Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Tổng hợp 8 bài văn nghị luận phân tích tính sử thi trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành - Văn mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.5 KB, 25 trang )

Đề: Phân tích tính sử thi trong Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành.
Tóm tắt ý chính
Khái niệm tính sử thi:
-

Tính sử thi ln đề cập đến những sự kiện chính trị lớn, những vấn đề có ý
nghĩa lịch sử toàn dân, những bối cảnh rộng lớn, những biến cố quan trọng
của cả một dân tộc.

-

Cảm hứng luôn hướng về lịch sử dân tộc, hướng về lẽ sống lớn, tình cảm lớn,
niềm vui lớn, chứ không hướng về đời tư hay theo chủ nghĩa cá nhân.

-

Nhân vật trữ tình ln đại diện cho những phẩm chất của giai cấp dân tộc,
thậm chí của lịch sử thời đại.

Tính sử thi qua tác phẩm “Rừng Xà Nu”:
-

Người dân trong làng Xôman phải đối mặt giữa sống và chết. Cây xà nu đại
diện cho dân làng (khơng ai khơng bị thương) chỉ có đều mỗi người mỗi số
phận khác nhau.

-

Cây xà nu tượng trưng cho nỗi đau của làng, nó mang một sức sống mãnh liệt,
ẩn dụ người dân trong làng, mãi mãi không khuất phục kẻ thù.


-

Cây xà nu là một cơ thể sống, cũng có sự đau thương, là lồi cây bảo vệ cho số
phận của con người.

-

Nó tượng trưng cho sức sống bền bỉ, kiên trì, quyết tâm cao độ của cả làng và
cả một dân tộc anh hùng lúc bấy giờ.

-

Tnú lại chính là cây xà nu lớn của làng

-

Anh mang những phẩm chất cao đẹp của người anh hùng.
+ Yêu nước: từ nhỏ đã có ý theo anh Quyết làm Cách mạng và thay anh
lãnh đạo, làm giao liên Cách mạng
+ Gan góc, dũng cảm, táo bạo: làm giao liên ln cho nơi có thác dữ mà
băng qua, bị giặc bắt, tra tấn, thậm chí đốt mười đầu ngón tay của nú
nhưng vẫn khơng hề kêu la.
+ Lịng trung thành với Cách mạng được bộc lộ qua thử thách khi vượt
ngục trở về, trở thành chàng trai hoàn hảo.
1


-

Bản lĩnh khi gặp thử thách:

+ Bi kịch cướp đi tính mạng của những người con trong gia đình: giặc
dùng gậy sắt giết chết vợ con anh để truy bắt Tnú, mắt anh biến thành
hai cục lửa căm thù, Tnú xông vào giặc như hổ dữ nhưng không cứu
được gia đình anh mà cịn bị đốt mười đầu ngón tay.

-

Câu chuyện như một điệp khúc day dứt, đau thương, nhằm nhấn mạnh: khi
chưa có vũ khí, chỉ có hai bàn tay thì khơng thể cứu được ai, thậm chí là những
người mình yêu thương.

-

Cụ Mết xem Tnú là tấm gương, là niềm tự hào của dân làng, là người anh hùng
mà thế hệ sau phải nối tiếp.

-

Trong hoàn cảnh lịch sử này, Tnú là biểu tượng cho cả dân tộc anh hùng, bất
khuất, kiên cường, quyết tâm đấu tranh đánh đuổi quân xâm lược.

Mẫu tham khảo 1
Nguyễn Trung Thành là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho nền văn học
hiện đại. Văn phong của ông được nuôi dưỡng và xuyên suốt qua hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Nguyễn Trung Thành có một tình yêu
thương và gắn bó mật thiết với núi rừng Tây Nguyên. Một trong những tác phẩm đặc
sắc không thể không kể đến đó là tác phẩm rừng xà nu. Tác phẩm đã khắc tạc nên bức
chân dung tuyệt đẹp, mang tầm vóc sử thi tráng lệ của người anh hùng Tây Nguyên
Tnú.
Vẻ đẹp sử thi là những vẻ đẹp mang khuynh hướng ngợi ca. Đây là nét đặc sắc

của chủ nghĩa lãng mạn. Các nhà văn thường sử dụng ngòi bút đặc sắc này để tơ vẽ
cho hình tượng vị anh hùng đại diện cho cả một cộng đồng, một dân tộc. Tnú là nhân
vật mang đậm tính sử thi. Vẻ đẹp sử thi của người anh hùng Tnú chính là biểu trưng
cho nét đẹp cho sức mạnh của buôn làng Xô man, của núi rừng dân tộc Tây Nguyên.
Những thăng trầm nổi trơi trong cuộc đời anh cũng chính là số phận cuộc đời con
người Tây Nguyên.
Tnú mang trong mình cái tính cách, khí phách của người anh hùng sử thi. Cái phẩm
chất ấy được hun đúc ngay từ khi Tnú cịn bé. Khi học chữ cùng Mai vì hay qn
nhưng Tnú khơng nản lịng, quệt nước mắt nhờ Mai chỉ lại cho. Học cái chữ có hơi
2


chậm nhưng đi đường núi thì Tnú thơng minh lắm, cứ leo lên cây rồi xé rừng mà,,
không đi theo đường mòn để tránh bị địch phát hiện. Tnú và Mai cịn trẻ nhưng gan
góc vơ cùng, dù bọn địch lấy đầu anh Sút, bà Nhan làm gương hăm dọa nhưng Tnú và
Mai vẫn hăng hái vào rừng tiếp tế cho bộ đội rồi lại đi làm giao liên cho anh Quyết.
Tnú thoăn thoắt chẳng ngại chị, chẳng sợ chi chỉ một lòng hướng về Đảng về cách
mạng sáng soi.
Cả cuộc đời Tnú chỉ một lòng sắt song trung thành với lá cờ của Đảng. Khi đi
giao liên bị giặt bắt rồi hành hạ dã man, lưng chém ngang dọc chi chít đầy nhưng vết
dao sắc nhọn nhưng Tnú vẫn nhất quyết khăng khăng không khai ra cộng sản.
Trang sách cuộc đời của Tnú là biểu tượng cho số phận dân tộc Tây Nguyên.
Cuộc đời Tnú cũng giống như cuộc đời buôn làng Xô man vậy. Khi Tnú chưa cầm vũ
khí đứng lên anh phải hứng chịu biết bao đau thương, bao mất mát, phải cắn răng nhìn
bọn giặc ác hành hạ vợ con mình, giết chết vợ trẻ con thơ, phải đau đớn để chúng giày
vò lấy nhựa xà nu đốt hết hai bàn tay mình. Cũng giống như anh khi bn làng cịn
cam chịu cúi đầu dưới bọn thực dân, chưa đứng lên cầm vũ khí nổi dậy buôn làng
cũng phải chịu biết bao uất ức, biết bao đau khổ: Giặc đi trong rừng như con beo. Lính
của nó cầm lưỡi lê dính máu, cũng đỏ như màu mũ đỏ của nó…bị giặc lùng, bị súng
rền vang. Ơng Sút và bà Nhan bị giặc giết rồi treo cổ. Mẹ con Mai bị chúng nó hành

hạ thê thảm; cả rừng cây xà nu không cây nào không bị thương, bị tàn phá ghê
gớm…Rồi cái đêm Tnú bị thiêu đốt 10 đầu ngón tay cái đêm lịch sử ấy sau bao tháng
ngày dồn nét tinh thần, cả dân làng Xô Man đã đứng dậy cầm chông cầm giáo cầm
mài “ào ào rung động cả rừng cây” giết hết bọn giặc. Và “Thế là bắt đầu rồi! Đốt lửa
lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy
một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai khơng có thì vót chơng, năm
trăm cây chơng! Đốt lửa lên!”
Cả rừng rực cháy, và ý chí sự vùng dậy của cả bn làng Xơ Man cũng đang
rực cháy quyết liệt.
Hình tượng Tnú chính là hình ảnh đại diện cho các thế hệ bn làng Xơ Man
hùng dũng trong kháng chiến. Khi cịn bé Tnú được buôn làng nuôi dưỡng, đùm bọc,
được anh Quyết dạy chữ, được cụ Mết dạy cho cách sống cho phải đạo. Lớn lên Tnu
thay các bác, các chú các thanh niên dũng cảm đi làm giao liên, tiếp tế cho cộng sản ở
3


trong rừng. Sau khi được đồng bào cứu giúp, trưởng thành Tnu trở thành một người
cộng sản, một cán bộ cách mạng anh hùng, tận tâm phục vụ cho Đảng cho Nhà nước.
Và sau này có lẽ Dít, có lẽ đàn em tiếp theo sẽ tiếp nối chân Tnu làm nên những chiến
công cách mạng vang danh dân tộc Tây Nguyên.
Vẻ đẹp sử thi của Tnú được biểu hiện rõ nét nét nhất qua hình tượng đơi bàn
tay. Khi cịn nhỏ đôi bàn tay Tnú đã biết làm nương làm rẫy phục vụ cho cuộc sống,
rồi tự lấy đá đập vào đầu mình vì học hay qn khơng sáng dạ bằng mai. Đôi bàn tay
ấy cũng tỉ mỉ cần cù luyện từng nét chữ anh Quyết dậy và gan dạ chỉ vào bụng mình
cao đầu mà nói rằng ; “Cộng sản ở đây này” khẳng định một tấm lòng sắt son trung
thành tuyệt đối với cách mạng.
Đôi bàn tay ấy cịn là đơi bàn tay của nghĩa tình. Đơi bàn tay ấy dám nắm lấy
tay người mình thương, chăm lo cho vợ con: xé tấm đồ làm nôi cho con. Và phải
chăng mỗi ngón tay cháy rực như hiện hữu cho lịng căm thù đau xót của Tnú khi
khơng cứu được mẹ con Mai. Nhưng dù hận đến tận xương tủy, thấu gan Tnú cũng

đâu làm gì khác hơn được vì lúc bây giờ Tnú cũng chỉ có “tay khơng” giữa bầy quân
thù.
Đôi bàn tay Tnú là minh chứng cho những dấu vết đau thương, cả bàn tay đều
cụt mất một đốt. Đôi bàn tay ấy nhắc cho Tnú nhớ đến những mất mát những đau khổ
mà quân giặc đã gây ra cho mình, cho những người mình yêu thương và cho bn
làng mình.Và cuối cùng đơi bàn tay ấy chính là đơi bàn tay lịch sử, đơi bàn tay cầm vũ
khí đứng lên chống lại quân thù. Lửa ở đầu ngón tay đang cháy và chính trong tâm
can cũng đang cháy, hừng hực một ý chí quật cường, bất khuất. “chúng nó cầm súng,
mình cũng phải cầm súng” Cả Tnú cả buôn làng không chịu khuất phục nữa, họ đã
đứng lên cầm giáo cầm mác tiêu diệt kẻ thù, trả lại bình n cho núi rừng xà nu. Chính
đơi bàn tay đau thương ấy đã bóp chết kẻ thù của mình. Về sau đơi bàn tay ấy đã cầm
súng để trở thành một người cộng sản vĩ đại, trở thành niềm tự hào của bản làng Xô
Man.
Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã dựng nên
một bức tượng đài lý tưởng của cộng đồng núi rừng Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu
bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là những con người tha thiết tình yêu quê hương, dũng

4


cảm, gan góc, hi sinh quật cường và tràn đầy ý chí, niềm tin chiến thắng vào cách
mạng, vào Đảng vào cụ Hồ thân yêu.
Mẫu tham khảo 2
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, cũng là nhà văn của vùng đất Tây Nguyên. Trong cả hai
cuộc kháng chiến, ông đều gắn bó với vùng đất này, hiểu biết về cuộc sống cũng như
tinh thần của nhân dân các dân tộc thiểu số, nên có những trang viết rất hay về đất và
người Tây Ngun. Ơng là nhà văn có cơng đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến
với văn học hiện đại Việt Nam. Viết về đề tài Tây Nguyên, ông trở nên bất tử với
truyện ngắn Rừng xà nu (1965). Tác phẩm đã đáp ứng được những đặc điểm của nền

văn học Việt Nam 1945 – 1975: tính chất sử thi của nền văn xuôi cách mạng Việt
Nam. Đọc tác phẩm, ta như nhìn thấy khơng khí của núi rừng Tây Nguyên hùng vỹ,
âm vang cồng chiêng của các dân tộc nơi đây và đặc biệt bắt gặp không khí hào hùng
của dân tộc trong những ngày kháng chiến chống Mỹ.
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết 1965. In lần đầu trên tạp chí Văn nghệ qn
giải phóng, sau đó in trong tập truyện–kí Trên q hương những anh hùng Điện Ngọc.
Đây là tác phẩm nổi tiếng nhất trong các sáng tác của Nguyễn Trung Thành viết trong
những năm đầu chống Mỹ, khi chúng ồ ạt đổ quân vào miền Nam tiến hành cuộc
chiến tranh chống phá.
Khái niệm sử thi :Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xi),
có quy mơ hồnh tráng, có tính chất tồn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với
cộng đồng, dân tộc, ca ngợi những người anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát
vọng của dân tộc. Nền văn học hiện nay khơng cịn thể loại sử thi, nhưng tính chất sử
thi vẫn được người cầm bút mang vào các sáng tác và làm nên giá trị và sức sống cho
từng trang viết, làm sống lại khơng khí hùng tráng của một thời đại anh hùng.
Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” được thể hiện ở tất cả các phương
diện: Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng làm bối cảnh cho câu chuyện; Chủ
đề mà tác phẩm đặt ra có ý nghĩa sống còn với cách mạng Việt Nam qua cuộc đời đầy
bi tráng của nhân vật; Giọng kể, ngôn ngữ, hình ảnh trang trọng, giàu âm hưởng hào
hùng, ngân vang.
5


Trước hết ở chủ đề mà tác phẩm đặt ra có ý nghĩa sống cịn với cách mạng Việt
Nam, những sự kiện có tính chất tồn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với
làng Xơ man hồn tồn khơng có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây
Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tình
thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc
sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ – Diệm thi hành luật
10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Trước

sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân miền Nam chỉ có một con đường duy nhất là cầm vũ
khí vùng lên chiến đấu giải phóng q hương
Khi làng Xơ Man đứng dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương
mặt của cả nước trong những ngày quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ – một gương mặt
rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử thách mới.
Biểu hiện thứ hai của tính sử thi trong “Rừng xà nu” là xây dựng thành cơng
hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể đến trong tác phẩm đều có
tính đại diện cao, mang trong mình phẩm chất của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng
trong “Rừng xà nu” là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh
hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng. Tuy nhiên, tất cả họ đều
giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo
cách mạng, yêu núi nước, yêu buôn làng, quyết tâm đánh giặc đến cùng. Cuốn sử vẻ
vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả
mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng khơng chỉ trỗi lên một giọng mà là sự
tổng hịa của nhiều giọng: Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cơ Dít, bé Heng là
những nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ cịn có bao người khác nữa
cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập cơng, đều muốn
góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Đặc biệt là Tnú – cuộc đời đầy đau
khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình; nhưng anh đã biến đau thương thành
hành động, trở thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ nước. Hình ảnh hai bàn
tay bị đốt của Tnú là hình ảnh nhiều ý nghĩa. Cuộc đời Tnú là cuộc đời chung của biết
bao người trong thời đại ấy. Người anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp, đậm
chất “sử thi”. Có thể nói, chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của mọi

6


người. Dân tộc VN dù có hy sinh, dù có mất mác nhưng không bao giờ lùi bước trước
kẻ thù:
Nước Việt Nam từ trong biển máu

Người vươn lên như một thiên thần
(Tố Hữu).
Rừng xà nu hoành tráng, dữ dội Biểu hiện thứ ba của tính sử thi ở truyện ngắn
“Rừng xà nu” là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng làm bối cảnh cho câu
chuyện. Thiên nhiên trong “Rừng xà nu” thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ
hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu và kết thúc tác
phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Hiện lên trước mắt người
đọc là rừng cây xà nu ngút ngàn, hiên ngang trước nắng trước gió. Nguyễn Trung
thành đã rất thành cơng khi chọn cây xà nu- một loại cây mang đậm dấu ấn Tây
Nguyên để làm nổi bật vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, núi rừng Tây Nguyên.
Nhà văn đã tạo nên sức hấp dẫn của truyện ngắn này bằng cách đưa người đọc đến
một cảm giác mới lạ về một hương vị dậy lên từ rừng núi, thiên nhiên chốn cao
nguyên. Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát nhưng xà nu vẫn vươn lên với
sức sống mãnh liệt. Đó chính là bức tranh thiên nhiên tồn cảnh về cuộc chiến tranh
nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta. Cây xà nu, rừng xà nu là biểu tượng
cho con người ở Tây Nguyên:
“Một cây ngả cả rừng cây lại mọc
Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”
(Nguyễn Trung Thành).
Nghệ thuật tác phẩm đậm chất sử thi: Tính sử thi của “Rừng xà nu” cịn thể
hiện ở giọng văn tha thiết, trang trọng mà tác giả đã sử dụng khi kể về sự tích của làng
Xơ Man. Giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất
rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử
thi hoành tráng của tác phẩm. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên
nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác
say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện khơng gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm
trên một dịng sơng mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thơi miên
bởi một bản nhạc giao hưởng hùng tráng.
7



Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết
cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng đặc biệt. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để
nhà văn khai triển câu chuyện. Câu chuyện mở ra bằng hình ảnh rừng xà nu được đặc
tả kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối tác phẩm rừng xà nu cũng xuất hiện để khép lại câu
chuyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu
chuyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử
ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây
Nguyên.
Khuynh hướng sử thi như thế vừa có cội nguồn từ khuynh hướng chung của
hiện tượng văn học sau cách mạng, vừa được tạo nên từ khơng khí sử thi của truyện
ngắn của dân tộc sau những ngày đánh Mỹ mà Nguyễn Trung Thành từng gắn bó
chiến đấu sâu sắc với một chương sử thi đậm đặc như thế truyện ngắn rừng xà nu
xứng đáng được coi là một pho sử thi của thời đại. Từ nội dung tư tưởng, cảm hứng
nghệ thuật đến các hiện tượng, các phương diện hình thức nghệ thuật, truyện ngắn
rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành đều đậm đặc một chất sử thi.
Nguyễn Trung Thành sử dụng đặc biệt nhiều các phép chuyển nghĩa, các hình
ảnh so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, nhân hố nhất là khi thể hiện hình tượng xà nu. Lời
văn của tác phẩm rất giàu hình ảnh, giàu nhạc tính có nhịp điệu, với nhiều cấu trúc
thành trùng điệp, những hình ảnh tương phản có giọng điệu khi hào hùng khi tha thiết
nhất là lối cấu trúc vòng tròn với hình tượng xà nu trở đi trở lại ở đầu và cuối tác
phẩm. Cách sử dụng ngôn ngữ như thế cũng mang dấu ấn của thể loại sử thi cũng đem
lại cho tác phẩm nhiều chất sử thi.
Rừng xà nu là trải nghiệm một đời văn, một đời chiến sĩ được tác giả thể hiện
sâu sắc trong tác phẩm. Niềm xúc động thiêng liêng về hình ảnh kì vĩ của tổ quốc giữa
những ngày thử thách đã thôi thúc Nguyễn Trung Thành viết nên thiên truyện này. Đó
là một tác phẩm rất cô đọng nhưng cũng hết sức bay bổng, gợi nên những cảm xúc
vừa trầm lắng vừa say mê. Một tác phẩm xuất sắc rất xứng tầm với thời đại đánh Mỹ
oanh liệt, hào hùng. Chính vì thế mà truyện ngắn này đậm đà chất sử thi.


8


Mẫu tham khảo 3
Tác giả Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, là nhà văn trưởng
thành trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ơng là ngịi bút gắn bó với mảnh
đất Tây Nguyên, có nhiều thành tựu nhất khi viết về Tây Nguyên. “Rừng xà nu” là tác
phẩm đặc trong kháng chiến chống Mỹ, mang đậm chất sử thi; nhân vật trung tâm
mang những phẩm chất chung tiêu biểu cho cộng đồng; giọng điệu ngợi ca, trang
trọng, hào hùng.
Tác phẩm “Rừng xà nu” được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong
khơng khí sục sơi đánh Mỹ.Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở
một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã
đặt ra một vấn đề của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân
mãi mãi trường tồn, khơng có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ
khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.
Trong văn học Việt Nam có những tác phẩm cũng mang đậm khuynh hướng sử
thi. Đó là một khuynh hướng trong sáng tác nghệ thuật mà qua đó tác giả thiên về việc
phản ánh những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách tồn dân. Nhân vật trung
tâm thường là những con người đại diện cho giai cấp, cho dân tộc với những phẩm
chất cao cả, kết tinh những gì cao đẹp nhất của cộng đồng. Cùng với đó khi khẳng
định, ngợi ca những anh hùng, những kỳ tích sáng chói …, người nghệ sĩ không nhân
danh cá nhân mà nhân danh dân tộc, nhân danh cộng đồng. Đặc biệt hơn khuynh
hướng sử thi thường gắn liền với khuynh hướng lãng mạn.
Khuynh hướng sử thi trong “ Rừng xà nu” được thể hiện khá rõ ở việc lựa chọn
đề tài, việc xây dựng nhân vật, việc sử dụng hình ảnh lẫn giọng điệu của tác phẩm …
Đề tài của truyện “Rừng xà nu” nói đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng không chỉ của
cả cộng đồng dân làng Xô Man mà của cả dân tộc Việt Nam. Thêm vào đó, thời điểm
mà tác phẩm ra đời trùng khớp với thời điểm lịch sử của cách mạng miền Nam. Chủ
đề của tác phẩm mang đậm tính sử thi đó chính là trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân

Miền Nam chỉ có một con đường duy nhất là cầm vũ khí vùng lên chiến đấu giải
phóng quê hương
Những nhân vật trong tác phẩm, tiêu biểu như Tnú, cụ Mết, là những kết tinh
cao độ những phẩm chất tiêu biểu của cả cộng đồng. Lí tưởng sống của những nhân
9


vật này luôn gắn liền với vận mệnh của cả cộng đồng, được xây dựng thể hiện sự tiếp
nối giữa các thế hệ cách mạng làng Xô Man.
Trong Rừng xà nu, nhân vật Cụ Mết đại diện cho thế hệ cách mạng từ thời
kháng chiến chống thực dân Pháp, cụ truyền lại cho con cháu truyền thống oanh liệt
đó của dân làng; còn nhân vật Tnú tiêu biểu cho ý chí và sức mạnh của cả cộng đồng;
Dít, Heng là thế hệ non trẻ tiếp nối cha anh … chúng ta có thể thấy sự thống nhất giữa
các nhân vật và cách biểu đạt những giá trị, ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm.Điều đó
cũng thể hiện rõ nét tính sử thi của tác phẩm.
Rừng xà nu là câu chuyện của một người, một làng,nhưng đặt vào hoàn cảnh
Rừng xà nu được viết ra, thì đó cũng là câu chuyện của một thời đại, một đất nước,
một cuộc cách mạng.Vì lẽ đó, nhà văn đã để cho nó được nói lên bằng giọng nói
thiêng liêng, như để mãi mãi khắc sâu vào kí ức. Chất sử thi xuyên suốt và thống nhất
qua đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, hình ảnh thiên nhiên, các chi tiết nghệ thuật,
giọng điệu, ngơn ngữ của tác phẩm.
Hình tượng cây xà nu – rừng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà
văn, được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng, bút pháp lãng mạn, kết tinh giá
trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Mở đầu tác phẩm, nhà văn Nguyễn Trung
Thành tập trung giới thiệu về rừng xà nu, một rừng xà nu cụ thể được xác định rõ:
"nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", "Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu
cạnh con nước lớn".Truyện mở ra một cuộc đụng độ lịch sử quyết liệt giữa làng Xô
Man với bọn Mỹ- Diệm. Rừng xà nu cũng nằm trong cuộc đụng độ ấy.
Những cây những rừng Xà nu bạt ngàn dần hiện ra với tư thế của sự sống đang
đối diện với cái chết, sự sinh tồn đối diện với sự hủy diệt. Cách mở của câu chuyện

thật gọn gàng, cô đúc mà vẫn đầy uy nghi tầm vóc. Và một chi tiết đặc biệt "cả rừng
xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương". Tác giả đã chứng kiến nỗi đau
của xà nu: "có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận
bão". Rồi "có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người bị đạn đại bác chặt đứt
làm đôi. Với biện pháp nhân hóa những cây xà nu giống như những thành viên của
làng Xô Man của những trận chiến khốc liệt. Ở những cây đó, nhựa cịn trong, chất
dầu cịn lng, vết thương khơng lành được cứ lt mãi ra, năm mười hơm sau thì cây
chết". Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến
10


những mất mát đau thương mà đồng bào Xôma đã phải trải qua trong thời kì cách
mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt.
Nhưng không chịu khuất phục cây xà nu vẫn hiên ngang vươn lên mạnh mẽ
như người dân Tây Nguyên kiên cường bất khuất, không khuất phục trước kẻ thù.
Rừng xà nu bạt ngàn, rừng xà nu trùng trùng lớp lớp các thế hệ nối tiếp cũng chính là
thể hiện sự gắn bó, sức mạnh đồn kết và sự nối tiếp bất tận của các thế hệ, gợi liên
tưởng đến sức sống vô tận, bền bỉ, bất diệt của con người Xô man Cây xà nu rắn rỏi,
ham ánh nắng mặt trời tựa như người Xô man chân thật, mộc mạc, phóng khống u
cuộc sống tự do.
Nhân vật trong tác phẩm cũng mang tầm vóc sử thi.Cụ Mết là cội nguồn, là lịch
sử: Cụ như một nhân vật huyền thoại từ hình dáng cho đến tính cách: quắc thước như
xưa, râu dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng xếch ngược, ở trần, ngực căng như
một cây xà nu lớn.Tấm lịng của cụ với bn làng, với Tnú, với cách mạng là tấm lịng
thuỷ chung, tình nghĩa. Cụ Mết là khuôn mẫu của người già Tây Nguyên, u bn
làng, u cách mạng, tuổi cao chí càng cao. Hình ảnh cụ cịn sống mãi với câu nói bất
hủ: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Tnú là thế hệ tiếp theo nối tiếp của cụ Mết, Tnú đã phải trải qua bao thử thách
khốc liệt từ thuở ấu thơ. Anh đã được hoàn cảnh hun đúc thành một con người có
nhiều phẩm chất đáng quý.Tnú có chữ, có văn hố, lại sớm được giác ngộ cách mạng,

một con người gan góc, trung thực..Ngồi tình thương vợ con, Tnú cịn là người nặng
tình với bn làng..Cuộc đời Tnú là một minh chứng hùng hồn rằng: “phải dùng bạo
lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng”.
Sau Tnú là Dít là cơ gái có vẻ đẹp trẻ trung, trong sáng, là một cán bộ Đảng trẻ,
có năng lực, nghiêm túc, tình cảm trong sáng, cao đẹp. Từ nhỏ cơ đã gan dạ một mình
mang cơm tiếp tế cho thanh niên du kích trong sự lùng bắt ráo tiết của giặc.Cơ cũng
có cái nhìn bình thản khi bị trói vào gốc cây và những viên đạn bay sượt qua người.
Phác họa thành công một tập thể nhân vật anh hùng, Nguyễn Trung Thành đã
làm nên thành công của Rừng xà nu. Họ là hiện thân của những phẩm chất anh hùng,
đẹp đẽ của các thế hệ nhân dân, tượng trưng cho các thế hệ tiếp nối nhau của dân làng
Xô Man.

11


Rừng xà nu là một tác phẩm viết về đề tài về con người tây nguyên về tính cách
và con người tinh thần chiến đấu bất diệt. Lấy hình tượng là cây xà nu, truyện góp
phần làm nổi bật những vẻ đẹp tốt đẹp của con người nơi đây, về ý chí cách mạng và
đặc biệt là tính sử thi nổi bật.
Mẫu tham khảo 4
Một tác phẩm tiêu biểu có thể minh hoạ cho sự tồn tại của "nền văn học sử thi"
trong văn học Việt Nam 1945 - 1975, tiêu biểu là "Rừng Xà Nu" của Nguyễn Trung
Thành. Là một truyện ngắn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn đã trở thành
một phần tất yếu của nó.
Tính sử thi của Rừng xà vu mang đậm tính chất tồn dân. Những chuyện xảy ra
với làng Xơman hồn tồn khơng có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả
Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ.
Tính thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về
cuộc sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thi hành
luật 10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Khi

làng Xô Man đứng dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả
nước trong những ngày quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ - một gương mặt rạng rỡ, tự
tin, điềm tĩnh đón nhận những thử thách mới.
Rừng Xà Nu là truyện ngắn đã xây dựng thành công hình tượng một tập thể
anh hùng. Những anh hùng được kể tới trong đó đều có tính đại diện cao, mang trong
mình hình ảnh của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong Rừng Xà Nu là tập thể đa
dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể
hiện một số phận riêng trong cuộc đời chung. Tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm
chất cơ bản : gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng. Chiến công của
mỗi người tuy đa dạng mà thống nhất. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây
Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra. Bản trường ca
của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hòa của nhiều giọng. Anh
Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cơ Dít, bé Heng là những nhân vật tiêu biểu, nhưng
bên cạnh họ, đằng sau họ cịn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ nhạt,
vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập cơng, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ
12


đại của dân tộc. Truyện ngắn Rừng Xà Nu lấy cảm hứng hướng về cái chung đã chi
phối sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái phổ quát.
Truyện ngắn mang đậm tính chất sử thi đã miêu tả các sự kiện, các nhân vật
anh hùng từ một cái nhìn chiêm ngưỡng, khâm phục. Các chi tiết đời thường ít được
nhắc tới. Nhà văn tâm đắc với những chi tiết có khả năng làm phát lộ được phẩm chất
anh hùng của nhân vật. Tả cụ Mết, nhà văn chú ý tới giọng nói "ồ ồ dội vang trong
lồng ngực" của cụ. Tưởng như trong tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng
chiêng, tiếng của núi rừng, của lịch sử. Và quả thật, cụ là hình ảnh tượng trưng của
truyền thống vững bền. Mỗi lời cụ thốt ra kết tinh trải nghiệm của cả một dân tộc. Nó
cơ đúc, sâu sắc, vang vọng như những chân lí. Chả thế mà cả làng Xô Man nghe như
uống từng lời cụ nói và cả Rừng Xà Nu cũng "ào ào rung động" như một sự hoà điệu,
một sự tạo nền. Ngay cuộc đời của Tnú, một cuộc đời trải ra trong chính thời hiện tại

cũng đã được lịch sử hố và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp lửa nhà ưng,
cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng, cho thế hệ con cháu nghe. Anh đã trở thành
niềm tự hào của làng, là một biểu tượng sống động của người anh hùng được tất cả
ngưỡng vọng, học tập.
Tính sử thi còn thể hiện ở giọng văn tha thiết, trang trọng mà tác giả đã sử dụng
khi kể về sự tích của làng Xơ Man. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả
thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một
cảm giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện khơng gì cưỡng nổi, tưởng mình đang
được tắm trên một dịng sơng mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị
thơi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng tráng.
Mẫu tham khảo 5
Nguyễn Trung Thành là nhà văn của núi rừng Tây Nguyên, những trang viết
của ông đậm chất Tây Ngun, là tiếng nói, là nỗi lịng của người dân nơi đây. Truyện
ngắn “Rừng xà nu” là tình cảm, tấm lòng của tác giả đối với thiên nhiên và con người
Tây Nguyên. Cái làm nên sự khác biệt và thành cơng của tác phẩm này nằm ở tính sử
thi rõ nét, không thể lẫn lộn được.
Thật vậy, sử thi là một thể loại văn tự sự, có quy mơ hồnh tráng, mang ý nghĩa
của cộng đồng, dân tộc, ngợi ca những người anh hùng tiêu biểu với những tính cách
13


tiêu biểu cho một dân tộc. Sử thi toát lên từ ngôn ngữ, giọng điệu, cảm xúc chủ đạo,
nội dung của tác phẩm. “Rừng xà nu” không phải tác phẩm sử thi những yếu tố sử thi
được làm nền rất rõ nét. Âm hưởng sử thi lan rộng ra toàn bộ tác phẩm nhưng linh hồn
và sự bất diệt của mảnh đất Tây Nguyên.
Truyện ngắn “Rừng xà nu” lấy bối cảnh cuộc chiến tranh kháng chiến chống
Mỹ cứu nước đang diễn ra mạnh mẽ ở miền Nam; khởi nghĩa Đồng Khởi đang sôi sục
diễn ra và cảnh tang thương khi quân Mỹ lê máy chém đi khắp miền Nam. Hiện thực
đau lịng, mất mát ấy dội lên ý chí quật cường, đứng lên khởi nghĩa của người dân Tây
Nguyên nói riêng và cả nhân dân miền Nam nói chung. Tính sử thi vì thế mà được

“thế” trỗi dậy phát huy hết tác dụng của mình.
Tính sử thi của truyện ngắn “Rừng xà nu” trước hết nằm ở thiên nhiên, núi
rừng hùng vĩ, bao la, rộng lớn làm nền cho câu chuyện phát triển. Thiên nhiên ấy góp
phần ngợi ca những con người kiên cường, anh dũng bất khuất trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Thiên nhiên nơi đây chính là một biểu tượng cho một dân tộc
hùng mạnh, không khuất phục trước kẻ thù và hình ảnh “rừng xà nu” là tượng trưng
tiêu biểu ấy.
Bối cảnh lịch sử của câu chuyện dẫn người đọc đi từ đau thương mất mát này
đến đau thương mất mát kia. Đất nước lầm than, nhân dân cùng cực khi chứng kiến
cảnh Mỹ ngang tàng lê máy chém đi khắp miền nam tàn sát nhân dân vô tội. Hành
động gian ác ấy khiến nhân dân vô cùng căm phẫn và cách mạng Đồng Khởi năm
1959 đang sôi sục được chuẩn bị. Cuộc cách mạng này là cả một quá trình dồn nén
đau thương, máu và nước mắt của toàn dân tộc, sẽ là sự bùng lên của một thời gian dài
chìm trong cảnh nơ lệ cay nghiệt.
Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên hình ảnh làng Xơ man anh hung, bất
khuất.Hình ảnh cả một ngôi làng ấy biểu tượng cho cả một dân tộc thu nhỏ không chịu
đầu hàng và khuất phục trước kẻ thù gian ác. Con người Tây Nguyên và con người
dân làng Xơ man chìm vào cảnh máu lửa, bị o ép, bi dồn vào bước đường cùng.
Chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, máu loang thành sông, những người nơi đây chỉ
cịn cách đứng dậy đấu tranh, cầm vũ khí tự cứu lấy mình. Âm hưởng sử thi từ đó mà
vang lên thật hào hùng, oanh liệt. Tinh thần, sự kiên cường dũng cảm đã là âm hưởng
chủ đạo của toàn tác phẩm.
14


Hơn hết trong tác phẩm này Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành cơng một
tập đồn người, khơng phải một người riêng lẻ mà là sự cộng dồn rất nhiều người.
Đây cũng chính là chủ ý của tác giả, vì họ tượng trưng cho một dân tộc, tượng trưng
cho tinh thần và ý chí quật cường, khơng gục ngã của dân tộc Việt Nam. Mỗi người,
mỗi tính cách, một ý chí sắt đá, một số phận bi thảm riêng nhưng đều chung một tinh

thần chiến đấu kiên cường, bất khuất.
Có thể nói cả dân tộc Xơ man như trong truyền thuyết bước ra, sự hào hùng
vang lên dữ dội như một cơn sóng cuộn trào dữ dội và mãnh liệt. Họ là con người Tây
Nguyên, là anh TNú, chị Mai, cụ Mết, bé Heng… Bản hùng ca của Tây Nguyên bắt
đầu được vẽ nên từ những con người kiên cường, dũng cảm, gan dạ ấy. Họ đóng góp
sức lực của mình vào cơng cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm. Họ biến suy nghĩ thành
hành động, biến máu và nước mắt thành lịng căm thù sơi sục, chỉ có con đường đấu
tranh mới có thể mang lại tự do cho họ.
Đặc biệt hơn nữa tác giả đã khắc họa đậm nét hình ảnh nhân vật Tnú, người
con của Tây Nguyên chịu nhiều mất mát, đau thương, gia đình anh bị kẻ thù giết sạch,
anh bị tra tấn dã man. Hình ảnh hai bàn tay của Tnú bị đốt, cháy lên như một lời cảnh
tỉnh mang ý nghĩa sâu xa nhất, buộc người Tây Nguyên phải vùng lên đấu tranh.
Hình ảnh “Rừng xà nu”gắn với hình ảnh dân làng Xơ man có ý nghĩa cộng hòa nhau
hỗ trợ cho nhau cũng làm nên sự thành cơng của tính sử thi trong tác phẩm này. Tác
giả mở đầu là hình ảnh rừng xà nu và kết thúc cũng là hình ảnh rừng xà nu bạt ngàn.
Rừng xà nu chính là biểu tượng của cả dân tộc Xô man, sức sống mạnh mẽ của loại
cây này cũng là sức sống của người dân Tây Nguyên.
Đọc tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành âm hưởng chủ đạo
chính là giọng hào hùng, đanh thép. Mặc dù mất mát đau thương nhưng không hề bi
lụy. Bởi rằng âm hưởng chính đã lấn át đi những mất mát đau thương đó.
Đến đây, ta thấy “Rừng xà nu” là một câu chuyện vang dội tính sử thi từ đầu
câu chuyện cho đến khi kết thúc câu chuyện; lắng lại trong lòng người đọc nhiều dư
âm vang dội nhất. Sự thành cơng của tác giả chính là làm sống dậy một dân tộc có ý
chí quật cường, làm sôi sục lên tinh thần đấu tranh không ngừng nghỉ khi có áp bức
bóc lột.

15


Mẫu tham khảo 6

Trong 2 cuộc kháng chiến, những tác phẩm văn học viết về đề tài miền núi đã
đạt những thành tựu xuất sắc bởi nó khơng chỉ phản ánh được những đặc điểm về con
người, cuộc sống của một vùng, miền mà qua một cánh cửa nhỏ nó cho thấy được cả
một bức tranh chung của đất nước trong một thời kỳ lịch sử.
Tiếp theo Đất nước đứng lên, 10 năm sau, Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung
Thành lại thành công xuất sắc trong một tác phẩm viết về đề tài miền núi: Rừng xà nu.
Truyện ngắn này đã nhận giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965. Cũng
mang đậm cảm hứng và màu sắc sử thi như trong Đất nước đứng lên, song Rừng xà
nu đã gây kinh ngạc cho người đọc bởi chỉ với một truyện ngắn mà nhà văn đã đề cập
tới những vấn đề lớn của dân tộc, của đất nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Chất sử thi đậm đặc trong Rừng xà nu, biểu hiện trong chủ đề, cách xây
dựng hình tượng và cả ngơn ngữ của tác phẩm.
“Tính sử thi” là đặc điểm của văn học sáng tác trên nền tảng của ý thức cộng
đồng toàn dân, xuất hiện vào thời kì có đấu tranh chống ngoại xâm, có phong trào xã
hội bảo vệ lợi ích tồn dân. Tác phẩm được coi là có tính sử thi khi nó khai thác và
phản ánh xung đột của dân tộc với kẻ xâm lược, thể hiện những vấn đề lớn của cả
cộng đồng trên lập trường vì lợi ích chung của dân tộc, -xây dựng nhân vật anh hùng
đại diện cho phẩm chất, ý chí và sức mạnh của dân tộc bằng giọng ngợi ca, tự hào, thể
hiện được những tình cảm chung của tồn dân tộc…
Những tác phẩm mang tính sử thi đều hướng tới triển khai những chủ đề mang
nghĩa cộng đồng, thời đại chứ không phải là những vấn đề mang tính đời. Truyện ngắn
Rừng xà nu đã hướng tới điều này khi nó khơng những đã phản ánh được cuộc kháng
chiến anh dũng của nhân dân miền Nam, nhân dân Tây Nguyên mà còn khẳng định
một chân lý của thời đánh Mỹ: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” – phải
dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng. Chân lý này được phát
biểu trực tiếp bằng lời của cụ Mết đồng thời cũng được thể hiện qua cuộc đời bi tráng
của Tnú.
Dù đã huy động tất cả sức mạnh của cá nhân nhưng khi Tnú tay không đứng
trước kẻ thù tàn bạo thì anh vẫn thất bại đau đớn: kẻ thù đã bắt vợ con Tnú, tra tấn vợ
con anh bằng những địn đánh tàn bạo. Lịng căm thù, tình yêu thương bùng cháy

16


trong Tnú, thôi thúc anh xông vào lũ giặc. Sức mạnh trong con người Tnú đã giúp anh
quật ngã được thằng lính giặc. Song Tnú chỉ có tay khơng giữa kẻ thù đơng đảo và
đầy vũ khí. Vì thế, Tnú đã không cứu được mẹ con Mai (cụ Mết nhắc lại 3 lần chuyện
đó khi kể câu chuyện bi thảm này). Bản thân Tnú cũng bị giặc bắt, bị trói, mười đầu
ngón tay đã bị đốt cháy rừng rực như mười ngọn đuốc. Thất bại của Tnú đã chứng
minh rằng: khi kẻ thù cầm súng mà ta chưa kịp cầm giáo, mọi sức mạnh của cá nhân
cũng không đủ để chống lại kẻ thù, thất bại là một tất yếu. Thất bại của Tnú là bài học
cay đắng của không chỉ riêng anh mà của làng Xô Man, của cả đất nước những năm
chống Mĩ.
Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xơ Man đã cầm vũ khí đứng lên tiêu diệt kẻ thù.
Chính ngọn lửa đốt đơi bàn tay Tnú đã làm bùng lên ngọn lửa căm hờn, ngọn lửa khởi
nghĩa của dân làng Xô Man. Sau bao ngày mài giáo, mài rựa chuẩn bị vũ khí, người
Strá đã ào ạt xông lên, đi đầu là cụ Mết. Họ đã chém gục thằng Dục, giết 10 thằng ác
ôn cứu Tnú, giải phóng cho dân làng. Con đường của Tnú từ đấu tranh tự phát đến
tham gia lực lượng đánh Mỹ đã phản ánh hiện thực về con đường đi đến với cách
mạng, vũ trang đánh Mỹ của người dân Tây Nguyên.
Tnú thuộc kiểu nhân vật sử thi bởi nhân vật này tiêu biểu đại diện cho cộng
đồng về cả sức mạnh, phẩm chất cũng như lí tưởng, lẽ sống. Cũng như cụ Mết, Tnú
tiêu biểu cho phẩm chất, tính cách của người dân Tây Nguyên
Tnú là con người trung thực, gan góc, dũng cảm. Cái chất Tây Nguyên này có
trong Tnú từ khi còn nhỏ. Lúc còn dẫn đường cho cán bộ, Tnú và Mai được anh Quyết
dạy chữ. Học chữ thua Mai, Tnú đã đập vào bảng, lấy đá ghè vào đầu đến chảy máu.
Để đưa được chữ vào sau vầng trán rắn như đá núi, Tnú cần cả tình u lẫn sự gan góc
và nghị lực phi thường. Sự gan góc dũng cảm của anh càng lớn càng bộc lộ rõ khi
phải đối diện với kẻ thù. Để khủng bố tinh thần anh, giặc chĩa súng vào anh và hỏi
“Cộng sản ở đâu?” Tnú đã bình thản đặt tay lên bụng “Cộng sản ở đây này”.
Tnú có tình yêu thương sâu sắc, mãnh liệt đối với núi nước quê hương. Khi

hiểu rằng theo Đảng sẽ bảo vệ được núi nước q hương Tnú khơng sợ hy sinh vì
“Đảng cịn là núi nước này cịn”. Anh gắn bó với quê hương, với từng cánh rừng xà
nu, từng khúc sông, con suối, thuộc hiểu rừng núi và thiết tha nhớ những âm thanh
mang nhịp sống quê mình.
17


Ở Tnú, đơi bàn tay là hình ảnh mang tính cách anh rõ nhất. Đơi bàn tay khi cịn
lành lặn là đơi bàn tay trung thực nghĩa tình. Bàn tay biết cầm phấn học cái chữ anh
Quyết dạy cho cũng là bàn tay lấy đá ghè vào đầu tự trừng phạt mình khi học mà hay
quên. Khi vượt ngục trở về, đôi bàn tay ấy đã nắm lấy tay Mai mà mắt giàn giụa nước.
Khi bị đốt, 10 ngón tay Tnú đã thành 10 ngọn đuốc đốt cháy bùng lên ngọn lửa căm
hờn, ngọn lửa khởi nghĩa của làng Xô Man. Với đơi bàn tay mỗi ngón chỉ cịn 2 đốt,
Tnú vẫn cầm Vũ khí, vẫn đi tìm những thằng Dục để trả thù. Với Tnú, đã là kẻ thù thì
đứa nào cũng là thằng Dục. Câu chuyện kết thúc bằng hình ảnh Tnú giết tên chỉ huy
đồn giặc trong hầm cố thủ của hắn khơng phải bằng vũ khí mà bằng chính đơi bàn tay
thương tật của anh đã cho thấy sức mạnh trừng phạt của nhân dân đối với kẻ thù của
dân tộc là sức mạnh được nuôi dưỡng từ lòng căm thù và từ những đau thương uất
hận. Sức mạnh ấy sẽ giúp nhân dân trả thù và tự bảo vệ sự sống của quê hương.
Sức mạnh của Tnú là sức mạnh của cả Tây Nguyên: vừa ào ạt, sôi sục như thác
lũ khi xông vào lũ giặc, lại vừa thâm trầm vững chãi như núi rừng Tây Nguyên khi
trải qua đau thương vẫn vươn lên khẳng định mình trong cuộc tiến cơng tiêu diệt kẻ
thù. Khi Tnú mồ côi, làng Xô Man nuôi anh lân thành người. Khi Tnú đi liên lạc, rừng
núi quê hương che chở cho anh. Khi anh thất bại, làng Xô Man đã cứu sống anh, chữa
trị cho vết thương liền sẹo. Khi Tnú đi lực lượng trở về, làng Xô Man đón anh như
đón đứa con ruột thịt. Tnú đã trở thành hình tượng trung tâm của tác phẩm mang vẻ
đẹp và kết tinh phẩm chất anh hùng của xứ sở Tây Nguyên.
Hình ảnh thiên nhiên được khắc họa đậm chất sử thi: cây xà nu như một hoá
thân của con người Tây Nguyên đau thương và anh dũng, cả rừng xà nu khơng cây
nào khơng bị thương. Có cây chết Song còn rất nhiều cây xà nu khác đã vượt lên đau

thương để sông. Sức sống bất diệt của cây xà nu biểu hiện sinh động, phong phú ở
nhiều phương diện khác nhau: khả năng sinh sôi nảy nở rất nhanh, sức vươn lên mạnh
mẽ để đón nhận ánh nắng mặt trời, khả năng vượt lên đau thương để tồn tại và đặc biệt
cây xà nu luôn quần tụ bên nhau thành đồi, thành rừng. Xây dựng hình tượng cây xà
nu, rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã tạo một bối cảnh khơng gian mang tính sử
thi: Mở đầu và kết thúc tác phẩm là hình ảnh hàng vạn cây xà nu thành đồi, thành
rừng nối tiếp nhau chạy tới chân trời tạo nên một vẻ đẹp hùng vĩ và bất diệt của thiên

18


nhiên Tây Nguyên làm nền cho cuộc đời bi tráng của Tnú và cuộc nổi dậy của dân
làng Xô Man.
Cuộc đời bi tráng của Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man được gợi lên
qua lời kể của cụ Mơt – lời kể mang màu sắc hình thức kể khan, kể sử thi trường ca
của đồng bào Tây Nguyên.
Kể khan là hình thức sinh hoạt cộng đồng mang tính truyền thống cố từ lâu đời
của dân tộc Tây Nguyên. Dưới mái nhà Ưng, bên bếp lửa lửa bập bùng, dân làng quây
quần bên nhau nghe người già kể những câu chuyện về nguồn gốc bộ tộc, về chiến
công của những người anh hùng. Những bài kể khan như hát, suốt đêm, từ đêm này
qua đêm khác trong một khơng khí thiêng liêng. Cuộc đời Tnú cũng được kể lại trong
một đêm anh về thăm làng. Cũng bên bếp lửa bập bùng dưới mái nhà Ưng, lời cụ Mết
trầm hùng cất lên như lời phán truyền của lịch sử: “Người Strá ai có cái tai, ai có cái
bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ…”, “Nghe rõ chưa, các
con, rõ chưa? Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay cịn sống phải nói lại cho con
cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!…”
Câu chuyện cụ Mết kể là nói về những người đang sống, là câu chuyện của
hiện tại. Trong khi đó, hình thức kể khan lại thường gắn với những câu chuyện, những
nhân vật trong lịch sử. Vì vậy, câu chuyện hiện tại về cuộc nổi dậy của dân làng Xô
Man và cuộc đời của Tnú như có một độ lùi sử thi để mang màu sắc lịch sử. Do vậy,

đọc Rừng xà nu, hiện tại khi được đặt lùi xa bằng một khoảng cách sử thi sẽ đem đến
sự chiêm ngưỡng mang tính chất sử thi. Qua lời kể của cụ Mết, hình tượng nhân vật
Tnú dường như mang vẻ đẹp của những anh hùng, dũng sĩ trong các sử thi Đăm San,
Xinh Nhã, Đăm Bri của Tây Nguyên xưa.
Âm hưởng sử thi là âm hưởng chung của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến
và cũng là nét đặc sắc riêng của truyện ngắn Rừng xà nu vì ở tác phẩm này khơng phải
chỉ có một vài yếu tố mà màu sắc sử thi được tạo nên từ sự tổng hòa của tất cả các yếu
tố nội dung cũng như nghệ thuật.
Màu sắc sử thi góp phần quan trọng trong việc thể hiện chủ để, chuyển tải
khơng khí thời đại đồng thời cũng tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.

19


Mẫu tham khảo 7
Sử thi là loại văn học đẹp đẽ, vàng son ra đời từ buổi bình minh lịch sử nhân
loại. Nội dung tác phẩm thường ca ngợi chiến cơng của những người anh hùng trên
con đường dìu dắt dân tộc mình thốt khỏi thời đại tăm tối dã man sang thời đại văn
minh tiến bộ. Đây là thể loại đi khơng trở lại của lịch sự văn hóa nhân loại. Những tác
phẩm sau này kể về chiến tích của người anh hùng, đề cập đến vấn đề cốt yếu của lịch
sử khơng cịn được gọi là tác phẩm sử thi mà chỉ được xem có dáng dấp sử thi, mang
tính sử thi. Văn học Việt Nam thời kì 1945 – 1975 mà đặc biệt là những tác phẩm viết
về chiến tranh cách mạng rất giàu tính sử thi, trong đó có truyện ngắn Rừng xà nu của
Nguyễn Trung Thành. Tính sử thi của truyện được thể hiện qua chủ đề, bức tranh
thiên nhiên, hình tượng nhân vật và qua ngôn ngữ trần thuật.
Cốt truyện Rừng xà nu kể về cuộc đời của Tnú và chuyện chiến đấu của làng
Xơ Man. Xung đột chính của truyện là xung đột giữa nhân dân cách mạng với kẻ thù
Mỹ ngụy. Dưới sự kìm kẹp của bọn ác ơn, dân làng Xơ Man sống trong những ngày
đen tối, ngột ngạt, căng thẳng vì bị khủng bố: chúng treo cổ anh Xút, chặt đầu bà
Nhan, đánh chết mẹ con Mai. Nỗi đau thương, lịng căm thù tích tụ dần thành ý chí

chiến đấu bất khuất. Xung đột đã lên đến đỉnh điểm, cao trào nên đã bùng nổ thành
cuộc chiến đấu dữ dội ở cuối truyện. Đó là đêm bọn giặc đánh mẹ con Mai cho đến
chết, Tnú người – cán bộ chỉ huy du kích bị rơi vào tay giặc. Dưới sự chỉ đạo của cụ
Mết, bằng vũ khí thơ sơ, dân làng đã trỗi dậy. Ngòi bút sử thi miêu tả cuộc chiến đấu
hào hùng với những hình ảnh kì vĩ: ngàn tiếng thét vang dữ dội, tiếng chân người đạp
trên sàn nhà ưng rào rào, ánh rựa vung lên sáng loáng, tiếng chiêng trống vang lừng
núi rừng. Đêm ấy cả làng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng. Bằng
những chi tiết hoành tráng, nhịp văn nhanh, tác giả đã miêu tả khí thế thần tốc, dựng
lên khơng khí cuộc chiến đấu: khẩn trương, náo nức, dữ dội, quyết liệt, ngời sáng sức
mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong thoáng chốc bọn giặc nằm ngổn
ngang dưới lưỡi mác của dân làng. Dân làng đã vùng lên chiến đấu để giải phóng cuộc
đời, chấm dứt thời kỳ đen tối mở ra cuộc chiến đấu trường kỳ, tự chủ.
Đó là câu chuyện chiến đấu của dân làng Xô Man, một sự kiện lịch sử trọng đại
liên quan đến vấn đề sống còn của cộng đồng được kể với giọng văn hào hứng. Chủ

20


đề của cốt truyện này là vấn đề cốt yếu của lịch sử được kể lại với cảm hứng say mê
ca ngợi nên mang đậm tính sử thi.
Hịa nhập và tương ứng với tầm vóc của chủ nhân là bức tranh thiên nhiên rừng
xà nu hùng vĩ mang vẻ đẹp sử thi.
Hình tượng cây xà nu được miêu tả xuyên suốt tác phẩm. Tác giả đã dành trọn
phần mở đầu truyện để miêu tả rừng xà nu. Trong khu rừng từng luồng nắng trên cao
rọi xuống những thân cây sóng lớp thẳng tắp, lóng lánh vơ số hạt bụi vàng từ nhựa cây
bay ra thơm ngào ngạt, mỡ màng. Tác giả đã dựng được khung cảnh có khơng gian ba
chiều, tạo được khơng khí, làm sống dậy bức tranh thiên nhiên có vẻ đẹp tràn đầy chất
thơ, tráng lệ. Thế nhưng dưới tội ác của kẻ thù, rừng đã mang trên mình những vết
thương chiến tranh đau đớn, càng đau đớn rừng xà nu càng trào lên sức sống mãnh
liệt: cạnh một cây đã ngã, có bốn năm cây con mọc lên ngọn xanh rờn, nhanh chóng

liền lại vết sẹo trên cơ thể cường tráng. Và khúc vĩ thanh của truyện: cả khu rừng lớn
bạt ngàn, đến hết tầm mắt cũng khơng thấy gì khác ngồi những đồi xà nu nối tiếp
chân trời. Bám rễ sâu trong lòng đất, những thân cao vươn lên đón nắng trời, ngàn
năm như vẫn cịn hát ru với gió... Thiên nhiên được miêu tả với sức sống to lớn, hùng
mạnh, bất diệt. Vẻ đẹp hào hùng, tráng lệ và bi thương của rừng hòa nhập với cuộc
đời bi tráng của dân làng, nên rừng xà nu góp phần tạo ra vẻ đẹp sử thi, chất thơ của
thiên truyện.
Khi tái hiện một đoạn trường lịch sử đánh giặc ngoại xâm, tác giả đã xây dựng
một tập thể anh hùng trong đó nổi bật tính cách anh hùng. Cụ Mết là nhân vật lịch sử.
Cụ là biểu tượng của sức mạnh tinh thần và có tính truyền thống của dân tộc Strá.
Trong một tài liệu khác, tác giả bảo rằng: Ông là lịch sử bao trùm, gắn kết giữa quá
khứ với hiện tại. Cụ là người đại diện cho quần chúng cách mạng, là gạch nối giữa
Đảng với đồng bào dân tộc. Và vai trò của cụ Mết thể hiện rất rõ trong đêm đồng khởi
và là người phát lệnh chiến tranh: Thế là bắt đầu rồi... đốt lửa lên. Chân lý đấu tranh
cách mạng được rút ra từ thực tiễn chiến đấu giản dị mà sâu sắc: chúng nó cầm súng,
mình phải cầm giáo. Cụ Mết đại diện cho sức mạnh, ý chí chiến đấu, trí tuệ và nguyện
vọng của cộng đồng, là pho sử sống của cộng đồng, có ý thức giữ gìn lịch sử và là
người đại diện cho lịch sử nên nhân vật này mang đậm tính sử thi.

21


Đại diện cho tập thể anh hùng là Tnú – đứa con của dân làng Xô Man, của núi
rừng Tây Nguyên. Ngay từ nhỏ, Tnú đã tự thể hiện mình là con người gan góc, dũng
cảm: xung phong đi ni cán bộ. Khi đi làm giao liên Tnú đã dũng cảm vượt qua bao
khó khăn, Tnú khơng đi theo đường mòn, đường nước êm, mà bao giờ cũng chọn lối
đi mà bọn giặc không ngờ tới.
Thế nhưng, trong một lần Tnú rơi vào ổ phục kích, bị giặc bắt, tra tấn rất dã
man nhưng Tnú không khai, vẫn hiên ngang và dám thách thức kẻ thù. Tnú là một
chiến sĩ có phẩm chất đẹp đã được thử thách qua máu lửa: kiên trường, bất khuất, gan

góc, dũng cảm, thủy chung với cách mạng, tinh thần sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp
cứu nước. Những vẻ đẹp ấy tiêu biểu cho phẩm chất của cộng đồng.
Sau ba năm ở tù, Tnú vượt ngục trở về làng và đã có một mái ấm gia đình hạnh
phúc với Mai. Nhưng thời gian sau bi kịch đã xảy ra, bọn giặc hung bạo đã giết mẹ
con Mai, Tnú một lần nữa rơi vào tay giặc, bị tra tấn dã man. Tnú thà hy sinh chứ
không chịu đầu hàng, cắn răng chịu đựng đau đớn, mất mát chứ khơng để kẻ thù khuất
phục. Hình tượng Tnú trước giặc thù sừng sững hiên ngang như cây xà nu. Cuộc đời
Tnú là khúc ca bi tráng. Số phận cuộc đời và tính cách của Tnú có ý nghĩa tiêu biểu
cho cộng đồng nên nhân vật này mang đậm tính sử thi.
Ngồi ra, nhân vật Dít, bé Heng cũng có nét đẹp sử thi. Họ đại diện cho các thế
hệ anh hùng nhanh chóng trưởng thành lớn mạnh như cây xà nu, thay thế lớp người đi
trước, gánh vác nhiệm vụ lịch sử nối tiếp bước chân cha anh trong cuộc kháng chiến
trường kỳ.
Vẻ đẹp sử thi còn thể hiện qua hình thức trần thuật của truyện. Truyện có cách
tổ chức trần thuật rất hấp dẫn, hai cốt truyện được lồng vào nhau: chuyện Tnú sau ba
năm đi lực lượng về thăm làng và chuyện chiến đấu cách đó ba năm. Cốt truyện chính
kể về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của làng Xô Man được đẩy vào thời kì q khứ.
Nó được ghi nhớ trong hồi ức của cộng đồng, được soi chiếu bởi kỉ niệm, hoài niệm
nên thật đẹp. Khi đẩy câu chuyện chiến đấu về thời quá khứ, tác giả đã tạo ra khoảng
cách sử thi, để cho người hôm nay ngưỡng mộ, chiêm bái câu chuyện lịch sử hào hùng
và nhân vật anh hùng của cộng đồng ngày xưa. Cách kể giống như cách kể khan
(trường ca) của đồng bào Tây Nguyên, bên bếp lửa chung, già làng kể cho đám con
cháu nghe suốt đêm khơng chán. Khơng khí kể chuyện rất trang nghiêm, mọi người
22


ngồi tại nhà ưng im lặng lắng nghe, chỉ tiếng suối rì rào xa xa. Thái độ và giọng điệu
của người kể rất trang trọng, như muốn truyền vào thế hệ con cháu những trang sử của
cộng đồng. Cách trần thuật, giọng điệu, ngôn ngữ trang trọng làm cho câu chuyện
được kể càng mang đậm tính sử thi.

Tác giả đã xây dựng những hình tượng có vẻ đẹp lớn lao, hùng vĩ, mang âm
hưởng tráng ca: rừng xà nu, đêm đồng khởi... nhờ vậy mà đã tái hiện lại một thời lịch
sử oai hùng, tô đậm chất sử thi. Câu chuyện lịch sử, câu chuyện về người anh hùng
đánh giặc được miêu tả, kể lại bởi bút pháp sử thi là thành công của Nguyễn Trung
Thành. Rừng xà nu là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi, anh hùng ca của
văn xi thời kì 1945 – 1975.
Mẫu tham khảo 8
“Rừng xà nu” là một truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Trung Thành viết về
đất và người Tây Nguyên hùng vĩ. Đây cũng là một tác phẩm mang đậm nét tính sử
thi của văn học Việt Nam 1945 – 1975.
Sử thi (hay trường ca) là một thể loại văn tự sự (có thể là văn vần hoặc văn
xi) có quy mơ hồnh tráng, nội dung thường miêu tả và ca ngợi những chiến cơng,
những sự kiện mang tính chất toàn thẻ cộng đồng, ngợi ca những vị anh hùng bộ tộc
có sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và ước vọng của cả cộng đồng đó.
Tác phẩm sử thi có tính đặc trưng về ngơn ngữ, giọng điệu, cảm hứng chủ đạo,
nội dung tác phẩm… “Rừng xà nu” là một truyện ngắn chứ không phải là tác phẩm sử
thi nhưng tính sử thi lại được thể hiện khá rõ nét. Âm hưởng sử thi cũng là một phần
quan trọng góp phần làm nên thành cơng cho tác phẩm.
Trước hết, tính sử thi trong tác phẩm “Rừng xà nu” được biểu hiện ở việc nhà
văn xây dựng những sự kiện có tính chất cộng đồng chứ khơng phải chỉ của cá nhân
riêng lẻ. Những chuyện của làng Xô Man cũng là những chuyện chung của Tây
Nguyên, của cả miền Nam và cả đất nước của chúng ta. Bọn Mỹ – Diệm đi tới đâu là
chúng chèn ép người đến đấy. Chúng thà giết nhầm chứ quyết không để cho cộng sản
của chúng ta có đường chạy thốt. Thế nhưng dân tộc ta là một dân tộc yêu nước,
đồng bào ta là một đồng bào kiên cường cho nên ngày giặc càn qt, tồn thể nhân
dân đã đồng lịng đứng dậy chống Mỹ. Chuyện làng Xô Man mài gươm giáo, nổi dậy
23


và sẵn sàng đánh giặc chính là hình ảnh, là tinh thần của toàn thể dân ta trong cuộc

kháng chiến chống Mĩ hào hùng.
Bên cạnh việc xây dựng những sự kiện mang tính cộng đồng thì “Rừng xà nu”
cịn xây dựng hình ảnh một tập thể anh hùng. Đây cũng là một phương diện thể hiện
tính sử thi rõ nét trong tác phẩm. Nhà văn đã dựng lên bức chân dung những người
anh hùng mang những nét tính cách và phẩm chất của người làng Xô Man, của những
người con Tây Nguyên gần trường bất khuất. Những người anh hùng trong “Rừng xà
nu” tuy đa dạng lứa tuổi, đa dạng về số phận riêng nhưng đều chiến đấu vì một mục
đích cách mạng, góp phần làm nên chiến thắng, đem lại bình yên và hạnh phúc cho tất
cả mọi người.
Tuy rằng chiến công của mỗi người là khác nhau nhưng nó cùng làm nên chiến
thắng chung cho tất cả mọi người. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây
Nguyên là do tất cả mọi người cùng viết ra chứ không phải chỉ riêng của một người
làm ra. Bản trường ca vì thế đa thanh đa sắc, nó là sự tổng hòa của rất nhiều giọng
điệu khác nhau. Anh Quyết, cụ Mết, Tnú, Mai, cơ Dít, bé Heng là những người tiêu
biểu nhất. Nhưng bên cạnh họ cịn có dân làng, có những người phía sau cùng đồng
lịng để làm nên chiến thắng vang dội. Tất cả cùng góp phần vào sự nghiệp vĩ đại của
dân tộc.
Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” còn được thể hiện ở việc miêu tả
những sự kiện, những vị anh hùng từ góc độ kính phục và ngưỡng mộ. Trong tác
phẩm, các chi tiết đời thường ít được nhắc tới, thay vào đó, nhà văn chí chú ý chọn lọc
những chi tiết tiêu biểu nhất để làm nổi bật phẩm chất anh hùng của nhân vật.
Hình ảnh cụ Mết với giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực”, nghe tưởng như
là âm vang của cồng chiêng, của núi rừng Tây Nguyên, của lịch sử hào hùng vọng lại.
Mà quả thật, cụ Mết chính là hình tượng của truyền thống, của lịch sử vững bền. Cụ
từng nói: “Đảng cịn, núi nước này cịn”. Câu nói ấy như một chân lý và một niềm tin
sắt đá vào cách mạng, vào sự chiến thắng của dân tộc mình. Chẳng thế mà cả làng Xơ
Man lắng nghe như uống từng lời cụ nói và cả rừng xà nu cũng “ào ào rung động” như
một sự hoà điệu, tạo nên âm hưởng vang vọng khắp không gian.
Câu chuyện của cụ Mết về cuộc đời của Tnú không đơn giản chỉ là cuộc đời
của một con người. Nó là một câu chuyện đã được lịch sử hóa và nhuốm màu huyền

24


thoại cho nên đã trở thành cuộc đời chung của toàn thể dân tộc. Tnú yêu quê hương
đất nước, gan dạ dũng cảm bảo vệ cán bộ cách mạng và dân làng. Anh cũng từng trải
qua những mất mát đau đớn nhưng vượt lên trên tất cả là tình yêu với gia đình, q
hương đất nước và lịng căm thù giặc sâu sắc đã giúp anh trở nên mạnh mẽ, có thể
chiến thắng kẻ thù, hướng đến giải phóng cho dân tộc, cho nhiều người hơn nữa. Câu
chuyện về một người anh hùng cao cả lại được cụ Mết kể lại trong một đêm bên bếp
lửa nhà ưng đã khiến cho Tnú trở thành niềm tự hào của làng, trở thành biểu tượng
anh hùng sống động để cho tất cả mọi người ngưỡng mộ và noi theo.
Với giọng văn hào hùng, đanh thép và bộc trực, “Rừng xà nu” đã đem đến cho
người đọc một bản trường ca về người anh hùng, về tinh thần bất khuất kiên cường
của đất và người Tây Nguyên. Hình ảnh rừng xà nu bạt ngàn vươn lên đón ánh nắng
mặt trời chính là một biểu tượng cho sức sống bất diệt của con người, của Tây
Nguyên. “Đạn bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như
trên thân thể cường tráng”. Chính những lời văn như thế này đã cho người đọc thấy
hình ảnh tập thể dân làng Xơ Man nói riêng và tồn thể nhân dân ta nói chung đều một
lòng kiên định vững vàng trước thử thách để chiến đấu và chiến thắng.
Có thể thấy rằng truyện ngắn “Rừng xà nu” mang tính sử thi rất rõ nét. Yếu tố
sử thi đã khiến cho tác phẩm để lại nhiều dư âm mạnh mẽ trong lòng người đọc. Và sự
thành cơng của tác giả chính là thể hiện được tinh thần bất khuất kiên cường của một
dân tộc trong những năm tháng chiến tranh, khơi gợi lên tinh thần sôi sục đấu tranh để
hướng đến giải phóng dân tộc, bảo vệ bình yên cho Tổ quốc.

25


×