Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 - 9 lá đến sinh trưởng và năng suất của giống ngô LVN14, vụ đông năm 2011 tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.57 KB, 87 trang )

ĐỀ TÀI
“Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng đạm bón
vào thời kỳ 7 - 9 lá đến sinh trưởng và năng
suất của giống ngô LVN14, vụ đông năm 2011
tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên”


Giáo viên hướng dẫn :Ths Phạm Thị Thu Huyền
Sinh viên thực hiện :Nguyễn Văn Trọng
1
MỤC LỤC
Phần 1:
Phần 1 5
MỞ ĐẦU 5
1.1. Đặt vấn đề 5
1.2. Mục tiêu của đề tài 6
1.3. Yêu cầu của đề tài 6
1.4. Ý nghĩa của đề tài 6
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 6
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tế sản xuất 7
Phần 2 8
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 8
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 8
2.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam 9
2.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới 9
2.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam 12
2.2.3. Tình hình sản xuất ngô ở tỉnh Thái Nguyên 17
2.3. Tình hình nghiên cứu ngô trên thế giới và ở Việt Nam 19
2.3.1. Tình hình nghiên cứu ngô trên thế giới 19
2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngô ở Việt Nam 22
Phần 3 29


ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29
3.1. Đối tượng nghiên cứu 29
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành thí nghiệm 29
3.3. Nội dung và Phương pháp nghiên cứu 29
3.3.1. Nội dung nghiên cứu 29
3.3.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm 29
3.3.3. Quy trình kỹ thuật trồng trọt áp dụng trong thí nghiệm 30
3.4. Chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp theo dõi 32
3.4.1 Các chỉ tiêu về sinh trưởng 32
3.4.2. Các chỉ tiêu về hình thái 33
3.4.3. Các chỉ tiêu chống chịu 33
3.4.4. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất 34
3.5. Phương pháp xử lý số liệu 35
Phần 4 36
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 36
4.1. Ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 – 9 lá đến thời gian sinh
trưởng của giống ngô LVN14, vụ đông 2011 36
4.1.1. Giai đoạn từ gieo đến mọc 37
2
4.1.2. Giai đoạn từ gieo đến trỗ 37
4.1.3. Giai đoạn gieo đến tung phấn và phun râu 38
4.1.4. Giai đoạn chín sinh lý 39
4.2. Ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 – 9 lá đến đặc điểm hình
thái, sinh lý của giống ngô LVN14, vụ Đông 2011 39
4.2.1. Chiều cao cây 40
4.2.2. Chiều cao đóng bắp 40
4.2.3. Số lá trên cây 41
4.2.4. Chỉ số diện tích lá 42
4.3. Ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 - 9 lá đến tốc độ tăng
trưởng chiều cao của giống ngô LVN14, vụ Đông 2011 42

4.4. Ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 - 9 lá đến tình hình sâu
bệnh hại và khả năng chống đổ của giống ngô LVN14, vụ Đông 2011 44
4.4.1. Ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 - 9 lá đến tình hình
sâu bệnh hại của giống ngô LVN14, vụ Đông 2011 44
4.4.2. Ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 – 9 lá đến khả năng
chống đổ của giống ngô LVN14, vụ Đông 2011 47
4.5. Ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 – 9 lá đến trạng thái cây,
trạng thái và bắp độ bao bắp của giống LVN14, vụ Đông 2011 47
4.5.1. Trạng thái cây 48
4.5.2. Trạng thái bắp 48
4.5.3. Độ bao bắp 49
4.6. Ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 – 9 lá đến các yếu tố cấu
thành năng suất và năng suất của giống LVN14, vụ Đông 2011 49
4.6.1. Chiều dài bắp 50
4.6.2. Đường kính bắp 50
4.6.3. Số hàng hạt/bắp 50
4.6.4. Số hạt/hàng 51
4.6.5. Khối lượng nghìn hạt 51
4.6.6. Năng suất lý thuyết 51
4.6.7. Năng suất thực thu 52
4.7. Ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 – 9 đến hiệu quả kinh tế
của giống LVN14, vụ Đông 2011 52
Phần 5 54
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 54
5.1. Kết luận 54
5.1.1. Tình hìnhsinh trưởng 54
5.1.2. Khả năng chống chịu 54
5.1.3. Năng suất và hiệu quả kinh tế 54
5.2. Đề nghị 54
3

TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
4
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây ngô (Zea Mays L.) thuộc chi Maydeae, họ hoà thảo Gramineae, là
một trong 3 cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn thế giới. Ở các
nước thuộc Trung Mỹ, Nam Á và Châu Phi, người ta sử dụng ngô làm lượng
thực chính. Không chỉ cung cấp lượng thực cho con người, ngô còn là nguồn
thức ăn cung cấp cho chăn nuôi, là nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế
biến. Hiện nay 66% sản lượng ngô của thế giới được dùng làm thức ăn cho
chăn nuôi, trong đó các nước phát triển là 76% và các nước đang phát triển là
57%. Tuy chỉ có 21% sản lượng ngô được dùng làm lương thực, nhưng nhiều
nước vẫn coi ngô là cây lương thực chính, như: Mexico, Ấn Độ, Philipin. Ở
Ấn Độ có tới 90% sản lượng ngô, ở Philipin có 66% sản lượng ngô được dùng
làm lương thực cho con người (Dương Văn Sơn và ctv, 1997) [14].
Nhờ những vai trò quan trọng của cây ngô trong nền kinh tế thế giới nên
hơn 40 năm gần đây, ngành sản xuất ngô thế giới phát triển mạnh và giữ vị trí
hàng đầu về năng suất, sản lượng trong những cây lương thực chủ yếu. Mặc dù
diện tích trồng ngô đứng thứ 3 sau lúa mỳ và lúa nước, nhưng sản lượng ngô
chiếm 1/3 sản lượng ngũ cốc trên thế giới và nuôi sống 1/3 dân số toàn cầu.
Năm 1961 diện tích trồng ngô chỉ đạt 105,55 triệu ha với tổng sản lượng là
205,03 triệu tấn, nhưng đến năm 2010 diện tích trồng ngô đã đạt 162,30 triệu
ha với sản lượng 820,60 triệu tấn (theo thống kê của FAO, 2011) [33].
Hiện nay do nhu cầu sử dụng ngô không ngừng tăng, để đáp ứng đủ
nhu cầu ngô cho tiêu dùng trong nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn đã xây dựng chiến lược phát triển sản xuất ngô đến năm 2020 là phải đạt
9- 10 triệu tấn. Để đạt được mục tiêu này, hai giải pháp chính được đưa ra là
mở rộng diện tích và tăng năng suất. Tuy nhiên việc mở rộng diện tích trồng
ngô rất khó khăn do diện tích sản xuất nông nghiệp còn hạn chế và phải cạnh

tranh với nhiều loại cây trồng khác nên tăng năng suất là giải pháp chủ yếu.
5
Đặc biệt là sử dụng những giống ngô lai cho năng suất cao thay thế cho những
giống ngô địa phương cho năng suất thấp.
Sự sinh trưởng, phát triển của cây phụ thuộc vào tác dụng tổng hợp của
các yếu tố: ánh sáng, nước, nhiệt độ, thức ăn. Thực tế sản xuất cho thấy người
ta coi phân bón là đòn bẩy tăng năng suất cây trồng.
Tuy nhiên để bón phân đạt hiệu quả cao cần nghiên cứu, xác định mức
phân bón thích hợp cho từng giống và từng vùng sản xuất.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 - 9 lá đến sinh
trưởng và năng suất của giống ngô LVN14, vụ đông năm 2011 tại Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
Xác định được lượng đạm thích hợp bón cho giống ngô LVN14 vào thời
kỳ 7 – 9 lá nhằm tăng năng suất và hiệu quả kinh tế, góp phần phát triển giống
ngô này ra ngoài sản xuất.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của giống ngô LVN14 qua các công
thức đạm khác nhau.
- Nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại và khả năng chống đổ của giống ngô
LVN14.
- Nghiên cứu các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống ngô
LVN14 qua các công thức đạm
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Đối với học tập:
Giúp các học viên củng cố kiến thức, có điều kiện tiếp cận với phương
pháp nghiên cứu khoa học và áp dụng được những kiến thức lý thuyết đã học
vào trong thực tiễn sản xuất.

- Đối với nghiên cứu khoa học:
6
Kết quả của đề tài mở ra hướng nghiên cứu mới về phương pháp bón phân
nói chung và bón đạm nói riêng cho ngô và các loại cây trồng khác từ đó giúp
nâng cao năng suất các loại cây trồng, đồng thời giúp ổn định Nitơrat trong đất,
nâng cao hiệu lực đạm, giảm chi phí sản xuất và bảo vệ môi trường sống.
Giúp sinh viên biết cách viết, trình bày một báo cáo khoa học.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tế sản xuất
Kết quả của nghiên cứu sẽ đưa ra được lượng phân đạm thích hợp để
giống ngô LVN14 đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
7
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Ở Việt Nam, nông nghiệp nông thôn có vị trí rất quan trọng. Hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát triển của nông nghiệp, nông
thôn và đã có những chủ trương, chính sách đúng đắn để đẩy nhanh sự phát
triển của khu vực này. Trải qua các giai đoạn phát triển, nông dân, nông
nghiệp và nông thôn đã có những đóng góp tạo nên những thành tựu lớn trong
công cuộc đổi mới. Cho đến nay, nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển
tương đối toàn diện, tăng trưởng khá, quan hệ sản xuất từng bước đổi mới phù
hợp với yêu cầu phát triển của nền nông nghiệp hàng hoá. Những thành tựu
đó đã góp phần rất quan trọng vào sự ổn định kinh tế - xã hội, tạo tiền đề đẩy
nhanh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Đóng góp một phần không nhỏ đối với sự phát triển đó là hệ thống các
cây lương thực, trong đó có cây ngô. Tuy hiện nay cây lúa vẫn đang giữ vị trí
đứng đầu về sản lượng cũng như tầm quan trọng nhưng với khả năng phát
triển trong tương lai, cây ngô đã từng bước tự chứng tỏ được mình.
Ngô là cây trồng quang hợp theo chu trình C
4

, có tiềm năng năng suất
cao mà không một cây ngũ cốc nào có thể so sánh kịp. Để nâng cao năng suất
và sản lượng cây trồng thì yếu tố quyết định chính là giống. Nhưng giống chỉ
phát huy hết tiềm năng năng suất khi được bón phân đầy đủ, được gieo trồng ở
vùng có điều kiện khí hậu, đất đai, trình độ thâm canh và điều kiện kinh tế xã hội
phù hợp. Trong các nguyên tố dinh dưỡng thiết yếu cho cây ngô thì đạm là
nguyên tố quan trọng bậc nhất đối với ngô. Đạm làm cho lá thêm xanh, cây sinh
trưởng mạnh. Vì vậy, người ta gọi đạm là: “động cơ sinh trưởng của ngô”. Đạm
là yếu tố cấu thành nên tất cả các bộ phận sống, các chất nguyên sinh tế bào, là
thành phần quan trọng của nhiễm sắc thể, gen, axit amin, prôtein, các
phytohormon, phytocrom và vitamin Thiếu đạm cây sinh trưởng kém, còi cọc,
8
lá cây màu vàng, diện tích lá, trọng lượng hoa, quả, hạt đều giảm. Thiếu đạm có
thể làm giảm năng suất đến 50%.
Cây ngô cần đạm trong suốt quá trình sinh trưởng, thời kỳ nảy mầm cây
ngô cần lượng đạm rất nhỏ nhưng rất quan trọng. Nhịp độ hút đạm lớn dần đến
lúc trổ cờ, sự hút đạm của cây ngô kéo dài đến khi hạt chín. Vì vậy việc nghiên
cứu để xác định lượng đạm bón phù hợp cho từng thời kỳ là hết sức cần thiết.
2.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Do có nền
di truyền rộng và thích ứng với nhiều vùng sinh thái khác nhau nên cây ngô
được trồng ở hầu hết các nước trên thế giới. Hiện nay có khoảng 140 nước
trồng ngô, trong đó có 38 nước là các nước phát triển còn lại là các nước đang
phát triển. Tổng diện tích trồng năm 20010 lên đến 162,3 triệu ha, năng suất
5,06 tấn/ha và sản lượng 820,6 triệu tấn một năm (FAOSTAT, 2011) [33].
Ngô được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực như: làm lương thực, thực
phẩm, thức ăn cho gia súc, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế
biến Hiện nay ngô là nguồn nguyên liệu quan trọng trong sản xuất năng
lượng sinh học (ethanol), đây được coi là giải pháp cho sự thiếu hụt năng

lượng trong tương lai. Ở Mỹ, trên 90% ethanol được sản xuất từ ngô với hơn
2680 nhà máy. Trung Quốc cũng đang tập trung đầu tư xây dựng nhiều cở sở
nghiên cứu về nguồn năng lượng sinh học này với mục tiêu ethanol nhiên liệu
sẽ tăng lên 2 tỷ lít vào năm 2010 và 10 tỷ lít vào năm 2020 (Ngô Sơn, 2007)
[16]. Để cung cấp nguyên liệu cho sản xuất ethanol, các nhà khoa học thuộc
Đại học bang Michigan (Mỹ) đã tạo ra một số giống ngô mới chuyên sản xuất
ethanol. Giống ngô mới này cho phép tạo ra sản phẩm ethanol hiệu quả hơn
và mang lại nhiều lợi nhuận hơn bởi hiện phần lớn nhiên liệu ethanol của Mỹ
được sản xuất từ bắp ngô.
Nhờ những tiến bộ trong nghiên cứu và sản xuất mà diện tích, năng suất
và sản lượng ngô trên thế giới tăng lên liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Kết
quả được thể hiện qua bảng 1.1.
9
Bảng 2.1. Tình hình sản xuất ngô thế giới từ năm 1961 - 2010
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
1961 105,55 1,92 205,03
2005 147,47 4,84 713,43
2006 148,83 4,75 706,69
2007 159,05 4,96 789,48
2008 161,10 5,13 826,22
2009 159,53 5,12 817,11
2010 162,3 5,06 820,6
(Nguồn: FAOSTAT, 2011) [33]

Qua bảng 1.1 cho thấy, sản xuất ngô trên thế giới tăng lên không ngừng
cả về diện tích và năng suất. Năm 1961 năng suất ngô trung bình thế giới mới
chỉ đạt 1,92 tấn/ha, diện tích 105,55 triệu ha. Nhưng đến năm 2010 năng suất
ngô đạt 5,06 tấn/ha, gấp 2,6 lần và sản lượng đạt 820,6 triệu tấn, gấp 4 lần so
vớinăm 1961, trong khi diện tích ngô tăng không nhiều (1,5 lần).
Trong công tác cải tạo giống cây trồng trên cơ sở ưu thế lai, ngô lai là
một thành công kỳ diệu của nhân loại. Nhờ sử dụng giống ngô lai và kỹ thuật
trồng trọt tiên tiến mà năng suất ngô trên thế giới đã tăng 4 lần trong vòng 50
năm (1960-2010), nhất là các nước có điều kiện thâm canh như Mỹ, Trung
Quốc, Brazil. Tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới được trình
bày ở bảng 1.2.
Bảng 2.2. Tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới năm 2010
Nước
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
( triệu tấn)
Mỹ 32,96 9,59 9,59
Trung Quốc 32,52 5,46 5,46
Brazil 12,81 4,37 4,37
Mexico 7,15 3,26 3,26
Ấn Độ 7,18 1,96 1,96
Indonexia 4,14 4,43 4,43
Đức 0,46 8,79 8,79
Hy Lạp 0,19 11,7 11,7
Israel 0,003 28,39 28,39
(Nguồn FAOSTAT, 2011) [33]
10

Mỹ là một nước phát triển có năng suất ngô tăng từ 2-3 lần trong thời kỳ
trên. Hiện nay Mỹ là nước sản xuất ngô lớn nhất thế giới, chiếm hơn 40%
tổng sản lượng ngô thế giới. Theo Rinke.E (1979) [39] việc sử dụng các giống
ngô lai ở Mỹ bắt đầu từ năm 1930. Hiện nay 100% diện tích ngô của Mỹ là
trồng các giống ngô lai trong đó hơn 90% là giống ngô lai đơn (Ngô Hữu
Tình và cộng sự, 2009) [20]. Nhiều thí nghiệm ở Mỹ về các giống ngô lai đơn
đã cho năng suất đạt 25 tấn/ha/vụ. Người ta đã tính được mức độ tăng năng
suất ngô ở Mỹ trong giai đoạn 1930-1986 là 103 kg/ha/năm, trong đó sự đóng
góp do cải tiến nền di truyền là 63 kg/ha/năm (Duvick D.N, 1990) [31], vào
cuối thế kỷ 19, Mỹ đã có 770 giống ngô cải lượng.
Trong thời gian gần đây, nếu như phần lớn các nước phát triển năng suất
ngô tăng không đáng kể, thì năng suất ngô ở Mỹ lại có sự tăng đột biến. Kết
quả đó có được là nhờ ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất. Theo
Ming Tang Chang và cộng sự (Minh-Tang Chang et al, 2005) [35] cho biết: Ở
Mỹ chỉ còn 48% giống ngô được sử dụng được chọn tạo theo công nghệ
truyền thống, 52% là bằng công nghệ sinh học. Năng suất ngô ở Mỹ đã tăng
từ 1,5 tấn/ha vào năm 1930 đến 7 tấn/ha vào những năm 1990 (SK.Vasal et al,
1990) [40]. Năm 2009 tổng sản lượng ngô của Mỹ là 307,38 triệu tấn/ha, trên
diện tích là 31,83triệu ha.
Trung Quốc là nước đứng thứ 2 trên thế giới về diện tích trồng ngô,
Theo dự báo, sản lượng ngô năm 2010-2011 của Trung Quốc sẽ tăng 7,1% so
với năm 2009, và vượt kỷ lục 163,12 triệu tấn năm 2009, tuy nhiên diện tích
ngô tăng không nhiều (tăng 1%). Do có trình độ khoa học kỹ thuật và thâm
canh cao nên Israel là nước đứng đầu về năng suất là Israel với 16,23 tấn/ha,
năng suất ngô thấp nhất là Ấn Độ (2,06 tấn/ha).
Trong sản xuất hiện nay có sự khác biệt rõ ràng về năng suất giữa các
nước phát triển và các nước đang phát triển. Năng suất ngô trung bình của các
nước phát triển là 7,8 tấn/ha, các nước đang phát triển là 2,7 tấn/ha. Hai
nguyên nhân chính dẫn đến sự chênh lệch này là:
11

- Tỷ lệ sử dụng giống ngô lai khác nhau trong sản xuất. Ở các nước phát
triển 90-100% diện tích ngô được trồng bằng các giống lai có ưu thế lai cao,
trong khi đó các nước đang phát triển diện tích trồng giống ngô lai rất thấp
(37% diện tích) chủ yếu là trồng các giống thụ phấn tự do (63% diện tích)
(CIMMYT, 1991-1992) [29].
- Khả năng đầu tư và trình độ thâm canh của người sản xuất.
Theo dự báo của Viện nghiên cứu chương trình Lương thực Thế giới
(IPRI, 2003) [34], vào năm 2020 tổng nhu cầu ngô thế giới là 852 triệu tấn,
trong đó 15% dùng làm lương thực, 69% dùng làm thức ăn chăn nuôi, 16%
dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp. Ở các nước phát triển chỉ dùng 5%
ngô làm lương thực nhưng ở các nước đang phát triển tỷ lệ này là 22%, dự
báo nhu cầu ngô trên thế giới năm 2020 được trình bày ở bảng 1.3
Bảng 2.3: Dự báo nhu cầu ngô thế giới đến năm 2020
Vùng
Năm 1997
(triệu tấn)
Năm 2020
(triệu tấn)
% thay đổi
Thế giới 586 852 45
Các nước đang phát triển 295 508 72
Đông Á 136 252 85
Nam Á 14 19 36
Cận Sahara - Châu Phi 29 52 79
Mỹ Latinh 75 118 57
Tây và Bắc Phi 18 28 56
(Nguồn: IPRI 2003) [34]
Như vậy, đến năm 2020 nhu cầu ngô thế giới tăng 45% so với nhu
cầunăm 1997, chủ yếu tăng cao ở các nước đang phát triển (72%), riêng Đông
Á nhu cầu tăng 85% so với năm 1997.

2.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
Cây ngô được đưa vào Việt Nam cách đây khoảng 300 năm (Ngô Hữu
Tình, 1997) [18]. Ngô là một trong những cây màu chính, thích ứng rộng,
12
chịu thâm canh, năng suất cao, vì vậy cây ngô được trồng ở hầu hết các vùng
trong cả nước. Tình hình sản xuất ngô lai trong nước giai đoạn từ năm 1961
đến 2010 được trình bày qua bảng 1.4.
Bảng 2.4. Sản xuất ngô Việt Namnăm 1961 – 2010
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
1961 229,2 1,14 260,1
1975 229,2 1,05 280,6
1990 432,0 1,55 671,0
1994 534,6 2,14 1.143,9
2000 730,2 2,51 2.005,9
2005 1.052,6 3,60 3.787,1
2007 1.072,8 3,96 4.250,9
2008 1.140,2 4,01 4.573,1
2009 1.086,8 4,03 4.381,8
2010 1.126,9 4,09 4.606,8
(Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ NN & PTNT 2011) [21]
Sản xuất ngô ở Việt Nam trải qua nhiều bước thăng trầm, đến nay đã đạt
được những thành tựu to lớn, được chia làm 3 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1: Trước năm 1975 do điều kiện còn khó khăn nên cây ngô
chưa được chú trọng, vì vậy diện tích ngô chỉ đạt 209 ngìn ha, năng suất 1,07

tấn/ha, với sản lượng bình quân 224 nghìn tấn/năm.
Giai đoạn 2: Từ năm 1975-1994 diện tích trồng ngô tăng chậm từ 229,2
nghìn ha (năm 1975) lên 534,6 nghìn ha (năm 1992). Đầu những năm 1990
ngành sản xuất ngô Việt Nam thực sự có một bước tiến nhảy vọt, gắn liền với
việc sử dụng giống ngô lai ra sản xuất, đây là bước chuyển tiếp quan trọng
trong chương trình phát triển ngô lai ở Việt Nam - từ giống thụ phấn tự do
sang giống ngô lai quy ước. Hàng loạt các giống ngô lai Việt Nam đã được
mở rộng ra sản xuất: LVN10, LVN4, LVN5, LVN9, LVN12, LVN17 Do
được chọn tạo trong nước nên các giống ngô được tạo ra có khả năng thích
ứng với điều kiện sinh thái và tập quán canh tác của người dân, giá thành
giống chỉ bằng 50-70% so với các giống nước ngoài cùng loại.
13
Giai đoạn 3: Từ năm 1994 đến nay, diện tích trồng ngô tăng nhanh, đồng
thời với việc tăng không ngừng về năng suất. Năm 2010 năng suất và sản
lượng ngô cao nhất từ trước đến nay, năng suất đạt 4,09 tấn/ha, sản lượng
4.606,8 nghìn tấn trên diện tích 1.126,9 nghìn ha. So với năm 1990, khi chưa
sử dụng giống ngô lai trong sản xuất thì diện tích tăngtrên 2,6 lần, còn sản
lượng tăng trên 6,9 lần.
Có thể nói việc phát triển và sử dụng các giống ngô lai trong sản xuất ở
Việt Nam là thành tựu nổi bật không thể phủ nhận. Trước đây năng suất ngô
của nước ta rất thấp so với năng suất ngô thế giới, do sử dụng giống địa
phương và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế. Tuy nhiên
chỉ trong 10 năm áp dụng sản xuất ngô lai tại Việt Nam diện tích ngô lai đã
tăng từ 0% năm 1990 lên 60% năm 2000 với tốc độ tăng kỷ lục 6%/năm, đến
năm 2010 tỷ lệ giống ngô lai trong sản xuất là 95%.
Thời gian gần đây, việc tiêu thụ ngô hàng hoá trong nước chủ yếu do các
công ty chế biến thức ăn chăn nuôi, thông qua các đại lý hoặc các tư thương
thu mua gom lại, sấy khô rồi cung ứng cho các nhà máy. Hiện nay, tại một số
tỉnh như Sơn La, Hà Tây, Hòa Bình đã hình thành các cụm sấy ngô hạt do
các tư nhân tự đầu tư và thu mua ngô của dân, rồi cung cấp cho các cơ sở chế

biến thức ăn chăn nuôi.
* Cơ hội và thách thức đối với sản xuất ngô ở Việt Nam
- Cơ hội trong sản xuất ngô ở Việt Nam
+ Sản xuất ngô trong nước đã nhận được sự quan tâm sâu sắc của các cơ
quan hữu quan.
+ Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của nước ta thuận lợi cho phép
chúng ta có thể mở rộng diện tích gieo trồng. Đặc biệt từ năm 1993 trở lại
đây, cây ngô được phát triển mạnh ở vùng Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ, đã và đang hình thành các vùng sản xuất ngô thương phẩm.
Khả năng tăng diện tích gieo trồng ở nước ta còn lớn, hiện nay trong số
140 nghìn ha diện tích đất 1 vụ ở miền núi mới chỉ khai thác được khoảng 15
- 20% để trồng ngô, đậu, lạc. Trong 180 nghìn ha ngô ở các tỉnh miền núi và
14
cao nguyên thì mới có khoảng 37% diện tích ngô được trồng 2 vụ. Diện tích
ngô vụ đông trên đất 2 vụ lúa ở Đồng bằng và Trung du phía Bắc có thể trồng
ngô lên tới 300 nghìn ha.
+ Nước ta đã có nhiều thành công trong việc ứng dụng các tiến bộ kỹ
thuật về công nghệ sản xuất các loại hạt giống lai và các giống thụ phấn tự do,
nhiều giống ngô lai có năng suất cao đã và đang được áp dụng phổ biến trong
sản xuất. Chương trình phát triển ngô lai của Việt Nam từ năm 1991 tới nay
phát triển nhanh, có tới gần 60% diện tích ngô lai được trồng bằng các giống
trong nước, số còn lại là các giống của một số công ty nước ngoài.
+ Thu hồi vốn nhanh: Trồng ngô, nhất là ngô lai có thời gian gieo trồng
ngắn, vốn đầu tư không nhiều, dễ làm nên mang lại hiệu quả kinh tế cao.
+ Công tác khuyến nông và hệ thống thông tin phát triển đã giúp cho
người dân tiếp thu nhanh về giống mới và kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất
ngô đại trà.
+ Phần lớn các tỉnh đều có chính sách trợ giá về giống và bảo hiểm giá
ngô thương phẩm cho người sản xuất ngô lai.
+ Hiện nay nhu cầu về ngô sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước lớn

hơn khả năng cung cấp nên ít khi có tình trạng dư thừa.
- Thách thức trong sản xuất ngô ở Việt Nam
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nhưng sản xuất ngô
nước ta vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra:
+ Năng suất có sự tăng trưởng đáng kể nhưng so với thế giới năng suất
ngô của Việt Nam vẫn còn thấp, năm 2010 năng suất ngô trong nước bằng
80% so với trung bình thế giới, 42,65% so với năng suất trung bình của Mỹ
(FAOSTAT, 2011) [33].
+ Giá thành ngô cao, do giá giống và vật tư cao. Trừ 3 vùng ngô hàng
hóa lớn là Sơn La, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có giá thành ngô tương đối
thấp, các vùng còn lại có giá thành tương đối cao. Điều đó làm cho giá ngô
trong nước luôn cao hơn so với giá ngô thế giới từ 30-40%.
15
+ Mặc dù sản xuất ngô trong nước phát triển mạnh song do nhu cầu
nguyên liệu để chế biến thức ăn gia súc ngày càng tăng nên hàng năm nước ta
vẫn phải nhập một khối lượng đáng kể ngô làm nguyên liệu cho các nhà máy
chế biến thức ăn gia súc. Trong những năm gần đây nước ta phải nhập 500-
700 nghìn tấn ngô hạt để làm thức ăn chăn nuôi.
+ Sản phẩm từ ngô còn đơn điệu.
+ Công nghệ sau thu hoạch chưa được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên
nếu nhập thiết bị phục vụ cho công tác này thì ít nhất cũng cần có hàng
chục triệu USD.
+ Năng suất và hiệu quả kinh tế trong sản xuất ngô còn có sự chênh lệch
khá lớn giữa các vùng.
+ Bộ giống ngắn ngày, chịu hạn, ít sâu bệnh, năng suất cao chất lượng
tốt vẫn còn thiếu, đặc biệt là ở các tỉnh phía Nam.
+ Ngô ở Việt Nam chưa chuyển sang sản xuất hàng hóa, 75% sản luợng
ngô được dùng để sản xuất thức ăn gia súc. Với việc tăng đầu gia súc thì nhu
cầu về ngô có thể vượt quá khả năng cung ứng. Nhu cầu đối với giống ngô
ngọt, ngô nếp và ngô rau tăng nhưng hiện nay chỉ có 10% diện tích trồng

những giống ngô này.
+ Một số biện pháp kỹ thuật canh tác vẫn chưa được nghiên cứu một
cách hệ thống. Quy trình canh tác giống mới vẫn còn chưa cụ thể cho từng
giống, từng vùng, từng thời vụ.
+ Nhiều vấn đề đặt ra cho ngành sản xuất ngô thế giới nói chung và nước
ta nói riêng: Khí hậu toàn cầu đang biến đổi phức tạp, đặc biệt là hạn hán, lũ
lụt ngày càng nặng nề hơn, nhiều sâu bệnh hại mới xuất hiện. Sản xuất ngô ở
nhiều nơi đang rơi vào tình trạng xói mòn, rửa trôi đất, cạnh tranh giữa ngô và
các cây trồng khác.
+ Hiện nay khi gia nhập WTO, nước ta sẽ phải nới lỏng việc hạn chế
nhập khẩu dẫn đến sự cạnh tranh về giá thành ngô trong nước với các nước
khác và có thể dẫn đến sự sụt giảm về diện tích trồng ngô trong tương lai.
16
+ Việc mở rộng diện tích và khai thác không bền vững ở một số địa
phương có thể dẫn đến làm cạn kiệt nguồn tài nguyên đất, nước và môi trường
sinh sống.
Những thách thức trên đặt ra cho các nhà lãnh đạo và nghiên cứu, phát
triển ngô phải tìm ra hướng đi cụ thể nhằm phát triển cây ngô ở Việt Nam, cụ
thể trên các mặt:
- Thứ nhất phải nhanh chóng tạo ra được những giống ngô lai có năng
suất cao, chất lượng tốt và quan trọng là phù hợp với điều kiện sinh thái Việt
Nam. Đây là vấn đề khó, đòi hỏi đầu tư nhiều công sức, tiền của, thời gian và
muốn thành công phải áp dụng những yếu tố công nghệ cao.
- Thứ hai là phải có được hệ thống sản xuất hạt giống chất lượng tốt.
- Thứ ba là cần có hệ thống làm khô, chế biến, đóng gói công nghiệp để
đảm bảo chất lượng ngang tầm hạt giống của các công ty nước ngoài.
- Bốn là phải có chiến lược để giành lại thị trường dựa vào tiêu chí về
chất lượng cao, giá thành hạ.
2.2.3. Tình hình sản xuất ngô ở tỉnh Thái Nguyên
Tỉnh thái nguyên là tỉnh thuộc vùng Đông Bắc của Việt Nam, là cửa

ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Tỉnh có 354,110 ha diện tích đất tự nhiên, trong đó diện tích đất
nông nghiệp là 94,563 ha. Để đảm bảo an ninh lương thực và phát triển chăn
nuôi, cây ngô được coi là một trong những cây trồng chính trong sản xuất
nông nghiệp của tỉnh.
Cây ngô được trồng 3 vụ trong năm (vụ Đông Xuân, vụ Xuân, vụ Thu
Đông) trên tất cả các loại đất: đất rẫy, gò đồi, đất phù sa ven sông Những
năm gần đây Thái Nguyên đã chuyển đổi cơ cấu giống, sử dụng các giống
ngô lai năng suất cao như: LVN10, LVN14, LVN99 và một số giống ngô
nhập nội như: Bioseed, 9607, DK999, NK4300 vào sản xuất. Các thành tựu
khoa học kỹ thuật mới được nông dân ứng dụng mạnh mẽ vào sản xuất ngô
nên diện tích, năng suất và sản lượng ngô ở Thái Nguyên tăng nhanh
17
trongnhững năm gần đây. Tình hình sản xuất ngô tại Thái Nguyên được trình
bày qua bảng 2.5.
Bảng 2.5.Tình hình sản xuất ngô tại Thái Nguyên giai đoạn 2001 – 2010
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2001 9,7 30,6 29,7
2002 11,6 32,8 38
2003 13,4 32,6 43,7
2004 15,9 34,3 54,6
2005 15,9 34,7 55,1
2006 15,3 35,2 53,9
2007 17,8 42,0 74,8

2008 20,6 41,1 84,6
2009 17,4 38,6 67,2
2010 17,9 42,1 75,4
Nguồn: Tổng cục thống kê,năm 2011 [22]
Số liệu bảng 2.5 cho thấy diện tích trồng ngô của Thái Nguyên tăng
nhưng không đều. Năm 2001 cả tỉnh trồng được 9,7 nghìn ha, đến năm 2008
diện tích trồng ngô đạt cao nhất là 20,6 nghìn ha, tăng 10,9 nghìn ha so với
năm 2001. Năm 2009 – 2010 diện tích trồngngô có xu hướng giảm chỉ còn từ
17,4 – 17,9 ngìn ha.
Năng suất ngô tăng nhưng với tốc độ chậm và không đều qua các năm.
Năm 2001 năng suất chỉ đạt 30,6 tạ/ha, Năm 2007 năng suất đạt cao nhất là
42 tạ/ha,tăng 11,4 tạ/ha so với năm 2001. Tuy nhiên năm 2008, 2009 năng
suất ngô lại giảm , năng suất năm 2009 chỉ còn 38,6 tạ/ha, giảm 3,4 tạ/ha so
với năm 2007. Đến năm 2010 năng suất ngô lại tăng lên tương đương với
năng suất ngô năm 2007.
Do diện tích và năng suất tăng nên sản lượng ngô cũng tăng khá nhanh.
Năm 2001 sản lượng ngô đạt 29,7 nghìn tấn đến năm 2008 sản lượng ngô cao
nhất là 84,6 ngìn tấn. Sản lượng ngô năm 2010 là 75,4 nghìn tấn, thấp hơn 9,2
nghìn tấn so với năm 2008.
18
2.3. Tình hình nghiên cứu ngô trên thế giới và ở Việt Nam
2.3.1. Tình hình nghiên cứu ngô trên thế giới
2.3.1.1. Tình hình nghiên cứu ngô lai trên thế giới
Có thể nói ngô lai đã thành công rực rỡ ở mỹ. Các nhà di truyền, cải
lương giống ngô Mỹ đã sớm thành công trong việc chọn lọc và lai tạo giống
cây trồng này. Vào cuối thế kỷ 19, Mỹ đã có 770 giống ngô chọn lọc cải
lương. Theo E.Rinke (1979) việc sử dụng giống ngô lai ở Mỹ bắt đầu từ năm
1930, giống lai ba và lai kép được sử dụng cho đến năm 1957, sau đógiống lai
đơn cải tiến và lai đơn đã được tao ra và sử dụng, chiếm 80 – 85% tổng số
giống lai ( Trần Hồng Uy, 1985) [25] . Hiện nay, Mỹ là nước có diện tích

trồng ngô lớn nhất thế giới và 100% diện tích được trồng ngô lai, trong đó
hơn 90% là giống lai đơn.
Việc nghiên cứu tạo giống ngô lai ở Châu Âu bắt đầu muộn hơn ở Mỹ 20
năm và đã đạt được những thành công rực rỡ. Tỷ lệ sử dụng ngô lai ở Châu
Âu rất lớn và nó góp phần tạo nên năng suất cao ở nhiều nước. công tác tạo
dòng thuần và giống lai ở Bungaria được bắt đầu từ năm 1951. Năm 1956 –
1958 những giống lai kép đầu tiên VIR-42, Wiscosin-641 và Ohio-92 đã được
thử nghiệm và khu vực hóa. Giống lai đơn đầu tiên được đưa vào sản xuất
năm 1956 là SK-4, và sau đó số lượng lớn giống lai giữa các dòng thuần được
tao ra và đưa thử nghiệm. Theo CIMMYT (1999/2000)[29], năm 1997- 1999,
một số nước có năng suất ngô bình quân cao là Italia (9,6 tấn/ha), Bỉ (9,5
tấn/ha), Tây Ban Nha (9,3 tân/ha), Hylap (9,2 tấn/ha), Pháp (8,8 tấn/ha).
Việc nghiên cứu tạo giống ngô lai ở một số nước phát triển bắt đầu từ
nhữngđang năm đầu thập niên 60 như Argentina, Braxin, Colombia, Chile,
Mexico, Ấn Độ, Pakistan, Hylap, Zimbabwe, Kenya, Tanzania và một vài
nước ở Trung Mỹ. Trong thời kì 1966- 1990 có xấp xỉ 852 giống ngô được
tạo ra, trong đó có 59% là giống thụ phấn tự do, 27% là giống lai quy
ước,10% là giống ngô lai không quy ước và 4% là giống khác (S>K>Vasal,
El Al , 1999).Từ con số trên cho thấy số giống ngô lai ít hơn giống thụ phấn
tự do. Nhìn chung, ở các nước đang phát triển, tác dụng của giống ngô lai
19
chậm và không rõ ràng (trừ một số nước như Argentina, Braxin, Chile, Thổ
Nhĩ Kỳ, Zimbabwe, Kenya, Hylap, Mexico và Ấn Độ).
2.3.1.2. Tình hình nghiên cứu lượng đạm bón cho ngô trên thế giới
Cây ngô là một cây ngũ cốc quang hợp theo chu trình C4, là cây ưa
nhiệt, có hệ thống rễ chùm phát triển. Cây ngô là cây có tiềm năng năng suất
lớn. trong các biện pháp thâm canh tăng năng suất ngô, phân bón giữ vai trò
quan trọng nhất. Berzeni và Gyorff (1996) [27] cho rằng, phân bón ảnh hưởng
tới 30,7% năng suất ngô còn các yếu tố khác như mật độ, phòng trừ cỏ dại,
đất trồng có ảnh hưởng ít hơn. Sự hút các chất dinh dưỡng thay đổi theo các

giai đoạn sinh trưởng, phát triển của ngô. Dựa vào biến đổi hình thái của cây
để xác định nhu cầu dinh dưỡng từng thời kì cho ngô. Năng suất trung bình
của giống ngô lai là 6.838kg/ha, với liều lượng phân bón: 95N + 67P
2
O
5
+
20K
2
O/ha (De. Geus, 1973 [30], ). Mức bón phân được khuyến cáo cho ngô ở
Đài Loan là 175N + 95P
2
O
5
+ 70K
2
O/ha (Shan, 1994) [37].
Đạm là yếu tố cần thiết cho sự sinh trưởng của cây và là thành phần của
tất cả protein. Đạm là yếu tố dinh dưỡng quan trọng nhất để xác định năng
suất ngô. Khi thiếu N thì chồi lá mầm không phát triển đầy đủ, sự phân chia tế
bào ở đỉnh sinh trưởng bị kìm hãm và kết quả là giảm diện tích lá, kích thước
của cây và năng suất giảm. Phân đạm có thể tạo ra sự tăng diện tích lá hiệu
quả ngay từ đầu vụ và duy trì một diện tích lá xanh lớn vào cuối vụ để quá
trình quang hợp đạt cực đại.
Thiếu đạm làm chậm sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực,
giảm tốc độ ra lá, hạn chế mạnh đến phát triển diện tích lá. Thiếu đạm hạn chế
đến hiệu quả sử dụng bức xạ, nhất là thời kì ra hoa, ảnh hưởng đến năng suất
bắp. Việc cung cấp và tích lũy N ở thời kỳ ra hoa có tính quyết định số lượng
hạt ngô, thiếu N trong thời kỳ này làm giảm khả năng đồng hóa C của cây,
nhất là giai đoạn ra hoa sẽ giảm năng suất hạt. Dự trữ đạm ở cây ngô có ảnh

hưởng rất lớn đối vớisự sinh trưởng và phát triển lá, sự tích lũy sinh khối và
sự tăng trưởng của hạt ảnh hưởng về sau của đạm là quan trọng khi đánh giá
phản ứng của cây trồng đối với phân N. Thí nghiệm ngô tưới nước theo rãnh
20
cho thấy: Năng suất ngô 1.200 kg/ha khi không bón đạm và 6.300 kg/ha khi
bón 224 kg/ha N trên đất chưa bao giờ trồng ngô và trước đó không bón đạm.
Ở năm tiếp theo năng suất ngô là 4.400 kg/ha khi không bón đạm và 7000
kg/ha khi bón N ở mức 224 kg/ha.
Nghiên cứu của Sinclair và Muchow (1995) [38], kết luận rằng, năng
suất ngô tăng lên có liên quan chặt chẽ với mức cung cấp N cho ngô. Đạm
được ngô hútvới một lương lớn và đạm có ảnh hưởng khác nhau rõ rệt đến sự
cân bằng cation và anion ở trong cây. Khi cây hút đạm NH
4
+
thì sự hút cation
khác như K
+
, Ca
2+
, Mg
2+
sẽ giảm trong khi sự hút anion đặc biệt là phosphorus
sẽ thuận lợi. Xảy ra chiều hướng ngược lại, khi cây hút N nitrat.Tuy nhiên cây
hút đạm dưới dạng NH
4
+
hoặc NO
3
-
tùy thuộc vào tuổi cây, với ngô non sự hút

đạm NH
4
+
nhanh hơn sự hút đạm NO
3
-
, trái lại các cây ngô già dạng đạm hút
chủ yếu là đạm NO
3
-
và có thể chiếm tới hơn 90% tổng lượng đạm cây hút
( dẫn theo Arnon, 1974) [28]. Một số báo cáo về khả năng hút N cũng đã chỉ
rằng tốc độ đồng hóa cực đại xảy ra gần giai đoạn phun râu (Hay và Cs, 1953;
Hanway,1962; Mengel và Barber, 1974; Bigeriego và Cs, 1979) và kết thúc
vào cuối giai đoạn tung phấn (dẫn theo Mitsuru, 1995) [36]. Nếu mức dinh
dưỡng nitơ đủ thì kali sẽ xâm nhập vào cây nhiều hơn và sự hút kali mạnh
hơn là nguyên nhân thúc đẩy nhanh chu trình chuyển hóa các hợp chất
phospho trong cây.
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng vai trò của phân đạm và S đến sinh
trưởng, năng suất và chất lượng của giống ngô lai (Cargill 707), tác giả
Hussain và Cs, (1999) [32], cho rằng sự cung cấp phân bón ở các mức 150N -
30S và 150N – 20S (kg/ha) làm tăngkhối lượng chất khô/cây, số hạt/bắp và
khối lượng hạt trên bắp. Năng suất ngô đạt cao nhất (5,59 tấn/ha) ở công thức
bón 150N – 30S (kg/ha). Nghiên cứu của Velly và Cs (dẫn theo De. Geus,
1973) [30] cho kết quả, khi bón cho ngô với liều lượng: 40N /ha năng suất thu
được 12,11 tạ/ha; 80N/hanăng suất thu được 15,61 tạ/ha; 120N/ha năng suất
thu được 32,12 tạ/ha; 160N/ha năng suất thu được 41,47 tạ/ha; 200N/ha năng
suất thu được 52,18 tạ/ha.
21
2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngô ở Việt Nam

2.3.2.1. Tình hình nghiên cứu về giống ngô lai ở Việt Nam
Việt Nam tiếp cận với ngô lai khá sớm từ những năm 60 (1972 – 1973)
chúng ta đã có những nghiên cứu về chọn tạo và sử dụng ngô lai vào sản xuất.
Song do vật liệu khởi đầu của chúng ta còn nghèo và không phù hợp, vì vậy
ngô lai đã không phát huy được vai trò của nó. Phải đến những năm đầu của
thập kỷ 90 công tác chọn tạo giống ngô lai được các nhà khoa học coi là
nhiệm vụ chiến lược chủ yếu. Góp phần đưa nghề trồng ngô nước ta đứng
vào hàng ngũ những nước tiên tiến ở Châu Á. Trong những năm 1992 -
1994, Viện nghiên cứu ngô đã lai tạo ra các giống ngô lai không quy ước là:
LS-5, LS-6, LS-7, LS-8. Bộ giống ngô lai này gồm những giống chín sớm,
chín trung bình và chín muộn, có năng suất từ 3-7 tấn/ha và đã được mở rộng
trên phạm vi toàn quốc, mỗi năm diện tích gieo trồng trên 80.000 ha tăng
năng suất 1 tấn/ha so với giống thụ phấn tự do (Trần Hồng Uy, 1997) [24].
Trong giai đoạn từ 1996 đến 2002 các nhà chọn tạo giống ngô Việt Nam
đã chú trọng đến việc tạo dòng thuần để tạo giống ngô lai. Kết quả đã tạo
được nhiều giống ngô lai có năng suất cao đưa ra khảo nghiệm ở các vùng
sinh thái khác nhau như: LVN4, LVN10, LVN17, LVN20, LVN25 Viện
khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam trong giai đoạn này cũng nghiên
cứu và lai tạo ra giống ngô lai đơn V98 - 1. Đây là giống ngô lai đơn ngắn
ngày có tiềm năng năng suất cao chống đổ, nhiễm khô vằn nhẹ (ở mức độ điểm
1 - 2), trồng được nhiều vụ trong năm, thích hợp với điều kiện sinh thái ở Miền
Nam Việt Nam (Phạm Thị Rịnh và cs) [13].
Bên cạnh việc tạo ra các giống ngô lai có năng suất chất lượng cao thì
công tác lai tạo các giống ngô thích hợp với nhiều vùng sinh thái khác nhau
với nhiều đặc tính nông học quý được các nhà nghiên cứu rất quan tâm.
Trong giai đoạn 1995 - 2002 nhóm nghiên cứu ngô thuộc Trung tâm khảo
nghiệm giống cây trồng Trung ương đã lai tạo giống ngô lai đơn T9 và giống
ngô lai ba T7 triển vọng cho sản xuất tại các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ,
trong đó giống T9 đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công
22

nhận là giống khu vực hoá tại Miền Trung tháng 9 - 2002. Năm 2000, Viện
nghiên cứu ngô tiếp tục đưa ra thử nghiệm giống ngô lai HQ2000 có chất
lượng cao, hàm lượng Protein cao hơn hẳn ngô thông thường, đặc biệt là hai
loại axit amin thường thiếu ở ngô là Lyzin và Triptophan, nhờ vậy mà nâng
cao được giá trị dinh dưỡng của ngô. Năm 2005, Lưu Văn Quỳnh và cs
nghiên cứu tạo giống ngô lai cho vùng sinh thái đồng bằng sông Cửu Long,
bước đầu tạo ra 9 tổ hợp lai có triển vọng trong sản xuất[12].
Thông qua dự án "Phát triển giống ngô chịu hạn nhằm cải thiện thu nhập
cho Nông dân vùng Đông Nam Châu Á” (AMNET), chúng ta đã thu thập được
một số nguồn nguyên liệu mới từ CIMMYT và các nước trong khu vực, bước
đầu tạo ra một số tổ hợp lai có triển vọng. Nhờ nguồn nguyên liệu tạo dòng khá
phong phú và được thử nghiệm trong điều kiện sinh thái và mùa vụ nên các
giống ngô lai mới tạo ra đã tỏ ra có nhiều ưu thế hơn như: chịu hạn, chống đổ,
ít nhiễm sâu bệnh, chất lượng và màu dạng hạt tốt hơn. Điển hình là các giống
dài ngày, tỷ lệ 2 bắp/cây cao như: LVN98, LVN145 có màu dạng hạt đẹp, thời
gian sinh trưởng ngắn; một số giống ngô chịu hạn tốt, thích nghi với nhiều
vùng sinh thái như:VN8960, LCH9, LVN61, LVN14.
Nhờ sự nỗ lực không ngừng trong việc nghiên cứu và ứng dụng ngô lai
trong sản xuất, đến năm 2007 giống ngô lai chọn tạo của Việt Nam chiếm
32,5% diện tích, giống nước ngoài chiếm 52,3%. Số giống ngô có mặt trong
sản xuất là 114 giống, trong đó 10 giống được ưa chuộng nhất là LVN10,
CP888, B9698, CP999, C919, G49, B9681, P11. LVN4, CP989 với diện tích
chiếm gần 73% diện tích gieo trồng, riêng giống LVN10 chiếm 25%. Khác
với lúa lai, các giống ngô lai chủ yếu sản xuất trong nước, đơn vị chính tham
gia sản xuất và cung ứng giống ngô lai là CP Group, Bioseed, ĐC, NSC,
Syngenta, Monsanto và Viện nghiên cứu ngô với thị phần được thể hiện ở
biểu đồ 2.1.
23
Hình 2.1. Biểu đồ cơ cấu thị phần giống ngô lai ở Việt Nam
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng ngành giống cây trồng Việt Nam, 2007)[1]

2.3.2.2. Tình hình nghiên cứu về phân bón cho ngô ở Việt Nam
Trong phạm vi nghiên cứu thuộc chương trình phát triển lương thực, Tạ
Văn Sơn (1995) [15] đã nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng cây ngô ở vùng Đồng
bằng sông Hồng, thu được kết quả như sau: Để tạo ra 1 tấn hạt, ngô lấy đi từ
đất trung bình một lượng đạm, lân, kali là: 22,3N + 8,2P
2
O
5
+ 12,2 K
2
O. Tỉ lệ
nhu cầu dinh dưỡng NPK là: 1: 0,35: 0,45. Tỉ lệ N: P: K thay đổi trong quá
trình sinh trưởng phát triển như sau:
Bảng 2.6. Nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô trong giai đoạn sinh trưởng
Đơn vị tính (%)
Nguyên tố 6-7 lá Trỗ cờ Thu hoạch
N 51,7 47,4 52,2
P
2
O
5
8,3 9,8 19,1
K
2
O 40,0 42,7 28,7
Nguồn: Tạ Văn Sơn (1995) [15]
Nghiên cứu của Đường Hồng Dật (2003) [5] cho rằng, trung bình với
năng suất 60 tạ/ha ngô hạt, cây ngô lấy từ đất 155N + 60P
2
O

5
+ 115K
2
O
24
(tương đương 337 kg urê, 360 kg supe lân, 192 kg clorua kali). Tuy nhiên
lượng phân bón thích hợp phụ thuộc vào đất.Trên đất phù sa sông Hồng lượng
phân bón phù hợp là: 120N + 90P
2
O
5
+ 60K
2
O cho năng suất 40 - 50 tạ/ha;
150N + 90P
2
O
5
+ 100K
2
O cho năng suất 50 - 55 tạ/ha; 180N + 90P
2
O
5
+
100K
2
O cho năng suất 65 - 75 tạ/ha (Trần Hữu Miên,1987) [9]. Trên đất bạc
màu vùng Đông Anh - Hà Nội, giống ngô LVN10 có phản ứng rất rõ với phân
bón ở công thức bón: 120N + 120P

2
O
5
+ 120K
2
O/ha và cho năng suất hạt gấp 2
lần so với công thức đối chứng không bón phân. Cũng theo tác giả thì trên đất bạc
màu, hiệu suất của 1 kg NPK là 8,7 kg; 1 kg N là 11,3 kg; 1 kg P
2
O
5
là 4,9 kg; 1
kg K
2
O là 8,5 kg (Nguyễn Thế Hùng, 1996) [6].
Nghiên cứu của tác giả Ngô TìnhHữu (1995) [17] cho kết quả trên đất
phù sa sông hồng tỷ lệ nhu cầu dinh dưỡng của N, P, K cho cây ngô đạt năng
suất cao là 1: 0,35: 0,45 và liều lượng bón phân cho năng suất cao là: 180N +
60P
2
O
5
+ 120K
2
O; ở Duyên hải miền Trung: 120N + 90P
2
O
5
+ 60K
2

O; miền
Đông Nam bộ: 90N + 90P
2
O
5
+ 30K
2
O; Đồng bằng sông Cửu Long: 150N +
50P
2
O
5
+ 0K
2
O. Với ngô đông trên đất phù sa sông Hồng liều lượng phân bón
thích hợp là: (150 – 180)N : 90P
2
O
5
+ (50 – 60)K
2
O/ha (Phạm Kinh Môn,
1991) [11].
Tác giả Vũ Cao Thái cũng cho rằng liều lượng và tỷ lệ phân bón cho ngô
khác nhau trên các loại đất khác nhau. Theo ông, trên đất phù sa nên bón:
120N + 60K
2
O
5
+ 90P

2
O/ha, tỷ lệ N:P:K là 1:0,5:0,75. Trên đất xám bạc màu
bón: 100N + 100P
2
O
5
+ 150K
2
O/ha với tỷ lệ là 1:1:1,5 (dẫn theo Ngô Hữu
Tình, 2003) [19].
Nguyễn Văn Bộ (2007) [4] cho rằng, lượng phân bón khuyến cáo cho
ngô không chỉ tuỳ thuộc vào đất, mà còn phụ thuộc vào giống ngô và thời vụ.
Giống có thời gian sinh trưởng dài hơn, có năng suất cao hơn cần phải bón
lượng phân cao hơn. Đất chua phải bón nhiều lân hơn, đất nhẹ và vụ gieo
trồng có nhiệt độ thấp cần bón nhiều kali hơn. Liều lượng khuyến cáo chung
cho ngô là:
+ Đối với giống chín sớm:
25

×