Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

skkn phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua việc phân tích, tìm cách giải bài tập vật lí nâng cao phần cơ học bậc THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.54 KB, 11 trang )

1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến cấp thị xã năm học (2020-2021):
“Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thơng qua việc phân tích, tìm cách giải
bài tập vật lí nâng cao phần Cơ học bậc THCS”.
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (Vật lí)
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 15/09/2020
5. Mơ tả bản chất của sáng kiến:
5.1. Tính mới của sáng kiến:
- Trong sáng kiến này tôi đã lựa chọn, sưu tầm một số giải pháp, các bài tập
hay và đa dạng từ các nguồn tài liệu tham khảo; đặc biệt chú ý đến nhu cầu học tập
của học sinh là bồi dưỡng năng lực toán học và kĩ năng vận dụng tốn học vào bài
tập vật lí.
- Giải một bài tập theo nhiều hướng khác nhau để phù hợp với mọi đối tượng
học tham gia nhận thức. Phát triển một bài tập từ một hình thức đề thành nhiều đề
khác nhau theo nhiều hướng khác nhau và khai thác bài tập ở mức cần tư duy cao
hơn.
- Trong mỗi bài tập đều có phân tích, đánh giá, nhận xét qua từng cách giải cụ
thể; vấn đề mà hiện nay cịn được ít các tác giả viết sách quan tâm, chú ý đến để
học sinh có thể phát triển được tư duy sáng tạo, tự học và nâng cao nhận thức của
mình.
5.2. Về nội dung của sáng kiến:
5.2.1. Các giải pháp để tổ chức thực hiện:
- Đưa ra một số cách giải khác nhau cho một bài tập (một số bài tập phần cơ
học trong chương trình vật lí nâng cao bậc trung học cơ sở).
- Phân tích ưu, nhược điểm của các cách giải và chỉ ra cho học sinh thấy được
các cách giải đó được thực hiện trên cơ sở những đơn vị kiến thức nào.
- Ở mỗi dạng tốn cố gắng hình thành cho các em một bài tập tổng qt để
các em có cái nhìn khái qt khi giải các bài tập cùng dạng tốn đó.
- Từ đó giúp cho giáo viên và học sinh khắc sâu thêm một đơn vị kiến thức,
một hiện tượng vật lí cụ thể. Đồng thời, xây dựng và kích thích ý thức tìm tịi
nghiên cứu, khám phá, tìm hiểu nhiều cách giải cho một bài tập.


Bằng việc trao đổi trực tiếp với học sinh trong quá trình giảng dạy, cũng như
ơn luyện học sinh giỏi đội tuyển Vật lí tơi nhận thấy để khắc phục những hạn chế
của học sinh thì trong quá trình dạy cho học sinh giải các bài tập giáo viên cần thực
hiện một số bước sau:
- Lựa chọn và xây dựng một số bài tập điển hình để đưa ra các cách giải khác
nhau cho một bài tập.


2

- Phân tích các cách giải cho một bài tập. Đồng thời, có lồng vào việc phân
tích chung cho một dạng toán tổng quát.
- Giao hệ thống bài tập về nhà để các em tự giải bằng nhiều cách khác nhau.
- Thực hiện định hướng giải bài tập cho học sinh tương tự như việc dạy lí
thuyết.
Cơ sở lí thuyết để thực hiện được các giải pháp trên là:
+ Lí thuyết chung về chuyển động cơ học.
+ Tính chất tương đối của chuyển động cơ học
+ Định luật paxcan; ứng dụng đặc điểm, tính chất bình thơng nhau
+ Định luật Acsimet và mối quan hệ giữa lực đẩy Acsimet với trọng lượng của
vật (hoặc hệ vật) khi nhúng trong chất lỏng.
+ Đặc điểm của hai lực cân bằng.
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp lực đối với một vật hoặc một hệ vật.
+ Đặc điểm của các máy cơ đơn giản.
+ Định luật bảo tồn về cơng.
5.2.2. Một vài ví dụ: “Tìm thêm cách giải cho một vài dạng toán cơ học ở bậc
THCS”
a) Bài tập 1:
Một động tử chuyển động từ A đến B với vận tốc 32m/s. Cứ sau mỗi giây vận
tốc giảm đi một nửa. Tính thời gian đi hết quãng đường AB. Biết AB = 60m.

* Cách giải 1:
Lập bảng:
Thời gian chuyển động Vận tốc chuyển động Quãng đường đi được
(s)
(m/s)
s = v.t (m)
Giây thứ nhất
v1= 32
s1= v.t = 32
Giây thứ hai
v2= 16
s2= v.t = 16
Giây thứ ba
v3= 8
s3= v.t = 8
Giây thứ tư
v4= 4
s4= v.t = 4
Quan sát bảng trên ta thấy sau 4s quãng đường động tử đi được là:
s = s1 + s2 + s3 + s4 = 32 + 16 + 8 + 4 = 60(m)
Vậy, sau 4 giây động tử đi hết quãng đường AB.
* Cách giải 2:
Vì cứ sau mỗi giây vận tốc của động tử giảm đi một nửa. Nên nếu gọi n là số
đoạn đường đi được trong mỗi giây thì thời gian đi hết quãng đường AB là: t = n
(giây)
Theo bài ra ta có: s1 + s2 + s3 + … + sn-1 + sn = sAB
vt
vt2
vt
vt

+ 3 + … + (nn−−21) + n −n1 = sAB
2
4
2
2
1
1
1
1
S
Vì t1= t2= t3=... tn-1= tn = 1 (s) nên: 1 + + + … + n − 2 + n −1 = AB
2
4
2
2
v
⇔ vt1 +


3

⇔ 1 + (1 ⇔


1
1 1
1
1
1
1

S
15
) + ( - ) + … + ( n − 3 - n − 2 ) + ( n − 2 - n −1 ) = AB =
8
2
2 4
2
2
2
2
v
1
15
2 - n −1 =
8
2
1
1
1
= 3
n −1 =
8 2
2



n–1=3

n=4
Vậy: sau t = n = 4 giây động tử đi hết quãng đường AB.

* Phân tích các cách giải:
- Cách giải 1 là cách giải thường được sử dụng trong các tài liệu, được nhiều
giáo viên sử dụng. Cách giải này đơn giản, học sinh chỉ cần kẻ bảng (lựa chọn kết
quả) là tìm ra được. Xong nó có hạn chế: Khơng phát triển được tư duy chiều sâu
của học sinh, không tạo dựng được cho các em phương pháp giải chung cho thể
loại bài tập này.
- Với cách giải 2 học sinh phải tư duy cao hơn, các em muốn giải được cần có
một đơn vị kiến thức toán học nhất định. Tuy nhiên, một khi các em đã nắm chắc
cách giải này thì các em có thể có khả năng khái quát nội dung bài tốn thành dạng
tổng hợp cao hơn: qng đường bất kì, giảm hoặc tăng vận tốc theo tỉ lệ bất kì,…
b) Bài tập 2:
Trời lặng gió, một ca nơ chuyển động ngược dịng, đến A gặp một chiếc bè
đang thả xi dòng. Sau 5 phút kể từ khi gặp bè, ca nơ quay lại xi dịng và gặp
bè ở B cách vị trí A là 1,5 km. Tính vận tốc dịng nước.
* Cách giải 1:
+ Xét chuyển động của ca nô so với bè, ta có:
C
A
D
B
- Khi chuyển động ngược chiều:
(xét mốc chuyển động chung tại chỗ gặp là A, ca nơ ngược dịng từ A  C, bè xi
từ A  D)
(vcn + vbè). t1 = SCD
(1)
- Khi chuyển động cùng chiều:
(lúc này canô xuất phát tại C, bè xuất phát tại D chuyển động cùng chiều xi dịng
nước gặp nhau tại B)
(vcn - vbè). t2 = SCD
(2)

+ Xét chuyển động của ca nơ và bè so với dịng nước, ta có:
- Khi chuyển động ngược dịng:
vcn = v - vnước
vbè = vnước hay vcn = v - vbè
(3)
(v: là vận tốc của canô do động cơ sinh ra; tức vận tốc riêng của canô)


4

- Khi chuyển động xi dịng:
vcn = v + vnước
vbè = vnước hay vcn = v + vbè
(4)
Thay các biểu thức (3) vào (1) và (4) vào (2) tương ứng, ta suy ra:
vt1 = vt2 ⇔ t1 = t2 = 5 phút = 300 giây
Xét trên quãng đường AB, ta có vận tốc của dịng nước là (vận tốc của bè xi
dịng từ A  B):
S

1500

AB
vnước= t + t = 600 = 2,5(m / s )
1
2

Vậy, vận tốc của dòng nước là 2,5(m/s)
A


* Cách giải 2:

S1

B
S2

S

'

'

S2

- Gọi quãng đường ca nô và bè đi được trong thời gian t = 5 phút1 = 300s, kể từ khi
ca nô và bè gặp nhau lần đầu tại A lần lượt là: S1 và S2.
- Gọi quãng đường ca nô và bè đi được trong thời gian t ’(s), kể từ khi ca nơ bắt đầu
xi dịng cho đến lần gặp nhau tại B lần lượt là: S '1 và S ' 2 .
- Vận tốc của ca nô do máy đẩy là v, vận tốc của dịng nước là vn.
Ta có:
S1= (v - vn)t
; S2= vnt

'
S 1 = (v + vn)t ; S ' 2 = vnt’
Mặt khác:
S1 + S2 = S '1 - S ' 2 ⇔ (v - vn)t + vnt = (v + vn)t’ - vnt’
⇔ vt = vt’ ⇔ t’ = t = 300(s)
Mà:


S2 + S ' 2 = vnt + vnt’ = SAB

⇔ vn=

S AB
1500
= 2,5(m/s)
' =
t +t
300 + 300

Vậy, vận tốc của dòng nước là 2,5(m/s)
* Phân tích các cách giải:
- Trong cách giải thứ nhất, đã sử dụng tính chất tương đối của chuyển động và
đứng yên làm nền tảng chủ yếu. Với cách giải này, học sinh dễ nắm bắt và có thể
hiểu sâu về bản chất đó là cơ sở lí thuyết của loại tốn chuyển động có dịng nước.
Tuy nhiên, cách giải có phần dài, nặng về định tính.
- Cách giải thứ hai kết hợp sơ đồ với phương pháp chung về giải tốn chuyển
động có dịng nước. Cách giải này, nặng về thuật tốn và khả năng hình dung hiện
tượng vật lí cụ thể.
c) Bài tập 3:
Đặt một viên bi thép có trọng lượng riêng d 1 và thể tích V1 lên một tấm gỗ
không thấm nước, rồi thả nổi trong một bình nước hình trụ (trọng lượng riêng của
nước là d). Sau đó gạt viên bi thép ra khỏi miếng gỗ cho nó chìm trong bình nước.


5

Hỏi mực nước trong bình dâng lên hay hạ xuống so với khi chưa gạt bi thép xuống

và tính thể tích nước dâng lên hoặc hạ xuống đó ?
* Cách giải 1:
Gọi H là độ cao của mực nước ban đầu; h là độ cao mực nước sau khi gạt hịn
bi xuống; S là diện tích đáy bình; Gọi thể tích chất lỏng bị hệ vật chiếm chỗ khi
chưa gạt viên bi xuống chậu và khi gạt viên bi xuống chậu nước lần lượt là V và
V'.
- Áp lực của nước tác dụng lên đáy bình khi chưa gạt viên bi xuống là:
F1= d.V
- Khi gạt viên bi xuống, áp lực tác dụng lên đáy bình là:
F2= d.V’ – d.V1 +V1.d1 = d.V’ + V1(d1 – d)
- Vì trọng lượng của nước, viên bi sắt không thay đổi nên F1= F2 tức:
d.V = d.V’ + V1(d1 – d)
⇔ d(V – V’) = V1(d1- d)


V – V’ =

V1 (d1 − d )
d

Vì viên bi chìm nên d 1 > d do đó (V - V') > 0. Tức là V > V'. Vậy khi gạt viên bi
xuống thì mực nước trong chậu hạ xuống và thể tích nước hạ xuống là:
V* = V – V’ =

(d 1 − d )V1
d

* Cách giải 2:
Gọi thể tích chất lỏng bị hệ vật chiếm chỗ khi chưa gạt viên bi xuống chậu và
khi gạt viên bi xuống chậu nước lần lượt là V và V'; V *là thể tích nước dâng lên

hay hạ xuống ; d2, V2 là trọng lượng riêng và thể tích của tấm gỗ.
- Lực đẩy Acsimet tác dụng lên hệ vật trong trường hợp đầu là :
FA = dV = V1d1 + V2d2
(1)
- Lực đẩy Acsimet tác dụng lên hệ vật trong trường hợp thứ 2 là :
F'A = dV' = V1d + V2d2
(2)
- Từ (1) và (2) ta có :
V - V' =

(d1 − d )V1
d

Vì viên bi chìm nên d1 > d và do đó (V - V') > 0. Tức V > V'. Vậy khi gạt
viên bi xuống thì mực nước trong chậu hạ xuống và thể tích nước hạ xuống là :
V* = V - V' =

(d1 − d )V1
d

* Phân tích các cách giải:
- Đối với cách giải 1 chúng ta phải dựa vào định luật Pascan, dựa vào việc áp
lực tác dụng lên đáy bình gây ra sự dâng lên của mực nước trong bình. Ở cách giải
này, thường có trong hầu hết các tài liệu tham khảo (Tuy nhiên, ở biểu thức tính F 2


6

đã xác định dư lên một lượng dV1). Khi sử dụng cách giải này, đòi hỏi học sinh cần
lưu ý tới một số đơn vị kiến thức cơ bản sau:

+ Khi vật (hoặc hệ vật) nổi trong chất lỏng thì: PVật = PChất lỏng bị vật chiếm chỗ
+ Khi vật chìm PVật > PChất lỏng bị vật chiếm chỗ
+ Khi xét trong hệ vật kín, ta ln có: F1= F2
- Đối với cách giải 2, học sinh dựa hoàn toàn vào định luật Acsimet. Cách giải
này đơn giản, học sinh dễ nhận thức được vấn đề và có thể nắm được cách giải một
cách chắc chắn hơn.(Giáo viên nên hướng cho các em lựa chọn cách giải này).
d) Bài tập 4:
l1
l2

Một thanh đồng chất, tiết diện đều, đặt trên thành của một bình hình trụ đựng
nước. Ở đầu thanh có buộc một quả cầu đồng chất, có bán kính R, sao cho quả cầu
ngập hoàn toàn trong nước, hệ thống này nằm cân bằng như hình trên. Biết trọng
lượng riêng của quả cầu và nước là d và d 0, tỉ số

l1 a
=
l2 b .

đồng chất nói trên.
* Cách giải 1:
- Khi hệ thống cân bằng ta có:
l1
l
+ Fl1 = P2 2
2
2
P2
l
a

= 1 =

P1 + 2 F l2 b

Tính trọng lượng của thanh

l2

l1
P1 F

P2

P1

(*)

P

l

a

1
1
- Mặt khác, vì thanh tiết diện đều nên ta có: P = P1 + P ; P = l = b
2
2

⇒ P1 =


P.a
a+b

;

P2=

P.b
a+b

Thay P1, P2 vào (*) ta có:

Trong đó:
Do đó:

2aF
P.b 2
P.a 2
=
+ 2aF ⇒ P =
b−a
a+b a+b
4
F = P - FA= V.(d – d0) = π R3.(d – d0)
3

P=

8aπR 3 (d − d 0 )

3(b − a )

* Cách giải 2:
- Vì quả cầu chìm trong nước nên điểm đặt A phải
nằm bên cánh tay đòn l2 (A là trung điểm của thanh)

l2

l1

A O
P

F


7

đồng thời thanh đồng chất, tiết diện đều nên ta có:
l1 + l2
l −l
− l1 = 2 1
2
2
l −l
P 2 1 = Fl1
- Khi hệ thống cân bằng ta có:
2
l1 a
b

Mà: l = b ⇒ l2= l1 và F= P – FA = V(d – d0) ; do đó:
a
2
b−a
Pl1
= Vl1(d - d0)
2a

AO =



2Va (d − d 0 ) 8aπR 3 (d − d 0 )
=
P=
b−a
3(b − a )

* Phân tích các cách giải:
- Trong cách giải thứ nhất, ta sử dụng phương pháp phân tích trọng lượng của
thanh thành 2 thành phần: Khi đó điểm đặt của 2 lực thành phần nằm ở trung điểm
của các phần địn bẩy (Vì thanh đồng chất, tiết diện đều). Đồng thời chúng ta phải
sử dụng 2 đơn vị kiến thức cơ bản:
+ Biểu thức về điều kiện cân bằng của đòn bẩy.
P

l

1
1

+ Xét với thanh đồng chất tiết diện đều ta ln có: P = l
2
2

- Trong cách giải thứ hai, ta đã tổng hợp các trọng lượng phân bố trên thanh
bằng hợp lực P. Khi đó, điểm đặt của P chính là trung điểm của thanh (Vì thanh
đồng chất, tiết diện đều).
Đối với loại bài tập này, vì các cánh tay địn chưa biết và cũng chưa biết mối liên
hệ giữa các cánh tay đòn với độ dài của đòn bẩy, nên ta có thể sử dụng cách giải 1.
Với cách giải 1 thì việc xác định độ lớn của các cánh tay đòn theo l1, l2 đơn giản
hơn cách 2. Tuy nhiên, nếu học sinh biết cách xác định các cánh tay địn thơng qua
việc phân tích lực thì cách giải thứ 2 giúp các em khắc sâu hơn về phương pháp
phân tích trọng lượng của thanh trên hình vẽ.
e) Bài tập 5:
Một người muốn cân một vật, nhưng trong tay khơng có cânA O
B
mà chỉ có một thanh cứng đồng chất, tiết diện đều, có trọng
Lượng P= 3N và một quả cân có khối lượng 0,3kg. Người ấy
đặt thanh lên một điểm tựa O, treo vật vào đầu A. Khi treo quả cân vào điểm B thì
thấy hệ thống cân bằng và thanh nằm ngang. Đo khoảng cách giữa các diểm người
1
4

1
2

ấy thu được kết quả: OA = l , OB = l (Hình bên). Hãy xác định khối lượng của
A O
vật cần cân.
* Cách giải 1:

- Ta nhận thấy có những lực sau tác dụng vào thanh AN:
P1
+ Trọng lượng P1 của vật, P2 của quả cân có điểm đặt tại A và B.

M
P

B
P2

N


8

+ Trọng lượng P của thanh, đặt tại trung điểm M của thanh AN (Vì thanh
đồng chất, tiết diện đều).
- Thanh cân bằng khi:
P1.OA = P.OM + P2. OB
P



P1 =

l
l
+ P2
4
2

l
4



P1 = P + 2P2 = 9(N)
Vậy, vật cần cân có khối lượng: m = P1 : 10 = 0,9 kg.
A MO
* Cách giải 2:
- Ta nhận thấy nếu phân tích trọng lượng P thành 2 thành
P’1


P
phần: P 1 và P 2 thì có những lực sau tác dụng lên thanh AN:
1
+ Trọng lượng P1 của vật, P2 của quả cân có điểm đặt tại A và B.
+ Thành phần P’1 có điểm đặt tại trung điểm M của đoạn OA.
+ Thành phần P’2 có điểm đặt tại trung điểm M’ của đoạn ON.

M’ B
P’2 P

N

2

- Thanh cân bằng khi:
l
l

l
3l
P1 4 + P’1 8 = P2 2 + P’2 8
l l
3
1
= ( 2 P + P ' 2 − P '1

2
2
P1 4 4


Vì thanh đồng chất, tiết diện đều nên:
Do đó: P1 = 2P2 +

3 '
1
P 2 − P '1
2
2
1
3
P '1 = P2 ; P ' 2 = P
4
4

P1 = 2P2 +

9

1
P − P = 2 P2 + P = 9 N
8
8

Vậy, vật cần cân có khối lượng: m = 0,9 kg.
* Phân tích các cách giải:
- Trong cách giải thứ nhất, ngoài 2 ngoại lực P 1, P2 ta đã tổng hợp các lực tác
dụng lên thanh tại mọi điểm thành hợp lực P.
- Trong cách giải thứ hai, ngoài 2 ngoại lực P 1, P2 ta đã phân tích trọng
lượng P thành 2 thành phần, có điểm đặt nằm trên hai phần của đòn bẩy.
Đối với dạng bài tập này, vì vị trí điểm tựa O đã biết. Tức là biết độ dài các cánh
tay đòn so với độ dài của địn bẩy, thì ta nên sử dụng cách giải thứ nhất.
5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Những giải pháp tơi trình bày ở trên đã được áp dụng có hiệu quả cho đội
tuyển học sinh giỏi vật lí của trường THCS An Lộc B, mặc dù khả năng tiếp nhận
kiến thức của các em còn nhiều hạn chế. Tơi nghĩ rằng sáng kiến này có thể áp


9

dụng có hiệu quả cho tất cả các trường học đóng trên địa bàn thị xã cũng như các
trường THCS trong địa bàn tỉnh.
6. Những thông tin bảo mật: Không có
7. Điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Để giáo dục được thế hệ trẻ không chỉ một người mà nó là vai trị của các
thầy, các cơ giáo, các bậc cha mẹ, họ là những người nuôi dưỡng và dạy dỗ để bồi
dưỡng những thế hệ tương lai cho đất nước và nhân loại. Muốn vậy, người giáo
viên phải không ngừng tham khảo tài liệu, tư duy, rút kinh nghiệm, tìm ra nhiều
cách giải cho một bài tốn. Đồng thời, phải phân tích cho học sinh thấy được ưu,

nhược điểm của các cách giải, các cách giải đó được xây dựng dựa trên đơn vị kiến
thức cơ bản nào. Chúng ta không thể dừng lại ở một cách giải đơn thuần. Đó cũng
chính là cốt lõi của vấn đề; tức là bằng cách tư duy, tìm ra các cách giải khác nhau
cho một bài tập để khắc sâu thêm một đơn vị kiến thức, một hiện tượng vật lí cụ
thể và hình thành cho các em thói quen tư duy lôgic trong giải bài tập.
- Phần quan trọng khơng kém đó chính là học sinh, các em phải xác định được
mục tiêu của việc học cho bản thân là hết sức cần thiết về: ý thức tự giác, tinh thần
tự học ln tìm tịi cái mới và biết áp dụng nội dung bài học vào thực tiễn. Các em
phải luôn cố gắng không ngừng, không dấu dốt, sợ sai. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ
nhiệt tình của phụ huynh học sinh, tạo mọi điều kiện động viên các em cố gắng
vươn lên là một yếu tố lớn quyết định đến sự lĩnh hội tri thức của các em.
8. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Bằng việc xây dựng và tìm ra các cách giải cho một bài tập. Đồng thời, có phân
tích chỉ ra các đơn vị kiến thức sử dụng trong các cách giải, có nêu ra ưu điểm và
hạn chế của từng cách giải. Tơi nhận thấy, khi dạy phần này thì sự tiếp thu và khả
năng giải quyết các bài tập của học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt:
- Các em nắm chắc được các hiện tượng vật lí trong các nội dung bài tập cụ thể
và từ đó có thể chủ động phân tích được nội dung các bài tập. Đồng thời đưa ra
được cách giải hợp lí và đi đúng hướng.
- Khả năng giải quyết bài tập trong một thời gian ngắn hơn so với những khóa
học trước.
- Đối với giáo viên chủ động, tự tin hơn trong quá trình hướng dẫn học sinh
giải bài tập. Đã tạo dựng được hình ảnh sâu đậm về người thầy, là chỗ dựa vững
chắc cho các em về kiến thức bộ môn. Đồng thời, khi đã tạo dựng được thói quen
cho mình thì bản thân người thầy đã được củng cố và khắc sâu kiến thức, có khả
năng ứng phó kịp thời với những cách giải mới của học sinh, dễ phát hiện được
những bài giải sai (do nhầm về bản chất của hiện tượng vật lí, ngộ nhận vấn đề,
thiếu suy xét kĩ lưỡng).



10

Qua việc kiểm nghiệm lại đối với đội tuyển Vật lí của trường do tơi giảng dạy
năm học 2019 - 2020 và sau khi đã áp dụng phương pháp trên vào năm học 2020
– 2021, tôi đã thu được kết quả đối chứng trong hai năm học như sau:
* Năm học 2019-2020:
Các nội dung và yêu cầu đưa ra đối với học sinh
Số học sinh nêu ra được cơ sở lí thuyết trong cách giải
bài tập.
Số học sinh có lí luận chặt chẽ trong lời giải
Số học sinh chủ động đưa ra cách giải mới

Kết quả thu được
20%
20%
5%

* Năm học 2020-2021:
Các nội dung và yêu cầu đưa ra đối với học sinh
Số học sinh nêu ra được cơ sở lí thuyết trong cách giải
bài tập.
Số học sinh có lí luận chặt chẽ trong lời giải
Số học sinh chủ động đưa ra cách giải mới

Kết quả thu được
75%
40%
15%

* Bài học kinh nghiệm:

Trong quá trình giảng dạy việc hướng dẫn học sinh giải được các bài tập là
rất cần thiết. Song nếu người giáo viên chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn giải cho các
em bằng một cách (thường là cách có trong các tài liệu) là chưa đủ. Điều quan
trọng là làm thế nào để qua sự hướng dẫn của giáo viên mà học sinh tự lực giải
được các bài tập dạng đó trong một tập hợp các bài tập vật lí nói chung. Tức là xây
dựng cho các em một khả năng linh hoạt, sáng tạo trong tư duy, nhạy cảm và năng
động trong nhận thức đề. Muốn vậy, khi dạy giải bài tập ở một phần học nào đó,
người giáo viên phải biết tìm tịi, sắp xếp và xây dựng được một số cách giải khác
nhau cho một bài tập. Phân tích các cách giải, chỉ ra cho học sinh thấy được các
cách giải đó đã được sử dụng những đơn vị kiến thức nào và cách giải nào phù
hợp, khoa học hơn. Thơng qua việc phân tích này, giúp học sinh định hướng cách
giải, hình thành các bước giải, chiếm lĩnh các đơn vị kiến thức cần phục vụ cho
quá trình giải bài tập. Đồng thời hình thành cho các em một phương pháp phân tích
nội dung một bài tập.
Ở phần trình bày của mình, tơi đã đưa ra một số bài tập cơ học điển hình có
nhiều cách giải. Trong mỗi bài tập, tôi đã đưa ra hai cách giải có kèm theo việc
phân tích các cách. Trong phân tích, đã cho các em thấy được các đơn vị kiến thức
cơ bản được sử dụng trong cách giải và chỉ ra ưu điểm, nhược điểm của cách giải
đó.


11

Qua những vấn đề đã nêu, tơi mong muốn hình thành cho các em phương
pháp tư duy độc lập, sáng tạo. Giúp các em nắm chắc hơn về bản chất, về cơ chế
của các hiện tượng cơ học, các nội dung kiến thức lí thuyết và vận dụng chúng một
cách linh hoạt, năng động, sáng tạo. Đồng thời, qua đó giúp các em biết cách
nghiên cứu và khai thác cách giải trong các tài liệu tham khảo. Biết dựa vào tài liệu
để nhận thức một vấn đề và từ vấn đề đó phải biết mở rộng, biết khái quát tổng hợp
để được một phương pháp giải cho riêng mình.

Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cơ giáo để sáng kiến được
hồn thiện hơn.
Nam



×