Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

báo cáo nghiên cứu khoa học ''''giáo dục gia đình - giải pháp quan trọng của việc xây dựng gia đình văn hóa ở n­ước ta hiệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.39 KB, 10 trang )




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 3b-2007



5
giáo dục gia đình - giải pháp quan trọng của việc xây
dựng gia đình văn hóa ở nớc ta hiện nay

Phan Văn Bình

(a)


Tóm tắt. Trong bài viết, chúng tôi đa ra và phân tích các nội dung chủ yếu của
giáo dục gia đình nh: giáo dục đạo đức, giáo dục truyền thống, giáo dục pháp luật,
giáo dục thể chất, giới tính, Đồng thời đề xuất một số yêu cầu cơ bản về nhận thức
và thực tiễn để không ngừng nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục gia đình ở nớc
ta hiện nay.



ia đình là tế bào xã hội. Gia
đình tốt, mới có xã hội tốt. Do
vậy, Đảng, Nhà nớc ta rất quan tâm
đến xây dựng gia đình; trong đó, xây
dựng gia đình văn hoá đợc xem là một
sáng tạo, có ý nghĩa quyết định.
Để phong trào xây dựng gia đình


văn hoá có hiệu quả, chúng ta đã đề ra
nhiều giải pháp, trong đó, giáo dục gia
đình là giải pháp quan trọng nhất, cơ
bản nhất
1. Gia đình văn hóa
Trong ý thức cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, gia đình đợc coi là tổ ấm, là
môi trờng đầu tiên phát sinh, nuôi
dỡng những phẩm chất tốt đẹp, tạo
nên nhân cách con ngời Việt Nam.
Hiện nay, vấn đề gia đình đang
đợc Đảng, Nhà nớc, các tổ chức, đoàn
thể, các ngành khoa học, các nhà
nghiên cứu hết sức quan tâm. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn
mạnh mục tiêu: Xây dựng gia đình no
ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc,
làm cho gia đình thực sự là tế bào lành
mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi
ngời [1, 112]. Đại hội IX tiếp tục
khẳng định: Nêu cao trách nhiệm của
gia đình trong việc bồi dỡng các thành
viên của mình có lối sống văn hoá, làm
cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi
ngời và là tế bào lành mạnh của xã
hội [2, 116]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: Rất quan tâm đến gia
đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại
mới thành xã hội. Xã hội tốt thì gia

đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội
mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia
đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng
XHCN, phải chú ý hạt nhân cho tốt [3,
523].
Nhận thức đợc tầm quan trọng về
vị trí to lớn của gia đình, thực hiện chủ
trơng của Đảng và Nhà nớc, trong
những năm qua, các địa phơng, gia
đình đã rất chú trọng đến việc xây dựng
tổ ấm của mình. Chất lợng gia đình
ngày càng đợc nâng lên, các mối quan
hệ trong gia đình ngày càng đợc củng
cố. Vợ chồng thơng yêu, tôn trọng giúp
đỡ nhau. Con cái sống chân thành,
thơng yêu, kính trọng bố mẹ, và có
trách nhiệm với xã hội
Song, hiện nay vẫn còn nhiều gia
đình gặp cuộc sống khó khăn về kinh tế;
còn có sự sai lệch về định hớng giá trị

.

Nhận bài ngày 01/10/2007. Sửa chữa xong 26/11/2007.

G



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 3b-2007




6

cuộc sống; hiện tợng khôi phục các hủ
tục và tiếp thu lối sống tiêu cực từ bên
ngoài có xu hớng tăng nhanh. Chỉ thị
27 của Ban Chấp hành Trung ơng
Đảng khoá VIII đã lu ý rằng: Nhiều
gia đình, trong đó có cả những cán bộ có
chức có quyền, vì động cơ hiếu danh, vụ
lợi, tổ chức đám cới, đám tang linh
đình, phô trơng, có những trờng hợp
thực chất là bán cổ lấy tiền. Mê tín dị
đoan cùng nhiều hủ tục, và cả một số
hủ tục mới hình thành do thói đua đòi
và do cách học theo nớc ngoài thiếu sự
phê phán, chọn lọc, đang có khuynh
hớng phục hồi và phát triển khá phổ
biến ở nhiều nơi [4]. Hơn nữa, trong
nhiều gia đình, một số thành viên còn
có lối sống thiếu lành mạnh, ý thức đạo
đức kém, chây lời, tham gia nhiều vào
các tệ nạn xã hội Điều đó không chỉ
gây nên bất hạnh cho gia đình; mà còn
nh một tế bào bệnh hoạn, ảnh hởng
trực tiếp đến sự phát triển của cộng
đồng và xã hội.
Để khắc phục những hạn chế và

các nhợc điểm của gia đình, đồng thời,
không ngừng nâng cao vai trò, vị trí của
gia đình với cá nhân và xã hội, việc xây
dựng gia đình, đặc biệt, xây dựng gia
đình văn hoá là hết sức quan trọng.
Gia đình văn hoá là một sáng tạo
mới của Đảng, Nhà nớc ta. Đây là
hình thức gia đình phát triển cao nhất
hiện nay. Yêu cầu của gia đình văn hoá
có nội dung toàn diện. Theo Quyết định
số 62/2006/ QĐ- BVHTT ngày 23/6/2006
và Quy chế công nhận danh hiệu Gia
đình văn hoá của Bộ trởng Bộ Văn
hóa-Thông tin, Gia đình văn hóa là gia
đình phải đạt các tiêu chuẩn sau đây:
Thứ nhất, Gơng mẫu chấp hành
chủ trơng, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nớc; tích cực tham gia
các phong trào của địa phơng.
Nội dung này yêu cầu các gia đình
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân,
không vi phạm pháp luật của Nhà nớc,
quy ớc, hơng ớc của cộng đồng. Giữ
gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội; giữ vệ sinh môi trờng; nếp sống
văn hóa nơi công cộng. Không sử dụng
văn hóa phẩm thuộc loại cấm lu hành;
không mắc các tệ nạn xã hội; không vi
phạm các quy định về thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cới, tang và

lễ hội. Tham gia đầy đủ các phong trào
thi đua, các sinh hoạt hội họp ở cộng
đồng
Thứ hai, Gia đình văn hóa là gia
đình phải hòa thuận, hạnh phúc, tiến
bộ; phải tơng trợ giúp đỡ mọi ngời
trong cộng đồng.
Nội dung này yêu cầu các thành
viên gia đình, nhất là vợ chồng phải
đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng, thơng
yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Có trách nhiệm
chăm lo, bảo vệ hạnh phúc gia đình,
nuôi dạy con cái. Con cái phải hiếu thảo
với ông bà, bố mẹ.
Gia đình văn hoá yêu cầu còn phải
thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình,
phải giữ gìn vệ sinh, môi trờng sống.
Phải có nếp sống văn minh, lành mạnh,
thờng xuyên luyện tập thể dục, thể
thao. Đoàn kết xóm giềng, tham gia các
hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tích cực
giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn
nạn, trong lao động sản xuất, giúp đỡ



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 3b-2007




7
nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm
nghèo
Thứ ba, gia đình văn hóa phải tổ
chức lao động, sản xuất, kinh doanh,
công tác, học tập đạt năng suất, chất
lợng và hiệu quả.
Đây là nội dung hết sức quan
trọng, vừa thể hiện chức năng cơ bản
của gia đình, vừa là một trong những
yêu cầu cơ bản của gia đình văn hoá.
Chúng ta đang trong thời kỳ quá
độ lên CNXH, kinh tế còn khó khăn, đời
sống vật chất còn nhiều thiếu thốn. Do
vậy, mỗi gia đình cần phải tổ chức lao
động sản xuất nhằm ổn định về kinh tế,
không ngừng nâng cao mức sống. Gia
đình còn là đơn vị tiêu dùng, nên chú
trọng chi tiêu cho hợp lý, tiết kiệm,
tránh lãng phí. Phải có kế hoạch phát
triển kinh tế gia đình, nâng cao đời
sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho
các thành viên. Các thành viên gia đình
còn phải tích cực học tập, công tác,
tham gia các hoạt động đoàn thể, xã
hội
Trên đây là những tiêu chuẩn cơ
bản của gia đình văn hoá. Để thực hiện
tốt, cần sự nổ lực to lớn của mọi cá
nhân, gia đình, tổ chức xã hội.

Quá trình tổ chức, xây dựng gia
đình văn hoá cho đến nay đã đạt đợc
những kết quả nhất định. Nhiều địa
phơng đã thu hút đợc đông đảo nhân
dân tham gia. Số lợng đăng ký xây
dựng gia đình văn hoá và tỷ lệ đợc
công nhận gia đình văn hoá khá cao, đã
có nhiều gia đình đạt danh hiệu gia
đình văn hoá tiêu biểu các cấp. Song, so
với yêu cầu xã hội, tỷ lệ gia đình đạt
chuẩn Gia đình văn hoácòn cha đạt
mục tiêu đề ra.
Để quá trình xây dựng gia đình
văn hóa đạt hiệu quả, chất lợng và bền
vững, chúng ta cần thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp, trong đó, giáo dục gia
đình đợc xem nh là một trong những
giải pháp quan trọng, quyết định nhất.
2. Vị trí và nội dung của
giáo dục gia đình
- Vị trí của giáo dục gia đình rất
quan trọng trong hệ thống giáo dục
quốc gia. Giáo dục là một trong những
chức năng cơ bản của gia đình, là một
trong ba bộ phận cấu thành của nền
giáo dục hiện đại. Đó là sự kết hợp biện
chứng, gắn bó hữu cơ giữa giáo dục gia
đình, giáo dục nhà trờng và giáo dục
xã hội. Giáo dục gia đình vừa là một
khoa học, vừa là một nghệ thuật. Giáo

dục gia đình là sự tác động thờng
xuyên, tự giác, có hệ thống và có mục
đích đến sự phát triển toàn diện của con
ngời. Các thành viên gia đình gồm
những ngời chung sống trong cùng
một không gian sinh tồn, trên cơ sở
quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết
thống, cùng gắn bó bằng tình cảm, bằng
trách nhiệm, cùng có quan hệ chung về
kinh tế Nên đặc trng của giáo dục
gia đình mang nặng tính tình cảm, xúc
cảm, cá biệt, tự giác và tự giáo dục.
Ngoài ra, giáo dục gia đình còn dựa trên
cơ sở của tình yêu thơng và trách
nhiệm ruột thịt. Giáo dục gia đình
nhằm bổ sung, hoàn thiện thêm cho
giáo dục nhà trờng và xã hội. Dù giáo
dục nhà trờng, giáo dục xã hội đóng
vai trò rất quan trọng. Nhng giáo dục
gia đình có những nội dung và phơng



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 3b-2007



8
pháp đặc thù mang lại hiệu quả lớn
không thể thay thế đợc.

Trong xã hội hiện đại, giáo dục gia
đình là một bộ phận quan trọng hợp
thành hệ thống giáo dục xã hội nhằm
xây dựng và phát triển con ngời một
cách toàn diện.
Cùng với giáo dục nhà trờng và
giáo dục xã hội, giáo dục gia đình góp
phần tạo ra những con ngời đủ phẩm
chất, đạo đức, đủ năng lực chuyên môn,
đủ thể chất và ý thức công dân. Họ sẽ
góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu
dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Do vậy, vấn đề giáo
dục gia đình ngày càng đợc quan tâm,
chú trọng ở nớc ta.
- Nội dung của giáo dục gia đình
rất đa dạng, phong phú.
Giáo dục gia đình là một quá trình
thờng xuyên, liên tục, đợc quy định
bởi chế độ kinh tế- xã hội, mà cơ bản là
hệ t tởng, chuẩn mực đạo đức, hệ
thống giá trị và trình độ văn hoá của xã
hội. Do vậy, nội dung của giáo dục gia
đình hiện nay ở nớc ta cơ bản thống
nhất với nội dung giáo dục chung của
nhà trờng và xã hội (có thể khác nhau
về mức độ), cụ thể cần chú trọng các nội
dung sau:

Thứ nhất: giáo dục cho các thế hệ

trong gia đình cần phải kế thừa, giữ gìn
và phát huy các giá trị đạo đức tốt đẹp
của gia đình truyền thống Việt Nam.
Đạo đức, nhân cách là những đặc trng
cơ bản của phẩm chất cá nhân. Mỗi thời
đại, mỗi giai đoạn lịch sử đều có những
quan niệm đạo đức khác nhau, quan
niệm về lối sống, nhân cách khác nhau.
Song, những đặc trng cơ bản, giá trị,
tiến bộ thì mỗi cá nhân, gia đình phải
kế thừa. Đặc biệt, trong xu thế hội
nhập, khu vực hóa, quốc tế hóa, cần
giáo dục ý thức đạo đức truyền thống
tốt đẹp của gia đình, dòng họ, dân tộc.
Những nội dung nh: kính già, yêu trẻ,
tình tơng thân, tơng ái, lòng trung
thực, tôn trọng sự thật, khiêm tốn,
dũng cảm cần đợc chú trọng. Phải
giáo dục những nội dung này để có bản
lĩnh, biết tôn trọng, bảo vệ cái đúng, cái
tốt, cái đẹp, đồng thời biết lên án cái ác,
cái xấu.
Ngoài ra, còn chú trọng giáo dục
tính cần cù, chịu khó, tính năng động,
sáng tạo; giáo dục đức tính hiếu học,
sống lạc quan, có tình, có nghĩa, giàu
lòng nhân ái, vị tha và bao dung. Song
song với giáo dục truyền thống, còn
phải tiếp thu những tinh hoa văn hoá
của thời đại. Từ đó, nhằm thực hiện

thành công nội dung xây dựng gia đình
văn hoá, xây dựng gia đình no ấm, hoà
thuận, tiến bộ và hạnh phúc bền vững.
Thứ hai: giáo dục ý thức tôn trọng
và chấp hành đúng chủ trơng của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nớc. Đây đang là vấn đề bức xúc của
xã hội. Hệ thống pháp luật của chúng
ta đã không ngừng đợc củng cố và
hoàn thiện. Song, ý thức chấp hành của
một bộ phận lớn trong dân c cha tốt.
Nhiều thành viên gia đình cha hiểu
biết nhiều về luật, hoặc mù luật, nên
hiện tợng vi phạm pháp luật còn phổ
biến. Việc bố trí học tập, tìm hiểu và thi
hành pháp luật trong nhà trờng và các
tổ chức xã hội cha nhiều. Do vậy, các
gia đình và thành viên phải tự giác tìm
hiểu, tuyên truyền, vận động, giúp đỡ
nhau học tập và thực hiện. Trong đó,



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 3b-2007



9
cần chú trọng xây dựng gia đình Việt
Nam hiện nay phải trên cơ sở chế độ

hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Phải giúp
mọi ngời trong gia đình hiểu rõ hôn
nhân tự nguyện, tiến bộ là bớc phát
triển tự nhiên của tình yêu chân chính.
Tránh hôn nhân cỡng ép, vụ lợi. Từ đó,
mọi thành viên gia đình đợc quyền tự
do lựa chọn ngời bạn đời tơng lai theo
ý muốn, tạo cơ sở cho hạnh phúc bền
vững. Song, hôn nhân tự nguyện không
bác bỏ sự quan tâm, hớng dẫn, chia sẻ
tâm t, tình cảm của các bậc cha mẹ
nhng không đợc ép buộc. Quyết định
cuối cùng là do mỗi cá nhân mà các
thành viên phải tôn trọng. Điều quan
trọng là mọi ngời hiểu đợc yêu, lấy ai
là quyền tự do lựa chọn của mỗi cá
nhân, nhng phải chú ý đến kinh
nghiệm của các thế hệ trớc, phải đảm
bảo hôn nhân về mặt pháp lý; phải thực
hiện chế độ hôn nhân một vợ, một
chồng Hiểu đợc những vấn đề này,
các thành viên gia đình, đặc biệt là thế
hệ trẻ sẽ chủ động trong tình yêu, hôn
nhân, trong giữ gìn, bảo vệ hạnh phúc
gia đình, tích cực, hăng say xây dựng
gia đình văn hoá.
Thứ ba: giáo dục văn hoá, tri thức
khoa học. Đây là nội dung quan trọng
của giáo dục gia đình. Trớc đây, các
gia đình thờng quan niệm giáo dục

văn hoá, tri thức khoa học là chức năng
của nhà trờng. Điều đó đúng, nhng
cha đủ. Để mọi ngời không ngừng
nâng cao trình độ văn hoá, tri thức
khoa học, gia đình phải tích cực tham
gia.
Tri thức văn hoá, khoa học của
nhân loại vô cùng đồ sộ, và ngày càng
tăng nhanh. Trong khi đó, giáo dục nhà
trờng, xã hội mới chỉ đáp ứng đợc
những nội dung cơ bản. Giáo dục văn
hoá và tri thức khoa học nhằm không
ngừng nâng cao trình độ lực lợng sản
xuất ngay trong chính từng gia đình.
Chỉ khi đợc trang bị đầy đủ tri thức
văn hoá và khoa học thì mới có sự hiểu
sâu, biết rộng, mới có t duy khoa học,
mới có sự định hớng giá trị đúng đắn.
Hơn nữa, có trình độ văn hoá, mới có
điều kiện, khả năng tiếp thu các nội
dung tri thức khoa học khác
Trong phạm vi gia đình, ngời lớn
phải có trách nhiệm chuẩn bị năng lực
cho thế hệ trẻ, nâng cao trình độ cho các
thành viên gia đình. Do vậy, các gia
đình phải chủ động, tích cực học hỏi,
hớng dẫn nhau để không ngừng nâng
cao trình độ văn hoá, tri thức khoa
họcVới tinh thần đó, nội dung giáo
dục văn hoá, tri thức khoa học đang

từng bớc trở thành nội dung quan
trọng của giáo dục gia đình.
Thứ t, giáo dục về các quan hệ bình
đẳng, thơng yêu, có trách nhiệm, cùng
chia sẻ, cùng gánh vác công việc để thực
hiện các chức năng cơ bản của gia đình
và nghĩa vụ với xã hội.
Trong quan hệ giữa các thành viên
gia đình, cần đề cập hai mối quan hệ cơ
bản nhất, đó là quan hệ hôn nhân và
quan hệ huyết thống.
Hôn nhân là một hình thức quan
hệ tính giao giữa nam và nữ, nhằm
thoả mãn các nhu cầu về tâm, sinh lý,
tình cảm và đảm bảo tái sản xuất ra
con ngời. Đây là chức năng đặc trng
của gia đình, do vợ chồng quyết định.
Nên sự thông cảm, chia sẻ, cùng gánh
vác là rất cần thiết. Trong gia đình cần



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 3b-2007



10
đảm bảo tốt quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng, giữa nam và nữ. Phải nhìn
nhận, đánh giá đúng vai trò, vị trí của

ngời phụ nữ, ngời vợ trong gia đình
và trong xã hội. Ngời phụ nữ, ngời
mẹ là ngời gần gũi nhất đối với con
cái, ngời quán xuyến nhiều công việc
trong gia đình. Thực tế xã hội cũng đã
khẳng định rằng: đằng sau mỗi ngời
đàn ông thành đạt luôn có bàn tay của
một ngời phụ nữ. Hơn nữa, sự tác
động, chi phối của ngời phụ nữ đến các
thành viên gia đình là không nhỏ. Do
vậy, việc thực hiện bình đẳng, tôn trọng
phụ nữ, tạo điều kiện để nâng cao trình
độ cho ngời phụ nữ là điều hết sức cần
thiết. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần
thứ IX của Đảng đã nêu: Thực hiện
quyền bình đẳng của phụ nữ trong giáo
dục, đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi
cho phụ nữ đợc nâng cao trình độ về
mọi mặt [5, 292-293].
Thứ năm, giáo dục tinh thần, ý
thức lao động, năng lực phát triển kinh
tế gia đình.
Lao động sản xuất, phát triển kinh
tế vừa là chức năng của gia đình, vừa là
yêu cầu của việc xây dựng gia đình văn
hoá. Giáo dục gia đình là làm cho mọi
ngời hiểu rõ việc xây dựng gia đình
cần phải gắn bó và trở thành một bộ
phận của chiến lợc phát triển kinh tế-
xã hội.

Trong điều kiện Việt Nam hiện nay,
hầu hết các gia đình còn có thu nhập
thấp, kinh tế cha ổn định, các gia đình
cần giáo dục để mỗi thành viên nhận
thức đựợc khả năng kinh tế gia đình, từ
đó, tìm cách tổ chức sản xuất, kinh doanh
có hiệu quả tạo điều kiện, tiền đề về vật
chất để thực hiện các yêu cầu khác. Muốn
vậy, gia đình cần giáo dục để các thành
viên có thái độ lao động đúng, lao động có
kỷ luật, có kỹ thuật, năng suất, chất
lợng và hiệu quả cao; phải giáo dục để
mỗi ngời có ý thức tiết kiệm, cần cù,
chịu khó, chăm chỉ lao động sản xuất;
biết trân trọng thành quả lao động. Kiên
quyết đấu tranh chống các hiện tợng
chây lời, ỷ lại, xa hoa, lãng phí, t tởng
làm dối, làm ẩu. Chống dối trá, gian lận
thơng mại
Thứ sáu, giáo dục để các gia đình
và thành viên gia đình thấm nhuần việc
xây dựng gia đình văn hoá vừa là trách
nhiệm, nghĩa vụ; vừa là quyền lợi; vừa
là mục tiêu, động lực, là cơ sở của gia
đình hạnh phúc. Đồng thời, xây dựng
gia đình văn hoá phải gắn bó với việc
xây dựng khối, xóm văn hoá, làng văn
hoá, đơn vị văn hoá; gắn với việc hình
thành, xác lập và củng cố từng bớc các
quan hệ gắn bó với cộng đồng, với các tổ

chức ngoài gia đình; gắn với việc thực
hiện hơng ớc, quy ớc, các phong tục,
tập quán tiến bộ.
Gia đình cũng phải giáo dục để các
thành viên hiểu và thực hiện có hiệu
quả quy chế dân chủ cơ sở trong mỗi
làng, xã, trong mỗi gia đình. Đặc biệt,
gia đình công chức nhà nớc, phải động
viên, giúp đỡ nhau nhận thức và thực
hiện tốt quyết định số 129/ 2007/
QĐTTG ngày 02/ 8/ 2007 của Thủ tớng
Chính phủ về Quy chế văn hoá công sở
tại các cơ quan hành chính nhà nớc.
Đây là một văn bản mới ra đời, rất có ý
nghĩa đối với việc tu dỡng, rèn luyện
nề nếp, hành vi ứng xử của cán bộ công
chức. Đồng thời, thực hiện tốt Quy chế
này, sẽ có tác dụng to lớn đối với quá



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 3b-2007



11
trình xây dựng gia đình văn hoá ở nớc
ta hiện nay.
Thứ bảy, giáo dục kinh nghiệm
sống, tính tự lập, giáo dục giới tính,

thẩm mỹ, ý thức cộng đồng cho các
thành viên gia đình.
Kinh nghiệm sống là sự đúc rút,
học hỏi qua nhiều thế hệ để con ngời
có thể ứng xử một cách tốt hơn cho hiện
tại. ở khía cạnh này, những ngời già
cả, bố, mẹ có u thế; do vậy, cần phổ
biến, tuyên truyền, giáo dục để mọi
ngời; đặc biệt là thế hệ trẻ có thể tiếp
thu, học hỏi, biến thành khả năng hiện
tại của mình.
Giáo dục gia đình phải hớng vào
việc tạo lập cho trẻ tinh thần tự lập, tự
chủ, ý thức tự rèn luyện, tính năng
động, nhạy bén; tính chủ động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm, từ đó chuẩn bị
cho thế hệ trẻ sự tự tin để bớc vào cuộc
sống hiện đại đang diễn ra hết sức phức
tạp.
Giáo dục giới tính là vấn đề còn
mới ở nớc ta. Các đoàn thể, các tổ chức
xã hội và nhà trờng cha thực hiện đ-
ợc nhiều. ở Việt Nam, đại đa số nhân
dân còn ngại nói đến giới tính, xem đây
là vấn đề tế nhị nên ít đa ra trao đổi,
bàn bạc ở công sở, trờng học cũng nh
ở các tổ chức ngoài xã hội. Song, đây là
vấn đề quan trọng, mang tính cấp bách.
Nếu không đợc định hớng, giáo dục
kịp thời, hậu quả sẽ rất lớn đối với thế

hệ trẻ trong gia đình và cho cả xã hội.
Xét về đặc trng, giáo dục gia đình rất
có lợi thế trong lĩnh vực này. Các thành
viên gia đình nh bố, mẹ, anh, chịđều
có thể là những nhà giáo dục về giới.
Trên cơ sở quan hệ tình cảm ruột thịt,
gần gũi nhau, họ có thể trao đổi, tâm
sự, truyền đạt những kiến thức, kinh
nghiệm về giới tính hết sức bổ ích cho
thế hệ trẻ. Cũng từ các mối quan hệ đó,
thế hệ trẻ cũng không cảm thấy ngại
ngùng, xấu hổ khi tâm sự, trao đổi
những vấn đề kín đáo, riêng tdần
dần, các em sẽ hiểu biết đợc nhiều về
các vấn đề giới tính, tạo điều kiện để
các em có thể chủ động trong cuộc sống
riêng t của mình.
Nh vậy, giáo dục gia đình có vị trí
hết sức quan trọng và đợc thể hiện
trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Việc xây dựng gia đình văn hoá
muốn đạt hiệu quả cao, không thể
không quan tâm, chú trọng đến vai trò
của giáo dục gia đình. Nhng để thực
hiện tốt giáo dục gia đình, cần phải đáp
ứng một số yêu cầu nhất định.
3. Một số yêu cầu nhằm
nâng cao hiệu quả của giáo
dục gia đình
3.1. Yêu cầu về nhận thức

Thứ nhất, phải nhận thức đợc vai
trò, tầm quan trọng của giáo dục gia
đình. Đây là một trong những chức
năng cơ bản của gia đình. Là một bộ
phận khăng khít, gắn bó hữu cơ và
không thể tách rời giáo dục nhà trờng
và giáo dục xã hội. Sự yếu kém, lơi lỏng
ở bất cứ khâu nào cũng đều hạn chế đến
kết quả giáo dục nói chung, kết quả xây
dựng gia đình nói riêng. Điều11 của
Luật giáo dục Việt Nam đã quy định:
Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều
có trách nhiệm tham gia sự nghiệp giáo
dục, xây dựng phong trào học tập và
môi trờng giáo dục lành mạnh, phối
hợp với nhà trờng thực hiện mục tiêu



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 3b-2007



12
giáo dục [6, 3]. Tránh tình trạng phó
thác việc giáo dục cho nhà trờng, xã
hội. Giáo dục gia đình vừa là trách
nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi, vừa là điều
kiện để xây dựng và giữ vững hạnh
phúc gia đình.

Thứ hai, nhận thức đợc tính đặc
thù, và những lợi thế của giáo dục gia
đình. Từ đó, ý thức đợc sự cần thiết về
đổi mới nội dung, phơng pháp giáo
dục gia đình.
Giáo dục gia đình có nhiều lợi thế.
Trớc hết là sức mạnh cảm hoá, thuyết
phục to lớn. Sự tiếp xúc thờng xuyên,
gần gũi và nhạy cảm trong gia đình cho
phép các thành viên hiểu rõ đặc điểm về
tính cách, tâm lý, sở thích, năng lực
nhận thức của nhau. Đồng thời, cũng từ
tính đặc thù đó, cho phép hình thành
nên các nội dung, hình thức, phơng
pháp giáo dục phù hợp, năng động, đa
dạng, và có hiệu quả. Nội dung giáo dục
gia đình thể hiện một cách toàn diện,
nhng ngắn gọn. Ngôn ngữ biểu đạt
thờng là ngôn ngữ nói, dễ hiểu. Quá
trình giáo dục gia đình có thể thông qua
trò chuyện, trao đổi lúc làm việc, lúc
nghỉ ngơi, th giãn và có thể ngay cả
trong bữa ăn. Nghĩa là trong mọi môi
trờng không gian, thời gian
Thứ ba, phải nhận thức đợc tầm
quan trọng của việc nâng cao trình độ
văn hoá, tri thức, sự hiểu biết các vấn
đề chính trị- xã hội của các thành viên
gia đình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng

định: Một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu. Gia đình cũng vậy, một cá nhân
yếu kém, sẽ ảnh hởng cả gia đinh. Do
vậy, các thành viên gia đình, nhất là bố,
mẹ và ngời lớn phải không ngừng
nâng cao trình độ văn hoá, trình độ
nhận thức về mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, trong đó, những kiến thức về gia
đình là hết sức quan trọng. Có trình độ
văn hoá, mới nâng cao đợc trình độ
nhận thức, mới có đợc lợng tri thức
nhất định. Có trình độ văn hoá mới có
thể đổi mới đợc nội dung, phơng pháp
giáo dục. Các thành viên gia đình, đặc
biệt là ông, bà, cha, mẹ mới có điều kiện
để giáo dục, tuyên truyền, phổ biến cho
nhau và cho con cháu các tri thức khoa
học, kiến thức về gia đình, xã hội.
Muốn thực hiện tốt giáo dục gia
đình, mọi thành viên gia đình phải hiểu
biết về gia đình, nhất là gia đình văn
hoá. Phải giáo dục cho các thành viên
gia đình về những nét đẹp, những yêu
cầu của việc xây dựng gia đình văn hoá
mới ở nớc ta hiện nay. Song, cũng phải
nhận thức đợc các yếu tố tiên tiến,
hiện đại của gia đình trên thế giới, để
từ đó tiếp thu, vận dụng trong xây dựng
gia đình văn hoá Việt Nam phù hợp với
giai đoạn lịch sử mới.

3.2. Yêu cầu về thực tiễn
- Thứ nhất, toàn bộ hệ thống chính
trị, cũng nh các gia đình phải tham
gia tích cực vào việc củng cố, xây dựng,
phát triển gia đình. Phải xây dựng
chiến lợc phát triển gia đình bền vững;
đồng thời tiến hành nghiên cứu, tổng
kết, đánh giá thực trạng của công tác
giáo dục gia đình trong thời gian qua.
Qua tổng kết, đánh giá, sẽ nhận biết
đợc những u, khuyết điểm, những
thành tựu và hạn chế, những mặt làm
đợc và cha đợc, từ đó rút ra bài học
kinh nghiệm, đề xuất chiến lợc mới
cho giáo dục gia đình.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 3b-2007



13
- Thứ hai, phải coi trọng và phối
hợp một cách nhịp nhàng, thờng xuyên
với giáo dục nhà trờng và giáo dục xã
hội. Tác giả Nguyễn Linh Khiếu cho
rằng Mỗi loại hình giáo dục đều có vai
trò và vị trí không thể thay thế trong
việc hình thành con ngời Việt Nam

mới, nhng giáo dục gia đình với những
đặc trng riêng của mình có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong giai đoạn đổi mới
và hội nhập Quốc tế hiện nay [7, 32].
Đây là ba loại hình giáo dục có mối
quan hệ tơng hỗ lẫn nhau. Sự phối hợp
này sẽ tạo khả năng hình thành một hệ
thống giáo dục đồng bộ, có hiệu quả.
Để có đợc định hớng tốt cho giáo
dục gia đình, bố, mẹ, ngời lớn tuổi phải
phối hợp với nhà trờng, với ngời phụ
trách các đơn vị, tổ chức xã hội để nắm
đợc một cách cụ thể, thờng xuyên về
tình hình hoạt động, học tập của con
cái, của các thành viên gia đình nơi họ
đang, học tập, công tác Từ đó, có sự
giáo dục một cách sâu sát hơn, hiệu quả
hơn.
Các gia đình phải tham gia tích cực
vào công tác xây dựng gia đình văn hoá
mới, làng văn hoá, khối, xóm văn hoá,
xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân
c. Tích cực tham gia, và tham gia có
hiệu quả cuộc vận động Gia đình ông,
bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu
thảo.
Thứ ba, phải không ngừng đổi mới
nội dung và phơng pháp giáo dục gia
đình.
Về nội dung, giáo dục gia đình phải

toàn diện; nhng phải sát với điều kiện
kinh tế- xã hội của đất nớc và xu thế
của thời đại; vừa mang tính phổ quát,
vừa cụ thể, phù hợp với gia đình, địa
phơng, xã hội phù hợp mục tiêu phát
triển nguồn nhân lực, phù hợp với nội
dung, yêu cầu của xây dựng gia đình
văn hoá.
Về phơng pháp, chú trọng sử dụng
tổng hợp nhiều phơng pháp khác
nhau. Kết hợp cả phơng pháp truyền
thống và hiện đại nh: giáo dục truyền
thống gia đình, dòng họ; khích lệ vật
chất, tinh thần trong đó, chú trọng
phơng pháp nêu gơng. Ông bà, cha
mẹ phải giáo dục con cái bằng chính
tấm gơng của mình. Trớc hết phải tự
giáo dục, tự học tập để nâng cao trình
độ, kinh nghiệm sống, đồng thời, tự tu
dỡng, rèn luyện về chuyên môn, t
cách, đạo đức, sống có uy tín trong gia
đình và xã hội. Tấm gơng của bố, mẹ,
của ngời lớn trong gia đình là sự giáo
dục trực tiếp và có hiệu quả nhất.
Điều 82 Luật giáo dục của Nớc
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
quy định trách nhiệm của gia đình:
Mọi ngời trong gia đình có trách
nhiệm xây dựng gia đình văn hoá, tạo
môi trờng thuận lợi cho việc phát triển

về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
của con em; ngời lớn tuổi có trách
nhiệm giáo dục, làm gơng cho con em,
cùng nhà trờng nâng cao chất lợng,
hiệu quả giáo dục [6, 22].

Tóm lại: Giáo dục gia đình có
nội dung toàn diện, nó là bộ phận
không thể thiếu của sự nghiệp giáo dục
quốc dân. Việc tìm kiếm, đề xuất những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
giáo dục gia đình đang rất đợc quan
tâm, chú trọng, nhất là trong phong
trào xây dựng gia đình văn hoá ở nớc
ta hiện nay.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 3b-2007



14

Tài liệu Tham Khảo

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị 27- CT/TƯ, ngày 12- 4- 1998.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
[6] Quốc hội nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật giáo dục, 1998.
[7] Nguyễn Linh Khiếu, Giáo dục gia đình hớng tới xây dựng con ngời thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Cộng sản, số 12/2006.



summary

Family education- the major way
to build cultural families in Vietnam nowadays

In this acticle, we presented and analyzed main contents in family education
such as: moral education, traditional education, law education, physical education
and sex education. And we also suggested some basic requirements of awareness
and reality to improve the effectiveness of family education in our country
nowadays.


(a)
Khoa Giáo dục chính trị, trờng Đại học Vinh.

×