cùng toàn dân đấu tranh giành độc lập dân tộc. Từ khi đất
nước bước vào xây dựng CNXH, nhìn chung các tổ chức tôn giáo đã xây
dựng được hướng hành đạo, hoạt động theo pháp luật; các tôn giáo được
Nhà nước công nhận, đã hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín
đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân, sống "tốt đời, đẹp đạo", góp phần vào
công cuộc đổi mới đất nước.
*Nguyên nhân tồn tại tôn giáo ở nước ta:
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, sự tồn tại của nền kinh tế nhiều
thành phần, kinh tế thị trường định hướng XHCN, bên cạnh những yếu tố
tích cực, còn có cả những yếu tố tiêu cực, tính tự phát hoặc những yếu tố
ngẫu nhiên, "may", "rủi" tác động vào đời sống xã hội, niềm tin vào tôn
giáo vẫn còn trong một bộ phận quần chúng.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, nhất là khi chúng ta tiến hành
công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta vẫn còn có những khiếm khuyết.
Bên cạnh đó là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trong và
12
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
ngoài nước làm cho một bộ phận nhân dân giảm sút niềm tin, mơ hồ về con
đường đi lên CNXH nên tôn giáo vẫn tồn tại và phát triển.
2. Thực tiễn tín ngưỡng, tôn giáo ở Bắc Ninh hiện nay:
Hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh diễn ra rất sôi động, phong
phú, nhiều lễ hội được tổ chức tại các đền, chùa như: Hội Lim, Hội Đền
Đô, Đền Bà Chúa Kho, hội dâu, hội chùa bút tháp đặc biệt là lễ hội thủy tổ
tại thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành đã thu hút hàng ngàn người dân tham
gia. Ở các làng quê, hoạt động tín ngưỡng dân gian như thờ cúng ông, bà,
tổ tiên, thờ các anh hùng liệt sỹ được quan tâm. Điều này đã tạo nên một
nét đẹp văn hoá mới trong cuộc sống của vùng quê Kinh Bắc.
Tuy nhiên, bên cạnh các hoạt động tín ngưỡng lành mạnh, vẫn còn
tồn tại các hoạt động mang tính mê tín dị đoan như: lập các điện thờ tại
nhà, tổ chức lên đồng, xem bói, lập các đạo tràng gây ảnh hưởng đến đời
sống tinh thần của nhân dân.
Ngoài sự đa dạng về thành phần dân cư, chưa có vùng nào trên đất
nước mà tôn giáo lại mang sắc thái phong phú, đa dạng như tôn giáo ở
Nam Bộ nói chung và tôn giáo ở Bắc Ninh nói riêng. Dần dần để tồn tại và
phát triển, tôn giáo đã thay đổi, thích ứng với người dân nơi đây; ngày càng
gắn bó chặt chẽ giữa đạo với đời, thể hiện tinh thần tập thể cao trong các
hoạt động xã hội và lao động sản xuất.
Bắc Ninh là một tỉnh có mật độ dân số đông, khoảng trên 1000
người/km
2
, dân số khoảng trên 1 triệu người. Có 3 tôn giáo chính hoạt
động: Phật giáo, Thiên chúa giáo và Tin lành với khoảng trên 22.000 người
theo đạo.
Những năm gần đây, đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao,
hoạt động tôn giáo cũng phong phú hơn. Nhìn chung các tín đồ tôn giáo
trong tỉnh chấp hành nghiêm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, sống "tốt đời, đẹp đạo".
13
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
* Tóm lại:
Tín ngưởng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một lực
lượng siêu nhiên, thần bí. Tôn giáo là một trong những hình thái của ý thức
xã hội, phản ánh một cách hư ảo, lệch lạc hiện thực khách quan; là sản
phẩm của con người phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự
nhiên và xã hội.
Tôn giáo là một phạm trù lịch sử, nó ra đời, tồn tại và phát triển
trong những điều kiện lịch sử nhất định. Việt Nam là một quốc gia đa tôn
giáo, tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, đoàn kết tôn giáo, hoà hợp
dân tộc. Công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, trong giai
đoạn cách mạng mới, đây là yêu cầu hết sức quan trọng nhất là việc quản lý
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và ảnh hưởng của nó đến việc xây dựng đời
sống văn hoá ở cơ sở.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO VÀ NHŨNG ẢNH HƯÓNG CỦA NÓ ĐẾN VIỆC XÂY
DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở XÃ ĐÌNH TỔ, HUYỆN THUẬN
THÀNH
I. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI.
Xã Đình Tổ nằm ở phía tây bắc huyện Thuận Thành, phía Đông
giáp xã Trí Quả, phía Tây Nam giáp xã Lệ chi huyện gia lâm Thành Phố
Hà Nội, phía Bắc giáp xã đại đồng thành. Có diện tích đất tự nhiên khoảng
9,1km
2
và 10.000 nhân khẩu.
Đảng bộ xã có 301 Đảng viên sinh hoạt ở 07 chi bộ. Hàng năm được
rèn luyện, học tập và nghiên cứu các Chỉ thị, Nghị quyết và chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hoạt động của các đoàn thể
chính trị - xã hội đã góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng
các cấp và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII, nhiệm kỳ
14
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
2010 - 2015 đề ra. Trong các năm từ 2010 đến 2012 Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể: Cựu chiến binh, Nông dân, Phụ nữ, Thanh niên đều được cấp
trên đánh giá và xếp loại vững mạnh. UBND xã Đình Tổ, các ngành
chuyên môn hoạt động tốt, có hiệu quả, hoàn thành tốt các chỉ tiêu cấp trên
giao, được cấp trên đánh giá tốt.
1. Về phát triển kinh tế:
Xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong công tác lãnh
đạo, phát triển kinh tế tạo điều kiện thúc đẩy phát triển các lĩnh vực khác
nên Đảng uỷ, UBND xã Đình Tổ luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc phát
triển kinh tế của xã, tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp -
dịch vụ - công nghiệp sang theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông
nghiệp, quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá phục vụ khu công
nghiệp khi đi vào hoạt động, tập trung chỉ đạo phát triển các loại dịch vụ
như: dịch vụ vận tải, may mặc, thương mại Tốc độ tăng trưởng kinh tế
luôn đạt mức khá, bình quân từ năm 2010 đến năm 2012 là 75,2% so với
chỉ tiêu Đại hội đề ra, thu nhập bình quân đầu người là 15,5 triệu
đồng/người/năm.
2. Về xây dựng cơ sở hạ tầng:
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng bộ khóa XXII, trong năm qua đã
tập trung xây dựng một số công trình như: trụ sở làm việc của Đảng ủy
HĐND – UBND, các tuyến đường giao thông, nhà văn hóa của các thôn,
công trình phúc lợi xã hội khác. Các công trình đề chấp hành đúng trình tự
pháp luật vừa đưa vào sử dụng đều mang lại hiệu quả tốt. Hiện nay đang
tiếp tục đầu tư xây dựng nâng cấp các trường tiểu học và các trường mầm
non của các thôn, trạm y tế xã…
3. Về lĩnh vực văn hóa - xã hội.
a. Công tác giáo dục-đào tạo:
15
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
Đảng uỷ đã tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo
dục-đào tạo, do đó quy mô giáo dục phát triển nhanh. Nhìn chung chất
lượng giáo dục toàn diện được nâng lên, học sinh tốt nghiệp ở các cấp
học đạt từ 97,8% trở lên, số học sinh thi đỗ vào các trường đại học,
cao đẳng, THCN tăng 62,98% so với năm 2008.
Quy mô trường lớp và cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy được
tăng cường, môi trường sư phạm xanh, sạch, đẹp. Các trường luôn giữ
vững danh hiệu trường tiên tiến các cấp, trường trung học cơ sở,
trường Tiểu học số 2, được Bộ giáo dục - đào tạo tặng Bằng khen.
Phong trào khuyến học, khuyến tài, phong trào xã hội hoá giáo dục
được mở rộng ở khắp các thôn, các dòng họ để cùng chăm lo giáo dục
thế hệ trẻ, khơi dậy truyền thống hiếu học của quê hương. Hàng năm,
Hội khuyến học thị trấn và các chi hội đều tổ chức hội nghị biểu dương
khen thưởng các em học sinh đạt thành tích cao trong học tập.
b. Sự nghiệp y tế, dân số, GĐTE:
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, các gia đình chính sách,
người cao tuổi và học sinh luôn được chú trọng, quan tâm. 5 năm qua
cấp uỷ đã lãnh đạo thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, công
tác y tế dự phòng và phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS, tổ chức tốt
tháng hành động vệ sinh an toàn thực phẩm, không để lây lan dịch
bệnh. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế luôn được tăng cường nhằm
phục vụ tốt hơn đối với người bệnh đến khám và điều trị tại trạm.
Trong những năm qua trạm Y tế tiếp tục giữ vững đơn vị đạt 10
chuẩn quốc gia về Y tế.
c. Công tác VHTT- TDTT:
Công tác thông tin tuyên truyền, văn hoá, văn nghệ đã được
quan tâm chỉ đạo. Trong những năm qua, đã tăng cường đầu tư nâng
cấp, sửa chữa hệ thống đài truyền thanh nhằm chuyển tải các chủ
16
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
trương đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước tới
quần chúng nhân dân. Đồng thời, có nhiều bài viết tuyên truyền biểu
dương người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến nhằm động viên các
tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh
tế xã hội.
Hoạt động văn hoá-văn nghệ phát triển đa dạng ở hầu hết các
thôn- khu phố nhằm thu hút các lứa tuổi tham gia vào các loại hình
hoạt động. Một số câu lạc bộ văn hoá dân gian, thơ ca, lễ hội và những
nét đẹp truyền thống được bảo tồn và phát huy, từ đó góp phần nâng
cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở
khu dân cư” được đẩy mạnh.
4. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân
dân:
Đảng uỷ, các ban chi ủy chi bộ luôn quan tâm đến việc kiện toàn tổ
chức, xây dựng tổ chức Đảng, kiện toàn củng cố chính quyền, quan tâm
đến các tổ chức chính trị, chú trọng phát triển Đảng viên, nhất là phát triển
Đảng viên từ Đoàn thanh niên.
Đảng bộ xã Đình Tổ được đánh giá là Đảng bộ TSVM, chính quyền
trong 3 năm được xếp loại vững mạnh. Hoạt động của các đoàn thể được
duy trì có nề nếp, thường xuyên thay đổi nội dung và phương thức hoạt
động, thực hiện vai trò là cầu nối giữa Đảng với nhân dân tạo điều kiện cho
nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Trong 3 năm
từ 2010 đến 2012 Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được cấp trên đánh giá
vững mạnh.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐÔNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở XÃ
ĐÌNH TỔ.
1. Hoạt động tín ngưỡng dân gian:
17
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
Hoạt động tín ngưỡng của xã rất phong phú, đa dạng, hàng năm vào
dịp đầu xuân, hoạt động lễ hội chùa được tổ chức ở các thôn tổ chư hội
chùa bút tháp ngày 24 tháng 3. Ngoài ra, nhân kỷ niệm những ngày lễ lớn
MTTQ và các đoàn thể nhân dân đều phối kết hợp tổ chức những chương
trình giao lưu văn hoá văn nghệ quần chúng giữa các tổ dân phố trong xã,
thu hút hàng ngàn lượt người tham gia. Khi mở hội UBND xã thành lập
Ban chỉ đạo, Ban tổ chức để chỉ đạo công tác tổ chức lễ hội ở các thôn do
đồng chí phó chủ tịch UBND xã phụ trách công tác văn hoá- xã hội làm
trưởng ban. Lễ hội ở các tổ dân phố được tổ chức trang trọng, lành mạnh,
tiết kiệm tạo điều kiện cho nhân dân trong xã và khách thập phương đến
cầu phúc.
Do đời sống vật chất ngày càng được nâng cao nên các hoạt động tín
ngưỡng dân gian của nhân dân trong xã có xu hướng phát triển. Việc thắp
hương cầu phúc vào những ngày đầu tháng, ngày rằm âm lịch tại gia đình
và các ngôi chùa ở các thôn, được nhiều gia đình quan tâm thực hiện. Việc
thờ cúng ông bà, tổ tiên được các dòng họ chú trọng, nhiều dòng họ lập gia
phả dòng họ, xây dựng nhà thờ họ thể hiện truyền thống, đạo lý " Uống
nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây". Các thôn đều có đình
làng, nhà văn hoá để thờ thành hoàng làng, thờ các liệt sỹ của thôn đã hy
sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
2. Hoạt động tôn giáo:
Xã Đình Tổ là xã thuần nhất có một tôn giáo là Đạo phật, toàn xã có
6 ngôi đình và 5 ngôi chùa, các ngôi đình, chùa được xây dựng mới và
được sửa chữa từ năm 2000 trở lại đây. Toàn xã có trên 493 cụ ông, cụ bà
đã quy y theo Đạo phật, những người theo đạo khác trong xã hầu như
không có. Hoạt động tôn giáo thuần tuý, cơ bản là cúng lễ theo định kỳ của
Đạo phật, việc mở hội chùa ở các thôn, thường là 1 năm mở hội một lần
riêng hội chùa bút tháp thì năm nào cũng tổ chức.
18
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
Việc mở hội chùa ở các thôn, đều có sự lãnh chỉ đạo, quản lý chặt
chẽ của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các hoạt động tôn giáo, lễ hội đều là
những hoạt động văn hoá lành mạnh, không có biểu hiện mê tín dị đoan. Lễ
hội chùa đầu năm ở các thôn, là dịp để nhân dân trong xã và khách thập
phương đến cầu phúc, cầu những điều tốt lành. Vào các ngày mồng một,
ngày rằm âm lịch hàng tháng, các cụ ông, cụ bà quy phật đều lên chùa thắp
hương, làm lễ cầu an, cầu phúc những điều tốt lành đến với nhân dân trong
xã.
Nhìn chung hoạt động phật giáo của các phật tử diễn ra bình thường,
đúng các quy định của pháp luật, có tác động tích cực đến đời sống tinh
thần của nhân dân, thông qua các hoạt động góp phần giữ gìn và phát huy
bản sắc, truyền thống văn hoá của dân tộc.
Về xây dựng, sửa chữa các cơ sở thờ tự: UBND xã đã chỉ đạo các
thôn, phố thường xuyên tu sửa các ngôi chùa trong xã, đầu tư mua sắm
trang thiết bị trong chùa. Một số con em thành đạt trong xã cũng thường
xuyên công đức tiền để các chùa tu sửa, mua sắm trang thiết bị. Ngoài ra,
một số tín đồ phật tử cũng đầu tư tiền xây dựng các điện thờ tại nhà để làm
lễ cầu phúc cho nhân dân.
3. Công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo:
Nhận thức được sự quan trọng của công tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo nên Đảng uỷ rất quan tâm. Hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo của xã do khối dân vận xã và đồng chí cán bộ văn hoá -
thông tin quản lý, trưởng khối dân vận là đồng chí phó Bí thư thường trực
Đảng uỷ phụ trách.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ, UBND xã, sự quan tâm của
các cấp, các ngành, các đoàn thể nhân dân trong xã. Khối dân vận xã đã
phối kết hợp với ban chi uỷ các chi bộ, các đồng chí trưởng thôn, phố thực
hiện tốt công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên
19
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
địa bàn, nhất là những cơ sở thờ tự của cá nhân. Thường xuyên quán triệt
đầy đủ, kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề
tôn giáo, làm tốt công tác vận động quần chúng. Thường xuyên quan tâm
đến việc tu sửa đình, chùa, nhà thờ để cho quần chúng có tín ngưỡng có nơi
thờ tự và tuyên truyền đạo theo đúng pháp luật của Nhà nước. Việc chăm lo
về đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân ở các thôn, nói chung và
những quần chúng có đạo nói riêng đã được Đảng uỷ, các ban chi uỷ chi
bộ, chính quyền quan tâm nhằm động viên nhân dân và quần chúng tín
ngưỡng yên tâm phát triển sản xuất. Do vậy đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân trong xã được cải thiện rõ rệt, nhân dân trong xã nói chung và
quần chúng theo đạo nói riêng ngày càng tin tưởng vào chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng uỷ, sự chỉ đạo điều hành của UBND xã. Nhân dân chấp hành
nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các quy định
của địa phương, tích cực tham gia hoạt động các đoàn thể góp phần không
nhỏ vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của xã mà Đại hội
Đảng bộ khoá XXIII, nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã đề ra.
4.Đánh giá về thực trạng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở xã.
a. Ưu điểm :
Nhìn chung, trên địa bàn xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành đời sống
của người dân theo đạo, nhân dân có tín ngưỡng tôn giáo tâm linh và tín
ngưỡng dân gian đều sống, làm việc theo đúng chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương.
Thực hiện đúng chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo, công
tác quản lý Nhà nước về tôn giáo phù hợp với đường lối và đúng pháp luật.
Giữa các tín đồ tôn giáo và quần chúng có tín ngưỡng sống đoàn kết,
tốt đời, đẹp đạo cùng nhau chung sức xây dựng quê hương, chăm sóc tâm
linh cho giáo dân và quần chúng. Nhân dân sống tốt đời và hướng theo đạo
20
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
đức tốt đẹp của Đạo phật, tạo nên một đời sống thiện tâm, đức độ, cứu vớt
đùm bọc nhau, sống tu thân tích đức làm gương cho con cháu và thế hệ trẻ
noi theo.
Các tín đồ tôn giáo và quần chúng nhân dân cùng hướng tới mục tiêu
bảo tồn các di sản văn hoá, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong
sinh hoạt văn hoá, sinh hoạt lễ hội, vừa tiết kiệm trang trọng, khoa học, vữa
đảm bảo những nét cổ truyền, luôn có tinh thần hiếu khách.
Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong xã đã tạo nên một
đời sống tinh thần an lành, hạnh phúc; là cầu nối gắn kết nhân dân cộng
đồng trong dân cư của xã và toàn xã hội.
b. Hạn chế:
Trong những năm qua, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã có những
ảnh hưởng tích cực đến việc xây dựng đời sống văn hoá của nhân dân trong
xã, bà con phật tử sống "tốt đời, đẹp đạo", cùng chung sức xây dựng quê
hương ngày càng giàu đẹp, văn minh. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn
tại một số hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới, đó là:
- Hoạt động lễ hội đầu xuân hàng năm ở các thôn, phố còn nặng tính
hình thức, chưa thực sự là một hoạt động văn hoá lớn, mang tính giáo dục
cao, quá quan tâm đến việc vận động nhân dân ủng hộ, công đức làm mất
đi vẻ đẹp vốn có của lễ hội, hoạt động của một số chức sắc ở các chùa chưa
minh bạch trong công tác quản lý tiền nhân dân công đức gây băn khoăn,
bức xúc trong nhân dân.
-Một số phật tử còn chưa tuân thủ pháp luật, tổ chức truyền đạo trái
phép, lợi dụng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan như: lên đồng, hầu
bóng, xem bói, cúng lễ để lấy tiền của một số bà con nhẹ dạ cả tin.
- Một số phần tử tiêu cực, bất mãn tại địa phương lợi dụng những sai
sót trong công tác lãnh, chỉ đạo của một số chi bộ, trưởng thôn về thực hiện
21
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
nhiệm vụ chính trị nói chung và thực hiện chính sách tôn giáo nói riêng để
kích động, lôi kéo quần chúng chống phá sự nghiệp đổi mới.
- Việc đốt mã, hoá mã nhân các ngày lễ, ngày Tết của dân tộc ngày
càng diễn ra nhiều với quy mô lớn gây lãng phí tiền của.
c. Nguyên nhân của những hạn chế.
- Nguyên nhân khách quan.
Đất nước đang trong quá trình hội nhập, bên cạnh những mặt tích
cực thì những khuyết tật của nên kinh tế thị trường cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến đời sống tinh thần của nhân dân, bên cạnh đó là đời sống vật chất
của nhân dân ngày càng cao, với tâm lý phú quý sinh lễ nghĩa nên một số
quần chúng trở nên mê tín.
Nhận thức của nhân dân nói chung và đồng bào có đạo nói riêng về
việc xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, sự nghiệp đổi mới đất nước
của Đảng còn chưa đúng, một bộ phận còn hoài nghi, mơ hồ về con đường
đi lên CNXH.
Một bộ phận nhân dân và các tín đồ tôn giáo do nhận thức kém, chưa
phân biệt được thế nào là tín ngưỡng, thế nào là tôn giáo và do ảnh hưởng
của lối sống phong kiến nên trong cuộc sống còn duy trì một số hủ tục lạc
hậu, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy dỗ, giáo dục thế hệ trẻ.
III. ẢNH HƯÓNG CỦA HOẠT ĐÔNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở XÃ ĐÌNH TỔ.
Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra, nhằm đáp ứng những nhu câu tồn tại và phát triển của mình
trong quá trình phát triển của lịch sử. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 -
khoá VIII đã xác định: "Văn hoá Việt Nam là tổng thể những giá trị vật
chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá
trình dựng nước và giữ nước. Văn hoá là động lực, là mục tiêu của sự phát
triển kinh tế xã hội, từng bước xây dựng nền văn hoá đến lượt nó tác động
22
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
vào mỗi con người, cộng đồng người để vươn lên sáng tạo ra những giá trị
văn hoá mới".
Đời sống văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, đời sống xã
hội là một tổ hợp của những hoạt động sống của con người nhằm đáp ứng
các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Nhu cầu vật chất được đáp
ứng làm cho con người tồn tại như một sinh thể, còn nhu cầu tinh thần thì
giúp con người tồn tại như một sinh thể xã hội - tức là một nhân cách văn
hoá.
Đời sống văn hoá ở cơ sở là một bộ phận của đời sống xã hội, bao
gồm những hoạt động diễn ra ở cơ sở nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất
và tinh thần của nhân dân. Được đánh giá dựa trên một số tiêu trí sau: Sản
phẩm văn hoá của cộng đồng, các dạng hoạt động văn hoá và con người
văn hoá.
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) lần đầu
tiên quan điểm mới ấy đã chính thức được ghi nhận trong Báo cáo Chính trị
tại Đại hội Đảng, khi khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng,
đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi,
thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành động
vi phạm tự do tín ngưỡng; đồng thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi
lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ
nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân”.
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) lần đầu
tiên quan điểm mới ấy đã chính thức được ghi nhận trong Báo cáo Chính trị
tại Đại hội Đảng, khi khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự
23
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng,
đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi,
thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành động
vi phạm tự do tín ngưỡng; đồng thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi
lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ
nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân”.
Tiếp đến Đại Hội VIII, IX, và X những quan điểm mới về tôn giáo
được bổ sung dần tầng bước hoàn thiện. Tiếp tục văn kiện Đại Hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng một lần nữa khẳng định.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và
sử lý nghiêm đối với mọi hành động vi tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của tổ quốc và nhân dân.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách phám luật và tín ngưỡng, tôn giáo
phù hợp với quan điểm của Đảng, Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức
tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ
sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cự cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được nhà nước
công nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa,
kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
mê hoặc, chia rẽ, phá hoặc khối đại đoàn kết dân tộc.
Hoạt động tín ngưỡng dân gian, hoạt động tôn giáo như: thờ cúng
ông bà, tổ tiên, thờ cúng thổ công, tín ngưỡng thờ mẫu, thờ Thành hoàng
làng, các anh hùng liệt sỹ đã tạo nên một nét văn hoá mới trong nhân dân
về truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn, nhớ về ông bà, tổ tiên; đây
24
Tiểu luận tốt nghiệp Nguyễn Giáp Đạt
là một yếu tố rất quan trọng trong việc giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.
Các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã chi phối sâu sắc đến đời sống tinh
thần của nhân dân. Làm cho thế hệ trẻ hiểu rõ hơn về lịch sử hào hùng của
dân tộc, biết ơn các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì độc lập, tự do của dân
tộc, của quê hương; khơi dậy trong nhân dân lòng yêu quê hương, đất
nước, niềm tự hào dân tộc.
Việc tổ chức các lễ hội đầu năm là diễn đàn để nhân dân chia sẻ
buồn vui, giao lưu những kinh nghiệm của cuộc sống, thảo luận những vấn
đề chung của thôn, phố. Thông qua những hoạt động này để điều chỉnh các
mối quan hệ đã tồn tại lâu đời ăn sâu vào từng con người trong cộng đồng
thôn, phố của nhân dân. Là động lực thúc đẩy nhân dân trong xã tập trung
sản xuất, kinh doanh, giúp nhau phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo,
thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở (nay là Pháp lệnh thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn).
Hoạt động của các tín đồ, phật tử trong xã cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến việc xây dựng đời sống văn hoá của nhân dân, thông qua các hoạt
động của các tín đồ, phật tử đã giáo dục cho con em mình và nhân dân
những điều hay lẽ phải, lẽ sống hiền lành, từ bi, bác ái, thiện tâm, đoàn kết
chặt chẽ xóm làng; sống nhường nhịn thứ bậc, biết tôn trọng những người
cao niên, những người đứng đầu dòng họ. Phân biệt giữa cái tốt và cái xấu;
cái thiện và cái ác; qua tuyên truyền, giáo dục và những việc làm thực tế
của các tín đồ.
Ở gia đình, ông bà, cha mẹ, cả những người theo đạo và những
người không theo đạo cũng thường xuyên giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ
về nguyên tắc sống "ở hiền gặp lành", về luật " nhân - quả", gieo nhân nào
sẽ gặt quả ấy.
Giáo dục con cháu về truyền thống, đạo lý " Uống nước nhớ nguồn,
ăn quả nhớ người trồng cây", lòng yêu nước, về lịch sử đấu tranh dựng
25