Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Ảnh hưởng của thế giới quan phật giáo đối với lối sống người dân tỉnh bình dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.54 MB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP. HCM
KHOA KỸ THUẬT HÓA HỌC

TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC

ẢNH HƯỞNG CỦA THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
ĐỐI VỚI LỐI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY

TP. Hồ Chí Minh, năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.....................................................1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................3
3.1 Mục đích nghiên cứu....................................................................................3
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................4
4.1 Đối tượng nghiên cứu...................................................................................4
4.2 Phạm vi nghiên cứu......................................................................................4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.........................................................4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn...............................................................................4
7. Kết cấu của đề tài...............................................................................................4
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO VÀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT
GIÁO CƠ BẢN.........................................................................................................6
1.1 Khái quát về Phật giáo.....................................................................................6
1.2 Sự phát triển và du nhập của Phật giáo vào Việt Nam....................................11
1.3 Nội dung cơ bản của Triết học Phật giáo ảnh hưởng đến người Việt Nam.....13


Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI
DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY................................................................16
2.1 Ảnh hưởng của Phật giáo trong nhận thức của người Bình Dương................16
2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo đến quan niệm đạo đức và lối sống của người Bình
Dương.................................................................................................................. 19
2.3 Ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục tập quán của người Bình Dương....22
KẾT LUẬN.............................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................27


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội là một hệ thống tồn vẹn có cấu trúc phức tạp với nhiều yếu tố hợp
thành. Với tính cách là một yếu tố của cấu trúc đó, tơn giáo đã có những ảnh hưởng
không nhỏ đến con người và xã hội trên cả hai mặt, tích cực và tiêu cực, góp phần
tạo nên sắc thái đặc biệt cho đời sống nhân loại.
Vấn đề xem xét ảnh hưởng của tôn giáo đối với lối sống, đạo đức cũng được
đặt ra và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Có tình hình đó bởi lẽ, tác
động của những mặt trái của kinh tế thị trường hiện nay đã làm nảy sinh những
hành vi lối sống không phù hợp truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiến bộ xã hội.
Những hành vi lối sống ấy đã và đang làm xói mịn giá trị văn hố truyền thống mà
dân tộc ta đã mất hàng ngàn năm mới có thể hình thành được. Bên cạnh đó, khuynh
hướng làm giàu bằng bất cứ giá nào, kể cả lừa đảo bất chính, gây tội ác, vi phạm
pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên lương tâm và nhân phẩm con người ở một số cá
nhân vị kỷ đã và đang tạo nguy cơ làm băng hoại các giá trị văn hoá, đạo đức và
luật pháp.
Phật giáo dễ dàng đi vào lịng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo
đức, hướng con người đến lối sống vị tha, bình đẳng và bác ái. Phật giáo đã trở
thành một trong những hệ tư tưởng - tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến

ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam nói
chung và người dân trong tỉnh Bình Dương nói riêng. Phật giáo ở Việt Nam luôn
gắn liền với vận mệnh đất nước, thăng hoa cùng dân tộc trong mọi hoàn cảnh và dù
trải qua nhiều thời đại vẫn ln là một tơn giáo có truyền thống u nước, gắn bó
với dân tộc.
Chính vì vậy, nghiên cứu thế giới quan Phật giáo ảnh hưởng đến lối sống tinh
thần người dân tỉnh Bình Dương hiện nay nhằm tìm ra những giải pháp phát huy
ảnh hưởng tích cực, khắc phục hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Với tầm quan trọng và ý nghĩa như vậy, tôi chọn
đề tài: “Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với lối sống người dân tỉnh
Bình Dương hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài


2
Phật giáo là tôn giáo – triết học cổ đại có tầm ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống
văn hóa tinh thần của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Khơng bao lâu sau khi ra
đời, nó đã phát triển rộng khắp các nước thuộc khu vực Châu Á, và ngày nay nó lại
đang lan toả mạnh sang các nước phương Tây. Bởi vậy, nó thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của các tăng ni Phật tử, các nhà khoa học trên mọi khía cạnh. Nhìn
chung Phật giáo được đánh giá cao bởi những giá trị văn hoá của nó.
Enstein, nhà bác học vĩ đại của nhân loại, khi nghiên cứu về đạo Phật đã cho
rằng, đây là tôn giáo của tương lai, là tôn giáo của vũ trụ. Ông đánh giá cao quan
niệm phủ nhận thần linh, thượng đế, đánh giá cao thực nghiệm vật chất và tinh thần
trong ý thức Phật giáo. Ơng cho rằng, nếu có một tơn giáo nào đó đáp ứng được u
cầu của khoa học hiện đại thì tơn giáo đó chính là Phật giáo.
Nhà toán học, kiêm triết học người Anh nổi tiếng Bertarand Rusel trong cuốn
Lịch sử Triết học Tây Phương đã viết rằng Phật giáo là tổ hợp của triết lý suy cứu
và triết lý khoa học. Phật giáo đề cao phương pháp khoa học và theo đuổi mục đích
thuần lý. Phật giáo có thể thay thế cho khoa học ở những đoạn đường mà khoa học

không đến được do tính khơng hồn thiện của những cơng cụ khoa học.
Cịn H.G. Well, nhà sử học nổi tiếng người Anh khi đánh giá về vai trò của
Phật giáo đã cho rằng, Phật giáo đã đóng góp vào sự tiến bộ của nền văn minh nhân
loại nhiều hơn bất cứ một ảnh hưởng nào khác trong lịch sử nhân loại.
Ở Phương Đông, Phật giáo cũng thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các
nhà khoa học. J. Nerhu trong “Phát hiện Ấn Độ” đã chỉ ra những giá trị nhân đạo,
nhân bản trong Phật giáo, chỉ ra những giá trị mà Phật giáo đã đóng góp cho dân tộc
Ấn Độ.
Ở Trung Quốc, ngay từ cuối triều đại nhà Thanh, việc nghiên cứu Phật giáo đã
rất thịnh hành trong giới trí thức Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu như Khang Hữu
Vi, Đàm Tự Đồng, Lương Khải Siêu và Chương Thái Niêm đã sử dụng học thuyết
Phật giáo như một vũ khí tư tưởng chống lại các trào lưu tư tưởng sùng bái phương
Tây. Điển hình là Đàm Tự Đồng trong cuốn “Về lòng từ bi” đã cho rằng, lòng từ bi
là nguồn gốc của vũ trụ. Ông đã sử dụng tư tưởng của Thiền tông như một trong các
nguồn tư liệu để chứng minh cho luận điểm nói trên. Theo ơng, ý tưởng về lòng từ


3
bi, bình đẳng và vơ ngã trong Phật giáo cịn là nguồn giác ngộ và khích lệ đối với
tầng lớp trí thức Trung Quốc đương thời.
Ở Việt Nam, từ lâu trong lịch sử, việc nghiên cứu Phật giáo và tác động của
Phật giáo đối với đời sống xã hội nói chung, cũng đã được quan tâm nghiên cứu
trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc kể cả giai đoạn suy tàn.
Đặc biệt, từ những năm cuối của thế kỷ XX trở đi đã xuất hiện rất nhiều cơng
trình khoa học nghiên cứu về Phật giáo, về vai trò của Phật giáo trong đời sống xã
hội nói chung, trong lối sống của người Việt Nam nói riêng.
Trong cuốn “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người
Việt Nam hiện nay” (Nxb CTQG, Hà Nội 1997) do Giáo sư Nguyễn Tài Thư chủ
biên, các tác giả đã đề cập đến vai trò của Phật giáo trên một số lĩnh vực như: ảnh
hưởng của Phật giáo đối với hệ tư tưởng, đối với sự hình thành nhân cách con người

Việt Nam hiện nay. Nguyễn Dăng Duy trong “Phật giáo và văn hoá Việt Nam” (Nxb
Hà Nội 1999) đã đề cập đến vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị, văn hố,
đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Học Viện Phật giáo Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh với “Phật giáo nhập thế và
phát triển” (Nxb Tôn giáo 2008) đã tập hợp các bài viết của các nhà khoa học, các
trí thức Phật giáo viết về vai trò của Phật giáo trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội Việt Nam hiện nay như: Phật giáo trong thời kỳ hội nhập và phát triển, Phật giáo
với chính trị, xã hội, Phật giáo với sự phát triển bền vững của đất nước, Phật giáo
với xã hội dân sự, Phật giáo với sự nghiệp độc lập, Phật giáo với các vấn nạn giao
thông, Phật giáo với đời sống tâm linh, Phật giáo với việc việc xây dựng nền kinh tế
nhân bản, Phật giáo với hoạt động từ thiện nhân đạo…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài hệ thống hóa Phật giáo, phân tích ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối
sống của người dân tỉnh Bình Dương hiện nay, từ đó đề xuất phương hướng và giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ:


4
- Khái quát những nội dung cơ bản trong giáo lý, giáo luật của Phật giáo, chỉ
ra đặc điểm và thực trạng Phật giáo Việt Nam hiện nay.
- Phân tích những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Phật giáo trên một số
phương diện cơ bản trong lối sống của người dân Bình Dương hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống
tinh thần người dân Bình Dương hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thế giới quan Phật giáo và ảnh hưởng của
thế giới quan Phật giáo đối với lối sống của người dân tỉnh Bình Dương hiện nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với lối
sống của người dân tỉnh Bình Dương từ xưa đến hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời vận dụng các phương
pháp nghiên cứu như: logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn như sau:
- Thứ nhất, đề tài góp phần cung cấp một cái nhìn khái quát về thế giới quan
Phật giáo và những ảnh hưởng của nó đối với lối sốnh người dân tỉnh Bình Dương
hiện nay.
- Thứ hai, đề tài góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho Đảng, Nhà
nước, cơ quan quản lý tơn giáo có giải pháp phù hợp để phát huy ảnh hưởng tích
cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đối với lối sống của người dân tỉnh
Bình Dương hiện nay.
- Thứ ba, kết quả của đề tài là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy lý luận về tôn giáo và một số lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn khác.
7. Kết cấu của đề tài


5
Nội dung nghiên cứu của đề tài được kết cấu gồm 2 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát về Phật giáo và tư tưởng Triết học Phật giáo cơ bản
1.1 Khái quát về Phật giáo
1.2 Sự phát triển và du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
1.3 Nội dung cơ bản của Triết học Phật giáo ảnh hưởng đến người Việt Nam
Chương 2: Ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống của người dân tỉnh Bình Dương

hiện nay
2.1 Ảnh hưởng của Phật giáo trong nhận thức của người Bình Dương
2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo đến quan niệm đạo đức của người Bình Dương
2.3 Ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục tập quán của người Bình Dương


6

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO VÀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
PHẬT GIÁO CƠ BẢN
1.1 Khái quát về Phật giáo
Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước cơng ngun.
Khơng lâu sau đó, Phật giáo đã lan tỏa và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quốc gia
khác ở Châu Á. Ngày nay, Phật giáo đã lan rộng ở khắp các châu lục và là một trong
những tơn giáo lớn trên thế giới.
Trong Phật giáo có chứa đựng nhiều những giá trị văn hoá, đạo đức có ảnh
hưởng khơng nhỏ đến nền văn hố của một số quốc gia, dân tộc công nhận.
Học thuyết Phật giáo chứa đựng những điều cốt tử là: Khổ, Không, vô thường,
vô ngã, nhưng sự triển khai cụ thể trong từng thời pháp, từng hồn cảnh thì khác
nhau.
Phật giáo đề cao con người. Hay nói cách khác, tiền đề xuất phát của Phật giáo
là con người sống hiện hữu. Con người là trọng tâm trong học thuyết đạo đức Phật
giáo và con người phải chịu trách nhiệm về kết quả hành động của chính bản thân
mình.
Theo quan niệm của Phật thì cuộc đời là bể khổ và nguyên nhân của khổ là do
vô minh và tham dục. Cái khổ ấy do chính con người tạo nên nhưng nó khơng phải
là vĩnh viễn bởi vì con người có thể tự tìm con đường thốt khổ cho chính mình.
Con đường ấy là sự nỗ lực rèn luyện trí tuệ thân tâm, diệt trừ vơ minh, tham dục. Sự
giải thốt trong Phật giáo là sự tự lực giải thoát. Đây là điểm tiến bộ và cũng là sự
khác biệt rất lớn giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Các tôn giáo hữu thần cũng

bàn về con người, về sự hiện hữu của con người và về con đường giải phóng con
người. Nhưng với các tôn giáo hữu thần, con người là ngã thể khác của đấng siêu
nhiên nên nó chỉ được giải phóng khi đã giã từ cuộc sống thế tục, khi được nhận sự
cứu vớt của đấng siêu nhiên.
Với Phật giáo, con người là sự kết hợp của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành,
thức - tức 5 yếu tố gồm cả vật chất và tinh thần) chứ không phải là sản phẩm của


7
thượng đế. Vì vậy, con người phải nhìn sâu vào thực tại hiện hữu của chính mình để
thấy rõ tính chân thật của cái bản ngã để từ đó mà nỗ lực giải thốt cho mình.
Từ khổ đau hiện thực với tư cách là kết quả, Phật truy tìm căn nguyên nỗi khổ
của con người. Phật cho rằng, con người khổ là vì “Vơ minh”, vì “Tham ái” và
“Chấp thủ”.
Vơ minh tức là không nhận thức được đúng đắn bản chất chân thực của vạn
pháp. Vạn pháp là vô thường, vô ngã, vạn vật là trùng trùng duyên khởi. Con người
vì vơ minh nên khơng nhận ra được bản chất chân thực đó. Vạn vật là vơ thường
nhưng con người vì tham ái, cầu mong, bám víu vào cái khơng ổn định nên đã đốt
lên ngọn lửa si mê, sân hận. Vì tham ái, con người sinh ra chấp thủ, tức mong ước,
là cố chiếm lấy làm sở hữu cho riêng mình những vật hay điều mình thích làm phát
sinh cái ngã. Chính vì vậy mà con người tự làm khổ cho mình.
Trong Phật giáo, trách nhiệm của mỗi người với những hành vi thiện ác của
thân, tâm mình rất được đề cao. Đức Phật dạy rằng: “Làm dữ ở nơi ta mà ô nhiễm
cũng bởi ta; làm lành bởi ta mà thanh tịnh cũng bởi ta chứ không ai có thể làm cho
ai thanh tịnh được”.
Trên con đường giải thoát khỏi cái khổ, Phật giáo dạy con người phải nương
tựa chính mình chứ khơng nương tựa ai khác, khơng có một thế lực nào có thể mạnh
hơn chính bản thân con người. Phật cho rằng, con người là tối thắng vì con người có
thể làm được tất thảy mọi thứ. Bản thân mỗi người là ngọn đèn cho chính mình và
người là hịn đảo trú ẩn của chính bản thân con người. Theo quan niệm Phật giáo,

Bát chính đạo với tám con đường giải thoát mà Phật đã chỉ ra chính là cách thức để
phá bỏ sự mê muội, thốt khỏi khổ đau, đạt trí tuệ bát nhã tức là đạt tới độ nhận
thức được thực tướng của vạn pháp.
Chính kiến là cái thấy về sự thực, cái nhận thức xác thực. Phật cho rằng, trong
mỗi chúng sinh đã có sẵn hạt giống của chính kiến, của tuệ giác, chỉ có điều tuệ giác
đó bị vơ minh làm mờ lấp mà thơi. Chính kiến đưa đến chính tư duy. Chính tư duy
có nghĩa là suy nghĩ đúng, là sự suy nghĩ dựa trên sự thật, trên chính kiến, tuệ giác
để thấy rõ được bản chất vô thường, vô ngã của sự vật. Hay nói cách khác, suy nghĩ
đúng là suy tư phù hợp với đạo lý duyên khởi. Chính tư duy đưa đến chính ngữ.
Chính ngữ là lời nói thật, lời nói chân chính. Chính ngữ dẫn đến chính niệm. Chính


8
niệm là suy niệm đúng đắn. Chính niệm dẫn đến chính nghiệp. Chính nghiệp là
hành động chân chính để khơng tạo nghiệp. Chính nghiệp đưa tới chính mạng.
Chính mạng là nghề nghiệp, phương tiện sinh sống chân chính. Chính mạng đưa
đến chính tinh tiến. Chính tinh tiến là nỗ lực siêng năng học tập, kiểm soát thân,
khẩu, ý theo cái thiện. Chính tinh tiến đưa tới chính định. Chính định là nhiếp tâm
vào con đường chân chính khơng để bị vọng động bởi tác động của ngoại cảnh.
Chính định làm phát sinh chính tuệ. Chính tuệ là sự sáng suốt để nhận thức rõ thực
tướng của vạn vật.
Theo nhãn quan Phật giáo, Bát chính đạo làm cho con người nhận thức rõ
được chân như của sự vật và con người, làm cho con người biết quý trọng sự màu
nhiệm của cuộc sống, biết sống ung dung, tự tại giữa cuộc đời.
Đặt trọng tâm vào con người trên con đường giải thoát cũng như trong việc
rèn luyện đạo đức, Phật đã dùng thuyết Nhân quả, luân hồi, nghiệp báo để lý giải
cái khổ của con người qua các kiếp sống khác nhau.
Theo quan niệm của nhà Phật, mọi hoạt động của con người từ thân, khẩu, ý
đều để lại một kết quả nhất định, trong đó nhân có trước, quả có sau, quả phụ thuộc
vào nhân và nhân nào quả ấy. Tuỳ thuộc vào việc con người gieo nhân như thế nào

mà họ nhận được quả tương ứng. Nhà Phật gọi đó là nghiệp báo. Như vậy, nghiệp
báo được xem là kết quả hoạt động của con người (gồm cả thân, khẩu, ý) mà tất yếu
họ nhận được trong hiện tại hoặc tương lai.
Nhân quả, nghiệp báo không phải là sản phẩm của riêng Phật giáo mà là sản
phẩm chung của triết học và tôn giáo Ấn Độ. Tuy nhiên, Phật giáo đã khái qt để
trình bày chúng có tính hệ thống và đặc biệt chú ý đến “ý nghiệp”. Ý nghiệp theo
quan niệm của nhà Phật, là cái khởi đầu cho tất cả các nghiệp khác.
Nghiệp báo là do chính bản thân con người làm ra nên chính mình bị lơi cuốn
vào vịng lục đạo, bị lăn lộn triền miên trong vòng sinh tử luân hồi, cứ chết đi, sống
lại mãi nếu vẫn còn những hoạt động tạo nghiệp. Giải thốt có nghĩa là trả nghiệp
cũ và khơng tạo thêm nghiệp mới. Khi nào chúng sinh trả hết nghiệp, không cịn lạc
vào nghiệp thì được hồn tồn tự do.
Như vậy, trong Phật giáo con người là chủ nhân của nghiệp, con người có thể
thay đổi nghiệp của mình tuỳ thuộc vào hoạt động của thân và tâm mỗi người.


9
Thuyết nghiệp của Phật giáo có ý nghĩa giáo dục đạo đức rất lớn. Nó hướng con
người đến những điều thiện, điều lành, tránh xa điều ác, điều dữ.
Phật giáo xây dựng đạo đức của mình trên nền tảng của triết lý vô ngã. Vô ngã
trong quan niệm nhà Phật khơng chỉ bó hẹp trong cái ta của con người cá nhân, của
tơi hay của anh mà là khơng có cái ngã tuyệt đối ở tất cả các sự vật, hiện tượng của
vũ trụ nói chung. Phật dạy tín đồ của mình phải nhìn sự vật, hiện tượng bằng con
mắt vơ ngã để có thể qn chiếu được lẽ khơng của vạn vật, để từng bước diệt khổ,
có nghĩa là từng bước đạt được sự giải thốt. Chính vì vậy, theo quan niệm của nhà
Phật, “Vơ ngã” cũng có nghĩa là “Niết bàn”.
Coi trọng một nếp sống đạo đức, Đức Phật đã đưa ra một hệ thống các phạm
trù đạo đức như Lục độ, Lục hoà, Thập thiện, Tứ ân…
- Lục độ hay còn gọi là 6 hạnh Ba la mật, bao gồm: Bố thí, trì giới, tinh tấn,
nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ. Người tu hành đắc được 6 hạnh này thì độ được mình

và độ được người sang bờ bên kia của bến mê, có nghĩa là đạt giải thốt. Lục độ là
phép mơn tu Bồ tát thừa. Theo tinh thần này, bất kỳ là ai, dù người mới nhập pháp
môn tu hành hay đến các vị Bồ tát, Phật đều phải vừa độ mình, độ người để giúp
mình và giúp người cùng ra khỏi bến mê. Như vậy, giải thốt theo tinh thần của Lục
độ thì bản thân cá nhân mỗi người phải làm thiện, sau đó giúp người làm thiện. Và
cuối cùng, việc giúp mình, giúp người trở thành lẽ tự nhiên trên con đường thực
hiện giải thốt.
- Lục hồ là sáu sự hồ hợp bao gồm: thân hòa, khẩu hòa, giới hòa, ý hòa, kiến
hòa và lợi hịa. Thân hịa từ kính hay thân hịa đồng tu nghĩa là tăng chúng phải biết
từ hịa, kính nhường nhau trong mọi cử chỉ, hành động. Khẩu hòa đồng kính hay
khẩu hịa vơ tranh có nghĩa là tăng chúng sống trong tăng đoàn phải nhường nhịn
nhau từng lời ăn, tiếng nói, khơng gây gổ cãi lộn nhau. Giới hịa đồng kính hay giới
hịa đồng tu nghĩa là tăng chúng cùng tu chung giới luật nên phải hòa thuận, kính ái
hịa hợp với nhau. Ý hồ kính hay ý hồ đồng duyệt có nghĩa là tăng chúng phải tâm
đầu, ý hợp, chia sẻ buồn vui cùng nhau, yêu mến nhau. Kiến hồ đồng kính hay
kiến hồ đồng giải tức là hết thảy tăng chúng đều thờ Phật, tu hành theo pháp mơn
nhà Phật, do đó phải cùng nhau thống nhất hoà hợp và chia sẻ kiến thức về Phật


10
pháp. Lợi hoà đồng quân hay đồng lợi hoà tức là tăng chúng cùng nhau thụ hưởng
lợi ích mà bá tánh cúng dường, cùng nhau chia sẻ, thụ hưởng một cách kính ái.
Lục hồ khơng chỉ là chuẩn mực đạo đức của hàng tăng chúng mà mở rộng ra
là sự hoà hợp của tất cả các đệ tử nhà Phật nói chung. Mở rộng hơn nữa nó cịn có ý
nghĩa với một cộng đồng, một xã hội, một quốc gia và toàn nhân loại.
- Thập thiện tức là mười điều thiện bao gồm: 3 điều thiện về thân, 4 điều thiện
về khẩu, 3 điều thiện về ý.
+ Ba điều thiện về thân nghiệp gồm: khơng sát sinh mà phải phóng sinh;
khơng trộm cắp mà phải bố thí; khơng tà dâm mà phải sống trong sạch.
+ Bốn điều thiện về khẩu nghiệp gồm: khơng nói lời dối trá, mà phải nói lời

trung thực; khơng nói lời độc ác, xúc xiểm mà phải nói lời hiền dịu; khơng nói lời
thêu dệt, đơm đặt mà phải nói lời có ích.
- Tứ ân là 4 ân đức lớn mà mỗi người đều phải nhớ, phải trả trong cuộc đời
của mình, đó là Ân cha mẹ vì cha mẹ đã sinh ra ta; ân chúng sinh vì chúng sinh đã
giúp đỡ ta; ân Tổ quốc vì Tổ quốc cho ta sự yên bình lạc đạo và ân Tam bảo vì Tam
bảo đã cho ta chánh pháp.
Đây là những chuẩn mực đạo đức rất gần gũi với giá trị đạo đức truyền thống
của người Việt Nam.
- Một trong những chuẩn mực đạo đức Phật giáo có ảnh hưởng khá nhiều đến
lối sống của người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện nay đó là Tứ vơ lượng tâm
“Từ, bi, hỷ, xả”.
Tâm “Từ” là lịng từ ái vô lượng, vô biên, là cái đối trọng với tâm sân hận.
Theo quan niệm của nhà Phật, cái tâm sân hận khơng thể được dập tắt bằng lịng thù
ốn mà nó chỉ có thể hố giải được bằng tâm “từ”.
Tâm “Bi” là lịng xót thương vơ hạn, là sự rung động trước nỗi đau của người
khác và nỗi đau của nhân thế, là sự cảm thông vô hạn đối với con người, đối với
mọi chung sinh không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, sang hèn, thân sơ. Tâm “Bi”
chính là cái đối trọng với hung bạo, hận thù nhưng nó hồn tồn khơng phải là sự bi
lụy. Đức Phật đã dạy rằng, hận thù không bao giời diệt được hận thù, từ bi diệt hận
thù đó là định luật nghìn thu.


11
Tâm “Hỷ” nghĩa là vui với niềm vui của người khác, buồn với nỗi buồn của
người khác, khơng hiềm khích ganh tỵ trước thành tựu của người khác. Tâm “Xả”
nghĩa là khơng luyến ái, khơng bực tức, nóng giận trong phiền não.
Tóm lại: Tứ vơ lượng tâm “Từ, bi, hỷ, xả” là thái độ cùng vui, cùng buồn với
tất cả chúng sinh, là tư tưởng cứu khổ, cứu nạn. Nhờ đó khi thực hành, tín đồ có thể
điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với cái thiện.
1.2 Sự phát triển và du nhập của Phật giáo vào Việt Nam

Quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo ở Việt Nam có những điểm chính
như sau:
Thứ nhất, Phật giáo vào Việt Nam bằng con đường dân giã và mang tính tự
phát thông qua các thương nhân Ấn Độ và các nhà truyền giáo Trung Quốc.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam là do công lao của các thương nhân Ấn Độ.
Từ những năm đầu công nguyên người Ấn Độ đã đi buôn bán với nhiều nước trong
vùng Địa Trung Hải, Trung Đơng, La Mã. Chính trong q trình đi tìm nguyên liệu,
học đã tới đất Giao Chỉ. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, Luy Lâu – trung tâm Phật
giáo đầu tiên ở Việt Nam được hình thành do sự viếng thăm của thương nhân người
Ấn. Họ đến Việt Nam mang theo những kỹ thuật canh tác, y thuật, phong tục tập
quán và sinh hoạt tôn giáo của người Ấn (Bà La Môn và Phật giáo). Như vậy, các
thương nhân này đã đem Phật giáo đến Việt Nam một cách khơng có chủ đích. Tuy
nhiên, thời kỳ này Phật giáo mới chỉ giới hạn ở sinh hoạt tín ngưỡng đơn sơ như
đọc Tam quy, cúng dường, bố thí.
Tiếp sao đó là sự du nhập của các nhà sư người Trung Quốc. Họ cũng đến Việt
Nam truyền đạo hoàn toàn mang tính tự phát. Đến thời nhà Lê, vua Lê Đại Hành
mới cho người sang Trung Quốc mời sư tăng về.
Thứ hai, Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu bằng con đường hịa bình, ít xung
đột với nền văn hóa có sẵn.
Phật giáo đến với dân tộc rất tự nhiên và nhanh chóng được người Việt Nam
đón nhận do có nhiều điểm phù hợp với hệ thống tín ngưỡng của người Việt cổ. Họ
tin tưởng ơng Trời có mắt, có thể nhìn thấu mọi việc dưới đất, trừng phạt kẻ ác, giúp
đỡ người hiền. Bên cạnh đó, linh hồn con người vẫn còn tồn tại xunng quanh người
thân để che chở, phù hộ cho họ. Trong bối cảnh đó, Phật giáo với Thuyết nhân quả


12
nghiệp báo, luân hồi với những quan niệm về công đức tam bảo… rất phù hợp với
tín ngưỡng người Việt nên đã được nhanh chóng tiếp nhận.
Với tư tưởng khoan dung, mềm dẻo, linh hoạt nên quá trình truyền bá Phật

giáo vào Việt Nam không gây ra xung đột về văn hóa cũng như tơn giáo. Khơng
những vậy, Phật giáo cịn khơng cạnh tranh, lấn át mà hịa vào hệ thống tơn giáo và
tín ngưỡng của người bản địa.
Ngay từ những giai đoạn đầu khi mới du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã
từng được sử dụng như một công cụ chống lại sự xâm lăng văn hóa, sự đồng hóa
văn hóa của các thế lực xâm lược phương Bắc. Triết lý Phật giáo gần gũi với tinh
thần dân tộc nên ngay từ giai đoạn đầu, các nhà tư tưởng của nước ta đã đến với
Phật để tìm xu hướng độc lập cho dân tộc, chống lại sự no dịch tinh thần của tư
tưởng Đại Hán (Mâu Bác, Sĩ Nhiếp). Các giai đoạn sau này, trong quá trình phát
triển của Việt Nam, Phật giáo cũng đóng góp khơng nhỏ đến sự phát triển của văn
hóa dân tộc.
Thứ ba, trong quá trình du nhập và phát triển, Phật giáo ln gắn bó, đồng
hành với dân tộc và đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và bảo vệ nền độc
lập, góp phần hình thành bản sắc văn hóa của người Việt Nam.
Phật giáo ngay từ buổi đầu du nhập và trong suốt q trình phát triển đều ln
gắn bó, đồng hành thủy chung với dân tộc. Giai đoạn đầu, nhà nước Việt Nam vừa
giành được độc lập còn non trẻ đứng trước vơ vàn khó khăn, thiếu thốn thì chính
các thiền sư là người đi đầu phục vụ cho lợi ích dân tộc, là người tạo ý thức quốc
gia rất lớn.
Đến thời Lý – Trần, các thiền sư là người đóng góp khơng nhỏ vào việc dời
kinh đơ đến nơi thuận lợi, xây dựng sự nghiệp độc lập dài lâu. Họ cũng là người
thiết lập ngoại giao và bàn luận kế hoạch quân sự. Bên cạnh đó, các thiền sư còn
can gián khi vua quan sống xa hoa, xa rời việc nước.
Từ nửa sau thế kỷ XIV, Phật giáo lui về chốn thơn q và dung hịa mạnh mẽ
với tín ngưỡng dân gian bản địa tạo nên Phật giáo tồn tại lâu bền cho đến ngày nay.
Thời cận đến hiện đại, trong bối cảnh nước nhà bị đô hộ bởi các thế lực đế
quốc thực dân, Phật giáo ở Việt Nam có sự phân hóa nhất định. Tuy nhiên, trong bối
cảnh nước mất nhà tan một bộ phận nhà tu hành và tín đồ Phật giáo tiế bộ đã vận



13
dụng triết lý nhà Phật để phục vụ kháng chiến. Khơng những thế, nhiều nhà sự cịn
tham gia chiến trường, chùa chiền trở thành nơi dấu vũ khí, nơi dưỡng cán bộ cách
mạng.
Do đó, từ ngày hịa bình độc lập trở lại, Giáo hội Phật giáo trở thành một
thành viên trong Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, nhiều nhà tu hành cịn tham gia quốc
hội trong nhiều khóa. Phật giáo là tôn giáo duy nhất ở Việt Nam hiện nay trên
phương châm hành động “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.
Nhìn suốt chiều dài lịch sử, Phật giáo là tơn giáo ln gắn bó, đồng hành cùng
dân tộc, được lịng dân tộc hơn các tơn giáo khác do đó nó có ảnh hưởng sâu rộng,
góp phần hình thành lối sống, nhân cách, đạo đức cho người Việt Nam.
1.3 Nội dung cơ bản của Triết học Phật giáo ảnh hưởng đến người Việt Nam
Thứ nhất, quan niệm về các yếu tố tạo nên thế giới (thế giới quan)
- Phật giáo cho rằng thế giới tồn tại khách quan không phải do thần thánh sáng
tạo ra. Mọi sự vật đều có ngun nhân của nó nhưng khơng xác định được ngun
nhân của mọi ngun nhân, tức là khơng có một Đấng tối cao nào sáng tạo ra vũ trụ.
Phật thừa nhận thế giới tồn tại cả vật chất và tinh thần. Các yếu tố vật chất tạo nên
thế giới là đất, nước, lửa, gió (tứ đại) và khơng là những yếu tố khơng có hình thù.
Các yếu tố tinh thần gọi là danh gồm cảm giác (thụ), suy nghĩ (tưởng), suy lý
(hành), ý thức (thức).
- Về các cõi trên thế giới: Trong Phật giáo cịn có khái niệm tam giới, bao
gồm: Dục giới (nơi lòng dục thịnh); Sắc giới (dục tuy khơng thịnh nhưng chưa hồn
tồn thốt ly khỏi sự trói buộc của vật chất); Vơ sắc giới (hồn tồn thốt ly khỏi sự
trói buộc của vật chất, chỉ có tinh thần). Bên cạnh đó, Phật giáo đưa ra khái niệm
lục địa (6 ngã luân hồi): 1. Ðịa ngục; 2. Ngạ quỷ; 3. Súc sinh; 4. Người; 5. Atula; 6.
Trời.
- Thuyết vơ thường: vơ thường nghĩa là khơng có gì ổn định hay bất biến. Phật
cho rằng thế giới không vĩnh hằng mà chuyển biến liên tục. Đây là một trong những
thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ sở cho phương thức sống, tu dưỡng theo
Phật.

Trong quá trình giải thích sự biến hóa vơ thường của vạn vật, Phật đã xây
dựng nên thuyết nhân duyên. Trong thuyết nhân duyên có ba khái niệm chủ yếu là


14
Nhân, Quả và Duyên. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân, nhân kết
hợp với duyên sinh ra quả. Quả lại kết hợp với duyên biến thành nhân và sinh ra quả
khác…Quan niệm này cho thấy hạn chế của Phật giáo do khơng nhìn thấy được sự
đứng yên tương đối.
- Thuyết vô ngã: phủ nhận sự ồn tại vĩnh viễn của con người, coi sự tồn tại của
con người chỉ là giả hợp của danh và sắc. Do đó khơng có cái tơi thường định, con
người chỉ là sự hội tụ tạm thời của các yếu tố vật chất và tinh thần rồi lại tan ra
trong dòng chảy biến hóa một cách vơ tận.
Thứ hai, quan niệm về nhân sinh quan
- Triết lý nhân sinh và con đường giải thốt: con người khơng phải do thượng
đế sinh ra mà chỉ là sự kết hợp của ngũ uẩn bao gồm sắc và danh. Con người sau
khi chết sẽ chịu sự ln hồi. Muốn chuyển nghiệp thốt khỏi vịng luân hồi sinh tử
con người phải tu nhân tích đức. Suy nghĩ của con người gây ra ở kiếp trước quy
định kiếp sau, từ đó Phật giáo đưa ra con đường giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.
- Tứ diệu đế: là bốn chân lý về sự đau khổ của con người và con đường giải
thoát, bao gồm khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Khổ đế là những nỗi khổ của cuộc đời. Theo triết lý của Phật, đời là bể khổ
được chia thành tám cái khổ phổ biến: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hộ, sở
cầu bất đắc, thụ ngũ uẩn.
Tập đế (Nhân đế) là những nguyên nhân gây ra nỗi khổ của con người, gồm
12 nguyên nhân: vô minh (ngu tối), hành (suy nghĩ tới hành động), thức (hành động
tác động đến ý thức), danh sắc, lục nhập (6 giác quan), xúc (tiếp xúc), thụ, ái, thủ
(chiếm đoạt), hữu, sinh, lão và tử. Phật nói rằng đau khổ là vơ tận, chết vẫn chưa hết
khổ vì kiếp luân hồi.
Diệt đế là trạng thái của con người sau khi diệt trừ nỗi khổ. Nếu biết được

nguyên nhân dẫn đến khổ, ta có thể tiêu diệt được khổ, thốt khỏi vịng sinh tử và
đến cõi Niết bàn.
Đạo đế là chiều hướng và những việc con người cần làm để đạt đến trạng thái
Niết bàn. Phật đưa ra 8 con đường đúng đắn (bát chính đạo) để diệt khổ: chính kiến,
chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm,
chính định. Muốn thực hiên được bát chính đạo phải có phương pháp thực hiện


15
nhằm ngăn ngừa điều ác và khuyến khích làm việc thiện. Nội dung của phương
pháp đó là thực hiện Ngũ giới (5 điều răn) và Lục độ (6 phép tu).
+ Ngũ giới gồm bất sát (không sát sinh), bất tà đạo (không trộm cắp), bất tà
dâm, bất vọng ngữ (không nối dối, vu oan giá họa), bất ẩm tửu.
+ Lục độ gồm bố thí, trí giới, nhẫn nhục, tịnh tiến, thiền định và bát nhã.
Mục đích cao nhất của Đạo Phật là sự giải thoát, bằng cách tu luyện để từ bỏ
mọi ham muốn dục vọng đời thường, tiêu diệt vơ minh, đạt đến sự giác ngộ, khi đó
con người sẽ thốt khỏi vịng ln hồi, nghiệp báo, nhập Niết bàn.
Tiểu kết chương 1
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm và nhanh chóng được mọi tầng lớp
người trong xã hội tiếp nhận, không cần sự cưỡng chế hay thơn tính nào. Trong q
trình tồn tại tồn tại và phát triển Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng đối với đời
sống tinh thần của nhân dân ta nói chung và người dân tỉnh Bình Dương nói riêng.
Triết lý Phật giáo với mục đích cuối cùng và duy nhất giải thốt chúng sinh khỏi
khổ đau để có cuộc sống an lạc trong hiện tại đã giúp Phật giáo đi vào trong đời
sống người Việt Nam. Do đó, Phật giáo đã trở thành nét văn hóa, những giá trị tinh
thần trong cuộc sống của nhiều thế hệ.
Trong chương này, tiểu luận đã làm rõ về sự du nhập và một số nội dung cơ
bản của triết lý Phật giáo để làm cơ sở cho những nhận thức về sự ảnh hưởng của tư
tưởng về thế giới của Phật giáo đối với lối sống của người Bình Dương. Đây là cơ
sở để nghiên cứu, tìm hiểu những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh

thần người dân Bình Dương trên một số lĩnh vực như: quan niệm đạo đức, lối sống
và phong tục tập quán.


16


17
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI
DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY
2.1 Ảnh hưởng của Phật giáo trong nhận thức của người Bình Dương
Theo chiều dài lịch sử, các quan niệm của Phật giáo đã thấm sâu vào trong tâm
thức của người dân Việt Nam nói chung và người dân tỉnh Bình Dương nói riêng.
Người dân tỉnh Bình Dương ln dạy con cái rằng con người khơng chỉ sống ở hiện
tại mà cịn có cuộc sống ở kiếp sau, sau khi chết đi lại tiếp tục một cuộc sống khác
nữa. Trong tiến trình lịch sử của dân tộc, quan niệm sống đó kết hợp với quan niệm
sống của Phật giáo - đời là vô thường hòa quyện va ảnh hưởng đến quan niệm sống
của người dân Bình Dương.
Triết lý Phật giáo cho rằng vũ trụ này có nhiều cảnh giới, nhiều thế giới khác
nhau, cuộc sống của con người trên thế giới này chỉ là một trong “đại thiên thế giới”
và mọi hiện tượng trên thế giới đều vô ngã. Mọi sự vật hiện tượng là sự kết hợp của
các yếu tố động (sắc, thụ, tưởng, hành, thức), do đó con người và cuộc đời của con
người cũng là sự kết hợp của các yếu tố động (ngũ uẩn) và là hiện thân của vô ngã.
Quan niệm “vô ngã” đã lý giải về con người và cuộc đời con người, bản thân con
người khơng có cái tôi, cái ta đơn nhất, cuộc sống con người là biểu hiện của sinh,
lão, bệnh, tử. Sự sinh và chết đi là mối quan hệ thay đổi hợp tan của ngũ uẩn. Do
đó, khi thấm nhuần tư tưởng của Phật giáo con người không thấy khiếp sợ trước cái
chết.
Do sự biến đổi không ngừng nên đời sống là một chu trình bất tận, chết có tái
sinh, sống ở vơ số đời kế tiếp nhau và quan niệm về tịnh độ vĩnh hằng, khơng bị vơ

thường, khổ chi phối. Đó là khát vọng, mong cầu của người thực hành và bất kỳ con
người nào muốn có hạnh phúc, an lạc đích thực. Ngồi ra với quan niệm truyền
thống cho rằng chết là hết, hoặc chết là về với cát bụi hư vô, hay cho thân xác quá
quan trọng nên coi trọng mộ phần, cúng bái.
Phật giáo giải thích cuộc đời con người là bể khổ, vơ thường, có quan hệ nhân
quả. Quan niệm “ác giả ác báo”, “gieo gió gặp bão” đã tác động đến nhận thức,
quan niệm sống của người dân tỉnh Bình Dương. Khơng những thế, quan niệm về
nhân quả trong thế giới quan Phật giáo gắn liền với thuyết luân hồi, nghiệp báo có ý


18
nghĩa lớn đối với người Bình Dương, tạo ý thức về những hành động của cuộc sống
hiện tại có thể ảnh hưởng đến quả của kiếp sau.
Nếu tâm vô minh, mê muội, u ám sẽ không hiểu được bản chất của các sự vật
hiện tượng, không nhận thức được cuộc sống này là vô thường, hư ảo. Khi nào tâm
sáng suốt, tĩnh lặng sẽ nhận biết được bản chất của thế giới, của cuộc đời. “Nhất
thiết duy tâm tạo”, mọi thứ đều do tâm tạo ra cho nên trong quan hệ giữa người với
người ở Bình Dương ln coi trọng chữ tâm, đối đãi với nhau bằng tâm.
Triết lý của Phật giáo ảnh hưởng đến quan niệm sống của người Bình Dương
trên nhiều khía cạnh, nhưng quan trọng nhất là hướng con người đến cuộc sống
trong sạch không tham, sân, si. Con người nhận thức được cái vô thường của cuộc
sống, cùng với đó là hai thứ khổ (bể khổ): Khổ về thể xác (bệnh tật, ốm đau, nghèo
khó...) và khổ về tinh thần.
Khi nói về sự khổ trong cuộc sống, triết lý nhà Phật đã ảnh hưởng sâu sắc đối
với đời sống tinh thần của người dân Bình Dương. Thứ nhất, khổ về vật chất, thứ
hai khổ về tinh thần, đau khổ đều do mình tạo ra, tự mình chịu, sự khổ này vừa là để
trả quả vừa là để tạo nhân. Do đó, Phật quan niệm con người cần phải cố gắng vươn
lên sống tốt, sống thiện hơn để sau này không gặp lại quả báo, đau khổ mới thấy
phẩm giá, giá trị của con người, thấy rõ ý thức vươn lên hay gục ngã của con người.
Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến lối sống của người Bình Dương.

Theo Phật, thế giới có nhiều cảnh giới khác nhau như Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc
sinh, Atula, Nhân gian, Thiên (Trời)... Xuất phát từ tham, sân, si, ganh tỵ, ngã mạn,
con người thuộc vào cảnh giới nào đều do nhân mình gieo ra mà kiếp sau sẽ nhận
được kết quả tương ứng với nó, sẽ về cảnh giới nào sẽ do nhân mình gây ra. Nếu
con người biết giữ giới, biết làm điều lành, tránh điều ác, biết tu tập, biết sống có
nhân có đức, tùy vào mức độ làm điều thiện mà khi chết đi được vãng sinh về cõi
Tây phương, kiếp sau được sinh làm người, được sinh lên cõi trời và cao hơn nữa là
tu tập theo Phật pháp, chứng ngộ đạo được nhập Niết bàn, dứt lìa đau khổ trần
gian...
Bên cạnh đó, Phật giáo cũng đưa ra quan niệm con người và cuộc đời con
người, con người là vô ngã nhưng do vô minh che lấp đã níu kéo con người, cuộc
đời của con người vào những nổi khổ trầm luân. Để giải thoát những nổi khổ,


19
nghiệp chướng, để tránh những quả báo về sau, Phật khuyên con người phải tu tập,
tích phúc, làm điều thiện... Do đó, những người chịu ảnh hưởng của thế giới quan
Phật giáo sẽ sống tốt hơn, lối sống, hành vi của họ sẽ theo giáo lý nhà Phật.
Phật giáo từ khi du nhập vào Việt Nam đến nay đã tồn tại và gắn liền với lịch
sử dân tộc. Triết lý Phật giáo đã thấm sâu vào tư duy, suy nghĩ, nếp sống của người
dân Việt Nam nói chung và người dân tỉnh Bình Dương nói riêng, chính điều này đã
làm phong phú, đa dạng hơn đời sống văn hóa, tinh thần của người dân và trở thành
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Đặc điểm nổi bật trong tư duy của người phương Đơng nói chung và người
Việt Nam nói riêng đó là tư duy hướng nội. Trong nghiên cứu khoa học xã hội có
hai hướng nghiên cứu mang tính phổ qt đó là nghiên cứu thế giới bên ngoài và cái
bên trong, cả hai hướng đều là tính hai mặt của sự vật hiện tượng, nó tác động qua
lại, tương hỗ lẫn nhau. Thế giới bên ngồi là những thứ có thể nhìn, cầm, sờ, cân,
đo, đong, đếm thì thế giới bên trong vơ cùng phong phú và đa dạng, nó tồn tại dưới
nhiều dạng thức như suy nghĩ, tình cảm, nhận thức...

Khơng phải ngẫu nhiên mà người phương Đơng nói chung và người Việt Nam
nói riêng đề cao chữ tâm. Người Việt Nam sống hòa thuận với thiên nhiên, hơn là
cải tạo tự nhiên, do đó, trong cuộc sống thế tục ln đề cao cái tâm, đề cao lối sống
tình cảm, sống bằng nội tâm. Điều này giúp người dân Việt có lối sống tình nghĩa
trong lúc hoạn nạn, thiên tai, địch họa; nhưng mặt khác cũng làm cho đời sống con
người thu nhỏ lại, hạn chế tiếp thu khoa học kỹ thuật, đặc biệt là khoa học tự nhiên
và khoa học công nghệ.
Xuất phát từ thế giới quan Phật giáo “chư pháp nhân duyên”, quan niệm về thế
giới cho rằng thế giới này về đại thể có hai yếu tố danh và sắc, hay đó là yếu tố vật
chất và yếu tố tinh thần. Do đó, chữ tâm trong thế giới quan Phật giáo ảnh hưởng
đến tư duy người Bình Dương chính là con người sống làm sao cho tâm sáng hay
đời sống tinh thần phong phú. Xét trong quan hệ giữa chữ tâm, tinh thần với thể xác
con người, nếu khơng có tâm, khơng có tinh thần liệu có cịn là người không hay chỉ
là một cơ thể sống mang ý nghĩa thực vật, ý nghĩa vật chất. Do vậy, theo Phật giáo,
hai yếu tố vật và tâm thì tâm đóng vai trị chủ đạo trong việc hình thành ra thế giới.


20
Người dân Bình Dương ln cố gắng để sống cho có tâm, đúng với tâm. Các
sinh hoạt đời thường của người Bình Dương hiện nay chịu ảnh hưởng khá nhiều của
Phật giáo. Những nét đặc sắc trong đời sống tinh thần, tư duy của người dân khó
phân định rạch rịi xem là của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo hay tín ngưỡng truyền
thống của người Việt. Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là triết lý Phật giáo ảnh
hưởng đến tư duy người dân Bình Dương khá rõ nét.
Tư tưởng về thế giới của Phật giáo thường được ông cha ta đề cập đến trong
ca dao, tục ngữ để nhắc nhở, khuyên răn dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc
sống an vui phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam. Người ta
thường nói suy nghĩ thế nào hành động thế ấy, do đó, tư duy của người Bình Dương
chịu sự ảnh hưởng của Phật giáo đã chi phối suy nghĩ và hành động của người dân
điển hình qua quan niệm về chữ hiếu, quan niệm sống, làm việc lành, tránh việc ác,

biết yêu thương, đùm bọc người khác,... Từ đó đã hình thành cho người dân Bình
Dương lối sống thích làm việc thiện, đi lễ chùa, phóng sinh... để giúp họ có cuộc
sống thanh thản và hạnh phúc.
Hiện nay, khi đời sống vật chất của con người ngày càng được nâng cao, cùng
với sự tuyên truyền rộng rãi của tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã nâng cao
nhận thức của người dân về Phật giáo. Những khái niệm, thuật ngữ, hay nói rộng
hơn là ngôn ngữ Phật giáo đã thấm sâu vào đời sống tinh thần của người dân. Các
phạm trù tâm, vô ngã, nghiệp, vô thường, duyên... được thể hiện dưới dạng ngôn
ngữ, tư duy của người Việt đã được nâng lên chiều sâu khi tiếp cận các khái niệm
đó. Chính điều đó đã làm tăng tính chất tư duy triết học của người dân Việt Nam nói
chung và người dân tỉnh Bình Dương nói riêng mang tính chất khái qt, trừu tượng
hơn.
2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo đến quan niệm đạo đức và lối sống của người
Bình Dương
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, bao gồm những nguyên
tắc, những định chế xã hội nhằm thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con
người, giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Đạo đức biểu hiện bản
chất của xã hội con người, là những chuẩn mực mà xã hội loài người hướng tới
nhằm hoàn thiện đạo đức cá nhân, trong cách ứng xử của cá nhân với cá nhân, cá


21
nhân với xã hội. Tình trạng đạo đức của xã hội lồi người phản ánh trình độ nhận
thức, phát triển và tiến bộ của đời sống tinh thần.
Là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, khi thực hiện những chức năng của
mình, tơn giáo cũng thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi đạo đức. Trong triết lý
của Phật luôn đề ra những chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh hành vi của những nhà
tu hành cũng như của Phật tử, đồng thời hướng con người đến những điều thiện,
tránh điều ác. Mặc khác, Phật giáo cũng trang bị cho con người niềm tin vào quy
luật nhân quả, của cuộc sống con người ở kiếp sau... thể hiện nhu cầu và ước

nguyện tột cùng của con người là vươn đến giải phóng đau khổ, đạt tới cảnh giới
của sự giải thốt, vươn tới hạnh phúc. Do đó, Phật giáo đã ảnh hưởng đặc biệt đối
với đời sống tinh thần người dân Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng.
Về phương diện nào đó, đạo đức Phật giáo phù hợp với chuẩn mực xã hội của
người dân Bình Dương. Do đó, nó dễ dàng thấm sâu vào đời sống tinh thần của
người dân. Những chuẩn mực đạo đức của thế giới quan Phật giáo giúp người Bình
Dương điều chỉnh cả hành vi xã hội của con người, điều chỉnh quan hệ của cá nhân,
cộng đồng trong đời sống xã hội, trong gia đình và trong quan hệ đạo đức.
Đạo Phật khuyên răn con người thực hành những giá trị đạo đức như hiếu kính
với cha mẹ, sống làm nhiều điều thiện, tránh điều ác, biết yêu thương mọi người.
Mặc dù niềm tin của người dân vào thế giới quan Phật giáo thể hiện ở những mức
độ khác nhau, song niềm tin đó có ảnh hưởng tích cực đến đời sống hiện tại của
người Bình Dương. Dựa trên các chuẩn mực, giá trị đạo đức đó mà người dân tự
giác thực hiện làm cho cuộc sống của gia đình hịa thuận hơn, các thành viên trong
gia đình sống có trách nhiệm với nhau hơn, con người tỏng xã hội biết yêu thương,
quan tâm, chia sẻ với những người gặp hồn cảnh khó khăn, hoạn nạn hơn.
Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo tới vấn đề đạo đức của người dân Bình
Dương khá rõ nét. Hầu hết các trường hợp cư dân tỉnh Bình Dương hiện nay đều
chịu ảnh hưởng của Phật giáo đối với lý tưởng, đạo đức và được thực hiện, áp dụng
trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Việc thực hiện những giá trị đạo đức đó trong
đời sống xã hội góp phần tạo nên nhân cách của người dân, làm cho cuộc sống tại
Bình Dương lành mạnh, giản dị, con người có tấm lịng nhân ái, khoan dung, yêu
thương lẫn nhau, biết quan tâm đến nỗi khổ của người khác... Từ đó góp phần nâng


22
cao và làm phong phú hơn những giá trị đạo đức trong đời sống tinh thần của người
dân Bình Dương hiện nay.
Đạo đức theo quan niệm của Phật giáo luôn đề cao tính thiện, bình đẳng, bác
ái đã thấm sâu vào lòng người dân Việt Nam. Luật nhân quả khẳng định gây nghiệp

lành được quả lành, gây nghiệp dữ bị quả dữ. Do đó, triết lý Phật giáo đã hướng con
người vào việc thiện, xa lánh điều ác, góp phần trong việc ngăn ngừa ý định, hành
vi vi phạm pháp luật của con người.
Lối sống của con người được hình thành, tác động chủ yếu từ hệ tư tưởng,
chính trị, văn hóa, xã hội, từ chính lao động sản xuất, từ các quan hệ xã hội... Chủ
nghĩa Mác - Lênin khẳng định cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng một
cách tương ứng. Sự phụ thuộc của lối sống với phương thức sản xuất chỉ mang tính
tương đối, bản thân lối sống khơng phụ thuộc hồn tồn vào phương thức sản xuất
mà chịu ảnh hưởng của phương thức sản xuất.
Như vậy, lối sống là cách thức sống của con người trong đời sống xã hội phù
hợp với mỗi chế độ chính trị, giai đoạn lịch sử nhất định, nó được biểu hiện trong
các mặt của đời sống xã hội như lao động sản xuất, chính trị, văn hóa tinh thần... và
chịu sự chi phối của tư tưởng, chính trị, đạo đức tôn giáo... trong sinh hoạt của con
người.
Những nhà tu hành Phật giáo chân chính có một phong thái ung dung, tự tại,
có lối sống giản dị, thanh tao. Do thấm nhuần tư tưởng Phật giáo, họ không bao giờ
làm những việc hại mình hại người, việc làm trái lương tâm, đạo lý, họ sống cuộc
sống tu hành coi trọng đạo hạnh và phẩm giá con người. Chính vì có đạo hạnh cao
những nhà tu hành chân chính họ có vai trị hướng đạo quan trọng đối với phật tử và
những người có lịng mến mộ đạo Phật. Vì lẽ đó, những người theo Phật giáo ln
sống hết sức giản dị, thanh tao, chú trọng đến cái tinh thần, ít chú trọng đến danh lợi
vật chất, họ làm ăn cũng đúng với lương tâm, đạo đức.
Sự ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đến lối sống người dân Bình Dương
hiện nay, cho thấy Phật giáo chiếm một vị trí quan trọng trong lối sống người dân,
trong các quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, con
người với xã hội. Cụ thể, thế giới quan Phật giáo định hình lối sống thiện, làm lành
tránh ác; sống có hiếu với cha mẹ; sống hết mình vì người khác; sống có tinh thần


23

tương thân tương ái; có lối sống lành mạnh; sống dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải;
sống biết bảo vệ mơi trường.
Người dân Bình Dương trước cuộc sống sơi động, bề bộn nhiều mối lo toan,
ẩn sâu trong mỗi người dân đều khao khát tận hưởng cuộc sống thanh bình, yên ấm,
giản dị. Mặc dù thực tế một bộ phận khơng nhỏ trong xã hội có những biểu hiện lối
sống đi ngược với đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lối sống thực dụng,
chạy theo giá trị đồng tiền, có biểu hiện hành vi đạo đức trái với luân thường đạo lý,
nhưng về đại thể, đa số người Bình Dương vẫn giữ được lối sống giản dị, nền nếp
và một phần nào đó chịu sự ảnh hưởng của Phật giáo.
Với người Bình Dương nói riêng và người Việt Nam nói chung, tục thờ cúng
tổ tiên trở thành lối sống quan trọng trong đời sống tinh thần. Những lễ cầu siêu cho
người đã khuất, lễ cầu an giải hạn đầu năm của người được tổ chức khá rầm rộ và
thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Thông qua các dịp lễ Vu lan, Phật
đản, lễ chùa đầu năm, cúng ngày rằm mồng một... người Bình Dương giáo dục con
cháu biết sống tốt, sống đẹp, biết yêu thương đồng loại, nhớ ơn tổ tiên, ông bà, cha
mẹ, gìn giữ những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
2.3 Ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục tập quán của người Bình Dương
- Thứ nhất, ảnh hưởng của triết lý Phật giáo đến văn hóa truyền thống.
Nơng dân trồng lúa nước từ xưa đến nay luôn tôn sùng Mẹ, khi du nhập vào
Việt Nam, Phật giáo đã có những tiếp biến để phù hợp với văn hóa truyền thống
Việt Nam. Các vị Phật xuất thân là nam giới nhưng khi vào Việt Nam đã chuyển
sang nữ ví dụ như Bồ tát Quan Thế Âm vốn là nam đã chuyển thành Phật bà Quan
Thế Âm, Phật bà Quan Thế Âm nghìn tay nghìn mắt, Quan âm Nam Hải, Quan âm
Thị Kính,...
Chùa khơng cịn là nơi thờ Phật mà cịn là nơi thờ Mẫu, thờ thần. Người dân
Bình Dương tin vào luật nhân quả của đạo Phật, với niềm tin ở hiền gặp lành, cứu
khổ, cứu nạn của Bồ tát Quan Thế Âm, tin vào sự tiếp dẫn về cõi Tây phương cực
lạc của Phật A Di Đà và tin vào sự trợ giúp, bảo hộ của các vị thần (Phật Thích Ca
Mâu Ni, Quan Thế Âm Bồ Tát, Thần tài, Thổ Địa,…). Đó là q trình tiếp biến,
dung hợp của Phật giáo đối với văn hóa truyền thống Việt Nam.



×