Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Những vấn đề pháp lý đối với con chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
ĐỐI VỚI CON CHƢA THÀNH NIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
ĐỐI VỚI CON CHƢA THÀNH NIÊN

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên

HÀ NỘI – 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các


kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thu Huyền

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI CON
CHƢA THÀNH NIÊN ................................................................................. 7
1.1 Khái niệm, đặc điểm của con chưa thành niên. ......................................... 7
1.1.1 Khái niệm con chưa thành niên.............................................................. 7
1.1.2. Đặc điểm của con chưa thành niên...................................................... 10
1.2 Khái niệm những vấn đề pháp lý về con chưa thành niên. ...................... 11
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến các vấn đề pháp lý đối với con chưa thành
niên…………………………………………………………………………..18
1.3.1. Yếu tố Văn hóa- xã hội. ...................................................................... 12
1.3.2. Yếu tố kinh tế. .................................................................................... 14
1.3.3. Yếu tố pháp luật. ................................................................................ 15
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI CON
CHƢA THÀNH NIÊN TRONG QUAN HỆ CHA, MẸ- CON Ở VIỆT
NAM ............................................................................................................ 17

2.1. Quan điểm pháp lý về việc xác định và thực hiện quyền và nghĩa vụ của
con chưa thành niên. ..................................................................................... 17
2.1.1. Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hơn nhân của cha mẹ đều
có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ mình. ................................. 17
2.1.2. Không phân biệt đối xử giữa các con: con đẻ, con nuôi; con chung, con
riêng, không phân biệt đối xử với con trên cơ sở về giới. ............................. 18
2.1.3 Mọi thỏa thuận của cha mẹ, con liên quan đến quan hệ nhân thân, tài
sản không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa
thành niên. ................................................................................................... 21
2.2. Nội dung quy định pháp luật về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với
con chưa thành niên. ..................................................................................... 21

ii


2.2.1. Nghĩa vụ và quyền về nhân thân của cha mẹ đối với con chưa thành niên. 22
2.2.2. Nghĩa vụ và quyền về tài sản của cha mẹ đối với con chưa thành niên...... 28
2.2.3. Nghĩa vụ và quyền của cha nuôi, mẹ nuôi đối với con nuôi. ............... 35
2.3. Đại diện của cha mẹ đối với con chưa thành niên. ................................. 36
2.3.1. Hình thức đại diện của cha mẹ cho con chưa thành niên. .................... 37
2.3.2. Phạm vi đại diện của cha mẹ cho con chưa thành niên. ....................... 39
2.3.3. Các nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ, quyền đại diện của cha mẹ cho con
chưa thành niên. ........................................................................................... 41
2.4. Nội dung quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của con chưa thành
niên.......................................................................................................... .......43
2.5. Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên. ....................... 48
2.5.1. Các tường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên. 49
2.5.2. Người có quyền quyên cầu hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa
thành niên. .................................................................................................... 52
2.6. Vấn đề pháp lý đối với con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn. ............ 55

CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI
CON CHƢA THÀNH NIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................... 62
3.1 Thực tiễn thực hiện chế độ pháp lý đối với con chưa thành niên............. 63
3.1.1. Quy định về chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm chế độ pháp lý đối
với con chưa thành niên................................................................................ 63
3.1.2. Quy định về đại diện của cha mẹ đối với con chưa thành niên. ........... 67
3.1.3. Quy định về hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên. . 73
3.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi chế độ pháp lý đối với con
chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay. .......................................................... 76
KẾT LUẬN ................................................................................................. 78
ANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 79

iii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con chưa thành niên trong gia đình là trẻ em của xã hội, là đối tượng
được gia đình, nhà nước và xã hội quan tâm, cha mẹ và các thành viên khác
chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.
Từ khi sinh ra trẻ em cần nhận được sự quan tâm, chăm sóc từ gia đình
và xã hội. Các em cần được sống trong mơi trường phát triển lành mạnh và
hài hoà cả về thể chất lẫn tinh thần. Việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em
khơng cịn là việc làm mang tính tự nhiên, mà trở thành trách nhiệm và nghĩa
vụ của gia đình và xã hội. Tuy nhiên, hiện nay vẫn cịn khơng ít người cha,
người mẹ thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục con chủ yếu là dựa trên
bản năng, thực sự chưa coi đó là nghĩa vụ pháp lý. Những nguyên tắc hiến
định về quyền trẻ em này được cụ thể hoá trong những văn bản pháp luật.
Những nguyên tắc, quy định liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ, người đại diện

và các vấn đề khác của con chưa thành niên được thể chế hóa bằng những quy
định về chế độ pháp lý đối với con chưa thành niên. Người chưa thành niên là
đối tượng đặc biệt, đối tượng này phụ thuộc rất nhiều vào gia đình và xã hơi,
quyền và lợi ích dễ bị xâm phạm và chưa có khả năng tự bảo vệ quyền và lợi
ích của mình. Do đó, những vấn đề pháp lý đối với trẻ em nói chung và những
vấn đề về pháp lý đối với con chưa thành niên nói riêng cần được quy định rõ
ràng và cụ thể thông qua đó có thể đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Mặt khác, pháp luật cịn có những khiếm khuyết, vướng mắc và thiếu cơ chế
để thực hiện. Do đó, nghiên cứu “Những vấn đề pháp lý đối với con chƣa
thành niên” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Thơng qua việc nghiên cứu, có
thể xác định được nguyên nhân dẫn tới việc áp dụng những quy định pháp
luật này trong thực tế cịn có những hạn chế, vướng mắc, không phù hợp, qua

1


đó tìm ra những biện pháp giải quyết để nâng cao hiệu quả của những quy
định này khi đưa vào áp dụng, bảo vệ tốt nhất quyền của con chưa thành niên.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng những quy định liên quan đến con chưa thành
niên còn chưa rõ ràng. Từ thực trạng nêu trên, nghiên cứu một cách có hệ thống,
khoa học các quy định của pháp luật về những vấn đề pháp lý đối với con chưa
thành niên để hiểu đúng và thực hiện đúng, cũng như phát hiện những điểm bất
cập nhằm hoàn thiện chúng là một cơng việc thực sự cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Liên quan đến nội dung người chưa thành niên nói chung và con chưa
thành niên nói riêng thì trên thế giới cũng như trong nước đã có những quy
định được luật hóa hoặc thỏa thuận thành quy tắc chung như: Công ước Liên
Hiệp Quốc về quyền trẻ em năm 1989, chế định đại diện cho con chưa thành
niên trong Bộ luật dân sự các năm 1995, 2005, 2015, Luật hơn nhân và gia
đình năm 2014 và luật trẻ em 2016,... Về tình hình nghiên cứu thì đã có nhiều

đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí đã đề cập một cách trực tiếp
hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan. Đề tài người chưa thành niên
trong lĩnh vục dân sự, hình sự cũng đã rất nhiều những bài viết, bài nghiên
cứu, nhiều cơng trình nghiên cứu xoay quanh chủ thể là người chưa thành
niên hay quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Một số ví dụ như: bài viết “Đại diện
bề ngồi nhìn từ góc độ pháp luật dân sự Nhật Bản”, Nguyễn Thị Phương
Châm, Tạp chí luật học số 6/2016; bài viết “Những quy định pháp luật về hạn
chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên và cá kiến nghị hồn
thiện”, Cao Minh Vũ, Nguyễn Nhật Khanh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
12(340) T6/2017; luận văn thạc sĩ luật học “Năng lực hành vi dân sự của
người chưa thành niên” – Nguyễn Thị Hiền, năm 2007; luận văn thạc sĩ luật
học “Quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên trong giao dịch dân sự” –
Hoàng Thị Vân Anh, năm 2014; luận văn thạc sĩ “Quan hệ giữa cha mẹ và

2


con trong gia đình nơng thơn hiện nay” – Nguyễn Thị Ánh Tuyết, năm
2009;…
Tuy nhiên, những vấn đề pháp lý đối với người chưa thành niên- con
chưa thành niên thì vẫn cịn ít các nghiên cứu liên quan. Với mục đích làm
phong phú thêm nội dung nghiên cứu những vẫn đề pháp lý đối với người
chưa thành niên, tôi lựa chọn đề tài:"Những vấn đề pháp lý đối với con chưa
thành niên" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ luật học với mong muốn
sẽ góp phần hồn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiện hành về
những vấn đề pháp lý đối với con chưa thành niên nhằm khẳng định tầm quan
trọng của các quy định về người chưa thành niên nói chung và con chưa thành
niên nói riêng. Đồng thời, qua đó nhằm góp phần phát hiện những hạn chế
của Luật Việt Nam với những vấn đề pháp lý đối với con chưa thành niên nói
riêng cũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi ở Việt

Nam. Từ đó, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn quy
định về những vấn đề pháp lý đối với con chưa thành niên trong pháp luật
Việt Nam nói chung, nâng cao hiệu quả áp dụng đối với con chưa thành niên
trong ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát một số vấn đề lý luận pháp lý về con chưa thành
niên như khái niệm, xác định nội hàm những vấn đề pháp lý về con chưa
thành niên trong quan hệ gia đình, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn
thực hiện pháp luật về con chưa thành niên; từ đó cung cấp luận cứ cho một
số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
con chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, luận văn xác định những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nghiên cứu những lý luận về những vấn đề pháp lý đối với con chưa
thành niên.
3


- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về những vấn đề
pháp lý đối với con chưa thành niên.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về những vấn đề pháp lý đối con
chưa thành niên qua hoạt động xét xử của ngành Toà án giải quyết các vụ việc
liên quan đến con chưa thành niên; tìm hiểu thực tiễn áp dụng Luật hơn nhân
gia đình về chế độ pháp lý đối với con chưa thành niên trong quá trình thực
hiện quyền và nghĩa vụ đối với các đối tượng liên quan trong đời sống pháp
luật thực tế. Qua đó, đánh giá về những thành cơng và hạn chế của việc áp
dụng Luật với những quy định về chế độ pháp lý của con chưa thành niên.
Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng quy định chế độ pháp lý
của con chưa thành niên, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn

thiện quy định pháp luật liên quan đến những vấn đề pháp lý đối với con chưa
thành niên dưới quan hệ cha mẹ-con tại Việt Nam.
Phân tích, đánh giá việc áp dụng, nhận dạng những thuận lợi cũng như
những bất cập, hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật về chế độ pháp lý
đối với con chưa thành niên , trên cơ sở đó chỉ ra những điểm cịn thiếu sót,
chưa phù hợp của luật thực định và của q trình áp dụng luật vào thực tiễn.
Từ đó, luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hồn thiện
quy định trong pháp luật liên quan đến những vấn đề pháp lý đối với con chưa
thành niên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Là các quan điểm, lý thuyết, các cơng trình khoa học, những quy định
pháp luật và thực tiễn về những vấn đề pháp lý về con chưa thành niên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu luận văn này tập trung vào những vấn
đề pháp lý của con chưa thành niên trong Bộ Luật dân sự năm 2015, Luật Hôn
4


nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản quy phạm khác liên quan đến chủ
đề nghiên cứu đã nêu ở trên. Thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được
đề ra ở trên, tác giả mong muốn cung cấp cho người đọc một cách tổng thể
các quy định liên quan đến những vấn đề pháp lý đối với con chưa thành niên.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu thực trạng, tình hình áp dụng chế độ pháp lý đối
với con chưa thành niên để có thể đánh giá được mức độ bảo vệ của các quy
định pháp luật trong thực tế. Đồng thời, dựa vào thực trạng đó để nghiên cứu
về nguyên nhân của thực trạng trên từ đó đưa ra những giải pháp để tháo gỡ
vướng mắc còn tồn tại.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử của chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam. Theo đó, người viết đặt các vấn đề pháp lý liên
quan đến con chưa thành niên trong mối liên hệ, quan hệ với các đối tượng
liên quan khác trong xã hội, trong phạm vi điều chỉnh của Luật, không nghiên
cứu một cách riêng lẻ đồng thời có sự so sánh với các quy định đã hết hiệu
lực cũng như sắp được áp dụng.
- Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng:
Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Những phương pháp này
được sử dụng phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật liên quan
đến vấn đề pháp lý của con chưa thành niên .
Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Những phương pháp này
được người viết vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật về
chế độ pháp lý của con chưa thành niên hiện hành có hợp lý hay khơng, đồng
thời nhìn nhận trong mối tương quan so với quy định liên quan hoặc pháp luật
của các nước khác…
Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để triển

5


khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến chế độ pháp lý của con chưa thành
niên, đặc biệt là các kiến nghị hoàn thiện. Cụ thể như trên cở sở đưa ra những
kiến nghị mang tính khái quát, súc tích người viết dùng phương pháp diễn
dịch để làm rõ nội dung của kiến nghị đó…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận
trong khoa học pháp lý của vấn đề pháp lý đối với con chưa thành niên . Cụ
thể: Phân tích, đưa ra được các quy định liên quan đến vấn đề pháp lý đối với
con chưa thành niên, phân tích thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề
pháp lý của con chưa thành niên, chỉ ra những bất cập của pháp luật và đưa ra

phương hướng hoàn thiện các quy định trong luật hiện hành.
Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để
các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung,
hồn thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài
liệu tham khảo hữu ích khơng chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà cịn có
giá trị đối với các cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây
dựng pháp luật về vấn đề pháp lý đối với con chưa thành niên .
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chƣơng 1: Khái quát một số vấn đề pháp lý đối với con chưa thành niên.
Chƣơng 2:Thực trạng chế độ pháp lý đối với con chưa thành niên trong quan
hệ cha, mẹ-con ở Việt Nam hiện nay
Chƣơng 3:Thực tiễn thực hiện và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi
chế độ pháp lý đối với con chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay.

6


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI CON
CHƢA THÀNH NIÊN
1.1 Khái niệm, đặc điểm của con chƣa thành niên.
1.1.1 Khái niệm con chưa thành niên
“Người chưa thành niên” không phải là một khái niệm mới, nó được sử
dụng phổ biến đặc biệt là các văn bản pháp luật. Ngồi ra chúng ta cịn bắt
gặp khái niệm “vị thành niên” và “trẻ em”.
Người chưa thành niên là người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về
nhân cách, chưa có đầy đủ, quyền lợi và nghĩa vụ của một cơng dân. Mỗi
quốc gia lại có quy định riêng về độ tuổi của người chưa thành niên.
Điều 1- Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp

quốc thơng qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Cơng ước này, trẻ
em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với
trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Theo từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, năm 2004) thì “Thành
niên” là đến độ tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ; “vị thành niên” là chưa đến tuổi được tuổi được pháp luật
công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ.
Trong Từ điển Luật học (NXB Bách Khoa, Hà Nôi, năm 1999) không
đưa ra khai niệm “vị thành niên” là người chưa đến tuổi được pháp luật coi là
có đủ khả năng để sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm, Theo đó
thì người chưa đủ 18 tuổi là “vị thành niên”.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là người thành niên có
độ tuổi từ đủ mười tám tuổi trở lên còn người chưa thành niên là người chưa
đủ mười tám tuổi [2, Khoản 1 Điều 20 và Khoản 1 Điều 21]. Như vậy, thông
qua giới hạn về độ tuổi mà khoa học luật dân sự chia cá nhân thành người
7


thành niên và người chưa thành niên.
Cũng giống như các đối tượng khác quan hệ pháp luật, người chưa thành
niên có năng lực pháp luật bình đẳng như mọi cá nhân. Tuy nhiên, năng lực
hành vi của người chưa thành niên lại không được đánh giá ngang bằng với
các đối tượng khác, thậm chí là có sự khác nhau trong chính độ tuổi chưa
thành niên. Xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu khoa học dưới nhiều góc độ mà
một số văn bản pháp lý, công ước, điều ước quốc tế về trẻ em đều ghi nhận trẻ
em là một người có độ tuổi dưới 18, trừ khi luật pháp ở từng quốc gia cụ thể
quy định tuổi thành niên sớm hơn. Cụ thể, trong các văn bản quốc tế và các
chương trình của liên hiệp quốc (sau đây gọi tắt là LHQ) sử dụng đồng thời cả
hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Ví dụ, điều 1 Công ước của
LHQ về quyền trẻ em (United Nations Convention on the rights of the child,

CRC) năm 1989 quy định rằng trong phạm vi của CRC, trẻ em có nghĩa là
mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy
định tuổi thành niên sớm hơn; và tại điều 2 trong Công ước số 182 (Cơng ước
nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xố bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất), năm 1999 đã quy định thuật ngữ trẻ em sẽ áp dụng cho tất cả những
người dưới 18 tuổi. Như vậy, đã gần 30 năm từ ngày Việt Nam chính thức trở
thành nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công
ước quốc tế về Quyền trẻ em, đến nay Việt Nam lại là nước còn lại duy nhất
trong khối các quốc gia ASEAN, thứ 4 ở châu Á và thứ 11 trên thế giới chưa
nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên 18 tuổi [16]. Bên cạnh đó Quy tắc tối
thiểu phổ biến của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do, năm
1990 cũng xác định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi.
Các quốc gia có sự quy định khác nhau về độ tuổi của người chưa thành
niên và độ tuổi đó tùy thuộc vào sự pháp triển tâm sinh lý và nhận thức của
từng khu vực. Ví dụ như Cộng hịa Liên bang Nga là dưới 18 tuổi, nước Anh

8


là dưới 16 tuổi, Thái Lan là dưới 20 tuổi. Hiện nay, ở Việt Nam thì độ tuổi
người chưa thành niên được thống nhất trong Hiến pháp, Bộ Luật Dân sự, Bộ
Luật Hình sự, Bộ Luật Tố tụng hình sự, Luật Lao động, ... Tất cả các văn bản
pháp luật đó đều quy định độ tuổi chưa thành niên là dưới 18 tuổi. Tuy nhiên
việc phân nhóm đối tượng dưới 18 tuổi chỉ mang ý nghĩa tương đối vì trên
thực tế chúng ta khơng thể tìm ra được một sự đồng nhất hoàn toàn giữa các
lớp lứa tuổi khác nhau trong nhóm chưa thành niên. Do đó, có những quy
định riêng của mỗi ngành luật về người chưa thành niên ở cách nhóm tuổi
khác nhau phù hợp với đối tượng điều chỉnh của chế định pháp luật đối với
người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Người thành niên là người từ đủ 18

tuổi trở lên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên. Với quy định
này, có thể hiểu rằng, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa trưởng thành.
Luật Lao động năm 2012 quy định về người lao động như sau: Người lao
động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp
đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử
dụng lao động [5, Khoản 1 Điều 3].
Theo Luật trẻ em năm 2016 có quy định: trẻ em là người dưới 16 tuổi
[7,Điều 1]. Như vậy, quy định về tuổi trẻ em trong Luật trẻ em đã sự chênh
lệch với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em.
Theo Luật Thanh niên năm 2020 quy định: Thanh niên quy định trong
Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi [8, Điều 1].
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự
phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng
giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó,
người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Con chưa thành niên là khái niệm được nhắc đến trong ngành luật hôn

9


nhân và gia đình có nghĩa hẹp hơn khái niệm người chưa thành niên, tuy
nhiên chưa có văn bản pháp luật nào định nghĩa khái niệm này. Con chưa
thành niên bản chất chính là người chưa thành niên đặt trong mối quan hệ với
cha mẹ hoặc với những người thân trong gia đình như: cha mẹ ni, cha
dượng, mẹ kế, anh chị em ruột, ông bà nội, ông bà ngoại, …).
Như vậy, về khái niệm: Con chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa
phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên và được đặt trong mối quan hệ với
những người thân trong gia đình.
Quan hệ giữa cha, mẹ và con cái là quan hệ tràn đầy tình cảm u

thương, chăm sóc như một lẽ tự nhiên, nhưng lại đầy ý thức trách nhiệm và
nghĩa vụ trước xã hội. Có thể thấy rằng quan hệ cha, mẹ và con vừa có ý
nghĩa quan trọng về mặt pháp lý, vừa có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội.
Cha, mẹ, con là những chủ thể cốt yếu trong quan hệ hơn nhân và gia
đình. Luật Hơn nhân gia đình điều chỉnh quyền, nghĩa vụ trong mối quan hệ
đó. Nói đến con chưa thành niên là nói đến chủ thể có quy chế pháp lý đặc
biệt trong quan hệ cha mẹ và con.
1.1.2. Đặc điểm của con chưa thành niên.
Dười góc độ tâm lý, trong suốt quá trình phát triển con người phải trải
qua các giai đoạn phát triển khác nhau, mà mỗi giai đoạn lại có đặc điểm tâm
sinh lý riêng, đặc trưng cùng với những tác động bên ngồi làm hình thành
hành vi ứng xử khác nhau. Giai đoạn chưa thành niên là giai đoạn có vị trí
quan trọng trong cả q trình hoàn thiện và phát triển của con người. Nghiên
cứu người chưa thành niên thông qua các đặc điểm về tâm lí, sinh lí sẽ giúp
chúng ta hiểu được cơ sở khoa học của những quy định pháp luật đối với đối
tượng này.
Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, tuổi có ý nghĩa thời gian

10


trong quá trình phát triển của con người nhưng tuổi không quy định trực tiếp
sự phát triển nhân cách của con người. Tuổi có thể phù hợp với trình độ tâm lí
của con người nhưng cũng có thể đi nhanh hoặc chậm hơn điều đó cũng phụ
thuộc một phần vào mơi trường, hồn cảnh xung quanh. Tuy nhiên người
chưa thành niên sống trong hồn cảnh nào thì cũng đều có những đặc điểm
chung, đặc trưng chung của lứa tuổi đó.
- Người chưa thành niên là người đang trong quá trình phát triển cả về
sinh lí, tâm lí và ý thức. Đây là giai đoạn rất đặc biệt, đó là sự phát triển, thay
đổi của cơ thể nên đã dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc

của người chưa thành niên.
- Có thể nói, lứa tuổi chưa thành niên là giai đoạn phát triển rất nhanh về
mặt sinh học nhưng lại thiếu cân bằng về mặt trí tuệ. Đây là lứa tuổi có ít kinh
nghiệm trong đời sống, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp luật cịn nhiều
hạn chế.
- Người chưa thành niên có nhu cầu độc lập và nhu cầu độc lập có thể
được hiểu là việc cá nhân tự hành động và tự ra quyết định theo ý kiến riêng
mà không muốn bị ảnh hưởng của người khác.
- Người chưa thành niên có nhu cầu tìm hiểu, khám phá cái mới.
1.2 Khái niệm những vấn đề pháp lý về con chƣa thành niên.
Pháp lý là những khía cạnh, phương diện khác nhau của đời sống pháp
luật của một quốc gia. Pháp lí chỉ những lí lẽ, lẽ phải theo pháp luật. Vấn
đề pháp lý là những vấn đề trọng tâm cần tranh luật hoặc giải quyết theo
hình thức pháp luật của một vấn đề liên quan đến một chủ thể xác định.
Như vậy, có thể hiểu những vấn đề pháp lý đối với con chưa thành niên là
những vấn đề trọng tâm liên quan đến chủ thể con chưa thành niên, các quy
định của pháp luật điều chỉnh những vấn đề pháp lý có liên quan đến chủ
thể con chưa thành niên.

11


Một số vấn đề pháp lý đối với con chưa thành niên được tác giả đề cấp
đến trong cơ cấu của luận văn này bao gồm:
+ Quyền và nghĩa vụ của con chưa thành niên.
+ Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
+ Đại diện của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
+ Vấn đề pháp lý đối với con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn.
+ Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến chế độ pháp lý đối với con chƣa thành

niên
1.3.1. Yếu tố Văn hóa- xã hội.
Các yếu tố văn hóa – đời sống bao giờ cũng thuộc về một mơi trường
văn hóa xã hội nhất định gắn liền với một phạm vi không gian xã hội nhất
định, nơi các cá nhân và cộng đồng người tổ chức các hoạt động sống, sinh
hoạt, cùng nhau tạo dựng, thừa nhận và chia sẻ các giá trị văn hóa, lối sống,
phong tục tập quán, lễ nghi… Với những mặt, những khía cạnh biểu hiện của
mình, các yếu tố văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện
pháp luật nói chung- đảm bảo việc thực hiện chế độ pháp lý đối với con chưa
thành niên nói riêng.
Thứ nhất, nền văn hóa phương Đơng rất xem trọng tình cảm, sự gắn bó,
trách nhiệm của cha mẹ đối với con. Việc cha mẹ sinh con cái và có trách
nhiệm chăm lo cho đời sống con cái là một lẽ đương nhiên, là nhiệm vụ và
thiên chức của bậc làm cha mẹ. Tuy nhiên trách nhiệm chăm lo cho con cái
cũng là nghĩa vụ và quyền của cha mẹ được pháp luật ghi nhận. Cha mẹ thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền của cha mẹ không chỉ là sự vi phạm pháp luật
mà nó cịn là sự vị phạm đạo đức xã hôi và sẽ chịu sự lên án của những người
xung quanh, của tồn thể xã hội. Điều này cũng góp phần tác động đến việc
bản đảm thực hiện chế độ pháp lý đối với con chưa thành niên.

12


Thứ hai, xã hội ngày càng phát triển thì các quyền của con người càng
được bảo vệ và nâng cao. Mọi người đều có quyền bình đẳng trên mọi
phương diện không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính... Trong đó,
quyền của trẻ chưa thành niên cũng được đề cao, tơn trọng đối xử bình đẳng
và ghi nhận trong những điều ước quốc tế, các văn bản quy phạm pháp luật,...
Thứ ba, hiện nay phạm vi giao tiếp về xã hội cơ bản tương đối rộng,
cường độ giao tiếp cao và mang tính ẩn danh trong giao tiếp. Đây là điều kiện

thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật và các hình thức
thực hiện pháp luật. Tính cộng đồng trong xã hội được nâng cao là điều kiện
thuận lợi đối với hoạt động thực hiện pháp luật. Các hành vi vi phạm trái với
đạo đức xã hội, trái pháp luật sẽ bị chính những người trong cộng đồng xã hội
phát giác, ngăn chặn và bị tố cáo. Bằng ý thức cộng đồng, nó giúp cho các cán
bộ pháp luật dễ dàng hơn trong việc phổ biến, tuyên truyền và thực hiện chính
sách, pháp luật về chế độ pháp lý đối với con chưa thành niên với đơng đảo
cơng dân. Cùng với đó là sức mạnh của tinh thần đoàn kết giúp cho các cơ
quan chức năng có liên quan dễ dàng hồn thành nhiệm vụ thực thi và bảo vệ
pháp luật.
Thứ tư, ngày nay với sự phát triển của công nghệ các phương tiện thông
tin đại chúng thường xuyên đăng tải các thông tin về các sự việc xâm phạm
đến quyền trẻ em, quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, hoạt
động thực hiện pháp luật của các cơ quan chức năng, nêu lên những xử phạt
vi phạm, sự trừng trị thích đáng cho những kẻ vi phạm pháp luật. Những
thơng tin đó ở chừng mực khác nhau tác động đến suy nghĩ, nhận thức và
hành vi của mỗi con người, mỗi chủ thể của các quan hệ liên quan đế chế độ
pháp lý của con chưa thành niên khiến cho họ có ý thức hơn, thực hiện pháp
luật tốt hơn.
Thứ năm, dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện

13


pháp luật. Dư luận xã hội gắn liền với ý chí cộng đồng của nhóm xã hội mà
nó tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành động của các cá nhân. Trong một
chừng mực nhất định người ta có thể không sợ sự trừng phạt của pháp luật khi
thực hiện những hành vi sai trái, phạm pháp nhưng chúng lại sợ sự phê phán
lên án của dư luận xã hội – một thứ bất thành văn.
Trong điều kiện xã hội có nền dân chủ rộng rãi, dư luận xã hội được coi là

phương tiện kiểm tra xã hội đối với ý thức pháp luật và hành vi pháp luật của
mỗi người. Dưới áp lực của dư luận xã hội, mỗi người luôn phải xem xét, suy
nghĩ, kiểm định trước khi thực hiện một hành vi pháp luật nào đó. Những câu
hỏi phải được đặt ra về cái đúng, cái sai, nên hay khơng nên… Nhờ đó, ý thức
tơn trọng, tuân thủ pháp luật trong mỗi chủ thể cũng được nâng lên một bước.
1.3.2. Yếu tố kinh tế.
Yếu tố kinh tế bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế – xã
hội, hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội và việc triển khai thực
hiện, áp dụng chúng trong thực tế xã hội. Nền kinh tế – xã hội phát triển năng
động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực hiện pháp luật,
tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật của
các tầng lớp xã hội. Ngược lại, nền kinh tế – xã hội chậm phát triển, kém năng
động và hiệu quả sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật của
các chủ thể pháp luật. Yếu tố kinh tế là nền tảng của sự nhận thức, hiểu biết
pháp luật và thực hiện pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực
hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Các điều kiện về kinh tế cũng là một
trong các phương tiện để đảm bảo quyền của trẻ chưa thành niên, đáp ứng
những nhu cầu cơ bản và tối thiểu trong sự phát triển về thể chất và hình
thành nhân cách của mỗi con người.
Khi kinh tế phát triển, đời sống tinh thần, vật chất đươc cải thiện thì đời
sống của từng gia đình cũng được cải thiện. Khi có điều kiện về kinh tế cha mẹ
sẽ có phương tiện để thực hiện tốt hơn nghĩa vụ và quyền đối với con cái, đảm

14


bảo việc thực hiện nghĩa vụ và quyền của cha mẹ theo quy định của pháp luật.
Còn khi kinh tế chậm phát triển, thu nhập thấp, tình trạng thất nghiệp gia
tăng, lợi ích kinh tế khơng được đảm bảo thì đời sống của gia đình gặp khó
khăn, cha mẹ khơng có khả năng cung cấp những nhu cầu tối thiểu của con

cùng với đó tư tưởng sẽ diễn biến phức tạp, cái xấu có cơ hội nảy sinh, tác
động tiêu cực tới nhân cách, tác động xấu đến sự hình thành và phát triển của
trẻ chưa thành niên. Đây chính là mảnh đất lý tưởng cho sự xuất hiện các loại
hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược lại các giá trị, chuẩn mực pháp luật.
Việc thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo các nguyên tắc của công bằng
xã hội, đảm bảo đời sống vật chất của mọi tầng lớp trong xã hội là điều kiện cần
thiết cho sự ổn định cuộc sống, củng cố ý thức của con người về cái chung trong
các lợi ích, khơi dậy thái độ tích cực của quần chúng trong xã hội trong việc tôn
trọng pháp luật, chấp hành pháp luật cũng được nâng lên một bước và việc thực
hiện pháp luật của các chủ thể trở nên tự giác và chủ động hơn.
Việc phát triển kinh tế cũng phần nào ảnh hưởng điển việc thực hiện,
áp dụng quy định của pháp luật đối với những vấn đề pháp lý của con chưa
thành niên.
1.3.3. Yếu tố pháp luật.
Yếu tố pháp luật là tổng thể các yếu tố tạo nên đời sống pháp luật của xã
hội ở từng giai đoạn nhất định bao gồm hệ thống pháp luật, các quan hệ pháp
luật… Bản thân pháp luật được sinh ra là để điều chỉnh các quan hệ xã hội là
cơ sở để các chủ thể thực hiện pháp luật. Song chính các mặt, khía cạnh khác
nhau của các chuẩn mực pháp luật cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt
động thực hiện pháp luật. Yếu tố pháp luật bảo đảm việc thực hiện chế độ
pháp lý đối với con chưa thành niên xét trên các yếu tố: các quy định của
pháp luật và cơ quan đảm bảo thực hiện pháp luật.
Những tác động của yếu tố xã hội vào việc thực hiện chế độ pháp lý đối

15


với con chưa thành niênlà quan trọng nhưng chưa đủ để đảm bảo việc thực
hiện chế độ pháp lý đối với con chưa thành niên mà cịn phải có bảo đảm về
pháp luật, là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chế độ pháp lý đơi với con chưa

thành niên. Pháp luật do Nhà nước ban hành và được bảo đảm thực hiện bằng
sức mạnh cưỡng chế của quyền lực Nhà nước. Vì vậy, chỉ thơng qua việc
được ghi nhận chế độ pháp lý đối với con chưa thành niên trong các quy định
pháp luậtmới được cụ thể, công khai hóa và được đảm bảo thực hiện.
Chế độ pháp lý của con chưa thành niên được điều chỉnh bằng hệ thống
quy phạm pháp luật và được quy định bởi các văn bản quy phạm pháp luật
khác nhau cụ thể như: Hiến pháp, Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia
đình, các nghị định thơng tư hướng đẫn liên quan đến chế độ pháp lý của con
chưa thành niên.

16


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI CON
CHƢA THÀNH NIÊN TRONG QUAN HỆ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
2.1. Quan điểm pháp lý về việc xác định và thực hiện quyền và nghĩa vụ
của con chƣa thành niên.
Dựa vào các căn cứ phát sinh quan hệ cha mẹ con theo quy định của
pháp luật mà ta xác định được mối quan hệ giữa các chủ thể, từ mối quan hệ
đó làm phát sinh các quyền và nghĩa có liên quan. Để xác định bảo vệ, thực
hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con Luật hôn nhân Gia đình đã đưa ra
các quan điểm pháp lý như:
Thứ nhất, con sinh ra khơng phụ thuộc vào tình trạng hơn nhân của cha
mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ mình [3, Khoản 2
Điều 68].
Thứ hai, không phân biệt đối xử giữa các con: con đẻ, con nuôi; con
chung, con riêng, không phân biệt đối xử với con trên cơ sở về giới.
Thứ ba, mọi thỏa thuận của cha mẹ, con liên quan đến quan hệ nhân
thân, tài sản không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con
chưa thành niên

Những quan điểm pháp lý được đưa ra trong Luật Hôn nhân gia đình nêu trên
có thể coi là những ngun tắc trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
cha mẹ con.
2.1.1. Con sinh ra khơng phụ thuộc vào tình trạng hơn nhân của cha mẹ
đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ mình.
Xác lập quan hệ hơn nhân giữa vợ và chồng có thể phát sinh hoặc chấm
dứt dựa trên cơ sở sự tự nguyện của hai bên nam nữ. Người ta có quyền ly
hơn vợ hoặc chồng bằng một bản án, quyết định có hiệu lực của tịa án nhưng
khơng ai có quyền chối bỏ trách nhiệm đối với con của mình, ngay cả khi hôn

17


nhân khơng cịn tồn tại. Việc xác định mối quan hệ cha mẹ và con khi một
đưa trẻ được sinh ra khơng phụ thuộc vào tình trạng hơn nhân của cha mẹ
chúng. Mối quan hệ giữa con và cha mẹ đẻ là mối quan hệ huyết thống, sự
gắn kết máu thịt. Đứa con là sự kết hợp những tế bào của cha đẻ và mẹ đẻ của
đứa trẻ đó. Kể từ thời điểm đứa trẻ được sinh ra mối quan hệ cha mẹ đẻ với
con đẻ đã được hình thành và xác định mà khơng có bất kỳ yếu tố nào có thể
làm thay đổi bản chất của mối quan hệ đó. Tuy nhiên, có những trường hợp
tại thời điểm được đứa trẻ đứa sinh ra không tồn tại quan hệ hôn nhân giữa
cha và mẹ hoặc quan hệ hôn nhân giữa cha mẹ của đứa trẻ đã chấm dứt; để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đứa trẻ, đảm bảo việc thực hiện nghĩa
vụ của cha mẹ đối với con pháp luật cũng đưa ra phương hướng xác định
quan hệ cha mẹ con dựa vào nguyên tắc suy đốn pháp lý.
2.1.2. Khơng phân biệt đối xử giữa các con: con đẻ, con nuôi; con chung,
con riêng, không phân biệt đối xử với con trên cơ sở về giới.
Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình hình thành từ quan hệ hôn
nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Xuất phát từ những quan hệ đó mà các
thành viên trong gia đình có sự gắn bó chặt chẽ, sâu sắc về tình cảm và trách

nhiệm với nhau.
Ni con ni là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận
nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được
nhận làm con nuôi được trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp
với đạo đức xã hội. Kể từ thời điểm xác lập quan hệ nuôi con nuôi theo quy
định của pháp luật thì giữa cha ni, mẹ ni và con ni có quyền và nghĩa
vụ của cha mẹ con được quy định cụ thể trong Luật hơn nhân và gia đình. Tại
Điều 68 và Điều 78 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đều ghi nhận: Cha
mẹ ni, con ni có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ con theo quy định của
pháp luật. Pháp luật không cho phép phân biệt đối xử giữa con đẻ, con nuôi.

18


Con đẻ và con ni có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau.
Mối quan hệ giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc chồng phát
sinh trong trường hợp cha hoặc mẹ xây dựng lại gia đình, sống chung với con
riêng trong cuộc hôn nhân trước, hoặc con ngoài giá thú. Đây là điều kiện bắt
buộc, trong nhiều trường hợp, bố dượng, mẹ kế không sống chung với con
riêng thì khơng phát sinh mối quan hệ này.Hiện nay, khơng ít những trẻ em
do cha mẹ ly hơn, hoặc sớm lâm vào cảnh mất cha, mất mẹ, còn nhỏ tuổi chưa
thể tự mình ni thân để trưởng thành, các em phải sống chung với bố dượng,
mẹ kế. Để có cơ sở giải quyết những vấn đề pháp lý, quyền và nghĩa vụ giữa
con riêng và bố dượng, mẹ kế, Luật Hơn nhân và gia đình đã quy định dù là
con riêng của vợ hoặc chồng nhưng bố dượng, mẹ kế vẫn có đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ như người cha, người mẹ đối với con ruột của mình và ngược lại.
Cho dù bố dượng, mẹ kế không phải là người sinh thành ra mình, nhưng trong
hồn cảnh trên họ là người trực tiếp cùng sinh sống cùng con chưa thành niên,
cũng là người thay thế cha mẹ đẻ chăm sóc, ni dưỡng con. Quan hệ giữa
người con riêng với bố dượng, mẹ kế cũng là quan hệ cha, mẹ – con. Mọi

người sinh ra đều có quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo
vệ một cách bình đẳng mà khơng có bất cứ sự phân biệt nào. Quyền bình đẳng
được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhất là quyền bình
đẳng trong lĩnh vực pháp lý. Quyền và nghĩa vụ của một người khơng bị phân
biệt giới tính. Trong cùng một điều kiện như nhau, mỗi cá nhân được hưởng
các quyền và nghĩa vụ như nhau.
Tình mẫu tử giữa cha mẹ đẻ và con là mối quan hệ huyết thống, ln có
một sợi dây vơ hình kết nối mối quan hệ đó. Cha mẹ nào lại khơng u
thương những đứa con ruột của mình, một phần máu thịt của mình. Nhưng
khác với những đứa con đẻ, đối tượng con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng
lại là mối quan hệ phát sinh bằng sự kiện pháp lý, do ý trí của các chủ thể

19


quyết định. Trên thực tế trong cuộc sống việc phân biệt đối sự giữa con đẻ,
con nuôi, con riêng là một sự thật hiện hữu. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của trẻ em, bảo đảm sự bình đẳng và được hưởng mọi quyền ngang nhau
thì pháp luật Hơn nhân gia đình đã đưa ra những quy định: Kể từ thời điểm
phát sinh quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng
với cha dượng, mẹ kế thì giữa những chủ thể này sẽ đồng thời phát sinh
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con theo quy định của pháp luật.
Mỗi người chúng ta dù là trẻ em hay người lớn đều mong muốn mình
được u mến, có chỗ đứng trong lịng người thân của mình. Là cha mẹ, ai
cũng thương yêu và cố gắng cư xử cơng bằng với con mình, đặc biệt không
phân biệt đối xử giữa con trai và con gái. Nhưng phụ nữ, trẻ em gái vẫn là đối
tượng bị đối xử bất bình đẳng ngay trong gia đình. Việt Nam là một quốc gia
theo văn hóa phương Đơng nên vẫn còn bị ảnh hưởng bởi những giáo lý
phương Đơng trong đó có giáo lý trọng nam khinh nữ, con trai là trụ cột gia
đình, là người nối dõi huyết thống của gia đình. Ngay từ khi cịn là những

mầm sống, có những gia đình và người làm cha mẹ đã có khuynh hướng
muốn sinh con trai và tìm những biện pháp để đạt được việc này. Điều đó đã
dẫn đến xu hướng mất cân bằng giới tính khi sinh, trẻ em nam nhiều hơn trẻ
em nữ. Đến khi trưởng thành, đặc biệt là khi có gia đình, người con gái đi lấy
chồng trở nên ít có tiếng nói trong gia đình cha mẹ và cịn phải chịu sự bất
bình đẳng trong phân chia tài sản, hưởng quyền thừa kế… Những cản trở,
phân biệt với phụ nữ và trẻ em gái ngay trong gia đình, từ phía chính cha mẹ
sẽ khiến xu hướng bất bình đẳng giới trong xã hội gia tăng. Do vậy, cha mẹ
ngay từ trong suy nghĩ cần tránh việc phân biệt đối xử với con cái, đặc biệt là
phân biệt đối xử giữa con trai và con gái để tránh những mâu thuẫn trong gia
đình. Hơn nữa việc phân biệt đối xử giữa các con trên cơ sở giới là vi phạm
quy định của pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em.

20


×