TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM HÀ NỘI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM THÁI BÌNH
-------------------------------------------------
GIÁO TRÌNH
GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
(Lưu hành nội bộ)
HÀ NỘI – 2012
LỜI NĨI ĐẦU
Gia đình và giáo dục gia đình là chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học,
quản lý, hoạch định chính sách, các nhà giáo dục… Các chuyên ngành khoa học khác
nhau đều nghiên cứu gia đình và giáo dục gia đình với cách tiếp cận riêng phục vụ cho
mục đích nghiên cứu và những nhiệm vụ cụ thể.
Ở Việt Nam, gia đình ln có một vị trí hết sức quan trọng trong q trình dựng
nước và giữ nước. Bởi lẽ, gia đình là tế bào xã hội, là nơi tiếp nhận, kế thừa, sáng tạo và
chuyển giao những giá trị văn hoá, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Với mỗi con người, gia đình ln đựơc coi là tổ ấm, là nơi hình thành và ni
dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, tạo nên lối sống, lẽ sống và nhân cách. Cũng thơng qua
gia đình, từng thành viên biết lựa chọn, điều chỉnh hoạt động của mình phù hợp với
những tiêu chuẩn, khuôn mẫu tác phong mà xã hội mong đợi.
Trong giai đoạn hiện nay, gia đình và giáo dục gia đình đang địi hỏi có cách nhìn
đầy đủ hơn, phù hợp hơn với những biến đổi to lớn của quá trình đổi mới đất nước, hội
nhập quốc tế.
Nhằm góp phần hồn thiện chương trình và tài liệu bồi dưỡng giáo viên trung học
cơ sở được đào tạo hai mơn trong đó có mơn Giáo dục cơng dân của các trường Cao
đẳng Sư phạm. Chúng tôi biên soạn giáo trình Gia Đình và Giáo dục Gia đình dựa trên
cơ sở của giáo trình “Giáo dục gia đình” của tác giả Phạm Khắc Chương. NXB Giáo
dục 1998 được bổ sung, điều chỉnh và nâng cao thông qua các tài liệu có liên quan cho
phù hợp mục đích, u cầu của chương trình đào tạo hiện nay.
Quá trình biên soạn giáo trình, chúng tơi đã nhận đựơc sự góp ý đầy nhiệt huyết
của PGS.TS. Phạm Khắc Chương và các bạn đồng nghiệp. Tuy nhiên, giáo trình khơng
tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Rất mong nhận được ý kiến đóng góp, trao đổi, để cuốn giáo trình này ngày càng
hồn thiện hơn.
NHĨM BIÊN SOẠN GIÁO TRÌNH
TRƯỜNG CĐSP HÀ NỘI - TRƯỜNG CĐSP THÁI BÌNH
Th.S Nguyễn Trọng Thiều – Th.S Bùi Ngọc Sơn
1
Chương I
GIA ĐÌNH TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
I. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH
Ngay từ buổi đầu của lịch sử, khi con người tách khỏi giới loài động vật, tự tổ chức
cuộc sống với tư cách là một cộng đồng độc lập, thì cũng là lúc con người tự tổ chức
cuộc sống theo các quy mơ cộng đồng nhỏ. Gia đình hình thành như một tổ chức cộng
đồng xã hội sơ khai ban đầu đó.
Xuất phát từ nhu cầu bảo tồn, duy trì nịi giống, sự cần thiết phải nương tựa vào
nhau để sinh tồn, những hình thức cộng đồng có tổ chức đời sống sơ khai ấy lúc đầu chỉ
là các thành viên có quan hệ huyết thống (trực hệ) với nhau, chủ yếu là những người mẹ
cùng các con, cháu tụ tập lại được gọi là gia đình mẫu hệ. Về qui mơ gia đình, lúc đầu số
thành viên quần tụ chỉ vài chục, vài trăm. Nhưng do bị chi phối bởi những biến đổi mạnh
mẽ của quá trình sản xuất vật chất, của đời sống kinh tế - xã hội nên số lượng các thành
viên trong gia đình giảm dần. Từ đây, mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng
trở nên chặt chẽ hơn khơng cịn là sắc thái ban đầu có tính “tự nhiên sinh học” nữa.
Trong các gia đình sơ khai bắt đầu xuất hiện những cơ chế ràng buộc lẫn nhau phù
hợp với cách thức tổ chức đời sống, sản xuất. Vì vậy, gia đình trở thành một thiết chế xã
hội, một hình ảnh “xã hội thu nhỏ”. Như vậy, gia đình được coi là một thiết chế xã hội
đặc thù nhỏ nhất, cơ bản nhất.
Tuy nhiên, gia đình khơng chỉ là một tổ chức cộng đồng, một thiết chế xã hội mà
quan trọng hơn, gia đình cịn là một giá trị văn hố xã hội. Tính chất, bản sắc của gia
đình lại được duy trì, bảo tồn, sáng tạo và phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu của các
thành viên trong sự tương tác gắn bó với văn hố cộng đồng dân tộc, giai cấp, tầng lớp
xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia dân tộc xác định.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình, đi liền đó là các quan điểm
về gia đình chưa hồn tồn thống nhất với nhau. Văn bản của Liên hiệp quốc “Năm
Quốc tế về Phụ nữ và Gia đình” cũng khẳng định khơng có một định nghĩa áp dụng
chung cho tồn cầu về gia đình, nhận thức về vai trị của gia đình cũng thay đổi tuỳ theo
nền văn minh.
Theo từ điển Tiếng Việt, “Gia đình là tập hợp những người cùng sống chung thành
một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội gắn bó với nhau bằng quan hệ hơn nhân và dịng máu,
thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái”. Quan niệm này chỉ mới dừng lại ở tính
phổ qt nhất về các loại gia đình trong lịch sử, đồng thời cũng chưa bao gồm các hình
thức gia đình mới đang phát sinh trong xã hội hiện đại ngày nay.
Nho giáo cho rằng, gia đình chính là một nước thu nhỏ. Vì thế, trong “Luận ngữ”
Khổng Tử đã dạy: “Một nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu”. “Một nhà lễ nhượng thì cả
nước ăn ở đều có lễ nhượng”. “Một người tham lam thì cả nước rối loạn”.(1) Một xã hội
(1)
C.Mác và PhAngghen. Tuyển tập. Tập 6. NXB Sự Thật Hà Nội 1984, Tr26
2
muốn thanh bình thì trước hết phải có những gia đình hồ thuận. Muốn có gia đình hồ
thuận thì địi hỏi mỗi người phải biết giữ gìn và tuân theo Lễ. Bởi vì chỉ có Lễ con
người mới trở thành con người xã hội. Nho giáo cũng khẳng định, nếu xây dựng gia
đình hồ thuận thì đó cũng là làm chính trị rồi. Bởi nước cũng chỉ là một cái nhà to. Các
căn nhà nhỏ-gia đình mà hồ thuận thì căn nhà to cũng sẽ hồ thuận. Vì thế làm chính
trị khơng cứ phải ra làm quan.
Ở các nước Phương Tây, những năm gần đây xuất hiện nhiều dạng gia đình biến
thái, khiến định nghĩa về gia đình đều trở nên bất cập. Chẳng hạn, theo tác giả Jame
W.Vander Zanden “Một cuộc thăm dò mới đây cho biết 45% người Mỹ ngày nay cho
rằng một đôi không cần kết hôn mà cùng chung sống với nhau thì được coi là một gia
đình đích thực. 33% coi các đơi cùng giới tính có ni con cái là gia đình”. Đây có thể
là sự mở rộng thái quá trong quan niệm gia đình (1).
Khi nói về gia đình, Các Mác nêu: “… Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân
mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sơi nảy nở. Đó là quan hệ giữa
chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”(2).
Theo Ph.Angghen: Sự xuất hiện và hình thành, phát triển gia đình là do yêu cầu
của con người sáng tạo ra những hạt nhân con người, duy trì nịi giống, làm giàu sức lao
động của xã hội, cụ thể là do cái ăn, mặc, ở và nhu cầu tái sản sinh để duy trì giống nịi.
Như vậy, yếu tố chính trong gia đình là con người. Con người cùng với sự hợp tác tự
nhiên, đơn giản đầu tiên nhằm duy trì cuộc sống của chính họ đã tạo ra gia đình.
Ở việt Nam, những năm gần đây có nhiều nhà nghiên cứu về gia đình nhất là gia
đình hiện đại có đưa ra khái niệm về gia đình. Theo tác giả Lê Thi: “Khái niệm gia đình
được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở hơn nhân và huyết
thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân, đó là cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ơng bà, họ
hàng nội ngoại). Gia đình có thể bao gồm một số người gia đình ni dưỡng, tuy khơng
có quan hệ huyết thống, các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm
và quyền lực (kinh tế, văn hố, tình cảm), giữa họ có những ràng buộc về pháp lý được
nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong Luật hơn nhân và gia đình ở nước ta).
Đồng thời trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm
đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên”. (Gia đình Việt nam ngày nay NXB
khoa học xã hội 1996)
Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam cũng khẳng định: “Gia đình là tập hợp những
người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi
dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định”. Mặc
dù có nhiều cách quan niệm khác nhau như vậy, thi hiểu về gia đình đều có những điểm
chung nhất: “Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một
thiết chế kinh tế văn hố- xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ
sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục… giữa
các thành viên”.
(1)
(2)
Xem Lê Thi “Gia đình Việt Nam hiện nay”. NXB KH XÃ Hội 2002
C.Mac va Ph. Ăngghen. Tuyển tập. Tập 6. NXB Sự thật Hà Nội 1984. Tr26
3
Như vậy, gia đình khác với tất cả các cộng đồng xã hội khác, nó khơng chỉ là nhóm
Tâm lý - Tình cảm, mà cịn là một đơn vị xã hội cơ sở và là một cơ cấu -Thiết chế xã
hội, có cơ chế và cách thức vận động riêng.
II. ĐẶC TRƯNG VÀ CÁC QUAN HỆ CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH
1. Hơn nhân và quan hệ hơn nhân
Hơn nhân và quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng (quan hệ theo chiều
ngang). Hôn nhân là tiền đề, là quan hệ nền tảng trên đó thiết kế đời sống gia đình. Hơn
nhân cịn là một hình thức quan hệ tính giao nhằm thoả mãn các nhu cầu tâm, sinh lý và
tình cảm giữa nam và nữ (giữa chồng và vợ).
Vai trị của hơn nhân trong xã hội quy đến cùng là để tái sản xuất ra các chủ thể xã
hội là con người, bên cạnh tái sản xuất ra của cải vật chất. Quan hệ này được xã hội
thừa nhận dưới nhiều hình thức, với những mức độ, trình độ khác nhau. Trong chế độ tư
hữu, sự thừa nhận đó được thực hiện về mặt pháp lý (Pháp luật công nhận) bên cạnh sự
công nhận của cộng đồng.
Hôn nhân là hình thức quan hệ tình cảm tính giao giữa con người với con người,
nên ngay từ đầu, hôn nhân mang bản chất người, nhân văn, nhân đạo. Sự phù hợp về
tâm lý-sinh lý sức khoẻ và nhất là trạng thái tình cảm là cơ sở trực tiếp của hôn nhân.
Tuy nhiên, giống như mọi quan hệ xã hội khác, hôn nhân luôn chịu sự chi phối của các
quan hệ kinh tế và bản chất chế độ xã hội mà trên đó nó được hình thành và phát triển.
Trong lịch sử, hình thức hơn nhân của các gia đình có 2 hình thức cơ bản từ thấp
đến cao. Theo Ph.Angghen “Gia đình là một yếu tố năng động, nó khơng bao giờ đứng
ngun một chỗ, mà chuyển từ hình thức thấp lên một hình thức cao” (1). Như vậy về đại
thể, lịch sử đã trải qua 2 hình thức tương ứng với 2 giai đoạn phát triển chính của nhân
loại. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, trình độ sản xuất cịn thấp kém, cá nhân khơng
tách rời cộng đồng, cuộc sống quần tụ cộng đồng về nhiều mặt đã tạo nên hình thức gia
đình tập thể quần hơn với hình thức đặc trưng như hơn phối tập thể, kinh tế cộng đồng,
chế độ mẫu hệ, khơng có sự phân chia đẳng cấp, mọi thành viên được bình đẳng…
Bước sang xã hội chiếm hữu nô lệ, trong xã hội hình thành chế độ tư hữu, lúc này xã hội
phát sinh hình thức gia đình cá thể - hơn nhân một vợ một chồng. Gia đình cá thể là
“hình thức gia đình đầu tiên khơng dựa trên những điều kiện tự nhiên mà dựa trên
những điều kiện kinh tế, tức là trên thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công
cộng nguyên thuỷ và tự phát”(2). Như vậy, lần đầu tiên gia đình trở thành một đơn vị
kinh tế riêng lẻ, kết cấu và quy mô thu hẹp hơn, quan hệ vợ chồng, cha mẹ, con cái…
mang tính phục tùng và bất bình đẳng, sau này được bổ sung bằng nạn ngoại tình và tệ
mãi dâm phát triển.
Xen giữa giai đoạn quần hơn cịn tồn tại hình thức hôn nhân cặp đôi, giữa giai đoạn
hôn nhân cặp đơi và hơn nhân một vợ một chồng là hình thức hôn nhân dựa vào sự
thống trị của người đàn ông với phụ nữ, đó là chế độ đa thê (nhiều vợ).
(1)
(2)
C.Mác Ph Anghen. Tuyển tập. Tập 6. NXB Sự Thật. Tr75
C.Mac va Ph. Ăngghen. Tuyển tập. Tập 6. NXB Sự thật Hà Nội 1984. Tr32
4
2. Huyết thống và quan hệ huyết thống
Huyết thống và quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con cái (quan hệ
theo chiều dọc). Do nhu cầu hết sức tự nhiên, cần duy trì và phát triển nịi giống, con
người đã sáng tạo ra gia đình với tư cách là một thiết chế xã hội đặc thù. Cùng với quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống được coi là quan hệ cơ bản nhất của gia đình. Bởi vì,
hơn nhân có thể dễ bị thay đổi, hoặc được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau,
nhưng huyết thống thường là quan hệ gắn kết mật thiết giữa các thành viên trong một
cộng đồng xã hội đặc thù là gia đình. Tuy nhiên, quan hệ này cũng bị chi phối bởi
những điều kiện kinh tế, văn hố, chính trị của xã hội. Chẳng hạn, trong chế độ cộng sản
nguyên thuỷ, huyết thống về đằng mẹ được coi là một chuẩn mực để tính quan hệ thân
tộc gần xa. Khi ấy, gia đình được xây dựng trên cơ sở huyết thống mẫu hệ (gia đình
mẫu hệ). Trong hình thức quần hôn, người ta không biết chắc chắn ai là cha của đứa trẻ,
nhưng lại biết rất rõ ai là mẹ của nó. Vì thế, người mẹ gọi tất cả các con là con vì có bổn
phận làm mẹ đối với chúng nhưng vẫn có thể phân biệt trong số bọn trẻ đó, ai là con đẻ
của mình. Khi chế độ tư hữu xuất hiện thì đồng thời xuất hiện gia đình huyết thống phụ
hệ (Gia đình phụ hệ). Như vậy, sự bất bình đẳng trong quan hệ nam nữ dù là mức độ
thấp, hay cao cũng gắn liền với sự tồn tại của chế độ tư hữu.
3. Quan hệ quần tụ trong cùng một không gian sinh tồn
Trong lịch sử, xuất phát từ yêu cầu của quan hệ giữa con người với nhau, giữa con
người và tự nhiên, cộng đồng gia đình đã ln cư trú, quần tụ trong một không gian cụ
thể: đơn giản là hốc cây, hang đá, đến lều lán… và sau này là một mái nhà, không gian
sinh tồn ấy ngày càng mở rộng và chịu sự chi phối của các quan hệ kinh tế - xã hội.
Ngày nay, nhờ sự phát triển của kinh tế, khoa học kỹ thuật… không gian sinh tồn ấy của
gia đình ngày càng được mở rộng bởi tiện nghi, chất liệu… khái niệm khơng gian sinh
tồn của gia đình khơng cịn ngun nữa, nhưng nhu cầu quần tụ, củng cố các quan hệ
trong gia đình vẫn ln đặt ra như là một tất yếu.
Một trong những yếu tố cơ bản tạo nên độ bền vững của hạnh phúc gia đình là sự
hồ hợp tình cảm giữa các thành viên trong gia đình. Hồ thuận giữa các thành viên bao
gồm vợ, chồng, ơng bà, con cháu, thậm chí cả cơ dì, chú bác. Sự hồ thuận gia dình
chính là sự quan tâm, tôn trọng lẫn nhau, cùng biết chia sẻ những vui, buồn, yêu thương,
lo lắng cho nhau khi gặp bất trắc, khi xa gia đình, thậm chí hi sinh vì sự tiến bộ của
nhau. Vì vậy, gắn bó, quần tụ trong khơng gian gia đình trở thành yếu tố khơng thể
thiếu trong cuộc đời của con người.
đình
4. Quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên và các thế hệ thành viên trong gia
- Nuôi dưỡng là một nghĩa vụ, trách nhiệm đồng thời còn là một quyền lợi thiêng
liêng, là niềm hạnh phúc của các thành viên trong gia đình. Ni dưỡng khơng đơn
thuần chỉ là cha mẹ, ơng bà nuôi dưỡng con cháu, mà là một hoạt động có nghĩa vụ
chăm sóc, ni dưỡng của các con cháu đối với bố mẹ, ông bà, giữa các thành viên khoẻ
mạnh đối với các thành viên gặp khó khăn, rủi ro về sức khoẻ, đời sống. Ni dưỡng
của gia đình có những đặc thù mà cho dù xã hội hiện đại đến đâu cũng không thể thay
thế được. Bởi trong thực tế, sinh thành - nuôi dưỡng - dạy dỗ là những hoạt động không
5
tách rời trong gia đình. Quan hệ ni dưỡng - giáo dục trong gia đình góp phần quan
trọng xây dựng con người, phát triển nhân cách, lưu giữ và sáng tạo văn hố gia đình và
cộng đồng.
III. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
1. Vị trí của gia đình
- Trong xã hội, mỗi đơn vị, cộng đồng xã hội đều có một vị trí nhất định. Với tư
cách là tế bào xã hội, gia đình có vai trị rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển xã
hội. Ph.Angghen đã chỉ rõ “Theo quan điểm duy vật, thì nhân tố quyết định trong lịch
sử, quy cho cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng sản xuất đó,
bản thân nó lại có 2 loại: Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, ra thức ăn, quần áo và
nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất
ra bản thân con người, là sự truyền tục nòi giống. Những thiết chế xã hội, trong đó con
người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai
loại sản xuất đó quyết định. Một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là
do trình độ phát triển của gia đình”(1). Như vậy, có thể thấy, trong các chế độ xã hội khác
nhau, vị trí của gia đình có những biểu hiện khác nhau. Thời đại hiện nay, vấn đề gia đình
là một vấn đề quan trọng được cả thế giới quan tâm. Gia đình như là một yếu tố để ổn định
và phát triển xã hội. Các quốc gia đều có những chính sách xã hội trong đó có chính sách
gia đình bởi vì chỉ có thể phát triển kinh tế đi đôi với phát triển xã hội. Xã hội muốn có ổn
định phát triển phải nói tới gia đình.
Ở Việt nam, từ xưa đến nay gia đình ln có một vị trí hết sức quan trọng trong
q trình dựng nước và giữ nước. Gia đình là nơi tiếp nhận, kế thừa và chuyển giao
những truyền thống tốt đẹp, những giá trị văn hoá của dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Những biến đổi về cơ cấu và các chức năng của gia đình ln gắn liền với những
biến đổi về kinh tế và xã hội. Đối với mỗi con người Việt Nam, gia đình ln được coi
là tổ ấm, là nơi hình thành và ni dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, tạo nên nhân cách
Việt nam. Theo ngôn ngữ Tiếng Việt, từ “Nước” và từ “Nhà” đựơc kết hợp với nhau để
chỉ khái niệm về Tổ quốc, Nhà nước. Từ góc độ phát triển có thể thấy rất rõ gia đình là
nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam thông qua việc thực hiện
các chức năng tái sản xuất ra con người, tái sản xuất ra sức lao động, ra của cải vật chất,
của cải tinh thần. Đồng thời gia đình cũng là đơn vị tiêu dùng với những yêu cầu ngày
càng phong phú, đa dạng đã thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự ổn định và phát triển của
gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của xã hội và quốc
gia. Mối liên hệ biện chứng đó được thể hiện rất tõ qua câu nói “Dân giàu, nước mạnh”,
“Trong ấm, ngoài êm” hoặc “Nước mất, nhà tan”. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng nói “Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, hạt nhân của xã hội là gia đình” (Hồ Chí Minh
tồn tập. 1958-1959)(2). Nhiều văn kiện của Đảng khẳng định: “Gia đình là tế bào xã hội
có vai trị to lớn trong q trình phát triển kinh tế, ổn định xã hội và xây dựng con người
mới” (Hội nghị Trung ương 4;5). Như vậy, gia đình có một vị trí hết sức quan trọng
trong xã hội Việt Nam và ln gắn liền với q trình phát triển của dân tộc Việt Nam.
(1)
(2)
C.Mác Ph Anghen. Tuyển tập. Tập 6. NXB Sự Thật. Tr54
Sách đã dẫn
6
- Vị trí của gia đình cịn được thể hiện trong mối quan hệ giữa gia đình và xã hội:
Khi nói gia đình là tế bào xã hội, là hình thức cộng đồng đầu tiên của xã hội, điều
này chỉ ra rằng, gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết trong sự tác động biện
chứng với nhau, giống như sự tương tác hữu cơ của quá trình trao đổi chất của một cơ
thể sống hoàn chỉnh(1). Mỗi một xã hội trong quá trình vận động và biến đổi đều xuất
phát từ trên cơ sở của một phương thức sản xuất nhất định và có vai trị quy định đối với
gia đình. Nhưng xã hội đó chỉ tồn tại thơng qua các hình thức gia đình, kết cấu và quy
mơ gia đình. Mỗi gia đình hạnh phúc thì cả cộng đồng xã hội vận động trở nên dễ dàng
hơn. Mục đích chung của sự vận động biến đổi xã hội trước hết là vì lợi ích của mỗi
cơng dân và thành viên của xã hội trong đó gia đình là nơi quần tụ của cơng dân và các
thành viên đó. Lợi ích của mỗi cơng dân, mỗi thành viên của xã hội lại chịu sự chi phối
của các lợi ích mà giai cấp thống trị xã hội quy định.
Trong tiến trình lịch sử đã cho thấy, bản chất xã hội của gia đình là do các quan hệ
kinh tế - xã hội thống trị quyết định. Các điều kiện kinh tế - xã hội trong một giai đoạn
lịch sử nhất định của sự phát triển là nhân tố quyết định tính chất và kết cấu gia đình.
Trải qua các thời kỳ lịch sử từ chế độ Cộng sản nguyên thuỷ và hình thức gia đình tập
thể - quần hôn huyết thống đến giai đoạn chuyển tiếp của chế độ thị tộc, xuất hiện gia
đình cặp đơi - Pualuan, bước sang chế độ chiếm hữu nơ lệ, hình thành gia đình cá thể:
Những nhu cầu mới xuất hiện mà hơn nhân khơng chỉ vì mục đích kinh tế và kế thừa một kiểu gia đình mới chỉ có thể hình thành đầy đủ và phổ biến trong điều kiện mới của
một xã hội có tự do, bình đẳng thực sự .
Như vậy, từ khi xuất hiện với tư cách là tế bào xã hội, gia đình là tổ chức cơ sở, là
cơ cấu và thiết chế xã hội đặc thù nhỏ nhất. Trong quá trình vận động, gia đình vừa tuân
thủ những quy luật và cơ chế chung của xã hội, vừa theo những quy luật và cơ chế riêng
của mình. Do đó, gia đình phản ánh những mặt bản chất của xã hội, nhưng vẫn mang
tính độc lập tương đối.
Khi nói về mối quan hệ giữa gia đình và xã hội. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ “Trình độ
phát triển của lao động (bao gồm công cụ sản xuất, kỹ thuật lao động) và trình độ phát
triển của gia đình (tính chất và hình thức tổ chức của gia đình) là hai yếu tố quyết định
đối với mọi trật tự xã hội. Tuy nhiên trong mối quan hệ ấy, trình độ phát triển về mọi
mặt của xã hội quyết định hình thức tính chất, kết cấu, quy mơ của gia đình”(2). Các Mác
cũng chỉ rõ: “Tơn giáo, gia đình, nhà nước pháp luật, đạo đức, khoa học, nghệ thuật…
chỉ là những hình thức đặc thù của sản xuất và phục tùng quy luật chung của sản
xuất”(3). Như vậy, tất cả những bước tiến của gia đình trong tiến trình lịch sử đều phụ
thuộc chủ yếu và trước hết vào những bước tiến trong sản xuất, trong trình độ phát triển
kinh tế của mỗi giai đoạn, mỗi thời đại lịch sử.
- Gia đình là một thiết chế cơ sở đặc thù của xã hội, là cầu nối giữa các thành viên
gia đình với xã hội. Trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình được coi là một
thiết chế cơ sở đầu tiên nhỏ nhất. Mọi sự vận động biến đổi của thiết chế đều tuân theo
(1)
Hồ Chí Minh . Tồn tập. Tập 9. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nôi 1996
Sách đã dẫn
(3)
Sách đã dẫn
(2)
7
những quy luật chung của cả hệ thống xã hội. Trong mỗi gia đình, các hoạt động, tổ
chức đời sống hoạt động của các thành viên đều chịu sự tác động và “phản ứng” lại đối
với từng tác động của xã hội. Qua đó, ý thức cộng đồng của mỗi cá nhân được nâng cao
và sự gắn bó của gia đình -xã hội mang tính thiết thực. Xét ở góc độ văn hố, đạo đức,
gia đình cịn là nơi thể hiện tập trung nhất các hệ thống giá trị văn hố, đạo đức của đời
sống. Gia đình là một thiết chế xã hội, là nhóm xã hội có đời sống tâm lý, xã hội đặc
thù, thể hiện mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình một cách thường xuyên,
sâu sắc, rộng lớn, có hệ thống, liên tục đối với nhân cách mỗi người. Sự gắn bó cảm
thơng, che chở cho nhau vì lợi ích chung, khơng vụ lợi với tinh thần trách nhiệm đối với
nhau. Từ trong đời sống gia đình, mỗi thành viên sẽ hình thành lương tâm, ý thức, nghĩa
vụ, trách nhiệm, xây dựng tổ chức cuộc sống, tin vào các giá trị đạo đức cao thượng để
có bản lĩnh hồ nhập vào cuộc sống cộng đồng xã hội. Sự đồng thuận hay không đồng
thuận từ những tác động xã hội, nhà nước, dư luận… với hình thức tổ chức gia đình sẽ
đem lại kết quả tốt hay xấu của mỗi chế độ xã hội, mỗi thời đại.
- Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong đời sống cá
nhân của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Từ thuở ấu thơ cho đến lúc chết đi,
mỗi thành viên đều được ni dưỡng, chăm sóc để trở thành công dân xã hội. Mọi lao
động, cống hiến, hưởng thụ, đóng góp cho xã hội trước hết và chủ yếu là thơng qua gia
đình. Cho dù đời sống có nhiều biến đổi gì chăng nữa, mọi thành viên đều mong muốn
đượcnương tựa vào nhau dưới mái ấm gia đình, họ phải lao động, chống đỡ để gia cố
gia đình, phát triển gia đình vì hạnh phúc chung. Sự yên ổn, hạnh phúc mỗi gia đình là
tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách. Trong các nước
Phương Đơng, theo truyền thống, gia đình là trụ cột, các quan hệ giữa mọi thành viên
trong gia đình là quan hệ khn mẫu chuẩn mực cho tất cả các dạng quan hệ khác. Vì
thế, về cơ bản hệ thống giá trị trong mỗi gia đình hướng tới là: Coi trọng con người, xác
định gia đình là hạt nhân xã hội, cân bằng lợi ích giữa cá nhân-gia đình, tiết kiệm, chăm
chỉ cần cù lao động, mơi trường đạo đức lành mạnh, hợp tác với nhà nước vì lợi ích
quốc gia…
Bên cạnh những giá trị gia đình truyền thống định chế bền vững của gia đình là:
Tình yêu- Hơn nhân hạnh phúc. Trong đó, tình u là cốt lõi, là yếu tố gắn các hình mẫu
tác phong, văn hố đạo đức đảm bảo gia đình giữ được sự êm ấm góp phần thúc đẩy xã
hội phát triển. Ở góc độ này, khơng ai, dù có vị thế, vai trò quan trọng như thế nào trong
xã hội nào, vẫn khơng thể xem là người hạnh phúc nếu khơng có đời sống gia đình êm
ấm, ổn định.
Nếu xem văn hố là toàn bộ các giá trị vật chất, tinh thần do lao động của con
người sáng tạo ra, nhằm thoả mãn các nhu cầu tồn tại và phát triển cho cá nhân và cộng
đồng xã hội. Thì gia đình là mơi trường văn hố sớm nhất, gần nhất đối với mỗi thành
viên, là nơi hợp pháp để nam nữ thể hiện quyền, bổn phận, trách nhiệm và nghĩa vụ của
quan hệ vợ chồng, đặc biệt là sinh hoạt tình dục. Cuộc sống tình dục hài hồ của vợ
chồng khơng chỉ duy trì tình cảm mà cịn bảo tồn giống nịi, tái sản xuất ra con người.
Gia đình cũng lưu giữ, bảo tồn, thậm chí cịn sản xuất ra các sản phẩm văn hoá cần
thiết cho sự tồn tại và phát triển cho mỗi cá nhân cộng đồng xã hội. Có thể nói, các sản
phẩm văn hố vật chất như : Các loại lương thực, thực phẩm, các phương tiện tránh
8
nắng, mưa, rét : nhà cửa, quần áo,...; Các sản phẩm văn hố tinh thần như ngơn ngữ
(tiếng mẹ đẻ), vốn sống, kinh nghiệm xã hội trong giao tiếp ứng xử, trong tổ chức cuộc
sống tinh thần cho các thành viên trong gia đình... có thể gọi chung là văn hố gia đình.
- Trẻ em được sinh ra, lớn lên, hoạt động tích cực trong nền văn hố gia đình.
Cha, mẹ và những người thân trong gia đình đáp ứng kịp thời các nhu cầu vật chất, tinh
thần cho trẻ em bằng các sản phẩm văn hoá xã hội thiết yếu có trong gia đình để cho trẻ
tồn tại và phát triển. Chẳng hạn như: Nhu cầu dinh dưỡng, nhu cầu cảm xúc, biểu cảm,
nhu cầu nhận thức, nhu cầu vận động, Nhu cầu gắn bó, giao tiếp
Ngồi cái riêng của văn hố gia đình nêu trên, thì cái chung của văn hoá cộng đồng
xã hội cũng đựơc thực hiện như ngôn ngữ xã hội ( thường gọi là tiếng mẹ đẻ), phong
tục tập quán, đạo đức, pháp luật, các quan điểm nhận thức về thế giới, con người, tự
nhiên, xã hội, tơn giáo...Như vậy, văn hố gia đình chính là sản phẩm văn hố xã hội, nó
vừa mang tính chất chung của cộng đồng xã hội, vừa mang tính chất riêng khác biệt cho
từng gia đình. “ Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” là vậy.
Đứa trẻ vừa lọt lịng đã đựơc ni dưỡng trong mơi trường văn hố gia đình xác
định. Mẹ và những người thân trong gia đình chăm sóc trẻ bằng các phương thức mà xã
hội trang bị cho họ, thoả mãn các nhu cầu cơ bản cho trẻ, bằng cách sử dụng các sản
phẩm của nền văn hố xã hội (sữa, tã lót, khăn, nước ấm, thuốc men...). Đứa trẻ tồn tại
và phát triển bởi chính các sản phẩm của nền văn hóa xã hội mà gia đình đang sử dụng.
Từng phản ứng, hành vi đón nhận, phản ánh các sản phẩm văn hố xã hội đều được các
thành viên trong gia đình hướng dẫn (chăm sóc) theo phương thức xã hội đương thời,
phù hợp với phong tục tập quán truyền thống... và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí trẻ.
Tóm lại, văn hố gia đình là mơi trường văn hố xã hội gần nhất, sớm nhất đối với
đứa trẻ. Do vậy, có thể nói cơ thể của trẻ tăng trưởng hằng ngày là nhờ các sản phẩm
văn hoá vật chất của gia đình, từ gia đình (sữa mẹ, sữa bị, cháo, bột, cơm...và các
dưỡng chất). Đứa trẻ phát triển tâm sinh lí một cách thuận lợi là nhờ tác động âm thanh
(ngôn ngữ, âm nhạc... nhẹ nhàng), ánh sáng (ánh đèn, ánh sáng tự nhiên êm dịu...), trẻ
được nằm trong vòng tay ấm áp, tràn ngập những cảm xúc yêu thương... từ mẹ và
những người thân gần gũi trẻ. đây là những sản phẩm văn hoá tinh thần (phi vật thể)...
đứa trẻ tăng trưởng và phát triển nhờ có sản phẩm văn hố xã hội do gia đình cung cấp.
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” đã được Đảng ta
khẳng định “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời
người, là môi trường giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” . Có thể nói, sự no
ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc của gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự
hình thành phát triển nhân cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt động lao động xã hội.
2. Chức năng của gia đình
Gia đình có nhiều chức năng, tuỳ vào cách tiếp cận khác nhau về gia đình cho thấy
ở mỗi hình thức gia đình xuất hiện các hệ chức năng khác nhau. Mặt khác, cũng phải
thấy rằng, các chức năng của gia đình khơng cố định mà ln biến đổi cùng với sự vận
động và phát triển của lịch sử xã hội. Mặc dù vậy, khi đề cập tới gia đình thường được
chú ý một số chức năng tương đối phổ biến sau:
9
Một là, chức năng sinh đẻ - Tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng đặc thù của gia đình. Chức năng này đáp ứng nhu cầu tình cảm
riêng rất tự nhiên của cá nhân về sinh con đẻ cái, đồng thời mang ý nghĩa chung lớn lao
là cung cấp những công dân mới, đảm bảo sự phát triển liên tục và trường tồn của loài
người. Việc sinh đẻ diễn ra ở từng gia đình nhưng lại quyết định mật độ dân cư của mỗi
quốc gia và quốc tế- một yếu tố vật chất cấu thành của tồn tại xã hội. Tuỳ theo từng giai
đoạn phát triển của dân tộc hay quốc gia, vấn đề sinh đẻ được khuyến khích hay hạn chế
về số lượng. Nhưng hiện nay vấn đề giảm tốc độ tăng dân số nhằm nâng cao chất lượng
sống là xu thế của các quốc gia trên thế giới. Dưới sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, ngày nay chức năng sinh đẻ của gia đình cũng có những thay
đổi nhất định. Bên cạnh các mặt tích cực, thì sự tác động và can thiệp ngày càng sâu của
khoa học đã và đang gây ra những tranh cãi không chỉ về mặt đạo đức mà ngay cả trong
lĩnh vực khoa học.
- Bản năng sinh lí của lồi người đã thúc đẩy quan hệ tính giao giữa người đàn ơng
và đàn bà thơng qua hình thức hơn nhân để sinh đẻ con cái, truyền sinh sự sống duy trì
lồi người. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng (thiên chức) của các bậc cha mẹ được “tạo hoá”
trao cho quy luật sáng tạo cuộc sống, bảo đảm sự trường tồn của nịi giống.
+ Xét về góc độ xã hội, quốc gia muốn hùng mạnh, phát triển thì tất yếu phải tái
sản xuất ra sức lao động xã hội. Nói đến tái sản xuất ra bản thân con người nghĩa là sinh
sản để thay thế những thế hệ đã mất đi do già lão, bệnh tật, tai nạn bất thường v.v...
đồng thời thế hệ đựơc sinh sản sau phải là sức lao động có trình độ, năng lực hơn những
thế hệ trước để góp phần sáng tạo ra một xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ hơn.
+ Nếu khơng có chức năng sinh sản tái sản xuất ra sức lao động ngày một hoàn hảo
hơn của gia đình thì xã hội khơng những khơng thể tiến liên phía trước mà cũng khơng
thể đứng n được tại chỗ mà chỉ thụt lùi đi đến chỗ tiêu vong.
- Sinh đẻ, tái sản xuất ra sức lao động được coi là nghĩa vụ thiêng liêng của gia
đình đối với sự tồn vong của xã hội. Do đó, nam nữ xây dựng gia đình trên cơ sở hơn
nhân tự nguyện, tiến bộ và những con cái của họ sinh ra đều được pháp luật, xã hội
công nhận và bảo trợ.
- Trước đây, do trình độ nhận thức, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật còn thấp
kém, con người chưa có ý thức đầy đủ và chưa có khả năng kiểm soát điều tiết việc sinh
sản để bảo vệ sức khoẻ cho bà mẹ, chất lượng đời sống cho trẻ em. Việc sinh sản theo
quan niệm “Trời sinh voi, sinh cỏ” đã dẫn đến tình trạng nhiều gia đình quá đơng con
nên nghèo đói, bệnh tật, trẻ nheo nhóc, thiếu dinh dưỡng, khơng được học hành, tuổi thọ
trung bình thấp.v.v...
- Hiện nay chức năng sinh sản gia đình liên quan mật thiết với nguy cơ bùng nổ
dân số, nguy cơ ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên v.v... Vì vậy chức năng sinh
đẻ, tái sản xuất ra sức lao động phải:
+ Đảm bảo số lượng và chất lượng cuộc sống của đứa trẻ, của các thành viên trong
gia đình là vấn đề nhân bản, khẩn cấp, có tính tồn cầu.
10
+ Riêng ở Việt Nam chúng ta đang đặt ra trách nhiệm cho mỗi cặp vợ chồng chỉ
sinh đẻ 1 hoặc 2 con nhằm thực hiện triệt để chương trình DS-KHHGĐ.
Trong gia đình hiện đại, việc coi trọng chức năng sinh đẻ của gia đình là phải trực
tiếp quan tâm đến điều kiện vật chất và tinh thần thuận lợi, sử dụng hợp lý các thành tựu
khoa học công nghệ cho việc mang thai và sinh nở tốt hơn cho các bà mẹ. Chiến lược về
dân số hợp lý sẽ trực tiếp tạo ra một cách có kế hoạch nguồn nhân lực mới phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, là mục tiêu, động lực quan trọng nhất của phát triển
kinh tế-văn hố-xã hội. Mục đích của việc sinh đẻ có kế hoạch là nhằm mục tiêu thực
hiện tái sản xuất con người phù hợp và hài hoà với những điều kiện đảm bảo cụ thể, để
lớp người mới ra đời có khả năng phát triển cả về trí tuệ, thể chất đem lại niềm hạnh
phúc cho gia đình và nguồn lực cho xã hội.
Hai là, chức năng kinh tế.
Đây là một trong những chức năng cơ bản, hơn nữa, còn là cơ sở để thực hiện tốt
các chức năng khác của gia đình. Nội dung kinh tế chủ yếu của gia đình là tạo nguồn
thu nhập và những điều kiện vật chất để tổ chức đời sống gia đình. Sản xuất vật chất
quyết định sự sống, là cơ sở để tái sản xuất ra con người. Ngược lại, tái sản xuất ra con
người là tiền đề của sản xuất vật chất.
Từ Đại hội VI của Đảng (1986) ta đã xác định hộ gia đình là “một đơn vị kinh tế”.
Qua hơn 25 năm đổi mới, gia đình Việt Nam đã chyển từ đơn vị kinh tế tự nhiên sản xuất
đơn lẻ, tự chịu trách nhiệm sản xuất, kinh doanh, tự lo tổ chức thu nhập, tiêu dùng... thành
những hộ gia đình đa dạng về ngành nghề và thu nhập. Kinh tế hộ gia đình đã trở thành
một thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và đóng vai trị chủ đạo
trong việc giải quyết việc làm, xố đói giảm nghèo. Thơng qua chức năng kinh tế nhằm
thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần cho các thành viên, gia đình đã đóng
góp vào việc tái sản xuất ra của cải vật chất, của cải tinh thần cho xã hội.
Chức năng kinh tế của gia đình cịn tạo ra sự ràng buộc và gắn bó giữa các thành
viên trên cơ sở lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất chung. Sự chia sẻ lợi ích và q trình tạo
dựng, tích luỹ, kế thừa tài sản cũng như phương thức của các thành viên tạo ra của cải
vật chất qua sự đóng góp của các thành viên là những phương diện phản ánh đặc điểm
chức năng kinh tế của gia đình. Tuy nhiên, hiện nay cùng với quá trình lực lượng sản
xuất xã hội hoá đã làm biến đổi kinh tế gia đình. Hoạt động kinh tế hộ gia đình có
những mức độ hình thức khác nhau nhưng nó đều góp phần quan trọng trong sự phát
triển kinh tế xã hội với tư cách là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân. Nó
đáp ứng việc tổ chức sản xuất tăng thu nhập, làm giàu chính đáng tạo điều kiện vật chất
thúc đẩy các chức năng khác của gia đình, góp phần thúc đẩy phát triển gia đình và xã
hội.
Ba là, chức năng tiêu dùng.
Chức năng này được thể hiện thường xuyên trong các hoạt động của gia đình. Việc
tiêu dùng hướng vào các mục tiêu mua sắm các sản phẩm phục vụ đời sống vật chất và
tinh thần của gia đình. Thơng qua chức năng này, tiêu dùng gia đình là để trước hết tái
tạo thể chất và tinh thần cho các thành viên, sau là góp phần định hình và kích thích sản
xuất xã hội. Thường chức năng tiêu dùng phụ thuộc vào thu nhập và đóng góp chung từ
11
kết quả lao động của các thành viên trong hoạt động kinh tế gia đình hoặc xã hội. Xã hội
càng phát triển thì càng thúc đẩy việc mở rộng chức năng tiêu dùng của gia đình. Thực
tế cho thấy, việc tiêu dùng các giá trị của cải vật chất, tinh thần của con người ngày
càng nhiều hơn và đa dạng bằng hệ thống dịch vụ và phúc lợi xã hội. Nhưng tuyệt nhiên
khơng thay thế hồn tồn chức năng tiêu dùng của gia đình. Tổ chức tiêu dùng cho đời
sống vật chất và tinh thần của gia đình sẽ đi vào chiều sâu đáp ứng nhu cầu phong phú,
duy trì sắc thái và sở thích hoạt động riêng của từng gia đình và mỗi thành viên. Đây
cũng là điều kiện góp phần giải phóng phụ nữ thực hiện bình đẳng giới xây dựng gia
đình hạnh phúc. Ngày nay, sự phát triển kinh tế-xã hội đi đơi với thực hiện bình đẳng xã
hội tạo thuận lợi cho các gia đình nghỉ ngơi, hưởng thụ hợp lý và chính đáng các thành
quả lao động của mình. Động viên các gia đình nâng cao thu nhập, làm giàu chính đáng
trên cơ sở đó tiêu dùng lành mạnh, nâng cao kiến thức khoa học, hiểu biết xã hội, cải
thiện nâng cao chất lượng cuộc sống của gia đình và mọi thành viên.
Cơ chế thị trường khuyến khích các gia đình giành quyền chủ động, sáng tạo trong
sản xuất kinh doanh, khơi dạy khát vọng làm giàu của các thành viên. Tuy nhiên, nó
cũng đẩy nhanh phần tầng xã hội, phân hoá giàu, nghèo và tạo ra sự mất cân bằng giữa
các chức năng khác của gia đình.
Bốn là, chức năng giáo dục.
Giáo dục con cái, chăm lo việc học hành và phát triển lành mạnh cả về thể chất lẫn
tinh thần của các thành viên trong gia đình là chức năng xã hội quan trọng của gia đình.
Đây cũng là chức năng thường xuyên của gia đình. Giáo dục hay xã hội hố là một q
trình trong đó có thể tiếp thu, học hỏi văn hố của xã hội, nhờ đó trẻ có thể được sinh ra
một lần nữa, tức là quá trình lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội, học những gì cần phải làm
và những gì khơng nên làm như học tiếng nói, học các chuẩn mực đạo đức, ứng xử, văn
hố… để thích ứng với xã hội. Chức năng giáo dục và q trình xã hội hố là hai mặt
của sự phát triển tất yếu đối với con người. Xã hội hoá là yếu tố quyết định biến con
người sinh học thành con người xã hội. Cũng có nghĩa xã hội hoá là sự tiếp thu những
kinh nghiệm những chuẩn mực, giá trị, tri thức xã hội để hình thành nhân cách con
người giúp con người trở thành con người xã hội.
Nội dung giáo dục của gia đình chính là những yếu tố của vấn đề văn hố gia đình
và gia đình văn hố, nhằm tạo lập và phát triển nhân cách con người. Giáo dục gia đình
mang nội dung tồn bộ cả về giáo dục kinh nghiệm, tri thức và được thực hiện ở mọi
chu trình sống từ khi lọt lòng đến trưởng thành và khi về già. Trong chu trình giáo dục
ấy, có những nội dung, hình thức và phương thức cụ thể thích hợp với từng đối tượng,
lứa tuổi với mục tiêu thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.
Trong quá trình thực hiện chức năng giáo dục của gia đình, chủ thể chủ yếu vẫn
thuộc thế hệ ông bà, cha mẹ đối với con cháu. Trong đó vai trị của người bà, người mẹ
có vị trí quan trọng đặc biệt vì họ là những người trực tiếp, thường xuyên truyền thụ văn
hoá, nhân cách cho trẻ trong những năm đầu của cuộc sống. Sự hiểu biết của bà, mẹ là
nhân tố quyết định tình trạng sức khoẻ và sự phát triển cả về thể lực lẫn trí tuệ của trẻ.
Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song chủ yếu vẫn là phương pháp
nêu gương, thuyết phục, giảng giải chịu ảnh hưởng không ít của tư tưởng, lối sống, tâm
12
lý, gia phong của gia đình truyền thống. Như vậy, việc thực hiện chức năng giáo dục
của gia đình phụ thuộc khá lớn vào khả năng, trình độ, sự hiểu biết của người lớn trong
gia đình, kể cả quá trình tự giáo dục mặc dù giáo dục xã hội đóng vai trị ngày càng
quan trọng và có ý nghĩa quyết định. Giáo dục gia đình là một bộ phận để bổ sung, hoàn
thiện cho giáo dục nhà trường và xã hội. Việc kết hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục:
gia đình-nhà trường-xã hội là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện mục tiêu nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên giáo dục nhà
trường và giáo dục xã hội có phát triển lên trình độ nào chăng nữa thì giáo dục gia đình
vẫn được coi là thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung, là bộ phận quan trọng hợp
thành giáo dục nói chung phục vụ các lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị xã hội trong
bất cứ thời đại nào khi xã hội vẫn còn phân chia giai cấp. Quá trình thực hiện xã hội hoá
giáo dục cũng là để thực hiện tốt chức năng giáo dục của gia đình giúp mọi thành viên,
cơng dân tiếp thu giáo dục, giao lưu… trong hoạt động sống để học hỏi được cách sống
trong cộng đồng, trong đời sống xã hội và phát triển khả năng đảm nhận các vai trò xã hội
với tư cách là một thành viên của xã hội.
Năm là, chức năng cân bằng các nhu cầu tâm - sinh lý cho các thành viên trong
gia đình.
Đây là chức năng có thể coi là có tính văn hố-xã hội của gia đình và có vị trí đặc
biệt quan trọng để tạo ra khả năng thực tế cho việc xây dựng gia đình tiến bộ - hạnh
phúc. Nhiều vấn đề tâm lý-sinh lý thuộc giới, thế hệ… cần được bộc lộ và giải quyết
trong phạm vi gia đình, giữa những người thân trong hàng loạt các mối quan hệ của gia
đình. Hiểu biết tâm lý cá nhân, sở thích, thiên hướng, nguyện vọng.. để ứng xử phù hợp
chân thành và tế nhị, tạo bầu khơng khí tinh thần ổn định trong gia đình, giúp các thành
viên yên tâm sống và làm việc, những cảm giác an tồn, lạc quan và tích cực góp phần
củng cố quan hệ gia đình và xã hội.
- Từ xưa đến nay con người đã trải nghiệm và khẳng định gia đình là tổ ấm đối với
mọi cá nhân, dù theo nghĩa hẹp hay nghĩa rộng. Gia đình cũng là nơi mọi thành viên có
điều kiện quan tâm, chăm sóc đến nhau, tạo nên sự thoả mãn những nhu cầu vật chất và
tinh thần thiết yếu cho mỗi cá nhân. Họ có thể hi sinh, nhường nhịn cho nhau vì tình yêu
thương ruột thịt:
+ Như tình mẫu tử: “Chốn ướt mẹ nằm, ráo rê con lại”
+ Trong đạo vợ chồng:
“Vợ chồng là nghĩa già đời.
Ai ơi chớ nghĩ những điều thiệt hơn”
+ Tình anh em:
“Khơn ngoan đối đáp người ngồi
Gà cùng một mẹ chớ hồi đá nhau”
- Gia đình –nơi đây là không gian thuộc quyền sở hữu riêng của mọi thành viên
trong gia đình thường xuyên đem lại cho họ cảm giác an toàn, thoải mái.
+ Đối với mọi thành viên sau một ngày học tập, lao động mệt mỏi ở nhà trường, cơ
quan, xí nghiệp hay trên đồng ruộng, người ta sẽ được nghỉ ngơi, thư giãn bồi dưỡng lại
sức lực ở gia đình.
13
+ Tất cả những sự bất đồng, căng thẳng trong quan hệ ở nơi làm việc, ngoài xã hội
khi về dưới mái ấm gia đình, nhận được lời an ủi, động viên của người thân làm cho họ
bình tâm, yên tĩnh, dịu đi cơn bực dọc.
+ Những sở thích, nhu cầu cơ bản nhất như ăn, ở, mặc, nghỉ ngơi... đựơc thoả mãn
một cách triệt để nhất, riêng tư nhất cũng ở trong gia đình.
- Đồng thời, gia đình cịn là nơi đã ghi lại trong kí ức sâu thẳm những tình cảm
thiết tha, nồng nàn, thiêng liêng của đời người: qua cái ấm áp trong mùa đông lạnh giá,
cái mát mẻ giữa mùa hè oi bức, cái no đủ lúc mùa màng thất bát, cái tươi tắn, khoẻ
mạnh trải qua cơn bệnh tật, ốm đau mà gia đình đã chung lịng, chung sức chăm lo....
- “Tổ ấm gia đình” như một “bến đậu” từ đó ra đi xi ngược, rồi thuyền lại cập
bến, ru mình trên dịng sơng xanh mát, hoặc tránh cả những cơn bão tố phong ba. Về
với gia đình những kỉ niệm vui buồn, đồng cam cộng khổ, vui sướng...được gợi lên làm
cho tình cảm ruột thịt, quê hương thêm sâu sắc, cuộc đời con người thêm ý nghĩa.
Chính vì vậy, trong thực tiễn cuộc sống đã có biết bao nhiêu con người vì điều kiện
này hay điều kiện khác phải phưu cư, bạt quán, xa mái ấm gia đình hết gần cả cuộc đời,
nhưng khi có điều kiện vẫn bơn ba thực hiện nguyện ước về lại với gia đình – nơi quê
cha đất tổ, nơi chôn nhau, cắt rốn của tuổi ấu thơ.
Sự hiểu biết đáp ứng hợp lý những nhu cầu sinh lý giữa các thành viên, sự cảm
thơng, chia sẻ, lịng bao dung độ lượng và đáp ứng nhu cầu chính đáng như quan hệ vợ
chồng, cha mẹ, con cái; Anh chị - các em.. là những tiền đề cho mọi thái độ, hành vi
tích cực trong cuộc sống. Tơn trọng tính đa dạng, phong phú của cá nhân, sự bình đẳng
giới, giáo dục quan điểm tích cực lành mạnh phù hợp đạo đức, sức khoẻ, mục tiêu xây
dựng gia đình văn hố và văn hố gia đình… là nhiệm vụ vừa mang tính xã hội, vừa
mang tính nhân văn sâu sắc. Với tư cách là một thiết chế đa chức năng, gia đình tồn tại,
phát triển và có tác động tích cực đến xã hội phần lớn thông qua chức năng cân bằng
các nhu cầu tâm sinh lý, nó vừa là động lực tinh thần, vừa có sự gắn bó mật thiết tới q
trình phát triển kinh tế - văn hố - xã hội.
- Dân tộc ta vốn có truyền thống đạo lý tơn trọng người cao tuổi (trọng lão). “Kính
lão đắc thọ” hoặc “kính già, già để tuổi cho”. Điều đó khơng chỉ biểu hiện trong tư duy,
tình cảm phản ánh qua thơ ca, tục ngữ... mà còn được ghi nhận một cách rất chi tiết, cụ
thể trong lệ làng, luật nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội.
Luật nước, lệ làng đối với việc “trọng lão” không những tuỳ thuộc vào từng thời
đại phong kiến, mà còn tuỳ thuộc vào phong tục, tập quán sinh hoạt của cộng đồng được
bảo tồn sâu sắc trong các hương ước, khốn ước làng xã. Có thể cắt nghĩa lệ làng, luật
nước chăm sóc, tơn trọng người cao tuổi với mấy lí do sau:
+ Về sức mạnh tự nhiên: Nó biểu hiện ở trí tuệ và kinh nghiệm tích luỹ đựơc của
người già từ lao động để sinh tồn, phát triển nòi giống và chiến đấu để bảo vệ tổ quốc,
giang sơn do cha ông để lại.
+ Về sức mạnh xã hội: Tiếng nói của người cao tuổi có sức mạnh lớn lao lên thì
đối với vua hiền, tơi thẳng phải kính nể, dưới thì đối với cộng đồng làng xóm có ý nghĩa
đồn kết, cổ vũ, hoà giải, động viên.
14
- Đối với gia đình, ni dưỡng chăm sóc ơng bà, cha mẹ già là thể hiện đạo hiếu
của con cháu trong gia đình, là thể hiện lịng biết ơn sâu sắc đối với những thế hệ đã
vượt qua, đã chịu đựng biết bao vất vả, gian khổ, thiếu thốn để chắt chiu ra những dòng
sữa ngọt ngào, những miếng cơm, manh áo nuôi dạy con cháu trưởng thành và tạo lập
nên cơ nghiệp gia đình, góp phần xây dựng đất nước hơm nay.
- Bảo vệ, chăm sóc ơng bà, cha mẹ lúc tuổi già không những là đạo hiếu “đền ơn
đáp nghĩa” để cho các cụ nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, mà phần khác để cho các cụ có thời
gian, điều kiện thuận lợi hơn chuyển giao lại cho con cháu những kinh nghiệm quý báu
đã đựơc trải nghiệm suốt cả cuộc đời, trong đó có việc đối nhân, xử thế, việc xây dựng,
củng cố nề nếp, gia phong, gia giáo, trong gia đình, việc thiết lập trật tự, kỉ cương trong
thơn xóm, cộng đồng... Ơng bà, cha mẹ già ở trong gia đình vẫn có vị trí, vai trị rất
quan trọng:
+ Can thiệp, giải quyết các mối bất hoà có thể xảy ra giữa các con, các cháu để bảo
vệ các mối quan hệ chính đáng, tốt đẹp ở trong gia đình.
+ Ngăn chặn, phê phán mạnh mẽ những suy nghĩ, hành vi trái với đạo lý ở trong
gia đình và ngồi xã hội làm tổn hại đến danh dự, truyền thống gia phong, gia đình dịng
họ dân tộc, quốc gia.
+ Nhắc nhở con cháu nhớ đến những ngày lễ tết, giỗ chạp đối với tổ tiên, ông bà,
nhằm thể hiện lịng thành kính nhớ đến cội nguồn “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
+ Giúp con cái trông nom gia đình lúc chúng đi vắng. Tổ chức, sắp đặt công việc
vặt, tạo nên đời sống ngăn nắp, gọn gàng sạch sẽ trong gia đình.
+ Kèm cặp, nhắc nhở các cháu học hành, tắm giặt sạch sẽ, ăn uống, nghỉ ngơi điều
độ, giáo dục uốn nắn những sai trái trong ngơn ngữ, hành vi, cử chỉ hướng các cháu
hình thành, phát triển những yếu tố nhân cách cần thiết của con người cơng dân chân
chính tương lai theo u cầu, địi hỏi của xã hội.
Gia đình là một nhóm xã hội nhỏ, là một tổ chức xã hội lịch sử, đồng thời là một
thiết chế xã hội đặc thù. Các thành viên trong gia đình bị ràng buộc với nhau bởi các
quan hệ gia đình và pháp luật, bởi tính cộng đồng và đạo đức xã hội. Có thể nói gia đình
là một xã hội thu nhỏ và tất cả các quan hệ ràng buộc, trong đó có quan hệ kinh tế với tư
cách là một đơn vị kinh tế bao gồm sản xuất và tiêu dùng; có quan hệ chính trị với ý
nghĩa gia đình được tạo nên bởi các thành viên - cơng dân trong xã hội, có quan hệ giáo
dục với tư cách là một đơn vị giáo dục văn hố, có quan hệ tái tạo con người và ni
dưỡng con người phát triển có tinh thần lẫn thể chất. Các thành viên gắn bó với nhau về
trách nhiệm và quyền lợi, có những ràng buộc nhất định bởi tính pháp lý đồng thời có
những quy định khơng thành văn về phong tục, tập qn, văn hố ứng xử gia phong.
Cho đến nay, gia đình vẫn là một thiết chế xã hội tương đối bền vững trong xã hội Việt
Nam. Mơ hình gia đình Việt Nam vẫn dựa trên các cơ sở cơ bản là những quan hệ hơn nhân và
huyết thống mặc dù loại hình chính của gia đình Việt Nam hiện nay là gia đình hạt nhân bao
gồm bố mẹ và con cái. Đây là loại hình gia đình phổ biến và có xu hướng thay thế cho loại gia
đình mở rộng bao gồm ơng bà, cha mẹ, con cái, cháu. Quy mơ gia đình có xu hướng giảm
song gia đình người Việt vẫn có số thành viên trung bình cao hơn so với các nước trong khu
15
vực. Tuổi kết hôn lần đầu của cả nam và nữ có chiều hướng tăng dần. Tuy nhiên, ở một số
vùng nơng thơn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, tình trạng tảo hơn và tuổi kết hơn trung bình lần
đầu là khá thấp. Hiện tượng hôn nhân không đăng ký, hoặc chung sống trước hơn hân có xu
hướng tăng lên và tập trung ở giới trẻ sống xa gia đình. Số lượng các vụ ly hôn tăng lên theo
từng năm, bạo lực gia đình là vấn đề nghiêm trọng trong đời sống gia đình Việt Nam hiện nay.
Những vấn đề về giáo dục trẻ em đang đứng trước thách thức như số lượng trẻ em hư, phạm
pháp, tệ nạn xã hội gia tăng. Tâm lý chuộng con trai vẫn còn khá phổ biến tạo nên sự mất cân
bằng giới tính. Nhưng cũng phải thấy rằng, mức sống các gia đình đang ngày một cải thiện,
trình độ dân trí được nâng lên... Sự phát triển kinh tế - xã hội cùng với quá trình hội nhập quốc
tế đã tác động nhiều mặt tới đời sống gia đình Việt Nam và tạo nên quá trình biến đổi các chức
năng cơ bản của gia đình cũng như các mối quan hệ trong gia đình.
Vấn đề đặt ra là, cơng tác giáo dục gia đình đang đứng trước thách thức mới địi
hỏi khơng những gia đình mà tồn bộ hệ thống chính trị - xã hội các tổ chức giáo dục
(kể cả trong và ngồi cơng lập) cũng phải giải quyết. Giữa truyền thống và hiện đại,
giữa giá trị thực và giá trị ảo. Những vấn đề trên đều phải được nghiên cứu, đánh giá
thận trọng, khoa học để tìm ra những giải pháp thoả đáng cho chính sách gia đình nói
riêng và xã hội nói chung.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN SINH VIÊN HỌC TẬP
1. Phân tích vị trí và mối quan hệ của gia đình với xã hội
2. Phân tích các mối quan hệ chủ yếu trong gia đình Việt Nam hiện nay. Nêu những
khác biệt căn bản giữa tình yêu của cha, tình u của mẹ đối với con trong gia
đình, từ đó xác định vai trò của cha và mẹ đối với sự phát triển thể chất, tâm lí
đối với trẻ.
3. Tại sao nói gia đình là mơi trường văn hố gần và sớm nhất đối với trẻ em?
4. Phân tích chức năng bảo tồn nịi giống, bảo tồn văn hố dân tộc, và ni dưỡng
con cái trong gia đình Việt Nam hiện nay. Theo bạn, hiện nay gia đình ở địa
phương bạn thực hiện các chức năng này như thế nào? đặc biệt là nêu lên
những điều làm tốt, những điều hạn chế và nguyên nhân chi phối.
5. Vì sao giáo dục gia đình được coi là một hình thức giáo dục quan trọng tác
động tới thế hệ trẻ? Phân tích mục tiêu khái quát của giáo dục gia đình.giáo
dục gia đình hướng tới thành tựu gì cần đạt ở trẻ. Nêu những khó khăn cơ bản
tác động đến giáo dục con trong gia đình hiện nay.
16
Chương II
GIA ĐÌNH VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM
HIỆN NAY
I. GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
Gia đình theo quan niệm của người Việt là đơn vị nền tảng, là tế bào xã hội, gia
đình ln có vị trí hết sức quan trọng trong q trình hình thành, phát triển xã hội Việt
Nam. Gia đình cũng là nơi tiếp nhận, kế thừa, sáng tạo và lưu truyền những truyền
thống, giá trị văn hoá của cộng đồng, xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó chứa
nhiều yếu tố dường như bất biến, ít thay đổi. Gia đình Việt Nam truyền thống là sản
phẩm của nền văn minh lúa nước, nó mang nặng tính giáo dục Đạo làm người hơn là
cung cấp cho con người những nhận thức mới về thế giới, không tránh khỏi yếu tố giáo
điều, chủ quan, kinh nghiệm, cảm tính.
Trong dân gian, gia đình Việt Nam truyền thống được coi là đại gia đình mà các
thành viên liên kết bằng một chuỗi quan hệ huyết thống, bao gồm ông bà, cha mẹ, con
cái, cháu chắt. Trong gia đình cùng chung sống dưới một mái nhà có thể nhiều thế hệ
(từ ba bốn đến năm thế hệ) được gọi “Tam đại, tứ đại, ngũ đại đồng đường” và coi đó là
gia đình có phúc.
Gia đình truyền thống có sự gắn bó cao về tình cảm theo huyết thống, cách ứng xử
là phải “kính trên, nhường dưới”, anh em phải hồ thuận, thương yêu và giúp đỡ lẫn
nhau, nghe lời cha mẹ, ông bà, hiếu thảo là một trong những đức tính quan trọng nhất
của con người để tỏ lịng biết ơn ơng bà, cha mẹ đã sinh thành và ni dưỡng mình.
Với một nước nơng nghiệp là chủ yếu, gia đình truyền thống Việt Nam là gia đình
của xã hội nơng nghiệp, gia đình gắn liền với dịng họ, làng xã và phụ thuộc vào làng
xã. Sự cố kết cá nhân trong gia đình lại phụ thuộc vào cộng đồng gia đình, dịng họ,
trong đó vai trị người nam được coi trọng, người nữ về mặt đạo lý có phần thấp kém.
Nhưng thực tế phụ nữ lại có vai trị to lớn về quản lý, thu nhập, tiêu dùng.
Xã hội Việt Nam thời kỳ phong kiến, chịu ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo, Lão
giáo vì thế các lý thuyết đạo giáo có tác động nhất định gia đình truyền thống. Nho giáo
chủ trương “gốc của thiên hạ ở nước, gốc cuả nước ở nhà, gốc của nhà ở mọi người”.
Lý tưởng Nho giáo là thực hiện hành vi bình trị, thống nhất, ổn định trật tự hoà mục.
Biện pháp là tu thân, tề gia, trị quốc. Cơng việc có ý nghĩa hàng đầu trị quốc theo kiểu
tề gia. Trong con người tồn tại một đạo lý biểu hiện thành nhân luân, đó là đạo cha con,
anh em, vợ chồng, vua tơi, bạn bè. Như vậy Nho giáo đặc biệt quan tâm và đề cao vai
trị của gia đình trong xã hội. Trong đó coi trọng những đức tính tốt cần thiết cho cá
nhân tương ứng với vị trí trong gia đình: Đức “Từ” của cha mẹ, đức “hiếu” của các con;
đức “nghĩa” của chồng; đức “thính” của vợ, đức “lương” của anh chị em.
Cũng vì vậy, quan hệ Nhà – Làng – Xã đựơc thể hiện rõ nét trong giáo dục gia
đình truyền thống Việt Nam. Gia đình chẳng những được đề cao mà cịn đựơc làm cơ sở
khn mẫu cho tổ chức nhà nước xã hội. Đạo đức Nho giáo (đạo Khổng)... Có ảnh
hưởng sâu sắc đến nguyên tắc thứ bậc trong quan hệ giữa các thành viên gia đình. Điều
này trúng với tư tưởng, đạo lý của người Việt và dễ dàng đựơc chấp nhận. Theo đó, gia
17
đình truyền thống giữ vai trị chủ yếu, cơ bản trong việc hình thành nhân cách con người
trong mọi lĩnh vực đạo đức, tri thức, nghề nghiệp, truyền thống lao động cầu cù, hiền
lành chất phác, chịu thương chịu khó trong lối sống thường ngày. Giáo dục con người
không chỉ là gia đình mà được sự giáo dục, giám sát của cả cộng đồng làng xóm. Các
yếu tố cơ bản, cốt lõi và thang giá trị nhân cách cũng đươc hưởng theo đạo đức xã hội;
giữ tròn nghĩa vụ bảo vệ làng xóm, đất nứơc, xây dựng quê hương; tạo nên truyền thống
đánh giặc giữ nước, giữ nguyên bờ cõi; Truyền thống nhân nghĩa, đồn kết u hương,
tơn sư trọng đạo, ni dưỡng lịng khoan dung độ lượng, uống nước nhớ nguồn...
Gia đình cũng là nơi bảo lưu, gìn giữ, truyền bá các giá trị truyền thống, văn hoá,
lễ nghi, tập tục, phát huy gia phong, gia lễ, gia đạo. Ngồi gia đình trực tiếp cịn có họ
hàng gần xa, họ hàng bên nội, bên ngoại. bà con xóm giềng.
Tính bảo thủ, khn phép trong gia đình truyền thống khi nó lưu giữ các truyền
thống tốt đẹp thì đồng thời nó cũng bảo lưu cả tập tục, tập quán, tư duy lạc hậu, lỗi thời.
Chính lẽ đó đã đưa đến những hệ luỵ khó tránh khỏi đó là mâu thuẫn giữa các thành
viên gia đình, con trai – con gái, giữa ông bà - các cháu, giữa mẹ chồng - nàng dâu, giữa
con trai - con rể, giữa con gái - con dâu, cháu nội - cháu ngoại. Xuất phát từ tư tưởng
trọng nam khinh nữ nên quan hệ bất bình đẳng về giới, trong đó người vợ phải phụ
thuộc tuyệt đối vào chồng, đàn bà con gái phải phụ thuộc và đàn ơng. Hơn nhân và gia
đình là để duy trì nịi giống nên con gái phải hồn tồn theo cha mẹ “Cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy”. Nhiệm vụ phụ nữ phải sinh con trai cho nhà chồng, nếu khơng thì có khi
vợ phải đi lấy vợ lẽ cho chồng. Trong gia đình, con trai cả là “trưởng” quan trọng nhất,
mọi sự kế thừa tài sản, định đoạt cơng việc gia đình khi cha mẹ già yếu và cũng có trách
nhiệm nặng nề hơn cả, thay cha mẹ lo toan gia đình. Những hạn chế đó cần sớm đựơc
khắc phục bằng thay đối nhận thức, bằng đường lối chính sách mới tiến bộ.
II. GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời 02/9/1945, sự thay đổi thuộc về
quan hệ giữa con người với con người diễn ra, quan niệm về gia đình cũng thay đổi để
phù hợp với lối sống mới. Những nét tốt đẹp của gia đình truyền thống được bảo vệ giữ
gìn, những điểm hà khắc đối với phụ nữ và con cái trong quan hệ gia đình được gỡ bỏ
để xây dựng “Gia đình văn hố mới”. Mọi thành viên trong gia đình u thương, bình
đẳng và tơn trọng lẫn nhau. Cha mẹ có nhiệm vụ ni dạy con cái thành những người
con ngoan, công dân tốt cho xã hội, con cái phải hiếu thảo, sống có trách nhiệm với bản
thân gia đình xã hội.
- Trong hơn 25 năm đổi mới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, chính
sách hội nhập quốc tế đã tác động mạnh mẽ đến sự khác biệt cả tính tích cực lẫn tiêu
cực trong gia đình Việt Nam hiện nay. Từ một xã hội nông nghiệp lạc hậu sang xã hội
công nghiệp hiện đại, dân cư nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao (Trên 60%) q trình đơ thị
hố đang ở giai đoạn khởi đầu, văn minh nông nghiệp vẫn cịn in đậm trong đời sống
văn hố của mỗi người dân. Loại hình gia đình chính là gia đình hạt nhân bao gồm bố
mẹ và con cái (hơn 63,4%), số hộ gia đình 1 đến 4 người chiếm 55%, hơn 80% gia đình
nơng thơn. Do vậy có thể coi gia đình Việt Nam hiện nay là “một gia đình q độ” trong
q trình biến đổi của nó. Q trình này diễn ra có sự giải thể cấu trúc gia đình truyền
18
thống và hình thành hình thái mới của gia đình. Gia đình đơn thế hệ và gia đình hạt
nhân là phổ biến thay cho các gia đình đa thế hệ.
Về hình thức, gia đình Việt Nam hiện nay đang trở nên rất đa dạng, phức tạp. Theo
thống kê của Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em Hà Nội năm 2003 điều tra các gia đình ở
khu vực đơ thị cho thấy gia đình đa thế hệ chiếm 17%, gia đình đơn thế hệ (2 thế hệ)
chiếm 80% cịn lại là các hình thức gia đình khác. Các hình thức gia đình cơ bản ở Việt
Nam hiện nay vẫn là gia đình hạt nhân (gia đình chỉ bao gồm bố mẹ và con cái) và gia
đình hạt nhân mở rộng (gia đình ngồi bố mẹ, con cái cịn có thêm ông bà cháu chắt
cùng các thế hệ người thân khác…). Ngoài ra, ở Việt Nam hiện nay đã và đang xuất
hiện một số hình thức mới như: gia đình độc thân (gia đình chỉ có một thành viên), gia
đình thiếu khuyết (gia đình mất đi một thành viên quan trọng vợ hoặc chồng); gia đình
đơn hơn (gia đình chỉ có 2 vợ chồng), gia đình có yếu tố nước ngồi (gia đình có vợ
hoặc chồng là người nước ngồi)…
Về quy mơ, cho thấy quy mơ gia đình Việt Nam đang thu nhỏ: mơ hình gia đình
nhiều thế hệ theo kiểu “tam, tứ, ngũ đại đồng đường” với số lượng thành viên lớn hơn
10 người (mơ hình gia đình truyền thống hay gia đình hạt nhân mở rộng) được thay thế
bằng mơ hình gia đình ít người (gia đình hạt nhân).
Theo kết quả điều tra được công bố ngày 18.8.2005 của Tổng cục Thống kê trong
10 năm (1995-2005), quy mô gia đình Việt Nam giảm từ 4,8 xuống cịn 4,4 người/gia
đình. Quy mơ hộ gia đình ở các vùng miền cũng khác nhau, do ảnh hưởng của trình độ
dân trí, đặc điểm về kinh tế-xã hội, phong tục tập quán và đặc trưng văn hố. Tại khu
vực Đồng bằng sơng Hồng, quy mơ hộ gia đình trung bình là 4,1 người (thấp nhất trong
nước). So với thành thị, quy mô gia đình nơng thơn nhiều hơn 0,2 người. Trong khi đó,
Tây Bắc và Tây Nguyên vẫn là hai vùng có quy mơ gia đình lớn nhất: 5,1người/hộ.
Về các chức năng của gia đình cho thấy gia đình Việt Nam hiện nay về cơ bản là
gia đình truyền thống đa chức năng. Một số chức năng cơ bản của gia đình như: chức
năng kinh tế, chức năng tái sản xuất ra con người và sức lao động, chức năng giáo dục
và xã hội hoá, chức năng thoả mãn tâm sinh lý, tình cảm đã có điều kiện thực hiện tốt
hơn cụ thể là:
Chức năng tái sản xuất ra con người và sức lao động: Hành vi sinh đẻ của con
người vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính tự giác (chịu sự kiểm sốt của xã hội).
Mặc dù các gia đình hiện nay, nhất là các gia đình ở thành phố, bắt đầu xuất hiện tâm lý
ngại sinh con nhưng hiện tượng này vẫn chưa phổ biến. Nhìn chung, các gia đình Việt
Nam đều coi trọng chức năng này. Theo số liệu tổng cục thống kê, dân số Việt Nam
năm 2006 đạt khoảng 84,1 triệu người, năm 2009 là 87,4 triệu, bình quân mỗi năm tăng
khoảng 1 triệu người. Thực tế dân số tăng nhanh là vấn đề đang cần được giải quyết của
Việt Nam. Việt Nam là nước có quy mô dân số lớn (đứng thứ 13 trên thế giới) và mức
tăng dân số vẫn còn ở mức cao1-1,2%, gây ra sức ép lớn về nhiều vấn đề như việc làm,
chỗ ở,…*
Chức năng kinh tế: Gia đình vẫn tiếp tục là một đơn vị kinh tế sản xuất quan trọng
ở cả thành thị và nông thôn. ở nông thôn cơ cấu ngành nghề sẽ biến đổi. Phần lớn lao
*
Các số liệu thống kê đựơc trích dẫn từ “Giới, việc làm và đời sống gia đình”. Nguyễn Thị Hồ (Chủ biên). NXB Khoa học
xã hội. Hà Nội 2007
19
động trẻ sẽ chuyển sang các ngành nghề phi nông nghiệp, hoặc làm công, làm thuê. ở
thành phố, các loại hình lao động làm cơng làm th sẽ tăng cao hơn nhiều. Các hộ gia
đình tự sản xuất kinh doanh có vai trị quan trọng trong việc giải quyết lao động và việc
làm cho xã hội.
Tuy nhiên, có một thực tế là kinh tế hộ ngày càng có xu hướng giảm. Theo số liệu
của Tổng cục thống kê, đóng góp của các thành phần kinh tế cá thể trong tổng sản phẩm
nước ta đã giảm từ 36,1% năm 1995 xuống còn 32,9% năm 1999 và đến năm 2006 chỉ
còn 29,7%. Kinh tế hộ gia đình ngày nay chủ yếu tồn tại ở nơng thơn và đóng góp trong
ngành nơng nghiệp. Còn ở thành thị, hoạt động kinh tế chủ yếu là mở cửa hàng buôn
bán hoặc làm các dịch vụ.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, mức tiêu dùng của mọi gia đình ngày càng
tăng lên. Tuy nhiên, do mặt trái của kinh tế thị trường nên mức tiêu dùng vẫn còn
khoảng cách khá xa nhau giữa các hộ giàu và hộ nghèo, nông thôn và thành thị.
Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm lý, tình cảm:
+ Hơn nhân tự nguyện dựa trên tình u đơi lứa vẫn là mơ hình phổ biến.
+ Sự tơn trọng, bình đẳng là những yếu tố hàng đầu trong đời sống tinh thần của vợ
chồng. Kỳ vọng của cha mẹ về con cái chuyển từ các giá trị kinh tế sang các giá trị về
tinh thần. Chất lượng của con cái thay cho số lượng. Gia đình có xu hướng sử dụng
nhiều hơn các dịch vụ giải trí vui chơi bên ngồi xã hội hơn là tại gia đình. Quan sát
cuộc sống chúng ta thấy tuổi trẻ bây giờ có tâm lý lấy chồng lấy vợ ở độ tuổi cao hơn
trước, sự e ngại đến với hơn nhân có nhiều lý do trong đó có lý do quan trọng nhất là sự
kỳ vọng của họ về một đời sống hôn nhân, đời sống gia đình cao hơn trước rất nhiều
(tuổi kết hơn lần đầu tăng 26,7 (nam) 23,4 (nữ) số liệu điều tra năm 2004) so với năm
1999 là 24 tuổi với nam, 22 tuổi với nữ).
Chức năng giáo dục gia đình ngày nay có nhiều tiến bộ đồng thời cũng nảy sinh
nhiều vấn đề mới. Tiến bộ thể hiện ở việc: chăm sóc con cái tốt hơn, vấn đề bình đẳng
và vai trị của người phụ nữ trong gia đình được đề cao. Tuy nhiên, những vấn đề đặt ra
là: khoảng cách bố mẹ và con cái, vấn đề chăm sóc trẻ em và người già trong gia đình,
mất cân bằng giới tính, số trẻ em phạm pháp tăng lạm dụng trẻ em, buôn bán trẻ em và
phụ nữ ... cần được phắc phục.
- Cùng với quá trình phát triển kinh tế -xã hội những năm gần đây, vấn đề sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thúc đẩy quá trình đơ thị hố đã làm thay
đổi cơ cấu xã hội cũng như hàng loạt những biến đổi xã hội khác, trong đó có cơ cấu
việc làm, phân cơng lao động theo giới, quyền lực, vị trí cũng như chức năng theo giới
trong cuộc sống gia đình, trong hoạt động xã hội để tiến tới sự bình đẳng hơn giữa nam
và nữ trong mọi lĩnh vực và đời sống.
Những biến đổi kinh tế - xã hội đã tạo khả năng chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp,
quan hệ xã hội mở rộng, cơ hội việc làm, vị thế xã hội, thời gian thụ hưởng các dịch vụ
xã hội, vui chơi, nghỉ dưỡng... từng bước đáp ứng nhu cầu. Xã hội chăm lo tốt hơn cho
mọi người đựơc “bình đẳng trong phát triển”, chiến lược “Vì sự tiến bộ của phụ nữ”
cũng là một tất yếu làm cho xã hội giàu mạnh, dân chủ, cơng bằng và văn minh. Vai trị
và đóng góp của phụ nữ trong gia đình cũng có giá trị ngày càng cao, thể hiện ở bản lĩnh
của chị em vừa là gìn giữ vị trí quan trọng, vừa là người đóng vai trị trung tâm bảo tồn
20
hạnh phúc gia đình. Phụ nữ và gia đình ln có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau
trong cuộc sống xã hội cũng như trong quan hệ gia đình. Vấn đề “Bình đẳng giới” là
điều kiện đảm bảo lợi ích căn bản, tương lai phát triển của mỗi người, của từng gia đình
trong xã hội và cũng là tiền đề để đảm bảo hạnh phúc của gia đình Việt Nam.
III. NHỮNG BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Những yếu tố cơ bản tác động đến gia đình Việt Nam hiện nay
Trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế đã và đang tác động mạnh
mẽ đến thực trạng và sự phát triển của gia đình Việt Nam trên cả hai bình diện tích cực
và tiêu cực. Những sự biến đổi các chức năng và các mối quan hệ gia đình theo xu
hướng mở. Đặc biệt vấn đề giới và bình đẳng giới trong gia đình đã có những thay đổi
nhất định so với gia đình truyền thống, nổi bật là sự bình đẳng nam nữ trong các quan
hệ gia đình. Cơ sở của sự bình đẳng giới khơng chỉ dựa trên nhận thức, vai trị, vị trí của
nam, nữ trong đời sống gia đình, xã hội mà cịn dựa trên địa vị kinh tế xã hội ngày càng
đựơc khẳng định của người phụ nữ và những đóng góp của họ trong quá trình xây dựng
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam. Những biến đổi xã hội phức tạp từ quá trình đổi mới đất
nước và hội nhập quốc tế tác động khơng nhỏ tới việc thựchiện mục tiêu gia đình ấm
no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc cũng như nhiệm vụ giáo dục gia đình Việt Nam
ngày nay.
Nghị quyết Đại hội đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ “Phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những địi hỏi của q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc
thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là mơi trường quan trọng
hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá
truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc” (Văn kiện Đại hội Đảng X – NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 2006. Tr103-104)
Trong q trình đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và hội nhập quốc
tế hiện nay, gia đình Việt Nam đang chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố. Những yếu tố
này đang góp phần làm thay đổi cấu trúc, chức năng của gia đình người Việt.
Các nhân tố cơ bản tác động đến gia đình Việt Nam hiện nay phải kể tới hệ thống
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta trong quá trình đổi mới đất
nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”.
Về quan điểm: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã khẳng định
“Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ
mới, nền kinh tế mới, con người mới. Đảng, nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần
đề ra phương hướng, chính sách và có biện pháp thực hiện về xây dựng gia đình văn
hố mới, bảo đảm hạnh phúc gia đình. Nâng cao trình độ tự giác xây dựng, củng cố
quan hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, đảm bảo sinh đẻ có kế hoạch và ni
dạy con ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật chất, văn hố gia đình”.
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VII nhấn mạnh: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái
nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách. Các chính sách của Đảng và Nhà nước phải chú ý xây dựng gia đình no
ấm, hồ thuận, tiến bộ, nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người.
21
Đại hội Đảng toàn quốc lần thức IX chỉ rõ: “Nêu cao trách nhiệm của gia đình
trong việc xây dựng và bồi dưỡng của thành viên của mình có lối sống văn hố, làm cho
gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ là lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa Đảng nhấn
mạnh “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã
hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”.
Có thể nói, những quan điểm đường lối và các chính sách của Đảng và nhà nước đã
tác động tích cực đến gia đình một cách tồn diện trực tiếp đến biến đổi các cấu trúc, chức
năng của gia đình Việt Nam cho phù hợp với điều kiện mới mà chúng ta đang xây dựng.
- Công tác quản lý nhà nước về gia đình những năm qua đã đạt được những thành
cơng quan trọng cụ thể:
+ Đã hình thành hệ thống các chính sách và pháp luật ngày càng hồn chỉnh hơn
cho công tác quản lý xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới.
+ Luật Hơn nhân và Gia đình (1960 &2000)
+ Nghị quyết số 04/TW ngày 13-7-1993 của Ban Bí thư trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam về nội dung xây dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”
+ 2001: Chiến lược dân số kế hoạch hố gia đình năm 2010 - 2020
+ 2003: Pháp lệnh về dân số;
+ 2004: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
+ 2005: Nghị quyết của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chính sách
dân số và kế hoạch hố gia đình.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta xác định rõ những định
hướng cơ bản cho gia đình Việt Nam phát triển bền vững bằng các chủ trương chính
sách. Chỉ thị 49-CT/TW (ngày 21-5-2005) của Ban Bí thư đã đề cập đến việc Xây dựng
gia đình trong thời kỳ cơng nghiệp hố , hiện đại hố đất nước. Nhà nước và xã hội có
trách nhiệm bảo vệ sự ổn định và phát triển của gia đình, xây dựng gia đình phải ln
gắn với sự giải phóng phụ nữ; cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm gương mẫu chăm
lo xây dựng chính gia đình mình và vận động nhân dân cùng thực hiện.
+ Luật phòng, chống bạo lực gia đình (đã được Quốc hội khố XII thông qua tại kỳ
họp thứ 2 ngày 21/11/2007). Ngày 25 tháng 11 hàng năm là ngày “Quốc tế phòng chống
bạo lực gia đình”.
+ Năm 1981 “Uỷ ban quốc gia và thập kỷ tiến bộ của phụ nữ Việt Nam” được
thành lập đến tháng 2 năm 1993 đổi tên là “Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ
Việt Nam”
+ Việt nam tích cực tham gia các cam kết quốc tế về xây dựng và phát triển gia đình;
+ Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố năm 1994 là Năm quốc tế về Gia đình
(IYF) với chủ đề: Gia đình, các nguồn lực và các trách nhiệm trong thế giới đang thay
đổi và biểu tượng một mái nhà ấp ủ những trái tim, ngày 28/4/1994 Thủ tướng Chính
phủ đã có quyết định 198/Ttg về Tổ chức chỉ đạo năm Quốc tế về gia đình.
22
- Ngày 28/6 được Nhà nước ta chọn là “ Ngày gia đình Việt Nam” với những hành
động vì gia đình và trẻ em…
Sự tác động của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã có tác động to lớn tới vai trị, vị trí
của gia đình. Trong cơ chế mới, gia đình được tổ chức, sắp xếp lại trên cơ sở có hợp tác
và phân công trách nhiệm giữa các thành viên theo giới, lứa tuổi, năng lực và sức khoẻ.
Sự phân cơng đó cho phép phát huy, tận dụng mọi khả năng cống hiến và sáng tạo của
từng thành viên. Mối quan hệ có tính cố kết cộng đồng trong gia đình được nâng cao
trên cơ sở trách nhiệm cụ thể và vì lợi ích chung của gia đình. Q trình chuyển đổi
chức năng kinh tế gia đình góp phần cải thiện nguồn thu nhập gia đình góp phần phát
triển nền kinh tế - xã hội.
Trong nền văn minh nông nghiệp, gia đình truyền thống Việt Nam vốn là đơn vị cơ
bản của xã hội. Trong đó vai trị người con trai được coi trọng, phụ nữ thuộc địa vị thấp
hèn. Lợi ích cá nhân phải phục tùng lợi ích gia đình, dịng họ. Tổ chức gia đình theo
khn mẫu khắt khe của lễ giáo phong kiến. Nhưng khi bước sang nền văn minh cơng
nghiệp, mặc dù gia đình vẫn được coi là một thiết chế xã hội tương đối bền vững, nhưng
tác động của sự phát triển công nghiệp đã làm thay đổi cách tổ chức lao động gia đình
từ tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá. Phân cơng lao động xã hội mở rộng trong q
trình xã hội hoá lực lượng sản xuất kéo theo các quan hệ sản xuất thay đổi. Người phụ
nữ từ thân phận “như hạt mưa sa” đã tham gia ngày càng nhiều hơn vào công việc xã
hội là những người chiếm 90% trong sản xuất lúa gạo. Người phụ nữ được bình đẳng
trong việc làm, học tập, quản lý và sản xuất kinh doanh. Xã hội ngày càng can thiệp sâu
hơn vào các cơng việc gia đình nhờ sự tiện ích của các loại hình dịch vụ cũng như bước
tiến bộ mới của khoa học cơng nghệ hiện đại góp phần giải phóng phụ nữ khỏi sự trói
buộc trong gia đình. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, nền kinh tế - xã hội có sự phát
triển mạnh mẽ, năng suất cao, lao động trí óc dần thay thế lao động chân tay để tạo ra
một nền kinh tế được phát triển trên cơ sở hàm lượng trí tuệ cao, giảm nhẹ cơng việc gia
đình giải phóng con người, giúp con người có nhiều thời gian giải trí, học tập, vui
chơi,nghỉ ngơi, hưởng thụ cùng gia đình.
1.2. Những biến đổi các chức năng cơ bản của gia đình
Gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển chính là để đảm đương những chức
năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên giao phó cho nó. Khơng một thiết chế xã hội nào có
thể thay thế được gia đình trong việc thực hiện các chức năng này. Tồn tại trong một
mối liên hệ thống nhất, các chức năng tác động lẫn nhau để tạo nên con người và xã hội
hoá con người.
Trước hết về chức năng kinh tế, đây là chức năng quan trọng nhất, là cơ sở để gia
đình thực hiện các chức năng khác. Để khẳng định gia đình là một đơn vị kinh tế ngay
khi bắt đầu tiến hành đổi mới, Đại hội VI của Đảng (1986) đã xác định hộ gia đình là
một đơn vị kinh tế. Đồng thời việc trao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho các hộ
nơng dân đã thúc đẩy hình thức tổ chức sản xuất dưới dạng hộ gia đình trở nên phổ
biến. Gia đình Việt Nam đã chuyển từ đơn ví kinh tế tự nhiên, sản xuất đơn lẻ, tự chịu
trách nhiệm sản xuất kinh doanh, tự lo tổ chức thu nhập, tiêu dùng: thành những hộ gia
đình đa dạng về ngành nghề và thu nhập. Kinh tế hộ gia đình trong thời gian qua đã trở
23
thành một thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và đóng vai trị chủ
đạo trong việc giải quyết việc làm, xố đói giảm nghèo.
Thơng qua việc bảo đảm thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần cho
các thành viên, gia đình đã đóng góp vào.việc tái sản xuất ra cửa cải vật chất, của cải
tinh thần cho xã hội. Gia đình cịn là một đơn vị tiêu dùng và chính những yêu cầu đa
dạng, phong phú của các thành viên đã thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ chế thị trường
khuyến khích các gia đình giành quyền chủ động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh,
khơi dậy khát vọng làm giàu của các thành viên. Tuy nhiên nó cũng đẩy nhanh sự phân
tầng xã hội phân hóa giàu nghèo, và tạo ra sự mất cân bằng giữa chức năng kinh tế. với
các chức năng gia đình khác như chức năng sinh sản.. chăm sóc sức khỏe gia. đình, giáo
dục trẻ em .
Về chức năng sinh sản, tái sản xuất ra sức lao động. Đây là chức năng đặc biệt để
phân biệt gia đình với các thiết chế xã hội khác. So với trước đây, chức năng này đã
dịch chuyển từ quá trình tự nhiên sang quá trình tự giác. Hầu hết các gia đình đều thực
hiện sinh đẻ có kế hoạch theo Pháp lệnh dân số, góp phần thu nhỏ quy mơ gia đình Việt
Nam trong thời gian qua. Chuẩn mực gia đình ít con ngày càng được chấp nhận rộng rãi
ở các thành phố lớn. Tâm lý thích con trai hơn con gái đang chuyển dần sang thích cân
bằng giới tính ở các gia đình đơ thị. Điều này cho thấy có sự chuyển biến trong nhận
thức, thái độ hành vi sinh đẻ của các gia đình và khẳng định sự thành cơng bước đầu của
chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình cũng như việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ
em của Việt Nam. Tuy nhiên, có một thực tế cần khắc phục là hiện nay việc sử dụng các
biện pháp tránh thai chủ yếu mới nhằm vào người phụ nữ và Việt Nam vẫn chưa kiểm
soát được sự gia tăng dân số ở những vùng nông thơn, miền núi.
Chức năng giáo dục, xã hội hóa trẻ em: Khi nói về những nhân tố quyết định sự
phát triển xã hội, Ph. Ăng ghen đã đưa ra khái niệm liên quan đến chức năng gia đình,
“Đó là tái sản xuất ra con người. Theo đó, tái sản xuất ra con người về mặt thể chất
(chức năng sinh sản) và tái sản xuất về mặt tinh thần (chức năng chăm sóc, giáo dục và
xã hội hóa) là hai mặt của quá trình phát triển tất yếu của con người”(1).
Xã hội hóa là yếu tố quyết định biến con người sinh vật thành con người xã hội.
Như vậy xã hội hóa là sự tiếp thu những kinh nghiệm, chuẩn mực, giá trị và tri thức xã
hội để hình thành nhân cách trẻ em, giúp họ trở thành con người xã hội.
Những thay đổi về kinh tế, văn hóa, xã hội trong thời kỳ đổi mới đã đưa đến sự
biến đổi về chất trong việc thực hiện chức năng này. Trong xã hội truyền 'thống, giáo
dục gia đình được đồng nhất với giáo dục xã hội. Nó xuất phát từ tình cảm và thơng qua
tình cảm, qua thái độ, việc làm và hành vi ứng xử của người lớn mà con trẻ học tập cách
sống, cách nghĩ. Trẻ em trai bắt chước thái độ và cách đối xử của cha đối với mẹ và các
phụ nữ khác trong gia đình. Nếu chứng kiến bạo lực gia đình, các em sẽ có nhiều khả
năng trở thành kẻ bạo hành. Nếu chứng kiến sự đối xử kính trọng, chia sẻ trách nhiệm
trong cơng việc nhà từ người cha, em sẽ nhập tâm xử sự đó. Ngày nay, một phần của
chức năng này đã được xã hội đảm nhận thông tin qua hệ thống giáo dục và phương tiện
thông tin hiện đại cùng sự giao thoa văn hoá. Tuy nhiên, một mặt do quá kỳ vọng vào
hệ thống giáo dục nhà trường, mặt khác do quá bận rộn với vịêc làm kinh tế, nhiều gia
(1)
Sách đã dẫn
24