Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Thiết kế và sử dụng hệ thống trò chơi nhằm nâng cao hiệu quả dạy học toán cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.1 KB, 90 trang )

1

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phịng quản lí Khoa học,
Trường Đại học Hùng Vương đã cho em thêm cơ hội để học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn với các thầy cô trong Ban chủ
nhiệm và các thầy cô trong Khoa giáo dục Tiểu học và Mầm non Trường Đại
học Hùng Vương đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ em trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu.
Bằng tấm lịng thành kính và biết ơn, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
thầy giáo Lê Văn Lĩnh người đã tận tình hướng dẫn và động viên em trong
suốt quá trình nghiên cứu và làm đề tài này.
Em xin trân trọng cảm ơn, các thầy cô giáo phản biện, các giáo viên
trường Tiểu học Hùng Lô – thành phố Việt Trì đã đóng góp ý kiến bổ sung
cho bản khóa luận được hồn thiện hơn. Đồng thời tơi xin tỏ lịng biết ơn đối
với những người thân yêu, bạn bè đã cổ vũ, động viên hoàn thành luận văn.
Phú Thọ, tháng 5 năm 2018
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Phương Liên


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thế kỉ XXI, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự phát
triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Khoa học công nghệ trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tri thức là chìa khóa cuối cùng mở cánh
cửa tương lai. Xã hội đang dần tiến đến “xã hội học tập” con người vừa là
mục đích, vừa là mục tiêu động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Chính vì


vậy, Đảng và Nhà nước ta coi Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Bậc Tiểu học
là bậc học nền tảng, là cơ sở cho sự phát triển trí tuệ cũng như nhận thức của
học sinh. Chúng ta muốn phát triển tư duy và nhận thức của các em sau này
thì chúng ta cần quan tâm tới điều đó ngay từ bậc Tiểu học.
1.2. Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi ham hiểu biết, ln khám phá,
tìm tịi, thích tự mình phát hiện ra những điều mới lạ, thú vị cũng như tự mình
phát hiện ra kiến thức mới. Song việc chuyển hoạt động chủ đạo từ “vui chơi”
ở lứa tuổi Mẫu giáo sang “học tập” ở lứa tuổi Tiểu học là bước ngoặt quan
trọng trong đời sống của trẻ. Những thay đổi này tạo cho trẻ những cơ hội
phát triển mới đồng thời cũng tạo cho các em nhiều khó khăn. Quá trình phát
triển trí tuệ của trẻ dược hình thành từ những khám mới qua mỗi lần chơi, từ
sự tương tác với người cùng chơi, từ sự hứng thú với chính q trình chơi.
Do đó để giúp trẻ thích nghi dần với cuộc sống mới ở trường tiểu học,
người giáo viên cần tìm ra những cách thức, con đường thích hợp mang lại
cho trẻ sự cảm nhận thực sự “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Giúp
các em hứng thú với việc học tập, xóa bỏ tâm lý sợ học là việc làm rất cần
thiết trong dạy học ở tiểu học.
1.3. Tốn học là một mơn học có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng và
hiện nay đang có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học. Nâng
cao chất lượng dạy học nói chung và chất lượng dạy học mơn Tốn nói riêng
là vấn đề cần được quan tâm. Tuy nhiên, tốn học vốn là mơn học đặc trưng
bởi tính trừu tượng, chính xác, logic chặt chẽ… nên toán học dễ mang lại cho
học sinh (nhất là học sinh nhỏ) những căng thẳng về tâm lý, dẫn đến tình


3

trạng một bộ phận khơng nhỏ học sinh thiếu lịng tin trong học toán, nhất là
học sinh các lớp đầu cấp tiểu học. Để giảm bớt những căng thẳng, để việc dạy
học tốn trở nên sinh động, hấp dẫn, lơi cuốn học sinh, kích thích hứng thú

nhận thức, tạo sự tích cực, sáng tạo, niềm say mê học tập ở học sinh, việc sử
dụng trị chơi trong dạy học tốn ở tiểu học sẽ góp phần giải quyết tốt các vấn
đề nêu trên.
1.4. Việc tổ chức trò chơi học tập mơn tốn được xuất phát từ luận
điểm cơ bản là: Những gì trẻ thích làm, nó sẽ tìm cách làm và có đủ thì
giờ để làm. Những gì gây được sự tị mị, trẻ sẽ tìm cách khám phá.
Những gì trẻ khơng sợ nó sẽ tìm cách tiếp cận và bộc lộ hết khả năng một
cách tự nhiên. Trò chơi học tập nói chung và trị chơi học tốn nói riêng
đảm bảo được những tiền đề nói trên. Vì thế có tác dụng tốt trong việc
củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng và tạo cơ hội để học sinh ứng dụng
vào giải quyết một vấn đề cụ thể thiết thực mà các em đang quan tâm. Trị
chơi tốn học đưa học sinh vào những tình huống vui vẻ khiến trẻ khơng
thấy e sợ, thấy hứng thú và kích thích tính tị mị, vì vậy sẽ cuốn hút tâm
lý của trẻ. Khi trẻ chơi sẽ là lúc bộc lộ rõ những khả năng hiểu biết kiến
thức và ứng dụng kiến thức theo trình độ thực có của trẻ.
1.5. Giúp trẻ học tốn qua các trị chơi là một trong những hướng
đổi mới phương pháp dạy học toán ở tiểu học hiện nay, góp phần hình
thành ở học sinh tiểu học những năng lực hết sức cần thiết như: Năng lực
giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấ đề và sáng tạo, năng
lực tự học. Giáo viên có thể sử dụng trị chơi học tập để hình thành kiến
thức, kỹ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kỹ năng đã học. Tuy nhiên,
trong thực tế dạy học toán ở tiểu học giáo viên chỉ thường tổ chức trò chơi
học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng còn việc tổ chức trị chơi học tập
trong việc hình thành các kiến thức, kỹ năng toán học là rất cần thiết để
tạo hứng thú cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới có thể nói chưa
được quan tâm thường xuyên. Hơn nữa do điều kiện thời gian, công sức
đầu tư, nên việc lựa chọn và thiết kế làm phong phú các trị chơi, tìm cách


4


sử dụng chúng sao cho phù hợp với đối tượng học sinh, với điều kiện thực
tế giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng dạy học toán của giáo viên ở
tiểu học nói chung, ở lớp 1 nói riêng vẫn cịn ít.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tơi đã lựa chọn đề tài: “Thiết
kế và sử dụng hệ thống trò chơi nhằm nâng cao hiệu quả dạy học toán
cho học sinh lớp 1”.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1. Ý nghĩa khoa học
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về thiết kế và sử dụng hệ
thống các trò chơi trong dạy học, vai trò, chức năng của việc sử dụng trị
chơi trong dạy học tốn tiểu học.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Thiết kế được một hệ thống các trò chơi theo các mạch kiến thức: số
học, hình học, đại lượng, giải tốn có lời văn.
- Đề xuất các ngun tắc lựa chọn và tổ chức trò chơi, các biện pháp
thực hiện các ngun tắc đó.
3. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế một số trị chơi tốn học và sử dụng chúng nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả dạy học tốn cho học sinh lớp 1.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề liên quan đến đề tài: Nội dung, chương
trình mơn Tốn lớp 1, đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu học, lý luận về
trò chơi, trị chơi học tập, trị chơi tốn học, làm sáng tỏ về vai trò, ý nghĩa tổ
chức các trò chơi trong dạy học toán ở tiểu học.
- Khảo sát thực trạng sử dụng trị chơi trong dạy học tốn lớp 1 ở
trường tiểu học Hùng Lô – thành phố Việt Trì – tỉnh Phú Thọ.
- Thiết kế hệ thống trị chơi nhằm nâng cao hiệu quả dạy học tốn cho
học sinh lớp 1.
- Đề xuất cách thức sử dụng các trò chơi đã thiết kế.



5

- Tổ chức thực nghiệm sử dụng một số trò chơi toán học đã thiết
kế trong dạy học toán lớp 1 ở trường Tiểu học Hùng Lô – thành phố
Việt Trì – tỉnh Phú Thọ.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Thiết kế các trò chơi và cách sử dụng các trị chơi tốn học trong dạy học
tốn lớp 1 ở trường Tiểu học Hùng Lơ – thành phố Việt Trì – tỉnh Phú Thọ.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện thời gian có hạn nên chúng tơi chỉ thiết kế hệ thống trị
chơi và cách sử dụng chúng trong dạy học toán cho học sinh lớp 1 ở trường
Tiểu học Hùng Lô – thành phố Việt Trì – tỉnh Phú Thọ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Đọc tài liệu, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống các nguồn tài
liệu, các đề tài nghiên cứu, các giáo trình liên quan tới đề tài: Tâm lý học,
giáo dục học, lý thuyết về trò chơi, định hướng đổi mới phương pháp dạy học
nói chung, dạy học tốn ở tiểu học nói riêng, phân tích, so sánh, hệ thống hóa,
rút ra kết luận từ các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát: Quan sát và ghi chép để nhận xét, đánh giá về cách sử dụng
trị chơi tốn học của giáo viên dạy lớp 1.
- Điều tra: Sử dụng phiếu điều tra đối với giáo viên tiểu học để tìm hiểu
thực trạng thiết kế và sử dụng trị chơi tốn học cho học sinh lớp 1 trong dạy học
toán của giáo viên trường Tiểu học Hùng Lô.
- Đàm thoại: Trao đổi với các giáo viên trường tiểu học nhằm tìm hiểu
về nhận thức, thực trạng sử dụng trị chơi tốn học, nguyên nhân và các giải

pháp cho thực trạng ấy. Phỏng vấn học sinh để tìm hiểu hứng thú của học sinh
đối với trị chơi học tập nói chung và trị chơi tốn học nói riêng.
- Thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm một số tiết học có sử dụng trị
chơi đã thiết kế và tổ chức trị chơi theo quy trình đã để ra, nhằm khẳng định


6

vai trò, tác dụng của việc sử dụng trò chơi cũng như các biện pháp tổ chức trò
chơi trong dạy học toán tiểu học.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng cơng thức thống kê tốn học để xử lý kết quả điều tra thực
trạng và kết quả thực nghiệm.


7

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Điểm qua một số cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.1.1. Ở nước ngoài
Đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học đang trở thành diễn đàn được
xã hội quan tâm sâu sắc, đặc biệt là những người làm công tác giáo dục. Đây
là một trong những nhân tố cơ bản góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói
chung và giáo dục tiểu học nói riêng. Từng bước đưa giáo dục nước ta theo
kịp trình độ giáo dục của các nước trong khu vực và trên thế giới. Cùng với sự
đổi mới giáo dục nói chung, giáo dục tiểu học cũng đã và đang đổi mới về nội
dung và phương pháp dạy học mà trong đó có sử dụng các phương pháp dạy
học không truyền thống vào trong q trình dạy học.
Tổ chức trị chơi học tập trong dạy học nói chung và trong dạy học

mơn tốn ở tiểu học nói riêng là một hình thức dạy học đã được các nhà sư
phạm trên thế giới cũng như ở nước ta quan tâm. Bởi lẽ họ đã tìm thấy ý
nghĩa vai trị đích thực của trị chơi học tập trong việc giáo dục và dạy học
cho trẻ. Theo nhà sư phạm nổi tiếng N.K. Crupxkaia thì “Trị chơi học tập
không những là phương thức nhận biết thế giới, là con đường dẫn dắt trẻ đi
tìm chân lý mà cịn giúp trẻ xích lại gần nhau, giáo dục cho trẻ tình u q
hương, lịng tự hào dân tộc. Trẻ em khơng chỉ học trong lúc học mà cịn học
trong lúc chơi. Chơi với trẻ vừa là học, vừa là lao động, vừa là hình thức
giáo dục nghiêm túc”.
Phrebenlia cho rằng: “Trò chơi học tập như là một phương pháp dạy
học”. Tuy nhiên Phrebenlia nhấn mạnh vai trò của trò chơi học tập là những
bài tập, những nhiệm vụ học dưới sự hướng dẫn của người lớn. Thế nhưng
những trò chơi học tập được tổ chức cho trẻ theo chương trình của Phrebenlia
theo nhận xét của nhà giáo dục tiến bộ của nước Nga tiêu biểu là K.Đ.
Usinski (1824 – 1870) thì những trị chơi học tập đó cịn tẻ nhạt, nó có khả
năng dạy trẻ hơn là để trẻ tự học.


8

Trong các giáo trình “Giáo dục học”, “ Giáo dục học Tiểu học”, cũng
ln nhấn mạnh việc tổ chức trị chơi học tập chiếm vị trí quan trọng trong
phương pháp dạy học “Trị chơi là một hình thức tổ chức dạy học nhẹ nhàng,
hấp dẫn, lôi cuốn học sinh vào học tập tích cực, vừa chơi, vừa học và có kết
quả”.
1.1.2. Ở Việt Nam
Trị chơi học tập là một hình thức dạy học được các nhà giáo dục quan
tâm bởi nhu cầu vui chơi không thể thiếu của con người ở mọi lứa tuổi. Trong
thực tiễn dạy học ở trường tiểu học, trò chơi học tập phần lớn được xem như
là một thủ thuật, biện pháp củng cố kiến thức cho học sinh ngay sau bài học.

Trò chơi học tập được sử dụng trong rất nhiều môn học ở tiểu học như: Đạo
đức, Tiếng việt, Tự nhiên xã hội, Toán,… Một số tác giả như: Trần Ngọc Lan
với “Hệ thống trị chơi củng cố 5 mạch kiến thức tốn ở Tiểu học”, Vũ Khắc
Tuân với “Trò chơi thực hành Tiếng việt lớp 1”… Đã có rất nhiều đóng góp
trong việc đưa trò chơi vào giảng dạy với tư cách là một phương pháp dạy học
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Tuy nhiên, việc làm phong phú thêm nguồn trò chơi cũng như hướng dẫn
sử dụng trò chơi một cách cụ thể tường minh sẽ mang ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn đối với việc tổ chức trị chơi tốn học ở các lớp đầu bậc tiểu học. Cần
nhấn mạnh rằng những thành tựu nghiên cứu đã điểm dẫn ở trên chứa đựng
những nội dung quan trọng, trực tiếp góp phần làm cơ sở lý luận cho việc nghiên
cứu đề tài.
1.2. Đặc điểm phát triển tâm lý lứa tuổi trẻ em
Xã hội ngày càng phát triển thay đổi về mọi mặt thì quan điểm của con
người về trẻ em cũng ngày càng khác nhau. Nếu trước đây trẻ em được quan
niệm là “người lớn thu nhỏ” thì ngày nay người ta quan niệm “trẻ em hiện đại
là một sản phẩm của xã hội hiện đại chưa hề có quá khứ”. Trẻ em được đặt
vào trung tâm của giáo dục.
Vui chơi là một hoạt động làm cho trẻ vui vẻ, thoải mái. Hoạt động vui
chơi của học sinh tiểu học khơng cịn giữ vai trị chủ đạo như ở mầm non mà


9

nó lui về phía sau của hoạt động học tập. Tuy nhiên việc tổ chức học tập có
yếu tố vui chơi hợp lý là rất cần thiết để giúp trẻ thực hiện nhiệm vụ học tập
một cách nhẹ nhàng, thoải mái đầy hứng thú và có hiệu quả.
Như vậy, việc giáo viên nắm bắt và hiểu biết về đặc điểm tâm lý lứa
tuổi cũng như hoạt động học tập của trẻ em đặc biệt là trẻ em lứa tuổi tiểu
học chính là cơ sở khoa học để giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục

của mình.
1.2.1. Đặc điểm phát triển nhận thức
Ở lứa tuổi học sinh nhỏ diễn ra sự phát triển tồn diện về các q trình
nhận thức. Nhu cầu nhận thức là biểu hiện sinh động nhất đánh dấu sự chuyển
biến cả về lượng và chất ở học sinh tiểu học so với trẻ mẫu giáo. Nhu cầu
nhận thức phát triển như là động cơ thôi thúc trẻ học tập, làm cho hoạt động
học của trẻ trở nên tự nhiên, nhẹ nhàng như những hoạt động thường nhật
trong cuộc sống hàng ngày.
Với trẻ em mặc dù trong những hoàn cảnh sống khác nhau nhưng ở trẻ
em đều có những khả năng phát triển về nhận thức. Trong đó đáng kể nhất là
sự phát triển của tri giác, trí nhớ, chú ý, trí tưởng tượng và tư duy…
a) Về tri giác
Tri giác mang tính cụ thể, tồn bộ, ít đi sâu vào chi tiết. Tuy nhiên
trẻ cũng bắt đầu có khả năng phân tích tách dấu hiệu, chi tiết nhỏ của một
đối tượng nào đó.
Trẻ em đến trường phổ thơng đã có các q trình nhận thức khá phát
triển nhất là thị giác và thính giác. Nhưng trẻ mới chỉ nhận biết tên gọi, hình
dáng, màu sắc của sự vật, xác định mối tương quan gần và ngắn về khơng gian
và thời gian.
Ví dụ: Trẻ khó phân biệt được cây tre và cây trúc. Tri giác thường
gắn với hành động, với hoạt động thực tiễn: trẻ phải cầm, nắm, sờ sự vật
thì tri giác sẽ tốt hơn.
Tri giác của trẻ em tiểu học phát triển trong quá trình hoạt động thực
tiễn. Nhờ tri giác và quan sát mà học sinh hiểu được những đối tượng và hiện


10

tượng với những dấu hiệu và đặc tính của chúng. Theo kết quả nghiên cứu
tâm lý học tiểu học thì tri giác của học sinh tiểu học mang tính chất đại thể, ít

đi vào chi tiết và khơng chủ động. Các em khó phân biệt chính xác sự giống
nhau hay khác nhau giữa các sự vật. Khi tri giác, nhất là khi tri giác nhiều đối
tượng cùng loại, học sinh nhận ra những thuộc tính chung và riêng của sự vật,
bắt đầu có khái qt hóa sơ bộ. Vì thế có thể coi tri giác là yếu tố ban đầu của
tư duy chính xác là tiền đề của tư duy đúng đắn.
Học sinh tri giác bài giảng càng tích cực bao nhiêu, quan sát các hiện
tượng về tự nhiên xã hội càng sâu sắc, tồn diện bao nhiêu thì những tri thức
thu lượm được càng vững chắc, đầy đủ bấy nhiêu. Muốn nâng cao khả năng
tri giác của học sinh cần phải xác định cho học sinh mục đích quan sát, nhiệm
vụ quan sát và hướng dẫn các em phương pháp quan sát thích hợp.
Trị chơi vốn là một hoạt động thực hành thú vị, hấp dẫn, sống động.
Do đó, nó kích thích tri giác của học sinh. Khi tổ chức trò chơi cho học sinh,
giáo viên phải hướng dẫn học sinh quan sát như: quan sát mẫu, quan sát các
tranh ảnh được sử dụng trong trị chơi. Vì vậy, việc sử dụng phong phú các
trò chơi trong dạy học cũng giúp tính tổng thể của tri giác dần nhường chỗ
cho tri giác chính xác, tinh tế dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
b) Về chú ý
Ở học sinh tiểu học, song song tồn tại hai loại chú ý là: chú ý khơng
chủ định và chú ý có chủ định. Cả hai loại chú ý này đều có ảnh hưởng đến
q trình nhận thức của trẻ và khơng thể thiếu một trong hai. Bởi nếu chỉ có
chú ý khơng chủ định thì trước những tác động mn màu, mn vẻ và sinh
động của thế giới xung quanh, học sinh sẽ luôn bị phân tán tư tưởng và không
tập trung được. Ngược lại nếu chỉ có chú ý chủ định thì sẽ gây sự căng thẳng,
quá tải đối với học sinh, và cùng với đó kết quả học tập sẽ khơng như mong
muốn.
Tuy nhiên, chú ý không chủ định vẫn chiếm ưu thế, sức tập trung chú ý
chưa cao còn phụ thuộc nhiều vào giáo viên. Vì vậy người giáo viên tiểu học


11


trong giờ giảng cần phải có nhiều tài liệu phong phú, hấp dẫn, phù hợp với
các em, lôi cuốn các em chú ý vào bài giảng.
Cùng với sự hoàn thiện hoạt động học thì chú ý có chủ định cũng ngày
càng phát triển mạnh hơn. Khả năng chú ý có chủ định của học sinh tăng dần
từ lớp 1 đến lớp 5. Trong q trình học tập, trẻ em khơng chỉ làm tăng vốn
hiểu biết của mình mà chủ yếu là trong các em đã diễn ra các quá trình phát
triển tâm lý trong đó q trình phát triển chú ý có chủ định cùng những thuộc
tính của chú ý như sự tập trung, sự bền vững,… cũng phát triển theo. Việc
cho trẻ học dưới hình thức chơi với những trị chơi học tập sơi nổi cũng là một
cách để tăng cường chú ý của học sinh.
c) Về trí nhớ
Do ảnh hưởng của hoạt động học tập, trí nhớ của học sinh tiểu học
được phát triển theo hai hướng:
Hướng một: Tăng cường vai trị của ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ của
từ ngữ logic so với trí nhớ trực quan hình tượng.
Hướng hai: Trẻ có khả năng điều khiển một cách có ý thức trí nhớ của
mình cũng như điều khiển sự nhận lại và nhớ lại một cách có chủ định.
Tuy nhiên, trí nhớ trực quan hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ
logic. Nhiều học sinh tiểu học còn chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa
mà có khuynh hướng phát triển trí nhớ máy móc. Đây là sự ghi nhớ chủ yếu
dựa vào việc học thuộc lịng mà khơng cần có sự cải biến làm thay đổi tài liệu
đó. Thậm chí nhiều khi không cần hiểu nội dung và ý nghĩa tài liệu mà mình
ghi nhớ. Các em chưa biết tổ chức ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết sử dụng sơ
đồ logic và dựa vào các điểm tựa ghi nhớ. Dần dần cùng với quá trình học tập
xuất hiện một cách ghi nhớ mới, đó là cách ghi nhớ dựa vào sự phát triển
logic của tài liệu cần ghi nhớ, dựa vào cải biến tài liệu học tập, sắp xếp nó
theo logic nhất định trên cơ sở thấu hiểu nội dung tài liệu trở nên dễ nhớ và
nhớ được lâu. Lúc này, giáo viên phải bằng mọi cách kích thích sự phát triển
ghi nhớ có ý nghĩa. Dạy trẻ biết cách ghi nhớ, tìm hiểu được ý nghĩa của tài



12

liệu để ghi nhớ tốt hơn. Ghi nhớ gắn với mục đích đã giúp trẻ nhớ nhanh hơn,
lâu hơn và chính xác hơn.
d) Về tưởng tượng
Tưởng tượng của các em đã phát triển và phong phú hơn so với trẻ
mẫu giáo. Tuy nhiên, tưởng tượng còn tản mạn, đơn nhất một chiều, ít có tổ
chức, hình ảnh tưởng tượng thì đơn giản, hay thay đổi, chưa bền vững. Tưởng
tượng tái tạo từng bước hồn thiện, ngồi ra “nói dối” là hiện tượng gắn liền
với sự phát triển tưởng tượng của trẻ.
Trí tưởng tượng của các em được hình thành qua hoạt động học và các
hoạt động khác của các em. Hình ảnh tưởng tượng ngày càng phong phú và
gần với hiện thực hơn. Điều đó có được là do các em đã có kinh nghiệm
phong phú, đã lĩnh hội được tri thức khoa học do nhà trường đem lại. Học
sinh lớp 4, 5 đã có khả năng nhào nặn, gọt rũa những hình ảnh tưởng tượng cũ
để sáng tạo ra những hình tượng mới.
Như vậy tưởng tượng của học sinh dần thoát khỏi những ảnh hưởng
của những ấn tượng trực tiếp, mặt khác tính hiện thực của học sinh gắn với sự
phát triển tư duy ngôn ngữ. Việc tổ chức trị chơi học tập là một trong những
cách kích thích trí tưởng tượng của học sinh. Trong khi chơi, tưởng tượng tái
tạo và tưởng tượng sáng tạo của các em đều được phát triển tốt.
e) Về tư duy
Tư duy của trẻ mới đến trường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức,
dựa vào đặc điểm bên ngồi. Nhờ hoạt động học tập, tư duy dần mang tính
khái quát. Sự phát triển tư duy của trẻ vốn trải qua hai giai đoạn: Ở giai đoạn
đầu khi tiến hành các thao tác tư duy học sinh thường căn cứ vào những đặc
điểm bên ngoài cụ thể, trực quan và phải dựa vào các hoạt động trực tiếp. Trẻ
nghiêng về sử dụng tư duy trực quan hình ảnh, tư duy logic ngơn ngữ ít phát

triển. Ở giai đoạn hai học sinh đã biết tư duy dựa vào việc phân tích các mối
quan hệ bên trong theo dấu hiệu chuẩn của đối tượng. Nhờ đó các em phát
hiện được, hiểu được và nắm vững bản chất của đối tượng. Từ đó dần hình
thành ở học sinh khả năng khái quát hóa và tổng hợp ở mức độ cao hơn.


13

Khi khái quát học sinh tiểu học thường dựa vào chức năng và công
dụng của sự vật hiện tượng, trên cơ sở này sẽ tiến hành phân loại, phân hạng.
Hoạt động phân tích tổng hợp cịn sơ đẳng. Việc học tập Tiếng Việt và Toán
sẽ giúp các em biết phân tích và tổng hợp. Trẻ thường gặp khó khăn trong
việc thiết lập mối quan hệ nhân quả.
Như vậy, đặc điểm tư duy của học sinh tiểu học khơng có ý nghĩa tuyệt
đối mà chỉ mang ý nghĩa tương đối. Bởi trong quá trình học tập, tư duy của
học sinh tiểu học thay đổi rất nhiều. Bởi vậy giáo viên cần chú ý đảm bảo tính
trực quan trong dạy học nhưng khơng nên lạm dụng nó q mức, cần dạy các
em biết phân tích, tổng hợp, so sánh và suy luận. Việc sử dụng trò chơi trong
học tập sẽ giúp tư duy các em phát triển và nhanh nhạy hơn trong việc suy
luận để tìm ra lời giải đúng, đồng thời các em sẽ cảm thấy giờ học toán thoải
mái hơn và thích thú học tốn hơn.
1.2.2. Đặc điểm về nhân cách
a) Về tính cách
Đối tượng gây cảm xúc cho học sinh tiểu học đó là sự vật hiện tượng cụ
thể nên xúc cảm, tình cảm của các em thường gắn liền với đặc điểm trực
quan, hình ảnh cụ thể. Những triết lý khơ khan, thiếu hình ảnh, thiếu sinh
động khó gây cảm xúc cho trẻ.
Học sinh tiểu học là lứa tuổi ngây thơ trong sáng, giàu cảm xúc, rất dễ
xúc cảm, xúc động và khó kìm chế cảm xúc của mình. Tình cảm của học sinh
tiểu học con mong manh, chưa bền vững, chưa sâu sắc. Sự chuyển hóa cảm xúc

nhanh.
Sự lĩnh hội những chuẩn mực và quy tắc, hành vi làm thay đổi căn bản
những đặc điểm xúc cảm, tình cảm của trẻ. Trẻ vui mừng vì nảy sinh tình cảm
mới, tự hào vì những việc làm được tập thể và Đội giao cho, các em bắt đầu
có trách nhiệm với hành vi đạo đức của mình.
Trong dạy học và giáo dục người giáo viên cần chú ý đến đặc điểm tình
cảm của trẻ để hình thành những tình cảm tích cực và phong phú đa dạng cho
các em. Muốn gây được những rung cảm thực sự ở trẻ, người giáo viên phải là


14

người giàu tình cảm, giàu lịng nhân ái và phải dạy cho học sinh khơng chỉ
bằng chữ sẵn có mà bằng tất cả tâm hồn, trách nhiệm lương tâm nghề nghiệp
của mình.
b) Đặc điểm đời sống tình cảm
Nét tính cách học sinh tiểu học mới hình thành nên chưa ổn định. Tính
khí thất thường và bướng bỉnh. Tính cách điển hình của trẻ là hồn nhiên và cả
tin, trẻ hay bắt chước hành vi của mọi người xung quanh kể cả hành vi vượt
q sức của mình, tính bộc phát, ngẫu nhiên đôi lúc thể hiện trong hành động
của trẻ.
Các em dễ rung động trong các hành vi. Nghĩa là, các em có khuynh
hướng hành động ngay lập tức dưới ảnh hưởng của kích thích bên trong
và kích thích bên ngồi. Với đặc điểm tính cách này của học sinh, người
giáo viên nên có những hoạt động khuyến khích các em tích cực trong
việc học tập.
Học sinh tiểu học ở Việt Nam sớm có thái độ và thói quen tốt đối
với lao động.
c) Nhu cầu nhận thức
Nhu cầu nhận thức của học sinh tiểu học đã phát triển khá rõ nét, từ

nhu cầu tìm hiểu những sự vật hiện tượng riêng lẻ (lớp 1, 2) đến nhu cầu phát
hiện những nguyên nhân, quy luật và cả mối liên hệ, quan hệ (lớp 3, 4 và lớp
5). Nhu cầu đọc sách phát triển cùng với sự phát triển kỹ thuật đọc. Cần hình
thành nhu cầu nhận thức cho trẻ ngay từ sớm.
d) Về ý chí
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, ý chí cũng đang được hình thành và phát
triển. Học sinh tiểu học chưa có đủ khả năng để tự đặt ra mục đích xa và phức
tạp cho hành động của mình, chưa có khả năng tự lập cho chương trình hành
động. Do ý chí chưa phát triển đầy đủ nên trẻ chưa biết theo đuổi lâu dài một
mục đích đã được đặt ra, chưa kiên trì khắc phục khó khăn và trở ngại của
mình. Các phẩm chất ý chí như: tính tự lập, kiêm chế, tự chủ cịn thấp. Nên
trẻ thường trông chờ vào người lớn khi thực hiện không thành công.


15

Như vậy, trong quá trình dạy học và giáo dục người giáo viên cần tổ
chức các hoạt động để rèn luyện ý chí cho trẻ. Mặt khác, người giáo viên
phải là tấm gương sáng về ý chí, lời nói phải đi đôi với việc làm. Giáo viên
cần quan tâm phát triển năng lực ý chí tinh thần vượt khó và kiên trì đến
cùng mục đích đã đề ra. Việc sử dụng trị chơi học tập cũng chính là biện
pháp nhằm phát triển ý chí cho học sinh.
Việc hiểu đặc điểm tâm lý học sinh giữ vai trò quan trọng trong quá
trình dạy học. Nếu chúng ta tác động vào đối tượng mà khơng hiểu tâm lý
của chúng thì cũng như đập búa lên một thanh sắt nguội. Chính vì vậy,
trong quá trình dạy học giáo viên cần phải dựa vào những đặc điểm tâm lý
đối tượng để lựa chọn xây dựng những phương pháp, phương tiện và hình
thức dạy học phù hợp. Có như thế kết quả dạy học mới mang lại một kết
quả như mong muốn.
1.3. Hoạt động học tập của học sinh Tiểu học

Trước khi đến trường phổ thơng thì trẻ đã được học mẫu giáo. Những
tiết học ở mẫu giáo giúp trẻ làm quen với việc học thông qua các hoạt động
vui chơi và các hoạt động khác.
Theo quy định hiên nay, lứa tuổi học sinh tiểu học là những trẻ em các
lớp từ lớp 1 đến lớp 5 (trẻ em từ độ tuổi 6 đến 14 tuổi). Trẻ ở giai đoạn phát
triển cấp tiểu học có thể phân chia thành hai giai đoạn nhỏ, bởi sự khác nhau về
trình độ hình thành, hoạt động học và những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh.
Giai đoạn một là đối với trẻ từ lớp 1 đến lớp 3 và giai đoạn hai là đối với trẻ
lớp 4 và lớp 5.
Hoạt động học nói đúng nghĩa tâm lý học chỉ nảy sinh và hình thành ở
trẻ em từ lúc 6 tuổi nhờ có “phương pháp nhà trường”. Hoạt động này tạo ra
sự biến đổi ngay trong chính bản thân người học. Trẻ em lớn lên về cơ thể và
có sức khỏe nhờ được ni dưỡng chăm sóc. Trí tuệ của trẻ phát triển, tâm lý
của trẻ hình thành, năng lực tình cảm phát triển nhờ có hoạt động học.
Học tập là một dạng hoạt động đặc thù được điều khiển bởi mục đích tự
giác lĩnh hội những tri thức mới, kỹ năng mới, kỹ xảo mới để từ đó tạo nên


16

những năng lực mới. Hoạt động này không tự nhiên mà có, nó được hình
thành bằng “phương pháp nhà trường” dưới tác động của giáo viên.
Hoạt động học ở học sinh tiểu học được cụ thể hóa ở nội dung học tập.
Đó là hệ thống những khái niệm khoa học tuy cịn rời rạc ở các mơn học xong
đã được lựa chọn theo nguyên tắc nhất định, phù hợp với mục tiêu giáo dục.
Học sinh lĩnh hội nội dung học tập bằng hoạt động học với các thành tố như
động cơ học, nhiệm vụ học và các hoạt động học.
Động cơ học tập của học sinh là cái vì nó mà trẻ học, là cái thôi thúc trẻ
học tập, là yếu tố tâm lý tạo động lực thúc đẩy học sinh tích cực học tập có
động cơ đúng đắn, thì việc trẻ muốn nắm vững, muốn lĩnh hội tri thức khơng

cịn là vấn đề khó khăn.
Hành động học bao gồm: Hành động phân tích, hành động mơ hình hóa,
hành động kiểm tra đánh giá. Để phát hiện ra nguồn gốc và logic của khái
niệm cần có hoạt động mơ hình hóa. Để kiểm sốt và điều chỉnh kịp thời cần
có hoạt động kiểm tra, đánh giá.
Nhiệm vụ học tập là hình thức cụ thể nội dung học thành mục đích và
phương tiện đạt mục đích đó trong dịng hoạt động học của học sinh từng lớp,
từng độ tuổi. Mỗi nhiệm vụ học tập tạo ra ở học sinh năng lực mới, cái mới
trong tâm lý chứ không đơn thuần là tích lũy thêm, gộp thêm vào vốn kinh
nghiệm đã có. Nhờ có động cơ học tập mà trẻ mới giải quyết được nhiệm vụ
học tập dưới sự tổ chức, hướng dẫn của các thầy cô giáo bằng các hành động
học.
Con đường hình thành động cơ học tập đúng đắn nhất là con đường
xuất phát từ việc dạy học không áp đặt, dưới hình thức vui vẻ nhẹ nhàng, biến
những yêu cầu học tập thành động cơ chơi là cách thức giúp trẻ có được niềm
vui và hứng thú học tập.
1.4. Tổng quan về chương trình Tốn lớp 1
1.4.1. Mục tiêu dạy học bộ mơn tốn của chương trình tiểu học mới
Dạy học tốn ở tiểu học theo chương trình tiểu học mới nhằm nhấn
mạnh đến việc cung cấp cho học sinh những kiến thức, kỹ năng cơ bản,


17

thiết thực có nhiều ứng dụng trong cuộc sống thực tiễn như những kiến
thức cơ bản về số học, các số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại lượng
thơng dụng, một số yếu tố hình học, thống kê đơn giản. Hình thành các kỹ
năng thực hành tính, đo lường, …
Thực hiện tinh giản về nội dung, tăng cường thực hành tính tốn, thực
hành đo lường và thực hành hình học.

Quan tâm đúng mức đến việc rèn kỹ năng diễn đạt, ứng xử, phát hiện
giải quyết vấn đề, phát triển các năng lực tư duy và trí tưởng tượng khơng
gian. Góp phần xây dựng phương pháp học tốn một cách có hiệu quả.
1.4.2. Vị trí của mơn tốn lớp 1 trong chương trình tốn tiểu học
Chương trình mơn tốn lớp 1 là một bộ phận của chương trình tốn tiểu
học. Chương trình này mở đầu cho những đổi mới về giáo dục toán học, khắc
phục một số tồn tại của dạy học tốn lớp 1 theo chương trình cũ. Góp phần
thực hiện đổi mới giáo dục phổ thơng, nhằm đáp ứng những yêu cầu của giáo
dục và đào tạo trong giai đoạn cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước đầu
thế kỷ XXI.
1.4.3. Nội dung chủ yếu của chương trình tốn học lớp 1
a) Số học và các yếu tố đại số
- Nhận biết quan hệ số lượng (nhiều hơn, ít hơn, bằng nhau).
- Đọc, đếm, viết, so sánh các số đến 100; giới thiệu hàng chục; hàng
đơn vị; giới thiệu tia số.
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép cộng, phép trừ và mối quan hệ
giữa chúng; dạy bảng cộng, bảng trừ trong phạm vi 10; sử dụng bảng cộng,
trừ trong phạm vi 10 để thực hành cộng, trừ khơng nhớ trong phạm vi 100
(tính nhẩm và tính viết).
- Tính giá trị biểu thức sẽ có đến hai dấu phép tính cộng, trừ (các trường
hợp đơn giản).
b) Đại lượng và phép đo đại lượng
- Giới thiệu đơn vị đo độ dài xăngtimet. Đọc viết thực hiện phép tính
với các số đo theo đơn vị xăngtimet. Tập đo và ước lượng độ dài.


18

- Giới thiệu về đơn vị đo thời gian: tuần lễ, ngày trong tuần. Làm quen
với lịch (lịch hàng ngày), đọc giờ đúng trong đồng hồ.

c) Các yếu tố hình học
- Nhận dạng bước đầu về hình vng, hình tam giác, hình trịn. Giới
thiệu về điểm; điểm ở trong, ở ngồi của một hình, đoạn thẳng. Thực hành vẽ
đoạn thẳng, vẽ hình trên giấy ơ vng,...
d) Giải tốn có lời văn
Giới thiệu bài tốn có lời văn. Giải các bài tốn đơn bằng một phép tính
cộng hoặc một phép tính trừ, bài toán về thêm bớt 1 số đơn vị,
1.5. Một số vấn đề lí luận về trị chơi
1.5.1. Trị chơi trẻ em
a) Trò chơi - nguồn gốc và bản chất
Chơi là một trong những hoạt động sống của con người. Cùng với lao
động và học tập, chơi làm cho cuộc sống con người thêm phong phú. Đối với
trẻ nhỏ chơi chính là cuộc sống thực của chúng. Ở lứa tuổi học sinh tiểu học,
mặc dù hoạt động chơi đã lui về phía sau nhường vai chủ đạo cho học tập.
Song trị chơi vẫn có một vị trí quan trọng trong cuộc sống của trẻ nói chung
và sự phát triển của trẻ nói riêng.
Chơi là một hoạt động rất tự nhiên trong cuộc sống của con người, nó
đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em. “Không chơi trẻ
không thể phát triển, không chơi đứa trẻ chỉ tồn tại chứ khơng phải là đang
sống. Đó là một thực tế mang tính quy luật”. Song chơi khơng phải là sự giải
phóng “năng lượng dư thừa” như F.Sillen và G.Spencer quan niệm, chơi cũng
không phải là hành vi bản năng sinh học như S.Freud tưởng, mà hoạt động
chơi của trẻ mang bản chất xã hội.
Dựa trên quan điểm Macxit, các nhà khoa học Xô viết cũng đã khẳng
định rằng trị chơi có nguồn gốc từ lao động và mang bản chất xã hội. Trò
chơi được truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác chủ yếu bằng con đường
giáo dục.
b) Trò chơi đối với trẻ em



19

Theo M.J.Arstanov: “Trị chơi của trẻ - đó là một hoạt động vui chơi,
nhân đạo, chuyên biệt được tổ chức có dụng ý của trẻ. Nhằm chuẩn bị cho trẻ
bước vào lao động và cuộc sống. Nó là một trong những hình thức dạy học
sớm nhất và có thể khẳng định rằng trò chơi phát động như một phương tiện
chủ yếu của việc chuẩn bị cho trẻ bước vào đời, như là một q trình dạy
học”.
Như vậy, thơng qua trị chơi trẻ có thể nhận được vơ vàn tri thức, vơ
vàn kĩ năng mà chính chúng ta cũng khơng thể đo, đếm được. Vui chơi vốn là
một bản năng và đối với trẻ vui chơi còn tạo ra nhiều cơ hội để các em rèn
luyện kĩ năng và tích lũy tri thức đời sống.
c) Đặc điểm của trò chơi trong q trình giáo dục
Mỗi loại trị chơi đều mang tính chất riêng biệt bởi chúng đa dạng
phong phú về nội dung, tính chất cũng như cách thức chơi. Nhiều cơng trình
nghiên cứu khoa học trong và ngồi nước đã cho thấy hoạt động chơi của trẻ
thường mang một số đặc điểm sau:
- Động cơ của trị chơi khơng nằm ở kết quả mà nằm ở ngay trong bản
thân hành động chơi. Trong trị chơi, trẻ em khơng bị phụ thuộc vào nhu cầu
thực tiễn, trẻ chơi xuất phát từ nhu cầu hứng thú trực tiếp của bản thân. “Trẻ
chơi chỉ cốt cho vui, có vui thì mới chơi và đã chơi là phải vui”.
- Trò chơi là một hoạt động tự nguyện, mang tính tự do. Trong trị chơi
khơng nhằm tạo ra sản phẩm. Chính vì khơng tạo ra sản phẩm, không bắt
buộc theo một phương thức nào nên khi chơi trẻ sẽ có được cảm giác tự do,
thoải mái. Trẻ chơi là xuất phát từ tự nguyện và hứng thú. Chính sự tự do đã
giúp trẻ có điều kiện và hăng say tìm tịi, khám phá và nảy sinh nhiều sáng
kiến.
- Trong trị chơi ln mang lại cảm xúc chân thực, mạnh mẽ, đa dạng,
khi đó trẻ tham gia vào trò chơi một cách say mê và đây hứng thú. Vì trị chơi
ln đa dạng và phong phú cho nên hồn cảnh chơi cũng bị ép buộc. Chính

điều này đã làm cho cảm xúc của trẻ được biểu hiện với nhiêu sắc thái.


20

- Trị chơi thâm nhập vào thế giới tình cảm của trẻ một cách dễ dàng,
nó tác động mạnh mẽ đến tình cảm của các em, làm cho các em bị hấp dẫn.
- Trong qua trình chơi trẻ hoạt động độc lập và tự điều khiển trò chơi.
Khi chơi trẻ hoạt động hết mình, chúng tự suy nghĩ, tự làm lấy mọi việc để
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nếu như khơng có trách nhiệm trong khi
chơi thì sẽ bị thất bại hoặc loại khỏi cuộc chơi.
- Trong trò chơi trẻ ln có những sáng kiến, đó chính là sự hiện diện
của những yếu tố sáng tạo khởi đầu. Trong trị chơi ln tạo cơ hội cho trẻ tư
duy và óc tưởng tượng của trẻ làm việc một cách tích cực.
Tóm lại, hoạt động chơi của trẻ là một hoạt động mang tính tự do, thoải
mái, tự lực, tự tổ chức và có sự hiện diện của yếu tố sáng tạo ban đầu, mang
lại cho trẻ cảm xúc chân thực, mạnh mẽ. Hoạt động chơi tham gia vào việc
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ một cách trọn vẹn trong đó có sự
phát triển và hồn thiện về mặt tri thức, trí tuệ.
d) Ý nghĩa của trị chơi trong giáo dục
Trị chơi khơng chỉ làm thỏa mãn tâm lý được chơi của trẻ mà nó cịn
giúp trẻ phát triển các chức năng tâm lý và hình thành nên nhân cách. Chính
vì những lẽ đó, trị chơi có những ý nghĩa giáo dục sau:
- Trong quá trình chơi để thực hiện các hành động chơi, giải quyết các
nhiệm vụ chơi, học sinh phải sử dụng ngôn ngữ, các thao tác tư duy như: phân
tích, tổng hợp, khái qt hóa. Vì vậy, thơng qua trị chơi học tập, học sinh lĩnh
hội và khắc sâu hơn tri thức, đồng thời phát triển trí tưởng tượng và các thao
tác tư duy tương ứng.
- Trong khi chơi trẻ được tự do bộc lộ những cảm xúc của mình. Nhờ
đó trẻ hiểu được các mói quan hệ cũng như cách ứng xử thơng qua trị chơi.

- Thơng qua chơi các em được tìm hiểu về thế giới xung quanh, qua đó
kích thích trí tị mò, muốn hiểu biết, muốn được quan sát và năng lực phán
đoán, tư duy cũng được tác động đến. Khi chơi ln có các tình huống xảy ra.
Khi đó buộc trẻ phải động não suy nghĩ. Chính điều này là cơ hội để trẻ rèn
luyện trí tuệ làm nảy sinh nhiều sáng kiến, mầm mống của sáng tạo sau này.


21

- Trong khi chơi trẻ thỏa sức ước mơ, tưởng tượng tất cả những gì mà
chúng thích. Bởi vậy, khi chơi chính là những giây phút vơ tư và hạnh phúc
nhất của trẻ.
- Khi chơi buộc trẻ phải suy nghĩ, phải kiên trì, dũng cảm,… để bằng
một cách nào đó hoàn thành được nhiệm vụ chơi, chấp hành kỷ luật của trị
chơi. Cho nên những phẩm chất ý chí, lịng kiên trì, dũng cảm cũng được hình
thành và phát triển.
Như vậy: Trị chơi có một ý nghĩa rất lớn trong quá trình giáo dục. Cho
nên nhiều nhà giáo dục đã gọi: “Trò chơi là trường đời của cuộc sống”.
e) Phân loại trò chơi
Trò chơi của trẻ rất đa dạng và phong phú về nội dung cũng như cách
thức tổ chức chơi. Cho nên việc phân loại trò chơi trẻ em một cách chính xác
cũng gặp rất nhiều khó khăn. Đây cũng chính là một vấn đề được nhiều người
quan tâm nghiên cứu. Trị chơi trẻ em có những loại cơ bản sau:
- Thứ nhất: Trò chơi với đồ vật
Các đồ vật được làm bằng các chất liệu từ gỗ, nhựa hay giấy,… đều trở
thành đồ chơi cho trẻ. Qua việc chơi trẻ nhận biết được các đồ vật, màu sắc,
hình dáng,… Từ những đồ vật ấy cùng với trí tưởng tượng, óc sáng tạo trẻ có
thể xây dựng hoặc tạo một đồ chơi khác phù hợp với sở thích của các em.
- Thứ hai: Trò chơi theo chủ đề
Trò chơi theo chủ đề rất đa dạng, phù hợp với cuộc sống mn hình

mn vẻ xung quanh. Loại hình trị chơi này giúp trẻ nhận thức được cuộc
sống rộng hơn, sâu hơn giúp trẻ phát triển được khả năng quan sát, sự suy
nghĩ, tìm tịi, khám phá cũng như tích lũy kinh nghiệm sống. Nó bao gồm các
trị chơi như: sắm vai, đóng kịch, đạo diễn…
- Thứ ba: Trị chơi vận động
Loại trị chơi này địi hỏi trẻ ln vận động cơ bắp. Đây là một loại trò
chơi mà trẻ rất thích. Các trị chơi vận động cũng mang nhiều nội dung trí tuệ
phong phú. Nó địi hỏi trẻ phải tập trung sự chú ý, nhanh tay, nhanh chân,


22

nhanh mắt và khỏe mạnh phối hợp nhịp nhàng linh hoạt. Do đó trị chơi vận
động góp phần phát triển cả phẩm chất lẫn trí tuệ.
- Thứ tư: Trị chơi trí tuệ
Đây là một lợi trị chơi thuộc nhóm trị chơi có luật, có tác dụng thúc
đấy hoạt động trí tuệ của người chơi để giải quyết các tình huống xảy ra
trong trò chơi nhằm đạt được nhiệm vụ nhận thức nhất định. Đây là trò
chơi đặc biệt quan trọng đối với trẻ đó là phương tiện hiệu quả để phát
triển trí tuệ của trẻ.
- Thứ năm: Trị chơi học tập
Phần trị chơi này sẽ được trình bày một cách cụ thể ở phần sau.
Trên đây chỉ là cách xếp loại mang tính chất tương đối. Vì trong thực
tế có những trò chơi là sự kết hợp của hai hay nhiều dạng trò chơi như đã
nêu trên.
1.5.2. Trò chơi học tập
a) Khái niệm về trò chơi học tập
Chơi là một hoạt động không thể thiếu được trong đời sống của trẻ.
Chơi sẽ giúp cho trẻ phát triển về trí tuệ, tình cảm, kỹ năng, hành động,.. Edua
Clapared (nhà tâm lý học, giáo dục người Pháp) đã từng nói: “Trường học cần

phải hoạt động, nghĩa là động viên sự hoạt động của đứa trẻ. Nó cần làm một
phịng thí nghiệm hơn là tại một giảng đường. Để đạt được tới mục đích này
nó có thể lợi dụng triệt để trị chơi. Vì trị chơi kích thích tối đa hoạt động của
đứa trẻ”.
Như chúng ta đã biết, trị chơi là một hình thức hoạt động của trẻ. Trò
chơi học tập là loại trị chơi có nội dung tri thức gắn với hoạt động học tập
của học sinh và gắn với nội dung bài học. Trò chơi học tập giúp học sinh
khai thác vốn kinh ngiệm của bản thân để chơi và để học. Trị chơi học tập
có tác dụng cả về mặt rèn luyện trí tuệ lẫn thể chất và các phẩm chất đạo
đức. Trò chơi học tập mang tất cả đặc trưng của một trò chơi và chứa đựng
tất cả các đặc điểm của trị chơi có luật.


23

Trò chơi học tập khác tiết học ở chỗ: Nhiệm vụ của người chơi không
được đặt ra trực tiếp và công khai trước trẻ mà nằm trong nhiệm vụ chơi,
trong luật chơi và hành động chơi. Nhưng trò chơi học tập lại giống tiết học ở
chỗ: Việc giải quyết nhiệm vụ chơi và hành động chơi đòi hỏi các em tích cực
huy động kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo để đạt được kết quả mà trò chơi đặt ra.
Việc dạy học cho trẻ bằng các trò chơi học tập giúp các em có khả năng giải
quyết nhiệm vụ dưới hình thức nhẹ nhàng, khơng bị áp đặt.
Khi chơi trị chơi trẻ được chơi dưới sự hướng dẫn của người lớn
(người giáo viên). Tuy nhiên nó vẫn đảm bảo được tính tự do, độc lập của trẻ,
thỏa mãn nhu cầu cảm xúc và óc sáng tạo khơng ngừng của trẻ.
Như vậy: Trị chơi học tập là trị chơi có luật và có nội dung cho trước,
có nội dung tri thức gắn với hoạt động học tập của học sinh và gắn với nội
dung bài học, là trò chơi của nhận thức giúp học sinh khai thác vốn kinh
nghiệm của bản thân để chơi và để học. Trị chơi học tập có tác dụng cả về
mặt rèn luyện trí tuệ lẫn các phẩm chất đạo đức.

b) Đặc điểm của trò chơi học tập
Trò chơi học tập được quy định rõ ràng bởi luật chơi, do người lớn
nghĩ ra nhằm mục đích giáo dục trí tuệ, nhân cách.
Tên gọi của trị chơi học tập thường phản ánh nội dung và khơi dậy
những hững thú của trẻ với trò chơi.
Luật chơi quy định các hoạt động cũng như mối quan hệ của người chơi.
Trò chơi học tập được tổ chức nhằm mục đích dạy học và huy động trí
óc của trẻ làm việc thực sự trong khi giải quyết nhiệm vụ nhận thức, phát
triển trí thơng minh.
Trị chơi học tập có cấu trúc chặt chẽ bao gồm các yếu tố: nhiệm vụ
chơi, hành động chơi, luật chơi.
+ Nhiệm vụ chơi hay còn gọi là nhiệm vụ nhận thức là nét đặc trưng
của trò chơi học tập. Nó chi phối tất cả các yếu tố khác. Nhiệm vụ nhận thức
được thể hiện thông qua hành động chơi và luật chơi. Bởi vậy, nó khơng chỉ
khơi gợi hứng thú, kích thích tính tích cực, nguyện vọng chơi của trẻ mà còn


24

làm cho các thành phần khác của trò chơi cũng hướng vào việc tổ chức cho
học sinh tư duy.
+ Hành động chơi là những động tác học sinh phải thực hiện trong lúc
chơi. “Các hành động chơi là thành phần chính của trị chơi học tập, thiếu
chúng thì khơng cịn là trò chơi nữa. Các hoạt động chơi như là họa tiết của
chủ đề chơi”. Hành động chơi càng đa dạng phong phú bao nhiêu thì càng thu
hút được sự chú ý, sự tham gia nhiệt tình của học sinh bấy nhiêu.
+ Luật chơi: Là yếu tố cơ bản của trò chơi học tập, là những quy định
người chơi phải tuân theo: làm gì, làm như thế nào trong một trị chơi và nó
vạch rõ nội dung của trị chơi. “Luật chơi càng chính xác bao nhiêu thì trị
chơi càng căng thẳng và quyết liệt bấy nhiêu”. Luật chơi là tiêu chuẩn đánh

giá hành động chơi là đúng hay sai. Việc trẻ lĩnh hội luật chơi, tuân theo
luật chơi có tác dụng giáo dục tính độc lập, khả năng tự đánh giá kiểm tra
lẫn nhau.
Như vậy, những yếu tố trong trị chơi học tập có mối quan hệ chặt chẽ,
khăng khít với nhau. Nhiệm vụ chơi xác định tính chất của hành động chơi.
Luật chơi giúp cho việc thực hiện các hành động chơi và giải quyết các nhiệm
vụ chơi được diễn ra thuận lợi hơn. Nhiệm vụ chơi và những hành động chơi
tạo nên nội dung trò chơi.
+ Kết quả sau khi chơi trò chơi giáo viên cần phân định rõ kết quả,
tạo ra sự công bằng trong cả thực tiễn và nhận thức suy nghĩ của các em
qua trò chơi.
c) Vai trò của trò chơi học tập
Trò chơi học tập có vai trị đặc biệt quan trọng trong quá trình lĩnh hội
kiến thức cũng như sự phát triển nhân cách của học sinh. Nó tạo cho trẻ cảm
giác được vui chơi, được thoải mái, tự nhiên, nhẹ nhàng khơng gị bó và từ đó
trẻ dần dần đi đến lĩnh hội kiến thức bằng một con đường mới hoàn tồn nhẹ
nhàng và hứng thú.
Trị chơi học tập như là một dạng hoạt động mang tính chất thực hành
trong đó trẻ vận dụng vốn hiểu biết và khả năng tư duy của mình để giải quyết


25

các nhiệm vụ nhận thức. Dưới dạng hoạt động hấp dẫn, khơng gị bó, trị chơi
học tập tạo nên những hồn cảnh sinh động địi hỏi học sinh vận dụng tri thức
một cách đa dạng, thúc đẩy hoạt động trí tuệ của học sinh.
Thơng qua trị chơi học tập các em sẽ có những hiểu biết nhất định về
thế giới xung quanh nói chung, con người nói riêng. Từ đó hình thành ở học
sinh nhu cầu muốn tác động đến thế giới đó như người lớn. Bên cạnh đó trị
chơi học tập cịn là chỉ tiêu chính xác nhất thể hiện năng khiếu và khả năng

của trẻ.
Trong quá trình chơi trẻ thực hiện các hành động chơi, giải quyết các
nhiệm vụ chơi. Trẻ phải sử dụng ngôn ngữ, các thao tác tư duy… Như vậy
nếu tham gia vào các hoạt động vui chơi phong phú thì chẳng những trí tuệ,
tình cảm và tài năng của các em cũng được phát triển đến giới hạn tột cùng.
Trị chơi học tập có ảnh hưởng đến việc hình thành hành vi có chủ định
vì kết quả trị chơi phụ thuộc vào tính chính xác của việc chấp hành luật lệ
chơi. Trò chơi học tập còn là phương tiện tốt để khắc phục những mặt khó
khăn trong hoạt động tư duy của học sinh.
Trị chơi học tập là phương tiện góp phần tạo lập các điều kiện thuận
lợi cho việc lĩnh hội tri thức trong việc học tập. Khi sử dụng kết hợp trò chơi
học tập trong quá trinh giảng dạy học sinh sẽ cảm thấy thoải mái hơn. Trò
chơi học tập là phương tiện giúp học sinh thư giãn.
Đối với học sinh tiểu học, trị chơi học tập thường có nội dung đơn
giản, vừa sức phù hợp với sự phát triển tâm lý của trẻ em và nội dung chương
trình tiểu học quy định. Tính phức tạp của trị chơi được nâng cấp dần từ thấp
lên cao theo mức độ kiến thức.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ đi sâu vào loại
trị chơi vận động kết hợp với trí tuệ phù hợp với học sinh lớp 1 và phù
hợp với mơn tốn.
1.5.3. Trị chơi tốn học
Ở tiểu học, tất cả các mơn học đều có thể xây dựng và tổ chức trị chơi,
chương trình của lớp 1 cũng khơng nằm ngồi việc đó. Khi tổ chức cho trẻ


×