Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tài liệu Hoàng Phủ Ngọc Tường và bút kí: " Ai đã đặt tên cho dòng sông" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.09 KB, 30 trang )

Hồng Phủ Ngọc Tường và bút kí:
" Ai đã đặt tên cho dịng sơng"

A- TÁC GIẢ
Hồng Phủ Ngọc Tường (sinh 9 tháng 9 năm 1937- ) là hội viên Hội Nhà văn
Việt Nam (1978).

Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh tại thành phố Huế, nhưng quê gốc ở làng Bích
Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Ở Huế, ông học học hết bậc trung học.
Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Đại học Sư phạm Sài Gòn.
Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế.
Năm 1960-1966, dạy tại trường Quốc Học Huế.
Năm 1966-1975, ơng thốt ly lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến
chống Mỹ bằng hoạt động văn nghệ.
Ông từng là Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên-Huế, Chủ tịch
Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt.
Hiện nay ơng đang sống ở Huế.


Năm 2007, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, cùng
đợt với vợ là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. [1]
Tác phẩm
Thể loại bút ký:


Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn lâu (1972).



Rất nhiều ánh lửa (1979, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980)





Ai đã đặt tên cho dịng sơng (1984)



Bản di chúc của cỏ lau (truyện ký, 1984)



Hoa trái quanh tơi (1995)



Huế, di tích và con người (1996)



Ngọn núi ảo ảnh (2000)



Trong mắt tôi (2001)



Rượu hồng đào (truyện ký, 2001)

Thể loại nhàn đàm:



Nhàn Đàm (1997)



Miền gái đẹp (2001)

Thể loại thơ:


Những dấu chân qua thành phố (1976)



Người hái phù dung (1995)

Ngoài ra, vào năm 2002 nhà xuất bản Trẻ đã cho xuất bản Tuyển tập Hoàng
Phủ Ngọc Tườnggồm 4 tập.


Nghiệp văn chương
Đánh giá chung về sự nghiệp văn chương của Hồng Phủ Ngọc Tường,
sách Ngữ văn 12 có đoạn viết:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc
sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong
phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí...Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng
nội, súc tích, mê đắm và tài hoa[2].
Trích thêm ý kiến của người trong giới:



Nhà văn Nguyễn Tuân:

Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có "rất nhiều ánh lửa"[3].


Nhà văn Nguyên Ngọc:

Trong một cuốn sách gần đây của anh, viết và in ngay giữa những ngày anh
đang vật lộn với cơn bệnh nặng-chứng tỏ ở anh một đức tính dũng cảm và một nghị
lực phi thường của một người lao động nghệ thuật-anh tự coi mình là "người ham
chơi". Quả thật, anh là một người ham sống đến mê mải, sống và đi, đi để được sống,
với đất nước, với nhân dân, với con người, đi say mê và say mê viết về họ...[4]


Nhà thơ Hồng Cát:

Hồng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút ký văn học của riêng
mình. Thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần
như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ơng vẫn có thể tung hồnh thoải
mái ngịi bút được...[5]




Nhà thơ Ngơ Minh:

Hồng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở
nước ta vài chục năm nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở

tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó
là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình...Thực ra, bút ký Hồng Phủ Ngọc Tường
chính là những áng thơ văn xi cuốn hút người đọc...thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là
vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt triết học, từ sâu thẳm thời gian, sâu
thẳm đất đai vọng lên trong tâm khảm người đọc. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho
rằng thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường thấm đẫm "triết học về cái chết...thơ anh buồn mỗi
nỗi buồn đứt ruột...Đấy là thơ của cõi âm"... Đó là một nhận xét xác đáng[6].


Trên Website vnexpress:

Dường như trong suốt cuộc đời mình, Hồng Phủ Ngọc Tường bị ám ảnh bởi
hoa. Điều đó, dù cuộc đời lận đận những ngày tù cộng với những năm tháng bôn ba
khắc nghiệt của chiến tranh vẫn không tước đoạt nổi của ơng...Ơng viết rất nhiều về
hoa và đặc biệt, ông bị ám ảnh bởi sắc diện phù dung. [7].
B- TÁC PHẨM
Phân tích tác phẩm ai đã đặt tên cho dịng sơng
Dàn ý phân tích bài bút kí của Hồng phủ Ngọc Tường

1. Cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp sông Hương : được khơi gợi từ không gian
và thời gian cụ thể.(Đoạn 1)


Đó là khu vườn cổ sầm uất, bên dịng sơng 'tỏa sáng một thần thái n tĩnh và
khống đạt'. Đó là những kí ức về Nguyễn Du, truyện Kiều: hình ảnh Nguyễn Du ngồi
đọc Kiều dưới mái rêu phong, miên man trong vẻ đẹp của dong sông đang đổi sắc
không ngừng và mùi hương của hoa trái trong vườn.

Đó là âm sắc Huế thấp thống trong 'Truyện Kiều' : dịng sông đáy nước in trời
, nội cỏ thơm, nắng vàng, khói biếc, dương liễu u hồi, hoa trà mi nồng nàn ,mùa thu

quan san, vầng trăng thắm thiết,..._Cái bóng mơng lung trong thơ Nguyễn Du, 'như
một vang bóng thời gian, cặp tình nhân lí tưởng của Truyện Kiều: tìm kiếm, đuổi bắt,
hào hoa, đam mê, thi ca và âm nhạc, gắn bó với nhau trong một tình u mn thuở'.

2.Vẻ đẹp dịng sơng Hương ở thượng nguồn

hóng khống và man dại

Sức sống mãnh liệt, hoang dại, dịu dàng, đắm say, như 'một bản trường ca của
rừng già , rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn'. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sơng
Hương mang vẻ đẹp dữ dội: 'mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoắn như cơn lốc xoáy
vào đáy vực bí ẩn', nhưng cũng có lúc lại 'dịu dàng, đắm say giữa những dặm dài chói
lọi màu đỏ của hoa đỗ qun rừng'.Giữa lịng Trường Sơn, sơng Hương như một 'cơ
gái Digan, phóng khống và man dại', bởi rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh
gan dạ , một tâm hồn tự do và trong sáng.Nghệ thuật: so sánh, tu từ, ẩn dụ và nhân
hóa.

3.Sơng Hương khi về đến ngoại vi thành phố


'Sắc đẹp dịu dàng , trí tuệ , người mẹ phù sa của một vùng văn hóa ,xứ sở',
dịng sơng duy nhất chỉ đi qua thành phố Huế.Với vốn hiểu biết sâu sắc về địa lí, văn
hóa, lịc sử, tác giả miêu tả dịng sơng thật sinh động vói cảm nhận mang nhiều khác
biệt.

Sông Hương như 'người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa
đầy hoa dại (hình ảnh thơ mộng gợi liên tưởng cổ tích đến nàng cơng chúa ngủ trong
rừng), Dịng sơng hiện lên với 'khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường
cong thật mềm'.Lưu vực êm ả, thanh bình, vui tươi_giữa những bãi bờ xanh biếc ,
nhiều màu sắc trầm mặc, triết lí.


Những lăng tẩm với 'giấc ngủ nghìn năm của vua chúa đựoc phong kín trong
lịng những rừng thơng u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm lan tỏa
khắp cả một vùng thượng lưu'.

Vói những quan sát tinh tế, ngơn ngữ giàu hình tượng, so sánh, ẩn dụ , sơng
Hương trong dư vang Trường Sơn, dịng sơng mềm như tấm lụa'. 'Những dãy đồi sừng
sững như thành quách, với những đỉnh cao đột khởi :Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo',
những ngọn đồi đã tạo ra nững mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời 'sớm
xanh, trưa vàng ,chiều tím' rất lạ và đặc trưng như người Huề từng nhận xét.

Sự thay đổi tính cách của người con gái sông Hương đưa ta đi từ ngạc nhiên
này đến ngạc nhiên khác, một cơ gái Digan,man dại và phóng khoáng đã trở nên dịu
dàng, e lệ, như 'người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức', 'người
mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa xứ sở'.


Thoảng đâu đó, mơ hồ mà vang vọng trong tâm thức Huế là tiếng chuông chùa
Thiên Mụ ngân nga, tiến gà từ xóm làng trung du bát ngát,...

Theo vancap3.co.cc

_____________________________________

Tình cảm về người con gái mang tên dịng sơng cứ miên man chảy trong
tơi khi đọc bút ký của Hồng Phủ Ngọc Tường. Và entry này như một niềm chia
sẻ với em ...

Ai đó đã từng viết “ Đất nước có nhiều dịng sơng nhưng chỉ có một dịng sơng
để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để

mãi mãi mang theo”. Vâng, “một dịng sơng để thương, để nhớ” của mỗi người rất
khác nhau. Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sơng Lơ hùng tráng; nếu Hồng Cầm là
nỗi nhớ của ta khi ngang qua “Sơng Đuống trơi đi một dịng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ
mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày thao thiết chở phù sa, thì Hồng Phủ
Ngọc Tường đã song hành cùng sơng Hương đi vào trái tim người đọc với “Ai đã đặt
tên cho dịng sơng?.”...

Có một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngơi làng trồng rau
thơm ở Huế: Vì yêu quý con sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sơng Hương đã nấu
nước của trăm lồi hoa đổ xuống dịng sơng cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm
tho.


Phải chăng đó là cách lý giải tên của Hương Giang – con sông gắn liền với
Huế, gắn liền với tình u của Hồng Phủ Ngọc Tường?

Bút ký “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống
bên bờ sơng Hương, sống trong lịng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với
quê hương cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, mọi không gian.

Khi tác giả ngồi đọc truyện Kiều giữa mùa thu, trong một khu vườn xưa cổ, nơi
có những lồi hoa đang nở, trái cây đang chín, n tĩnh và khống đạt - khu vườn tọa
lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng sống nên thiên nhiên của “mảnh đất Kinh- xưa”
đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi cho tác giả hình
tượng của cặp tình nhân lý tưởng: Kim- Kiều.

Chưa bao giờ tơi nhìn thấy một dịng chảy nào đáng yêu đến thế, sông Hương
đến với Huế qua cái nhìn của Hồng Phủ Ngọc Tường đã mang hình ảnh một cơ gái
mỹ miều đến với tình u. Hãy ngắm nhìn nàng trước khi gặp Huế, đó là “một cơ gái
Di-gan phóng khống và man dại” “bản lĩnh và gan dạ” có một tâm hồn “ tự do và

trong sáng”, đó là hình ảnh “ bản trường ca của rừng già” rầm rộ và mãnh liệt nhưng
cũng có lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ
quyên rừng”, nàng đã chế ngự sức mạnh bản năng của mình để đến lúc ra khỏi rừng
già sẽ trở nên dịu dàng và trí tuệ.

Để đến với Huế, sơng Hương phải băng qua một hành trình, phải chuyển dịng
liên tục, như một cuộc kiếm tìm thiết tha và rạo rực, vơ vàn địa danh mà dịng nước ấy
đã trơi qua Hịn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ… người con


gái Di-gan ấy đã đột ngột uốn mình theo một đường cong thật mềm nhưng “vẫn đi
trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản,
để sắc nước trở nên xanh thẳm”, nàng vẫn còn mang một vẻ buồn trầm mặc như triết
lý, như cổ thi… cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát
tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ,
đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng “mềm hẳn đi, như một
tiếng "vâng" khơng nói ra của tình u”- Cái phút ban đầu để đến với “người tình” của
sơng Hương như thế đấy! Nàng đã tự làm mới mình để hiến tặng những gì đẹp nhất
cho người u.

Sơng Hương - dịng sông thuộc về một thành phố duy nhất - đã rời cuộc sống
hoang dã của rừng để đến với Huế và chỉ Huế mà thôi, nàng như “sông Xen của Paris,
sơng Ðanp của Buđapet…” chảy trong lịng thành phố u quý của mình nhưng
khác ở chỗ nàng đẹp một cách huyền hồ như đang che khuôn mặt diễm kiều bằng tấm
voan sương khói, nàng trơi lặng lẽ với nghìn ánh hoa đăng vào hội rằm tháng 7 bồng
bềnh chao nhẹ trên mặt nước như vương vấn một nỗi lòng . Tơi chợt nhớ đến một câu
nói “có những dịng tình cảm, rất sâu nên rất đỗi lặng lờ”, dòng chảy êm đềm của sơng
Hương hay chính là tình u sâu lắng mà nàng dâng tặng cho thành phố Huế? Vẻ đẹp
của sơng Hương cịn là vẻ đẹp của một nền văn hóa, vẻ đẹp của người tài nữ đánh đàn
lúc đêm khuya ,toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh sôi trên mặt sông này

và hơn thế khắp lưu vực sơng cịn vang vọng những điệu hị dân dã, những điệu hị
thấm đẫm tấm chung tình, thấm đẫm lời thề của sông Hương trước phút chia tay với
Huế mà trôi về biển cả. Nhưng chẳng phải bao giờ sông Hương cũng là người con gái
đằm thắm ,dịu dàng, mềm mại trong lịng Huế, đã có một thời sông Hương “mang tên


là Linh Giang, dịng sơng viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam”
của Tổ quốc, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xn, “dịng sơng của thời gian ngân
vang", của lịch sử viết giữa màu cỏ xanh, lá biếc…

Sơng Hương được nhìn như một người con gái đến với tình yêu, dâng tặng
những vẻ đẹp mà mình có được cho người u, đắm mình trong tình u để khám phá
và hồn thiện bản thân. Từ một dịng sơng hoang dại, bí ẩn, nàng đã trở thành một
sông Hương rất mực dịu dàng, rất mực tài hoa, rất mực kiên cường, rất mực hy sinh…

Cho nên, từ khi có được sơng Hương, Huế - chàng Kim của nàng- cũng có
nhiều thay đổi. Từ hoang sơ với “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” hay kiêu hãnh âm
u với những lăng tẩm đền đài đồ sộ, đã hóa thành vẻ đẹp cổ kính mà thơ mộng, khiến
người con của Huế dù đến Pari, Buđapét hay Leningrad vẫn đau đáu nhớ về một thành
phố với nguyên dạng đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Huế càng lung linh hơn khi sơng
Hương chở trong lịng Huế những nét đặc thù của hội Hoa đăng, của ca Huế, man mác
tiếng rơi của những mái chèo khuya. Có sơng Hương, Huế trở thành biên thùy xa xôi
của đất nước các vua Hùng, Huế chiến đấu oanh liệt bảo về biên giới phía Nam của
Đại Việt, Huế là kinh thành của người anh hùng Nguyễn Huệ, Huế cùng sông Hương
đi vào Cách mạng tháng 8 bằng những chiến công rung chuyển. Huế đã cống hiến
xứng đáng cho Tổ quốc trong cuộc trường chinh máu lửa bên cạnh sơng Hương dịng sơng của sử thi đã tự hiến đời mình làm một chiến cơng.

Tình u của sơng Hương và Huế - một tình yêu lãng mạn và âm vang sức
sống, một tình yêu như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, bản hợp
xướng diệu kỳ giữa thi ca và âm nhạc. Tình yêu ấy được vun đắp bởi ngòi bút tài hoa



của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đứa con thân yêu của Huế, u Huế, u sơng Hương,
nhìn ngắm sơng Hương khi gần kề để phát hiện ra dịng sơng ấy “đang đổi sắc không
ngừng dưới ánh nắng và mùi hương của hoa trái trong vườn”, lúc xa xơi gần nửa vịng
trái đất, nhìn Nê va để sơng Hương tìm về trong niềm nhớ.

Sơng Hương của Hồng Phủ Ngọc Tường khơng chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà
còn ánh lên vẻ đẹp của con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân Châu Hóa
lái thuyền xi ngược, những người con anh dũng đã hi sinh, những Nguyễn Du,
những bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữu…đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in
bóng mây trời.

Cũng như tình u của sơng Hương với Huế, tình u của Hồng Phủ Ngọc
Tường với sơng Hương cũng là quá trình dâng tặng, khám phá và hồn thiện chính
mình. Tuy nhiên, vì sơng Hương là hóa thân của huyền thoại nên câu hỏi bâng khuâng
của một người Hà Nội khi lặng lẽ ngắm nhìn dịng nước : “Ai đã đặt tên cho dịng
sơng?” vẫn là một câu hỏi lửng lơ chưa có lời giải đáp , câu hỏi đã thành tên cho một
thiên bút ký tuyệt vời…

Lê Uyển Văn
Ơn tập mơn văn: Ai đặt tên cho dịng sơng?
Cập nhật: 13/04/2009 - 10:44 - news_source(14);Nguồn: TienPhong.vn
Mục đích chuyên đề này nhằm giúp các em củng cố những kiến thức cơ bản
xoay quanh tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dịng sơng”.
- Hình tượng dịng Hương qua cảm nhận độc đáo của nhà văn.
- Hình tượng nhân vật tôi nhạy cảm, giàu suy nghiệm.


- Phong cách tùy bút Hoàng Phủ Ngọc Tường.

KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Khái quát:
a. Tác giả:
+ Tiểu sử
- Sinh ra, nhiều năm sống và hoạt động cách mạng, công tác tại Huế > gắn bó
với đất và người nơi đây, am hiểu sâu sắc cội nguồn và linh hồn văn hóa xứ sở.
+ Con người:
- Trí thức u nước.
- Vốn hiểu biết sâu rông trên nhiều lĩnh vực.
+ Sáng tác:
- Sở trường: bút kí, tùy bút.
- Phong cách nghệ thuật:
• Sự kết hợp nhuần nhuyễn
o Giữa chất trí tuệ và chất trữ tình.
o Nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều trên nền tảng hiểu biết sâu rộng về triết
học, văn hố, lịch sử…
• Hành văn: hướng nội (hướng vào bên trong, vào thế giới nội tâm nhiều trăn
trở, thâm trầm, sâu lắng), súc tích, mê đắm, tài hoa.
b. Tác phẩm
+ Xuất xứ:


- Viết tại Huế, 1981.
- In trong tập sách cùng tên > lấy tác phẩm làm nhan đề cho một tập bút kí > vị
trí văn học sử: tác phẩm bút kí tiêu biểu của nhà văn.
+ Bố cục:
- Đoạn 1 (từ đầu - dưới chân núi Kim Phụng): Sông Hương nhìn từ nguồn cội.
- Đoạn 2 (tiếp – quê hương xứ sở): Sông Hương trong mối quan hệ với kinh
thành Huế.
- Đoạn 3 (cịn lại): Sơng Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, với cuộc

đòi và thi ca..
2. Phân tích
a. Đoạn 1: Sơng Hương nhìn từ nguồn cội.
+ Nhìn từ cội nguồn: có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn: như một
“bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu trầm bổng.
- Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn > hùng tráng.
- Mãnh liệt vượt qua ghềnh thác > ào ạt.
- Cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực sâu > dữ dội.
- Dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng >
nên thơ, tình tứ, mê đắm.
+ Biện pháp nhân hố: Sơng Hương như “cơ gái Di - gan phóng khống và
man dại”, với “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” > nữ tính, vừa dịu
dàng vừa mãnh liệt hoang sơ > khơng chỉ ngắm nghía “khn mặt kinh thành”, nhà


văn còn khơi về nguồn cội để khám phá vẻ đẹp tâm hồn thăm thẳm mà chính dịng
sơng cũng khơng muốn bộc lộ.
ð Hé mở một phát hiện mới của tác giả về vẻ dẹp của Sông Hương: Người ta
hay nghe tới sông Hương gắn với Huế “dịu dàng pha lẫn trầm tư”, êm đềm, trong trẻo
nay lại biết tới phần dữ dội, mê hoặc, khó cưỡng của dịng sơng.
b. Đoạn 2: Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế
+ Quan hệ giữa sơng Hương và có đơ: “người tình mong đợi” >hành trình về cố
đơ được hình dung như “một cuộc tìm kiếm có ý thức” một người tình trong mộng của
người con gái.
+ Hành trình về xi tìm “người tình mong đợi”
- Giữa cánh đồng Châu Hố đầy hoa dại: là “cơ gái đẹp ngủ mơ màng” > gợi
nhớ truyện cổ tích “Cơng chúa ngủ trong rừng” > vẻongf đẹp lãng mạn của câu
chuyện cổ.
- Khi ra khỏi vùng núi: “chuyển dòng liên tục, vòng những khúc quanh đột
ngột’, “vẽ một hình cung thật trịn, ơm lấy chân đồi Thiên Mụ, vượt qua, đi giữa âm

vang, trôi di giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột
ngột” > linh hoạt, rạo rực sức trẻ và sự khao khát.
- Qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo: “mềm như tấm lụa”
- Qua những dãy đồi tây nam thành phố: ánh lên “những mảng phản quang
nhiều màu sắc” “ sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
- Qua lăng tẩm đền đài: “vẻ đẹp trầm mặc nhất” “như triết lí, như cổ thi” > so
sánh độc đáo, giàu sức gợi > tả mặt nước phẳng lặng và không gian bờ bãi u tịnh bằng


liên tưởng tới triết học, thơ cổ > nổi bật vẻ thâm nghiêm, bao nhiêu thăng trầm lịch sử,
bao nhiêu dời đổi của các triều đại đã tạo thành trầm tích văn hóa lặn vào vẻ đẹp ngàn
năm khơng suy xuyển của dịng nước > thấp thống hình ảnh một “cái tôi” giàu suy
tư.
- Khi gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ: tươi tắn và trẻ trung
Nhận xét:
• Sơng Hương chảy qua nhiều địa danh khác nhau, mỗi địa danh mà chỉ nhắc
thơi ngưịi ta đã thấy bao tầng sâu văn hiến > nhiều dáng vẻ Sông Hương được khám
phá ở nhiều góc nhìn.
• Diện mạo: vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng.
• Bút pháp: kể và tả, sự liệt kê được thơ hố bằng thụ cảm tài hoa, tinh tế.
+ Sơng Hương khi chảy vào thành phố:
- Giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long: Vui tươi hẳn lên > tâm
trạng của một người đi xa “tìm đúng đường về”, nao nức bồi hồi giữa bờ bãi than
thuộc của quê hương.
- Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên: uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn
Hến > làm cho dịng sơng mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình
u > so sánh lạ, dùng tiếng “vâng” vốn trừu tượng, e ấp, ngập ngừng, ý vị, thiêng
liêng trên bờ môi cô gái đang yêu để tả hình dáng mềm mại nơi cánh cung của dịng
sơng > cái nhìn tình từ, thống nhất, đem lại cho người đọc những khoái cảm thẩm mĩ
độc đáo.

- Liên tưởng và suy tư của nghệ sĩ:


• So sánh sông Hương với sông Xen của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét >
những tên sông đã trở thành linh hồn của thủ đô các nước, thành biểu tượng văn hóa
của quốc gia > ngầm thể hiện lịng tự hào về sông Hương và kinh thành Huế. (Liên hệ
với Nguyễn Trãi trong “Bình Ngơ đại cáo”: đặt các triều đại Việt Nam sánh ngang với
các triều đại Trung Hoa)
• Liên tưởng khi từ khói lửa miền Nam tới Lê –nin-grát, đứng nhìn sơng Nê-va,
lâu năm xa Huế:
o Sống dậy giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại: muốn hóa làm một con chim nhỏ
đứng co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển.
o Cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ
hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trơng theo > Hai nghìn
năm trước: triết gia Hi Lạp “khóc suốt đời vì dịng sơng trôi đi quá nhanh”.
o Nhớ lại con sông Hương: “quý điệu chảy lững lờ của nó khi đi ngang thành
phố”> điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.
ð Khám phá vả cảm nhận sâu sắc đặc trưng riêng của dòng sông khi chảy qua
kinh thành Huế: điệu chảy êm đềm, chậm mềm, lặng lẽ, như không vương vấn chút
nào cái xô bồ của thời gian, sự nuối tiếc của con người vì mọi thứ một đi khơng trở lại
> Sơng Hương nguyên sơ, trăm năm không đổi thay, như mang thần thái, quan niệm
vũ trụ tuần hồn của Phương Đơng, như điệu chảy thời gian bất di bất dịch trong thơ
ca cổ điển Việt Nam và Trung Hoa > Sông Hương mang cảm nghiệm thời gian và
niềm tự hào của nhà thơ.


- Sông Hương “trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước”: người tài nữ đánh
đàn lúc đêm khuya > liên tưởng:
• Nền âm nhạc cổ điển Huế: “được sinh thành trên mặt nước của dịng sơng
này” > Sơng Hương gắn với lịch sử âm nhạc lâu đồi của Huế, là cái nơi hình thành

nền âm nhạc truyền thống > gợi nhắc đến sơng Nile, sơng Hắng, sơng Hồng Hà –
cũng là những cái nơi hình thành những nền văn hóa lớn trên thế giới > nhà văn cảm
nhận dịng sơng ở góc độ văn hóa.
• Nguyễn Du và Truyện Kiều > linh hồn, niềm tự hào của quốc văn Việt Nam >
dịng sơng mang những thổn thức của cha ơng, gắn bó với các giá trị văn hóa, văn học
kinh điển của dân tộc > là dòng chảy vắt từ q khứ, mang bao phù sa, trầm tích văn
hóa hiện diện trong ngày hôm nay.
+ Nỗi lưu luyến khi rời khỏi kinh thành:
- Rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc.
- Sực nhớ điều gì chưa kịp nói > đột ngột đổi dòng dể gặp lại thành phố lần
cuối
- Liên tưởng:
• Rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây > nỗi vương vấn, chút
lẳng lơ kín đáo của tình u
• So sánh: sơng Hương, kinh thành Huế - nàng Kiều, Kim Trọng > Tấm lịng
người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở
ð Có 3 so sánh bắc cầu: sông Hương trong khúc ngoặt chia tay kinh thành Huế
-Thúy Kiều trong đêm tình tự gửi lời nguyện thề cùng Kim Trọng – người Châu Hóa


mãi thủy chung với xóm làng > từ dịng chảy khác lạ của dịng sơng liên tưởng tới mối
tình kín đáo, e ấp, trước sau như nhất của Kim – Kiều, so sánh với tình yêu quê hương
xứ sở của người Huế > mượn tình cảm riêng để khái quát mối tình chung, làm cho
tình u đất, u nước khơng chung chung, to tát mà mềm mại, ý vị, tinh tế, mà đằm
thắm, thiêng liêng, sâu sắc.
c. Đoạn 3: Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử. với cuộc đời và thi ca
+ Trong mối quan hệ với lịch sử:
- Điểm lại dấu ấn dịng sơng trong lịch sử dân tộc: thế kỉ XV ở “Dư địa chí”
của Nguyễn Trãi, thế kỉ XVIII qua chiến thắng của anh hùng Nguyễn Huệ, thế kí XIX
với máu của các cuộc khởi nghĩa, đi vào thời đại của cách mạng tháng Tám bằng

những chiến công rung chuyển > tham gia, trải nghiệm cùng những bước thăng trầm
của lịch sử dân tộc.
- Khái qt: Sơng Hương là vậy, là dịng sơng của thời gian ngân vang, của sử
thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm
một chiến cơng, để rồi nó trở vè với cuộc sống bình thường, làm một người con
gái dịu dàng của đất nước.
ð Nếu như ở đoạn 1 và 2, sông Hương được cảm nhận chủ yếu trên bề rộng của
khơng gian địa lí với những liên tưởng độc đáo thì ở đoạn này, sơng Hương được bố
cục theo chiều sâu của lịch sử. Nó ghi dấu những chiến cơng, lặng khóc cho những hi
sinh âm thầm, vùng lên quật khởi…> giống như một tấm gương soi vào lịch sử. Sông
Hương như biết bao chiến sĩ vô danh trên dải đất hình chữ S. (Sinh ra khơng phải cầm
súng cầm mác nhưng kẻ thù buộc ta phải đấu tran. Khi bình yên, họ lại trở về với cuộc


sống bình thường, trở về bản tính tự nhiên mn thủa , như sông Hương “làm một
người con gái dịu dàng của đất nước”)
+ Trong mối quan hệ với thi ca:
- Có một dịng sơng thi ca về sơng Hương mà nước luôn đổi màu.(thơ Tản Đà,
Cao Bá Quát, Bà huyện Thanh Quan, Tố Hữu).
- Nhà thơ hỏi với trời, với đất: Ai đã đặt tên cho dịng sơng?
• Đối tượng hỏi: đất, trời.
• Nội dung hỏi: ai đã đặt tên cho dịng sơng? > câu hỏi dường như khơng thể
có một lời đáp cụ thể
• Mục đích:
o Khơng phải để hỏi nguồn gốc của một danh xưng địa lý thong thường mà là
một sự nhấn mạnh, ẩn chứa niềm tự hào sâu sắc về dịng sơng q hương.
o Gợi mở cho người đọc những hướng trả lời khác nhau bằng trải nghỉệm văn
hóa của bản thân.
ð Tên riêng của một dịng sơng có thể do một cá nhân nào đó đặt ra, qua năm
tháng, danh xưng của tác giả bị mai một, nó trở thành tài sản chung của cộng đồng,

Tuy nhiên, cái tên đích thực của dịng sơng phải là danh từ gắn với biểu tượng văn
hóa, tinh thần, chiều sâu lịch sử của một dân tộc. Ở khía cạnh này, chính những người
dân bình thường – những người sáng tạo ra văn hóa, văn học, lịch sử là những người “
đã đặt tên cho dịng sơng”
d. Một vài đặc sắc nghệ thuật
+ Ngôn ngữ: phong phú, giàu hình ảnh, gợi cảm.


+ Hình ảnh: so sánh độc đáo bằng liên tưởng lãng mạn, đậm chất trữ tình.
+ Thủ pháp: nhân hóa > Sông Hương được cảm nhận như một sinh thể sống
động (là người con gái dịu dáng đằm thắm với tất cả các cung bậc cảm xúc) > thuận
lợi để đan cài những suy tưởng về văn hóa, lịch sử, về truyền thống con người và đất
nước Việt Nam.
CỦNG CỐ KIẾN THỨC
Đề 1: Phân tích hình tượng sơng Hương trong “Ai đã đặt tên cho dịng sơng”
Đề 2: Cảm nhận về cái tơi của Hồng Phủ Ngọc Tường qua “Ai đã đặt tên cho
dịng sơng”.
Gợi ý giải đề:
Đề 1:
+ Khái qt:
- Vị trí : hình tượng trung tâm, thể hiện những nét độc đáo về nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm.
- Mô tả tổng quát: Sông Hương qua cảm nhận của Hồng Phủ Ngọc Tường
hiện lên như một “cơ gái Di-gan”: mãnh liệt, mê đắm nhưng không kém phần dịu
dàng, tình tứ, ý nhị.
+ Phân tích:
- Vẻ đẹp của Sông Hương ở thượng nguồn.
- Vẻ đẹp của Sông Hương khi chảy qua kinh thành Huế.
- Vẻ đẹp Sông Hương qua những áng thơ văn.



- Vẻ đẹp hùng tráng trong lịch sử.
+ Đánh giá:
- Khám phá ra một Sông Hương độc đáo, đa sắc.
- Cơ sở:
• Quan sát tinh tế, sự suy ngẫm > đặt Sơng Hương trong nhiều chiều (khơng
gian địa lí, thời gian lịch sử, tâm hồn thi ca, chiều sâu văn hóa, tâm linh…)
• Tài hoa, khả năng liên tưởng và vốn từ vựng phong phú.
- Qua miêu tả sông Hương thể hiện phong cách tùy bút Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
Đề 2: Cái tơi Hồng Phủ Ngọc Tường
+ Un bác (kiến thức về lịch sử, địa lí, văn hóa…)
+ Tinh tế, tài hoa (cảm nhận những khía cạnh khuất lấp của con sông: nét
hoang dại…; ngôn so sánh độc đáo, ngôn từ phong phú gợi cảm…)
+ Giàu trí tưởng tượng, lãng mạn, bay bổng (tưởng tượng hành trình tìm về cố
đơ như hành trình tìm về với “người tình mong đợi”…)
+ Gắn bó máu thịt và tự hào với cảnh vật và con người Huế (những suy tưởng,
đối sánh khi đứng trước sơng Nê-va…).
Ai đã đặt tên cho dịng sơng?
-Hồng Phủ Ngọc Tường(Chuyên đề ôn thi Đại học - Tác giả: Nguyễn Thanh Huyền - GV Văn)


I. Hình tượng cái tơi tác giả
1. Một cái tơi dạt dào cảm xúc:
1.1. Tư thế và tâm thế:
+ Tư thế: Một người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói lửa chiến
tranh,vừa bừng bừng khí thế chống giặc ngoại xâm, vừa hào hứng ngợi ca chủ nghĩa
anh hùng,một tư thế tự do, tự tin và tự hào để mà nhìn vào mối quan hệ và dịng chảy
của lịch sử dân tộc để khẳng định sức sống, sức mạnh của nó.
+ Tâm thế: Một người nghệ sỹ giàu rung động và rất lãng mạn khi chọn cho

mình một điểm nhìn thật đặc biệt về con sơng.Chất lãng mạn, nghệ sĩ thể hiện ở sự lựa
chọn thời gian mùa thu và không gian khu vườn cổ sầm uất, một khu vườn mùa nào
cũng có hoa nở.và trái chín mà vẫn thể hiện một “thần thái yên tĩnh và khoáng đạt
giống như một sự tự do nội tâm”- một không gian vừa cổ kính, vừa thắm tươi, vừa
phóng khống. Trong không gian ấy, tâm thế của nhà văn trở nên thư thái, có sự tự do
nội tâm để cảm nhận một cách tinh tế và có chiều sâu về đối tượng. Sự thư thái biểu
hiện trong những hoạt động cụ thể: vừa ăn trái hồng ngọt và thanh để cảm nhận hương
vị thực, vừa đọc Kiều để đắm mình trong thế giới tưởng tượng của thơ ca. Đi giữa cõi
thực và cõi thơ, sống trong sự giao thoa của những rung động với khung cảnh thiên
nhiên và những rung động trước một mối tình say đắm trong những trang Kiều để từ
đó nhà văn có một phát hiện độc đáo về mối liên hệ giữa những câu Kiều với âm
hưởng sâu thẳm của Huế: “dịng sơng đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng
vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những
mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết…” và quan trọng nhất là nhận ra rằng
sông Hương và thành phố của nó như một vang bóng trong thời gian hình tượng cặp


tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều “tỡm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca
và âm nhạc”. Có thể thấy đó là một tư thế và tâm thế rất thích hợp với việc bộc lộ
những rung động của tình yêu- một thứ tình yêu rất sâu và rất đắm say của nhà văn
với con sông xứ Huế.
1.2. Cảm hứng và cảm xúc:
+Cảm hứng: niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút,
quyến rũ riêng của con sông xứ Huế ở các phương diện không gian và thời gian, lịch
sử và văn hoá. Cả bài tuỳ bút dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy
khắc khoải “Ai đã đặt tên cho dịng sơng”Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dịng
sơng đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện
mạo hình hài mà cịn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông xứ Huế hiện
lên trong cuộc tim kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con sông địa lý
mà là một sinh thể, một con người “sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều” vừa xinh

đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với
nền văn hố riêng của nó.
+ Cảm xúc: vơ cùng phong phú. Có khi nó đựơc bộc lộ trực tiếp với các trạng
thái nội tâm: vừa thích thú, vừa lơ đãng , miên man trong vẻ đẹp của dịng sơng đang
đổi sắc khơng ngừng, nhớ da diết điệu chảy lặng lờ của con sông khi ngang qua thành
phố, cái điệu chảy như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế trong trăm nghìn
ánh hoa đăng; thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu bởi hiểu
sâu sắc rằng nền âm nhạc Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương, là linh hồn
của con sơng nên chỉ là chính nó vang lên trong đêm giữa tiếng rơi bán âm của nước
từ những mái chèo khuya. Có khi cảm xúc yêu thương da diết với xứ Huế lại đượcbộc


lộ gián tiếp trong cuộc hành trình lặng lẽ với rất nhiều những tìm kiếm và phát hiện:
Cái “tơi” tác giả khi thì chứng kiến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi nhạc đã
chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua.
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”, khi bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương
đồng giữa con sông và con người ở “nỗi vương vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình
u”; có khi lại cũng vì yêu Huế mà đọc văn kiện của Liên Hiệp quốc về Huế bằng sự
rung động thẩm mỹ của tâm hồn để “thấy hiện bóng khn mặt quyến rũ và tươi trẻ
của dịng sơng thành phố giữa lịng thế giới hiện đại ”; đồng thời cũng hoài niệm đến
khắc khoải khi phát hiện ra một sắc màu xưa cũ của chiếc áo cưới ở Huế ngày xưa, rất
xưa “màu áo lục điều với loại vải…ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện” để từ
cái sắc màu văn hố ấy mà liên tưởng một cách rất ngẫu hứng mà có lí tới “màu của
sương khói trên sơng Hương giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn
giấu khn mặt thực của dịng sơng”
Rõ ràng Hồng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những
cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một nốt nhạc
trong bản đàn lịng để tơn vinh vẻ đẹp của sơng Hương.
2. Một cái tơi nghiêm túc cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện
2.1. Kiến thức và ý thức

+ Kiến thức: phong phú và có chiều sâu. Có thể nói trong bài bút ký pha tuỳ
bút này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp nhiều mặt về
con sông Hương từ địa lý, lịch sử, văn hoá, văn chương và đời sống, tự nhiên và khảo
cổ, cái hiện sinh và những gì thuộc về xa xưa…Đọc bài viết có thể thấy cơng phu
nghiên cứu, tìm hiểu của nhà văn thật đáng nể: vừa quan sát để thấy được từng nét


diện mạo của con sông trong từng khoảng không gian cụ thể, vừa nghiên cứu để thấy
mối liên hệ giữa đặc điểm địa lý với đặc điểm dòng chảy của con sơng, vừa tìm hiểu
con sơng trong từng thời kỳ lịch sử, vừa thâm nhập thực tế để nhận biết một cách cụ
thể những nếp sinh hoạt, những cách thức lao động, những hương vị riêng của cỏ cây,
hoa trái, đất đai, vừa đọc tư liệu, sách vở để hình dung ra quá khứ một thời vang bóng
trong những dấu tích cịn lại của thành qch, đình đền. Trong khối lượng kiến thức
được huy động, đáng kể nhất là kiến thức địa lý, lịch sử và văn hoá. Các mặt kiến thức
này không tách rời nhau, không độc lập tồn tại mà hoà quyện, hỗ trợ nhau tạo thành
một điểm tựa vững chắc cho ngòi bút nhà văn khi miêu tả con sông của xứ Huế.
+ ý thức: Cả bài tuỳ bút là cuộc hành trình hào hứng và cẩn trọng, say sưa và
rất nghiêm túc để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi “Ai dó đặt tên cho dũng sụng”. Đây
là câu hỏi ngỡ như bâng quơ của một nhà thơ nào đó khi đến với Huế song cũng là
một câu hỏi đầy ngụ ý của chính Hồng Phủ Ngọc Tường. Hỏi như một cách để xác
lập mối quan hệ giữa dịng sơng với con người, giữa cái tên của dịng sơng với cách
nhìn, cách nghĩ và những cảm nhận của con người về nó. ý thức về điều này nên
trong khi tìm hiểu về sơng nhà văn cũng rất cơng phu tìm hiểu về cuộc sống và con
người bên dịng sơng ấy. Nghĩa là con sơng đã được đặt trong mối quan hệ gắn bó mật
thiết với con người. Trong mối liên hệ ấy, sông đã được soi ngắm từ nhiều góc độ,
thời gian và khơng gian, văn hoá và lịch sử, sinh hoạt và phong tục, đời sống sinh hoạt
và thế giới tinh thần…Và trong quá trình tìm hiểu “Ai dó đặt tên cho dũng sụng”,
Hồng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ mình khơng chỉ là một cái tơi giàu hiểu biết, ham
tìm hiểu mà cịn là một cái tôi rất mực tinh tường và vô cùng sâu sắc trong những



×