Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.64 KB, 16 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Lời giới thiệu:
Trong chương trình giáo dục phổ thơng cấp tiểu học, mỗi mơn học đều
góp phần hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng ở nhân
cách con người. Mỗi một môn học ở Tiểu học đều giữ một vai trị nhất định.
Nếu mơn Tiếng Việt cung cấp đầy đủ cho học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc,
viết thì mơn Tốn lại có vai trò quan trọng là cung cấp cho học sinh các kiến
thức, kĩ năng tính tốn. Các kiến thức, kỹ năng của mơn Tốn có rất nhiều ứng
dụng trong cuộc sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để
học các môn học khác và học tiếp Tốn ở Trung học. Chúng được hình thành
chủ yếu bằng việc thực hành, luyện tập và thường xuyên được củng cố, phát
triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống.
Như chúng ta đã biết, căn cứ vào sự phát triển tâm, sinh lí của học sinh Tiểu
học mà cấu trúc nội dung mơn Tốn rất phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của học sinh. Ở từng khối lớp, chương trình mơn tốn được xây dựng dựa trên
khả năng nhận thức, sự phát triển của trí óc, phù hợp với từng đối tượng học
sinh. Đối với lớp 3, các em được học các kiến thức, kĩ năng ở thời điểm kết thúc
của giai đoạn 1, chuẩn bị học tiếp giai đoạn sau, cho nên các em phải được nắm
chắc tất cả các cơ sở ban đầu về giải toán nói riêng, tất cả các kĩ năng khác nói
chung. Đặc biệt, ở lớp 3 sang học kì II, các em bắt đầu được làm quen với các
dạng toán hợp cơ bản, trong đó có dạng tốn liên quan rút về đơn vị. Dạng tốn
này có rất nhiều ứng dụng trong thực tế, nó địi hỏi các em phải có kĩ năng giải
toán tốt, kĩ năng ứng dụng thực tế trong hàng ngày. Sau khi dạy giải tốn ở lớp
3, tơi thấy các em nắm kĩ năng giải toán của giáo viên truyền đạt tới chưa được
chắc, việc ứng dụng vào thực tế thì chưa được thể hiện. Đó là điều băn khoăn,
đáng cho chúng ta phải suy nghĩ. Có những bài tốn khi các em làm xong, các
em khơng hề thử lại, cũng không cần quan tâm xem thực tế áp dụng như thế
nào. Nếu học sinh cứ tiếp tục như vậy sẽ vơ tình trở thành một thói quen xấu.
Điều này sẽ làm cho học sinh trở nên cẩu thả trong tính tốn. Đó là những tai
hại lớn khi học tốn. Xuất phát từ tình hình thực tế học sinh như vậy, tơi mong


muốn có những sáng kiến về phương pháp giúp các em giải tốt dạng tốn có
liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3 đến thời điểm này. Và từ lý do này, tôi đã
nghiên cứu xong một sáng kiến kinh nghiệm nhằm giải quyết các vấn đề trên,
1


sau đây tơi sẽ trình bày để các đồng chí đóng góp ý kiến với đề tài: “Một số
biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị”.
2. Tên sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3
giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị”.
3. Tác giả sáng kiến kinh nghiệm:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến kinh nghiệm:
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Sáng kiến kinh nghiệm
được áp dụng vào lĩnh vực giáo dục Tiểu học – Giúp học sinh lớp 3 giải tốt Bài
toán liên quan đến rút về đơn vị. Từ đó giúp học sinh áp dụng vào cuộc sống
thực tiễn hàng ngày.
6. Ngày sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng
thử: 15/10/2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến kinh nghiệm:
7.1. Về nội dung của sáng kiến kinh nghiệm:
7.1.1. Thực trạng
Năm học 2019 - 2020, tôi được nhà trường phân công giảng dạy và chủ nhiệm
lớp 3B2 Trường Tiểu học. Tổng số học sinh của lớp 3B2 là 27 em. Trong quá
trình giảng dạy, tơi theo dõi học sinh lớp tơi nói chung và học sinh khối 3 tồn
trường nói riêng học Tốn, đặc biệt là kỹ năng giải tốn, tơi thấy số đơng học
sinh có kỹ năng giải tốn tương đối tốt. Song bên cạnh đó cịn tồn tại một số em
có kỹ năng giải tốn chưa tốt cho lắm, đó là: đọc đầu bài qua loa, sau đó giải bài
tốn ngay, làm xong không cần kiểm tra lại kết quả, ... Cho nên, khi được giáo
viên chữa bài, các em mới biết là mình làm sai. Đặc biệt đối với dạng Bài toán
liên quan đến rút về đơn vị, khi giáo viên hướng dẫn xong kiểu bài 1, các em

làm bài khá tốt, ít nhầm lẫn, nhưng cịn sai nhiều trong tính tốn. Đến khi dạy
xong kiểu bài 2, các em làm bài có phần nhầm lẫn nhiều hơn, nhiều em thực
hiện ở bước 2 đáng lẽ là phép chia thì các em lại làm phép nhân (giống ở kiểu
bài 1). Qua quá trình quan sát các em làm bài ở lớp trong các tiết dự giờ, thăm
lớp, tôi nhận thấy các em đã có sự nhầm lẫn đáng tiếc. Để nắm được thực trạng
học sinh lớp 3 giải dạng toán này cụ thể như thế nào, tôi đã tiến hành xây dựng
một bộ đề thuộc hai kiểu bài của dạng toán này rồi đề xuất giáo viên khối 3 tiến
hành kiểm tra các em làm bài trong thời gian là 20 phút để nắm được kết quả.

2


Bài tốn 1: Một kho hàng có 16kg ngơ được chứa đều trong 4 bao. Hỏi 2 bao
ngô như thế có thể chứa được bao nhiêu ki lơ gam ngơ?
Bài tốn 2: Có 32 lít mật ong đựng vào 8 can. Hỏi có 40 lít mật ong thì cần có
bao nhiêu can như thế để đựng?
Sau khi chấm bài, tôi lập bảng kết quả bài làm của các em như sau:
Lớp

3A1
3A2
3B1
3B2

Tổng số Số học sinh
học
làm đúng cả 2
sinh
bài
30

19
33
20
29
18
27
15

Số học sinh nhầm lẫn
giữa kiểu bài 1 và kiểu
bài 2
7
8
7
9

Số học sinh
làm sai cả 2
bài
4
5
4
3

Nhìn vào bảng kết quả, tơi nhận thấy rằng, có phần lớn các em làm đúng cả
2 bài. Một số em làm nhầm ở bước 2 từ kiểu bài 1 sang kiểu bài 2 và ngược lại.
Còn một vài em làm sai cả hai bài. Nguyên nhân dẫn đến kết quả như vậy là do
phần lớn các em còn chủ quan khi làm bài, chưa đọc kĩ và phân tích kĩ bài tốn,
chưa nhớ kĩ các phương pháp giải dạng tốn này. Mặt khác, cũng có thể do các
em chưa được củng cố rõ ràng về sự khác nhau giữa hai kiểu bài trong dạng toán

này nên sai sót đó khơng tránh khỏi. Hơn nữa, đây là các bài toán áp dụng rất
thực tế mà các em bỏ qua phương pháp thử lại nên kết quả đưa ra sẽ khơng
chính xác.
Xuất phát từ tình hình thực tế này, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu nhằm đổi
mới phương pháp dạy dạng tốn này. Sau đó, tơi đã áp dụng vào giảng dạy trực
tiếp học sinh lớp 3B2 do tôi chủ nhiệm. Mục đích chính là giúp các em nắm
chắc phương pháp giải tốn nói chung và phương pháp giải dạng tốn có liên
quan đến rút về đơn vị nói riêng. Khuyến khích các em chủ động giải tốn
khơng máy móc mà phải dựa vào tư duy, phân tích tổng hợp dựa trên phương
pháp giải và thực tế đề bài.
7.1.2. Những biện pháp cụ thể.
* Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải
các bài tốn.
Để giải một bài tốn bất kì đã học, học sinh cần vận dụng các phương pháp
giải toán theo từng bước cụ thể. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm
được các bước cơ bản để giải một bài toán như sau:
3


* Bước 1: Đọc kĩ bài tốn.
* Bước 2: Tóm tắt bài tốn.
* Bước 3: Phân tích bài tốn.
* Bước 4: Trình bày lời giải.
* Bước 5: Kiểm tra lại bài và tìm cách giải khác (nếu có).
Các u cầu cụ thể đối với học sinh như sau:
* Đọc kĩ đề tốn: u cầu học sinh đọc ít nhất 2 - 3 lần để giúp các em nắm
được ba yếu tố cơ bản sau: Những “dữ kiện” hay còn gọi là những cái đề bài đã
cho; “những ẩn số” hay còn gọi là những cái chưa biết và cần phải tìm; những
“điều kiện” nghĩa là mối quan hệ giữa các dữ kiện với ẩn số. Giáo viên cần tập
cho học sinh có thói quen, kỹ năng phân tích bài tốn để từ đó phân biệt và xác

định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên qua đến cái cần tìm. Tránh bị
nhầm lẫn và loại bỏ thói quen vừa đọc xong đề đã làm ngay.
* Tóm tắt đề tốn: Mục đích của "tóm tắt" bài tốn là phân tích đề tốn để làm
rõ các câu hỏi “bài tốn cho biết gì?” và “bài tốn hỏi gì?” của bài toán, thu gọn
bài toán bằng việc trả lời các câu hỏi trên, làm rõ mối quan hệ giữa "cái đã cho"
và "cái phải tìm" rồi từ đó tìm ra cách giải bài tốn một cách hợp lí nhất. Bởi
vậy, hướng dẫn học sinh tóm tắt bài tốn trước khi giải bài tốn là việc rất cần
thiết. Tuy nhiên, khơng bắt buộc lúc nào cũng phải viết "tóm tắt" vào phần trình
bày bài giải (tùy theo u cầu của bài tốn, theo từng giai đoạn học tập của học
sinh mà có thể cho học sinh viết tóm tắt vào bài giải hoặc khơng). Thực tế có rất
nhiều cách tóm tắt bài tốn, khi các em nắm được càng nhiều cách tóm tắt thì
các em sẽ càng giải tốn giỏi. Cho nên, khi hướng dẫn học sinh tóm tắt, tơi đã
truyền đạt các cách sau:
+ Cách 1: Tóm tắt bằng chữ.
+ Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
+ Cách 3: Tóm tắt bằng hình tượng trưng.
+ Cách 4: Tóm tắt bằng sơ đồ Ven.
+ Cách 5: Tóm tắt bằng kẻ ô.
Trên đây là 5 cách tóm tắt thường dùng ở Tiểu học. Tuy nhiên, ở dạng toán
liên quan đến rút về đơn vị, tóm tắt bằng lời được lựa chọn nhiều hơn. Trong khi

4


tóm tắt, học sinh cần lưu ý đến tên của mỗi đơn vị (đại lượng), có mấy đơn vị,
mối quan hệ giữa các đơn vị đó như thế nào?
Ví dụ 1: Bà có 15 quả táo chia đều cho 5 cháu. Hỏi mỗi cháu được mấy quả
táo?
Tóm tắt: 15 quả táo: 5 cháu
Mỗi cháu: ... quả?

Ví dụ 2: Mẹ có 4 túi kẹo cùng loại chứa tất cả 40 cái kẹo. Hỏi 3 túi kẹo như
thế có thể chứa được bao nhiêu cái kẹo?
Tóm tắt: 4 túi kẹo: 40 cái
3 túi kẹo: ... cái?
Ví dụ 3: Có 54 lít mật ong được đựng đều vào 9 can. Hỏi có 60 lít mật ong thì
cần có bao nhiêu can như thế để đựng?
Tóm tắt: 54l mật ong : 6 can
60l mật ong: ... can?
* Phân tích bài tốn: Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích mối quan hệ giữa
những cái đã cho với cái phải tìm để tìm ra cách giải bài tốn: Sau khi tóm tắt đề
bài xong, hướng dẫn các em tập phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán.
Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp,
thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài tốn theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi
thơng thường: Bài tốn cho biết gì? Bài tốn hỏi gì? Muốn tìm cái đó ta cần biết
gì? Cái này biết chưa? Muốn tìm cái chưa biết ta làm thế nào? Hướng dẫn học
sinh phân tích xi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, tự các
em sẽ giải được bài toán. Cần cho học sinh rèn luyện kỹ năng diễn đạt bằng lời
nói và trình bày bằng chữ viết sao cho đẹp và cân đối. Tuy lúc đầu học sinh sẽ
cịn gặp nhiều khó khăn nhưng đây cũng là "cơ hội" để các em được phát triển
tư duy, khả năng giải quyết vấn đề. Ở bước này, giáo viên đưa ra một bài toán
rồi hướng dẫn học sinh phân tích bài tốn.
Bài tốn 1: Mẹ có 5 hộp đựng tất cả 40 cái bánh. Hỏi mỗi hộp đựng bao nhiêu
cái bánh?
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài 3 lần, sau đó tơi cho một số học sinh
nêu tóm tắt miệng.

5


- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích bài toán bằng cách trả lời các câu hỏi

sau:
+ Bài toán cho biết gì? (Mẹ có 5 hộp chứa tất cả 40 cái bánh).
+ Bài tốn hỏi gì? (Mỗi hộp chứa bao nhiêu cái bánh?)
Bài tốn 2: Mẹ có 4 túi kẹo cùng loại chứa tất cả 40 cái kẹo. Hỏi 3 túi kẹo như
thế có thể chứa được bao nhiêu cái kẹo?
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích bài toán bằng cách trả lời các câu hỏi
sau:
+ Bài tốn cho biết gì? (Mẹ có 4 túi kẹo cùng loại chứa tất cả 40 cái kẹo).
+ Bài toán hỏi gì? (3 túi kẹo như thế có thể chứa được bao nhiêu cái kẹo?).
Bài tốn 3: Có 54 lít mật ong được đựng đều vào 9 can. Hỏi có 60 lít mật ong
thì cần có bao nhiêu can như thế để đựng?
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích bài toán bằng cách trả lời các câu hỏi
sau:
+ Bài tốn cho biết gì? (Có 54 lít mật ong được đựng đều vào 9 can).
+ Bài tốn hỏi gì? (60 lít mật ong được được vào mấy can như thế?)
- Giáo viên cho học sinh nhắc lại vài lần để học sinh nắm được cách phân tích
bài tốn.
* Trình bày lời giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, q trình tìm hiểu bài, các em sẽ
dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu
cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các
bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp. Ví dụ:
Với Bài tốn 1 ở trên, học sinh có thể trình bày như sau:

Bài giải
Mỗi hộp chứa số cái bánh là:
40 : 5 = 8 (cái)
Đáp số: 8 cái bánh.
Với Bài toán 2 ở trên, học sinh có thể trình bày như sau:
Bài giải
6



Mỗi túi kẹo có số cái kẹo là:
40 : 4 = 10 (cái)
3 túi như thế có số cái kẹo là:
10 × 3 = 30 (cái)
Đáp số: 30 cái kẹo.
* Kiểm tra lại bài và tìm cách giải khác (nếu có): Qua q trình quan sát học
sinh giải tốn, chúng ta thường xuyên thấy rằng học sinh làm bài xong thường
không kiểm tra lại bài. Nên khi giáo viên hỏi: “ Em có tin mình đã làm đúng hay
khơng?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy, việc kiểm tra lại bài là rất cần thiết và
phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta
cần hướng dẫn các em tuân thủ các bước: Đọc lại lời giải. Kiểm tra các bước
giải xem đã hợp lí chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa. Thử lại
các kết quả xem đúng không. Đối với học sinh khá giỏi, giáo viên có thể hướng
các em nhìn lại tồn bộ bài giải, tập phân tích tìm các cách giải khác (nếu có),
giúp các em phát triển tư duy sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh.
* Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán
liên quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia - nhân (kiểu bài 1).
Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài tốn này, tơi đã tiến hành
dạy ngay ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau:
+ Kiểm tra bài cũ: Để nhắc lại kiến thức cũ và chuẩn bị cho kiến thức mới cần
truyền đạt, tôi ra một bài toán như sau: “Mỗi hộp chứa được 6 cái bát. Hỏi 8 hộp
như thế chứa được bao nhiêu cái bát?” . Với bài này, học sinh sẽ dễ dàng giải
được như sau:

Bài giải:
8 hộp như thế chứa được số cái bát là:
6 × 8 = 48 (cái)
Đáp số: 48 cái bát

Sau đó, tơi u cầu học sinh xác định nhận dạng tốn đã học và giải thích
cách làm, rồi cho học sinh nhắc lại quy trình của giải một bài toán.
7


+ Bài mới:
• Giới thiệu bài: Dựa vào phần kiểm tra bài cũ, giáo viên vừa củng cố, vừa giới
thiệu bài ngày hơm nay các em sẽ học.
• Hướng dẫn học sinh giải bài tốn 1: Có 40l dầu chia đều vào 8 can. Hỏi mỗi
can có mấy lít dầu? Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài bằng cách đọc
thành tiếng và đọc thầm. Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài tốn (ở đây giáo
viên có thể sử dụng phương pháp hỏi - đáp): Bài toán cho biết gì? (40 lít dầu
đổ đều vào 8 can). Bài tốn hỏi gì? (1 can chứa bao nhiêu lít dầu). Giáo viên
yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để giáo viên ghi bảng:
Tóm tắt: 8 can: 40l dầu
1 can: ... lít dầu ?
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài tốn để tìm ra cách giải bài tốn.
- Giáo viên yêu cầu học sinh làm vào nháp.
- Giáo viên đưa bài giải đúng để học sinh so sánh kết quả.
Bài giải
Số lít dầu có trong mỗi can là:
40 : 8 = 5 (l)
Đáp số: 5 lít dầu.
- Giáo viên củng cố cách giải: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít dầu ta làm phép
tính gì? (ta thực hiện phép tính chia).
- Giáo viên giới thiệu: Bài tốn cho ta biết số lít dầu có trong 8 can, u cầu
chúng ta tìm số lít dầu trong 1 can, để tìm được số lít dầu trong 1 can, chúng ta
thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của một
phần trong các phần bằng nhau.
- Giáo viên đưa ra một số bài toán để học sinh áp dụng và yêu cầu học sinh nêu

miệng kết quả như: 7 bao: 63kg (hoặc 4 túi : 20 kg); 1 bao:…kg? (hoặc 1 túi :…
kg?).
• Hướng dẫn học sinh giải bài tốn 2: Có 40 lít dầu chia đều vào 8 can. Hỏi 3 can
như vậy có mấy lít dầu?
- Giáo viên u cầu học sinh đọc kĩ đề bài.
8


- Yêu cầu một vài học sinh nêu tóm tắt bài tốn.
- Giáo viên ghi bảng: 8 can: 40 lít dầu; 3 can:…lít dầu?
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: Giáo viên đặt ra những câu hỏi để học
sinh trả lời. Từ đó tìm ra cách giải bài tốn.
+ Muốn tính được số lít dầu có trong 3 can ta phải biết gì? (1 can chứa được
bao nhiêu lít dầu)
+Làm thế nào để tìm được số lít dầu có trong 1 can? (Lấy số lít dầu trong 8 can
chia cho 8).
+ Yêu cầu học sinh nhẩm miệng 1 can:...l?
+ Yêu cầu học sinh nêu cách tính 3 can khi đã biết 1 can (Lấy số lít dầu có
trong 1 can nhân với 3).
- Gọi một học sinh nêu lần lượt các bước giải, đồng thời giáo viên ghi bảng.
Bài giải
Số lít dầu có trong mỗi can là:
40 : 8 = 5 (l)
Số lít dầu có trong 3 can là:
5 × 3 = 15 (l)
Đáp số:15 lít dầu.
- u cầu học sinh nhận xét bước nào là bước rút về đơn vị: Bước tìm số lít
dầu trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị.
- Hướng dẫn học sinh củng cố dạng toán: Đối với kiểu bài 1, các bài tốn có
liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước:

Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị (giá trị một phần trong các phần bằng nhau)
chúng ta thực hiện phép chia.
Bước 2: Tìm giá trị của nhiều đơn vị cùng loại (giá trị của nhiều phần bằng
nhau) chúng ta thực hiện phép nhân.
- Học sinh nhẩm thuộc, nêu lại các bước.
- Hướng dẫn học sinh làm bài tập áp dụng.
- Giáo viên nêu miệng, ghi tóm tắt lên bảng, học sinh nêu kết quả và giải thích
cách làm: 6 túi : 30kg (hoặc 7 thùng : 35 gói); 5 túi :…kg? (hoặc 6 thùng:…
9


gói?). Sau khi học sinh nắm chắc cách giải bài toán ở kiểu bài này, chúng ta
cần tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập để khắc sâu kiến thức.
+ Luyện tập: Để hướng dẫn học sinh luyện tập đạt hiệu quả cao, giáo viên cần
thay đổi cách tổ chức bằng nhiều hình thức khác nhau.
Bài 1: Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận cả lớp. Sau đó gọi một em nêu
tóm tắt miệng và một em lên bảng trình bày bài giải, các em dưới lớp làm vào
vở.
- giáo viên nhận xét, chữa bài
- Củng cố các bước: Rút về đơn vị; nêu lại cách giải bài toán.
Bài 2:
- Yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài.
- Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm đơi.
- u cầu một vài cặp báo cáo kết quả.
- Giáo viên nhận xét, bổ sung (nếu có).
- Yêu cầu học sinh nhắc lại bước rút về đơn vị.
- Giáo viên củng cố cách thực hiện 2 bước để giải bài toán.
Bài 3: Hướng dẫn và tổ chức cho học sinh chơi trò chơi ghép hình.
Bài 4: Tổ chức cho học sinh thi tính nhanh.
+ Củng cố dặn dị:

- u cầu học sinh tự nêu lại các bước, cách thực hiện giải bài toán liên quan
đến rút về đơn vị (kiểu bài 1).
- Giáo viên giao thêm một số bài dạng tương tự cho học sinh làm ở nhà.
- Qua các bài (các tiết luyện tập), giáo viên cần củng cố cách làm ở kiểu bài 1
như sau:
+ Bước 1: Tìm giá trị 1 đơn vị (Bước rút về đơn vị), ta đi tìm giá trị 1 phần
bằng cách thực hiện phép chia.
+ Bước 2: Tìm giá trị nhiều đơn vị (từ 2 đơn vị trở lên) ta thực hiện phép nhân.
* Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán
liên quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia - chia (kiểu bài 2).
10


Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài tốn này, tơi cũng đã tiến
hành từng bước tương tự như khi hướng dẫn học sinh làm kiểu bài 1. Cụ thể như
sau:
+ Kiểm tra bài cũ: Để ôn lại kiến thức cũ và chuẩn bị truyền đạt kiến thức mới,
tơi ra bài tốn như sau: “Mỗi thùng chứa được 9 lít nước. Hỏi 63 lít nước chứa
được trong bao thùng?” . Với bài này, học sinh sẽ dễ dàng giải được bài tốn
như sau:
Bài giải:
63 lít nước chứa được trong số thùng là:
63 : 9 = 7 (thùng)
Đáp số: 9 thùng.
Sau đó, tơi u cầu học sinh xác định dạng tốn đã học và giải thích cách
làm, rồi cho học sinh nhắc lại quy trình của giải một bài tốn.
• Giới thiệu bài: Dựa vào phần kiểm tra bài cũ, giáo viên vừa củng cố, vừa giới
thiệu bài ngày hơm nay các em sẽ học.
• Hướng dẫn học sinh giải bài tốn: Có 36 quả táo đựng đều vào 6 rổ. Hỏi có
60 quả táo thì đựng vào bao nhiêu rổ? Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kỹ đề

bài bằng cách đọc thành tiếng và đọc thầm. Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài
tốn (ở đây giáo viên có thể sử dụng phương pháp hỏi - đáp): Bài tốn cho
biết gì? (36 quả táo đựng đều vào 6 rổ). Bài tốn hỏi gì? (60 quả táo đựng
vào bao nhiêu rổ). Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để
giáo viên ghi bảng:
Tóm tắt: 36 quả táo: 6 rổ.
60 quả táo: ... rổ?
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài tốn để tìm ra cách giải bài toán.
+ Muốn biết được 60 quả táo đựng được vào mấy rổ thì trước tiên ta phải biết
điều gì? (1 rổ chứa được bao nhiêu quả táo).
+ Làm thế nào để tìm được 1 rổ đựng được bao nhiêu quả táo? (Lấy số quả táo
trong 6 rổ chia cho 6). Đây chính là bước rút về đơn vị.
+ Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 rổ:...quả táo?
- Giáo viên đưa bài giải đối chiếu.
11


Bài giải
Số quả táo có trong mỗi rổ là:
36 : 6 = 6 (quả)
Đáp số: 6 quả táo.
+ Giáo viên hướng dẫn: Biết 1 rổ đựng được 6 quả táo, vậy 60 quả táo sẽ đựng
được vào mấy rổ? (Lấy 60 quả táo chia cho 6 quả sẽ được 10 rổ).
- Một học sinh nêu lần lượt bài giải. Giáo viên ghi bảng.
Bài giải
Số quả táo có trong mỗi rổ là:
36 : 6 = 6 (quả)
60 quả táo đựng được trong số rổ là:
60 : 6 = 10 (rổ)
Đáp số: 10 rổ.

- Hướng dẫn học sinh lưu ý ghi đơn vị ở phép tính thứ 2 trong kiểu bài 2 khác
với đơn vị ở phép tính thứ 2 trong kiểu bài 1để học sinh không bị nhầm lẫn.
- Giúp học sinh củng cố lại kiến thức: Đối với kiểu bài 2, các bài tốn có liên
quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước sau:
Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị (giá trị một phần trong các phần bằng nhau)
ta thực hiện phép chia.
Bước 2: Tìm số phần (số đơn vị) ta thực hiện phép chia.
- Học sinh nhẩm thuộc, nêu lại các bước.
- Hướng dẫn học sinh làm bài tập áp dụng.
- Giáo viên nêu miệng, ghi tóm tắt lên bảng, học sinh nêu kết quả và giải thích
cách làm: 6 túi : 24 kg (hoặc: 7 thùng : 35 gói); 16 kg :…túi? (20 gói:…
thùng?). Sau khi học sinh nắm chắc cách giải bài toán ở kiểu bài này, chúng ta
cần tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập để khắc sâu kiến thức.
+ Luyện tập: Để hướng dẫn học sinh luyện tập đạt hiệu quả cao, giáo viên cần
thay đổi cách tổ chức bằng nhiều hình thức khác nhau.

12


Bài 1: Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận cả lớp. Sau đó gọi một em nêu
tóm tắt miệng và một em lên bảng trình bày bài giải, các em dưới lớp làm vào
vở.
- giáo viên nhận xét, chữa bài
- Củng cố các bước: Rút về đơn vị; nêu lại cách giải bài toán.
Bài 2:
- Yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài.
- Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm nhóm 4.
- Yêu cầu một vài nhóm lên bảng báo cáo kết quả.
- Giáo viên nhận xét, bổ sung (nếu có).
- Yêu cầu học sinh nhắc lại bước rút về đơn vị.

- Giáo viên củng cố cách thực hiện 2 bước để giải bài toán.
Bài 3: Hướng dẫn học sinh thi tính nhanh rồi cùng nhận xét xem cách làm nào
đúng, cách làm nào chưa đúng.
Bài 4: Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Ai nhanh – Ai đúng”. Giáo viên
hướng dẫn, phổ biến luật chơi
+ Củng cố dặn dò:
- Yêu cầu học sinh tự nêu lại các bước, cách thực hiện giải bài toán liên quan
đến rút về đơn vị (kiểu bài 2).
- Giáo viên giao thêm một số bài dạng tương tự cho học sinh làm ở nhà.
- Qua các bài (các tiết luyện tập), giáo viên cần củng cố cách làm ở kiểu bài 1
như sau:
+ Bước 1: Tìm giá trị 1 đơn vị (Bước rút về đơn vị), ta đi tìm giá trị 1 phần
bằng cách thực hiện phép chia.
+ Bước 2: Tìm số phần (số đơn vị) ta thực hiện phép chia.

* Kết luận:
Với hai kiểu bài của dạng: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị đều có hai
bước giải sau:
Bước 1: Tìm giá trị 1 đơn vị (Bước rút về đơn vị), ta đi tìm giá trị 1 phần bằng
cách thực hiện phép chia (ở cả 2 kiểu bài đều giống nhau ở bước này)
13


Bước 2:


Kiểu bài 1: Tìm giá trị nhiều phần - ta làm tính nhân.




Kiểu bài 2: Tìm số phần (số đơn vị) - ta làm tính chia.

Do đó học sinh hay nhầm lần giữa bước 2 của hai kiểu bài, kể cả học sinh
khá, giỏi. Để học sinh tránh tình trạng này, giáo viên giúp học sinh ghi nhớ như
sau:
- Bước 1: Rút về đơn vị.
- Bước 2: So sánh đơn vị ở bước 1 và đơn vị phải tìm.
+ Nếu đơn vị ở bước 1 và đơn vị phải tìm giống nhau thì làm phép nhân.
+ Nếu đơn vị ở bước 1 và đơn vị phải tìm khác nhau thì làm phép chia.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Những biện pháp đã sử dụng đem lại hiệu quả thiết thực cho việc giúp học
sinh lớp 3 giải tốt bai toán liên quan đến rút về đơn vị. Những biện pháp này cịn
có khả năng áp dụng cho học sinh lớp 3 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
8. Những thơng tin cần được bảo mật:
Sáng kiến mang tính phổ biến kinh nghiệm trong dạy và học mơn Tốn
lớp 3 nên khơng có thơng tin bảo mật.
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Đối với giáo viên trực tiếp giáng dạy:
+ Luôn luôn đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, phát huy
tính chủ động của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm.
+ Chú trọng đầu tư thời gian trong việc nghiên cứu từng bài dạy về việc
xác định mục tiêu, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp,
linh hoạt, hấp dẫn.
+ Tâm huyết, nhiệt tình, giảng dạy chi tiết, kỹ lưỡng từng nội dung.
+ Thường xuyên trao đổi, chữa bài cho học sinh. Khuyến khích, động viên
học sinh kịp thời.
- Đối với học sinh:
+ Học sinh ngoan, chú ý nghe giảng. Mạnh dạn học hỏi, trao đổi với thầy
cô, bạn bè những chỗ chưa rõ hoặc không hiểu.
14



+ Tự tin thể hiện tư duy sáng tạo, khả năng tự giải quyết vấn đề.
- Đối với Ban giám hiệu nhà trường:
+ Luôn ủng hộ, tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên và học sinh hoàn
thành tốt nhiệm vụ giảng dạy và học tâp.
10. Đánh giá lợi ích thu được:
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm theo ý kiến của tác giả:
Để đánh giá hiệu quả thu được sau khi đã áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm
vào dạy học, tôi đã tiến hành cho học sinh lớp 3B2 nói riêng và học sinh khối 3
tồn trường nói chung làm các bài Khảo sát chất lượng về dạng bài tập liên quan
đến rút về đơn vị. Sau đó so sánh với kết quả bài làm của các em khi chưa áp
dụng Sáng kiến kinh nghiệm và dưới đây là bảng kết quả:

Lớp

Tổng
số HS

3A1
3A2
3B1
3B1

30
33
29
27


Trước khi áp dụng SKKN
Số HS
Số HS còn
nắm chắc
nhầm lẫn
KB1 KB2 KB1 KB2
22
19
8
11
22
20
11
13
22
21
7
8
20
17
7
10

Sau khi áp dụng SKKN
Số HS
Số HS còn
nắm chắc
nhầm lẫn
KB1 KB2 KB1 KB2
27

25
3
5
29
27
4
6
26
27
3
2
24
23
3
4

Qua kết quả đạt được như trên, tôi thấy sau khi áp dụng Sáng kiến kinh
nghiệm vào dạy học thì số học sinh nắm chắc cả 2 kiểu bài ở các lớp đã tăng
rõ rệt. So với kết quả trước khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm thì kết quả này
là rất đáng mừng. Điều đó cho thấy những cố gắng đổi mới trong phương pháp
dạy học của tôi đã có kết quả rất tốt. Đây cũng là cơ sở vững chắc để giúp các
em học sinh có kỹ năng giải toán tốt để tiếp tục học toán ở lớp 4.
Bản thân tôi cho rằng, việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào dạy
học sinh là một việc làm cần thiết và cần triển khai càng sớm càng tốt. Nhằm
kịp thời giúp học sinh tránh những sai lầm trong giải toán và đồng thời nâng
cao chất lượng giảng dạy.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
- Ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm đã được nghiên cứu và áp dụng vào
dạy trong 2 tiết Bài toán liên quan đến rút về đơn vị và Bài toán liên quan đến

15


rút về đơn vị (Tiếp theo) mơn Tốn lớp 3 nói riêng và các dạng bài tốn có lời
văn nói chung.
- Tính mới, tính sáng tạo: Ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm có tính mới,
tính sáng tạo cao mạng lại hiệu quả thiết thực giúp nâng cao năng lực giải tốn
của học sinh.
Từ đó hình thành các kỹ năng liên quan: Kỹ năng giao tiếp, hợp tác; kỹ năng tự
giải quyết vấn đề; kỹ năng trình bày, phát biều,...và đặc biệt còn giúp cho học
sinh tự tin trước mọi người.
- Khả năng áp dụng, nhân rộng: Ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm có khả
năng áp dụng, phổ biến rộng rãi trong địa bàn huyện Sơng Lơ nói riêng và địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói chung.
- Khả năng mang lại lợi ích thiết thực: Ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm
mang lại lợi ích thiết thực cao trong thực tế. Giúp cho học sinh, người lao động
có kỹ năng tính tốn tốt. Vận dụng thực tế vào các tình huống cụ thể trong cuộc
sống.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm lần đầu:

16



×