Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tính tích cực học tập môn Toán của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Hùng Vương- Thị xã Phú Thọ- Tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 104 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta đang trên con đường hội nhập với khu vực và thế giới về
nhiều mặt: Kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội… nên đòi hỏi con người Việt
Nam đặc biệt là thế hệ trẻ phải tích cực, năng động, sáng tạo vận dụng những
thành tựu khoa học – kĩ thuật, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại
mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc Việt Nam. Do đó một nhiệm vụ mới đặt ra
cho ngành Giáo dục – đào tạo là phải tạo nên những con người năng động,
sáng tạo, có năng lực giải quyết các vấn đề, có khả năng thích ứng với mọi
biến động trong đời sống kinh tế - xã hội, có đạo đức trong sáng, có lối sống
lành mạnh, đặc biệt là phải tích cực học tập và đưa ra những biện pháp để cải
tạo thế giới và cải tạo bản thân mình. Chính vì vậy việc tìm hiểu thực trạng và
đưa ra những biện pháp để phát huy TTCHT cho con người nói chung, HS
tiểu học nói riêng là việc làm rất cần thiết.
TTC của con người được thể hiện trong hoạt động dưới nhiều dáng vẻ khác
nhau: trong nhận thức, học tập, cơng việc… bằng sự thích thú, say mê, ln cố
gắng, nỗ lực hết mình, độc lập, sáng tạo, huy động cao độ các chức năng tâm lí.
Có thể coi TTCHT là một phẩm chất nhân cách, một thuộc tính của q trình nhận
thức, làm cho q trình nhận thức ln đạt kết quả cao, giúp con người có khả
năng học tập khơng ngừng, thơng qua đó con người cải tạo và hồn thiện chính
bản thân.
Bậc tiểu học là bậc học có tính nền tảng, là cơ sở để có một nền học vấn cao
và sự phát triển nhân cách của con nguời. HS tiểu học là lứa tuổi ham hiểu biết, ln
có khát vọng tìm tịi, khám phá, vì vậy trẻ luôn cố gắng thực hiện các nhiệm vụ mà
nhà trường đặt ra. Quá trình thực hiện các nhiệm vụ này sẽ giúp các em lĩnh hội tri
thức, phát triển ở trẻ nhưng năng lực nhận thức bao gồm việc rèn luyện kĩ năng nhận
thức, các phẩm chất trí tuệ, đồng thời giúp các em tích cực, năng động, dễ hồ nhập
với cuộc sống, từ đó phát triển nhân cách cho các em. Như vậy chúng ta có thể thấy
TTCHT là một trong những yếu tố tạo nên sự phát triển nhân cách cho con người nói


chung và cho HS tiểu học nói riêng.
Trong thực tế, TTCHT của HS tiểu học nói chung, TTCHT mơn Tốn
của HS lớp 5 nói riêng chưa cao. Mặc dù các em có nhu cầu nhận thức rõ rệt,
rất thích tìm hiểu, khám phá thế giới xung quanh nhưng do những hạn chế
trong sự phát triển về mặt sinh học và một số đặc điểm tâm lí: Tính có chủ


2

định trong hoạt động còn yếu, nhiều em vẫn còn nhút nhát khi giải quyết các
nhiệm vụ, khả năng nỗ lực, kiên trì thực hiện các nhiệm vụ học tập cịn yếu.
TTCHT là vấn đề được nhiều cơng trình trên thế giới và trong nước
nghiên cứu, tuy nhiên TTCHT môn Tốn của HS tiểu học thì chưa được nghiên
cứu nhiều. Mặt khác việc tìm hiểu và thực hiện những biện pháp phát huy
TTCHT mơn Tốn của HS tiểu học cịn nhiều hạn chế. Xuất phát từ những lí do
trên, chúng tơi xin chọn vấn đề : “Tính tích cực học tập mơn Tốn của học
sinh lớp 5 trường Tiểu học Hùng Vương- Thị xã Phú Thọ- Tỉnh Phú Thọ”
làm đề tài khố luận.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm phát hiện thực trạng TTCHT mơn Tốn của HS lớp 5
trường Tiểu học Hùng Vương và các yếu tố ảnh hưởng tới thực trạng đó. Đề
xuất và thực nghiệm một số biện pháp nhằm nâng cao TTCHT mơn Tốn của
các em.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về TTC và TTCHT của HS lớp 5.
- Khảo sát thực trạng TTCHT mơn Tốn của HS lớp 5 trường Tiểu học
Hùng Vương, và các yếu tố ảnh hưởng đến TTCHT mơn Tốn của các em.
- Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp tác động nhằm nâng cao
TTCHT mơn Tốn cho HS lớp 5 trường Tiểu học Hùng Vương - Thị xã Phú
Thọ - Tỉnh Phú Thọ.

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Tính tích cực học tập mơn Tốn của học sinh lớp 5
4.2 Khách thể nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 62 học sinh lớp 5 trường Tiểu học
Hùng Vương - Thị xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ.
5. Giả thuyết khoa học
Nhìn chung TTCHT mơn Tốn của HS lớp 5 trường Tiểu học Hùng Vương
- Thị xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ đa số đạt ở mức trung bình. Có sự khác biệt về
TTCHT xét theo giới tính, theo bầu khơng khí tâm lí gia đình. Có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến TTCHT mơn Tốn của HS lớp 5. Nếu tăng cường ngơn ngữ tích cực
của người giáo viên đối với HS lớp 5 Tiểu học Hùng Vương - Thị xã Phú Thọ Tỉnh Phú Thọ thì sẽ nâng cao được TTCHT mơn Tốn của các em.
6. Phạm vi nghiên cứu


3

TTCHT của HS lớp 5 được thể hiện ở nhiều mơn học. Vì điều kiện và
thời gian có hạn, chúng tôi chỉ nghiên cứu thực trạng TTCHT của HS lớp 5
trường Tiểu học Hùng Vương - Thị xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ trong giờ học
mơn Tốn và các yếu tố ảnh hưởng đến TTCHT mơn Tốn của các em.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
- Mục đích: Nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài
- Cách tiến hành: Chúng tôi tiến hành đọc và phân tích những tài liệu có
liên quan đến đề tài
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1 Phương pháp quan sát
Chúng tôi tiến hành thăm lớp, làm quen, quan sát và ghi chép các biểu
hiện TTCHT môn Toán của HS lớp 5 trong các hoạt động: học tập, vui chơi…

TTCHT mơn Tốn bộc lộ qua nhiều biểu hiện như:
- Hành vi biểu hiện nhu cầu, hứng thú học tập. Thể hiện bằng khả năng
định hướng, sự căng thẳng trí tuệ (nhăn mày, nhíu trán), sự hăm hở giải quyết
một nhiệm vụ tình huống học tập.
- Hành vi thể hiện mặt cảm xúc, tình cảm học tập bao gồm những bỉểu hiện
như niềm vui lao động trí tuệ, sự sốt sắng thực hiện các yêu cầu của giáo viên.
- Các hành vi thể hiện tính tự giác trong học tập, thể hiện mức độ chú ý,
thể hiện sự tập trung ở bài giảng, việc thực hiện đầy đủ các yêu cầu của giáo
viên, khả năng phản xạ nhanh, chính xác trong học tập.
- Những hành vi vận động chủ động như cường độ, nhịp độ các thao
tác, kĩ năng hoạt động, hành động nói, nghe, đối thoại với thầy cô giáo, với
bạn bè về vấn đề học tập.
7.2.2 Phương pháp điều tra bằng phiếu ( An- két)
Chúng tôi sử dụng 3 mẫu phiếu điều tra:
- Mẫu 1: Phiếu An – ket điều tra các em HS lớp 5 trường Tiểu học
Hùng Vương để tìm hiểu thực trạng TTCHT mơn Tốn của các em, các yếu tố
ảnh hưởng đến TTCHT mơn Tốn của các em.
- Mẫu 2: Phiếu An- két điều tra đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy cho
các em HS lớp 5 trường Tiểu học Hùng Vương để làm rõ hơn về thực trạng
TTCHT mơn Tốn và các yếu tố ảnh hưởng đến TTCHT mơn Tốn của các em,
việc sử dụng các phương pháp dạy học, việc sử dụng ngơn ngữ tích cực trong các
bài giảng…


4

- Mẫu 3: Phiếu An – két điều tra các phụ huynh HS lớp 5 trường Tiểu
học Hùng Vương để tìm hiểu đặc điểm bầu khơng khí tâm lí gia đình mà các
em sinh sống, thực trạng TTCHT của các em khi ở nhà.
7.2.3 Phương pháp đàm thoại

- Trao đổi với giáo viên để nắm bắt thêm thông tin về vấn đề nghiên
cứu: chương trình, nội dung HĐHT của HS lớp 5, TTCHT mơn Tốn của các
em, các đề xuất cải tiến nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
nhằm nâng cao TTCHT của HS. (chi tiết xem phụ lục)
- Trao đổi với các em HS lớp 5 để tìm hiểu TTCHT mơn Tốn được
biểu hiện ở các mặt nhu cầu học tập, tính tự giác trong học tập, tính chủ động
trong học tập và hiệu quả của HĐHT và để tìm hiểu đặc điểm tâm lí, hồn
cảnh gia đình và các yếu tố kích thích TTCHT mơn Toán của các em.
Cách thu thập số liệu: Ghi chép những câu trả lời của HS và giáo viên.
Cách xử lí số liệu: Kết hợp với các phương pháp khác như sử dụng
phiếu điều tra, quan sát … để có nhận xét khách quan, tin cậy các kết quả
nghiên cứu.
7.2.4 Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
- Trao đổi với một số giáo viên giỏi và giáo viên trực tiếp dạy cho HS lớp 5
để tìm hiểu rõ hơn về việc sử dụng ngơn ngữ để kích thích việc học tập của các em
HS.
- Trao đổi với một số chuyên gia giáo dục để nắm bắt được sự đổi mới các
phương pháp dạy học, sử dụng ngơn ngữ kích thích việc học tập của các em.
7.2.5 Phương pháp thực nghiệm sư phạm
7.2.6 Phương pháp xử lí số liệu.
Sử dụng các cơng thức tốn thống kê: số trung bình, tính theo tỉ lệ phần
trăm và cách tính điểm theo thang bậc… để xử lí kết quả nghiên cứu.


5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
TTCHT là một vấn đề từ lâu đã được rất nhiều nhà tâm lí học, giáo dục

học quan tâm và nghiên cứu trong nhiều các cơng trình khoa học trên thế giới
cũng như trong nước. Các tác giả đã đề cập tới TTCHT ở nhiều góc độ khác
nhau.
1.1.1.Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi
Thứ nhất: phải kể đến các tác giả nghiên cứu về TTC, TTCHT và các thành
phần của nó làm nền móng cho các cơng trình nghiên cứu tiếp theo, đó là:
Khi nghiên cứu về TTCHT, TTCNT các tác giả L.X.Vưgotxki, X.LRubinstein, A.N.Lêonchev, P.Ia.Galperin và J.Piaget cho rằng: Dựa trên quan
điểm cá nhân luôn hoạt động, khơng có hoạt động thì cá nhân khơng tồn tại.
Chỉ có trong hoạt động thì TTC cũng như tâm lí, ý thức của con người mới bộc
lộ, nảy sinh, hình thành và phát triển. HĐHT là một hoạt động tích cực. Bởi “sự
khác biệt cơ bản giữa các q trình thích nghi theo đúng nghĩa của nó và các
quá trình tiếp thu, lĩnh hội là ở chỗ quá trình thích nghi sinh vật là q trình
thay đổi các thuộc tính của lồi, năng lực của cơ thể và hành vi lồi của cơ thể.
Q trình tiếp thu hay lĩnh hội thì khác, đó là q trình mang lại kết quả: cá thể
tái tạo lại được những năng lực và chức năng người đã được hình thành trong
quá trình lịch sử”. Muốn học sinh, sinh viên chuyển tri thức nhân loại thành
kiến thức của bản thân thì người thầy phải tổ chức cho HS, SV tích cực tham
gia vào hoạt động. [17], [18]
Các nhà tâm lí học ở Đức như H.Hipso, M.Forvec, S.Franz…cũng
nghiên cứu về thái độ, thái độ học tập và các biểu hiện của nó một cách
cơng phu. Trong cơng trình nghiên cứu của S.Franz, ơng đã đưa ra những
biểu hiện thái độ học tập tích cực và đã được nhiều người cơng nhận. Đó là:
1.Trên lớp chú ý nghe giảng; 2.Học bài và làm bài đầy đủ; 3.Cố gắng vươn
lên học được nhiều; 4. Không vội vàng phản ứng tiêu cực nếu có chỗ nào
chưa hiểu hoặc khơng nhất trí với bài giảng; 5. Đảm bảo kỷ luật để học tốt;
6.Cố gắng đạt thành tích học tập tốt và nâng cao thành tích học tập của
mình một cách trung thực; 7.Thích độc lập thực hiện nhiệm vụ học tập;
8.Hăng hái nhiệt tình trong giờ thảo luận và chữa bài tập; 9.Hoàn thành
nhiệm vụ học tập một cách nghiêm túc; 10.Giữ gìn tài liệu học tập cẩn thận.



6

Thứ hai: Các tác giả nghiên cứu về vấn đề hình thành TTC và TTCHT
của học sinh, sinh viên:
V.B.Kơminxkaia cùng các đồng nghiệp đã tìm hiểu mối quan hệ giữa
TTCHT và dạy học. TTC của trẻ phụ thuộc vào mức độ kiến thức. Càng hiểu
biết về thế giới xung quanh và càng nắm vững các kĩ năng, kĩ xảo bao nhiêu thì
trẻ càng tích cực và chủ động sáng tạo bấy nhiêu. Do đó nhà sư phạm phải biết
kích thích lịng say mê hoạt động, ham hiểu biết, tính tích cực, tính sáng tạo của
trẻ.
Như vậy các nhà Tâm lí học và Giáo dục học đều cho rằng TTC của HS
là sự huy động các chức năng tâm lí ở mức độ cao nhằm nhận thức và cải tạo
thế giới đồng thời cũng nhận thức và cải tạo chính bản thân mình. TTCHT của
HS chỉ có thể được nảy sinh, hình thành và phát triển trong hoạt động và bằng
hoạt động. Muốn đào tạo con người đáp ứng được yêu cầu xã hội vừa “hồng”
vừa “chun” thì chỉ có thể để cho người học tự chiếm lĩnh và khám phá ra tri
thức, từ đó tự rèn luyện, hồn thiện bản thân dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của
giáo viên.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước.
Ở Việt Nam, vấn đề phát huy TTC nói chung và TTCHT của HS, SV
nói riêng ln được các nhà Giáo dục học, Tâm lí học quan tâm nghiên cứu.
Vì đây là một trong những yếu tố quyết định kết quả học tập.
Thứ nhất: Những tác giả nghiên cứu về TTC, TTCHT và các thành phần
của nó:
Các nhà Tâm lí học Việt Nam như: Phạm Minh Hạc, Phạm Tất Dong,
Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy, Hồ Ngọc Đại, Nguyễn Kế Hào, Ngơ
Cơng Hồn…tiếp cận quan điểm duy vật biện chứng và hoạt động đều coi
nhân cách là chủ thể có ý thức. TTC là một thuộc tính của nhân cách. TTC
của nhân cách bao gồm các thành tố tâm lí như nhu cầu, động cơ, hứng thú,

niềm tin, lí tưởng. Các thành tố tâm lí này của TTC ln tác động qua lại lẫn
nhau, được thể hiện ở những hoạt động muôn màu, muôn vẻ và đa dạng nhằm
biến đổi, cải tạo thế giới xung quanh, cải tạo bản thân con người, cải tạo
những đặc trưng tâm lí của chính mình.[3], [4], [6], [7], [8].
Tác giả Nguyễn Ngọc Bảo: Khi công bố các công trình nghiên cứu của
mình về “Khái niệm tính tích cực, tính độc lập nhận thức và mối liên hệ biện
chứng giữa chúng” đã đề cập tới TTC và TTCNT là thái độ cải tạo của chủ thể
đối với khách thể thông qua sự huy ở mức độ cao của các chức năng tâm lí


7

nhằm giải quyết những vấn đề nhận thức. Nó vừa là mục đích học tập vừa là
phương tiện vừa là điều kiện để đạt mục đích, vừa là kết quả của học tập. Nó
là sản phẩm của hoạt động cá nhân”[1, 46-51].
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết cho rằng “hoạt động bao giờ cũng do chủ thể
tiến hành. Đó chính là con người đang hoạt động. Tính chủ thể bao hàm trước hết
TTC. Đây cũng là đặc tính chung của sự sống và đến con người thì TTC phát triển
tới đỉnh cao thành tính chủ động, say mê, nhiệt tình. Con người là chủ thể hoạt
động, đồng thời con người càng tích cực hoạt động tính chủ thể càng phát triển cao
và do đó con người sẽ dần dần hồn thiện”. Như vậy tác giả đã vạch ra được mối
liên hệ chặt chẽ giữa TTC với hoạt động của con người.[19, 24].
Tác giả Hoàng Đức Nhuận và Lê Đức Phúc đã thành cơng trong q
trình nghiên cứu thái độ học tập. Đó là một thành phần khơng thể thiếu của
TTCHT của HS – bởi khi HS có thái độ học tập đúng đắn thì các em mới tích
cực tìm ra các cách thức tối ưu để lĩnh hội tri thức, từ đó mới chuyển thành
tâm lí, ý thức của bản thân một cách có hiệu quả [16].
Thứ hai: Các tác giả nghiên cứu về vấn đề hình thành TTCHT của HS, SV:
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng vừa là nhà chính trị vừa là nhà sư phạm
đã từng nhấn mạnh “Bí quyết quan trọng nhất là phương pháp học tập”, Người

thường xuyên đòi hỏi người dạy học phải làm cho SV luôn suy nghĩ, huy động
tiềm năng học tập của HS, SV cịn người học thì phải say mê, kiên trì, học có
phương pháp, đặc biệt là tư duy. [5,1].
Tác giả Phan Thị Diệu Vân trong cơng trình “Làm cho học sinh tích
cực chủ động và độc lập sáng tạo trong giờ lên lớp” cho rằng TTCHT
không chỉ thể hiện trong các mặt quan sát, chú ý, tư duy, trí nhớ mà phải
căn cứ vào cường độ, độ sâu, nhịp điệu của những hoạt động đó trong một
thời gian nhất định [21, 51].
Tác giả Đặng Vũ Hoạt cho rằng TTCNT biểu hiện ở chỗ huy động ở
mức độ cao các chức năng tâm lí, đặc biệt chức năng tư duy. Trong đó sự kết
hợp thống nhất giữa các yếu tố tâm lí nhận thức với các yếu tố tình cảm, ý chí
càng linh hoạt bao nhiêu thì ở người họ TTC càng cao bấy nhiêu [12].
Các tác giả Trần Bá Hoành, Lê Tràng Định, Phó Đức Hịa giới thiệu
cơng trình nghiên cứu “Áp dụng dạy học tích cực trong mơn Tâm lí – Giáo
dục học” đã giới thiệu cơ sở lí luận, thực nghiệm, quy trình áp dụng dạy học
tích cực ở nhà trường phổ thông cũng như đại học. Trong đó các tác giả nêu
lên khái niệm TTCNT trên cơ sở tiếp thu quan niệm của Kharlamop. Các tác


8

giả coi “hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lí tạo nên tính tích cực”. Theo
các tác giả TTC là phẩm chất vốn có của con người và được biểu hiện trong
hoạt động. TTCHT là sự gắng sức cao trong HĐHT mà chủ yếu trong hoạt
động nhận thức. Trong tác phẩm này các tác giả đã nêu đặc trưng phương
pháp dạy học tích cực, tình hình dạy và học tích cực ở trường sư phạm hiện
nay. Các tác giả đã tiếp thu các thành tựu nghiên cứu Tâm lí học, Giáo dục
học và đặc biệt những thành tựu nghiên cứu về sự hình thành, phát triển
TTCHT của HS, SV của tác giả Kelchtermans.
Các tác giả: Phan Trọng Luận, Lê Khánh Bằng, Phạm Viết Vượng,

Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Hữu Long… trong các bài báo và bài viết của
mình đều nói đến TTC của HS là sự say mê, tìm tịi, khám phá tri thức. Vì vậy
người thầy phải có phương pháp thích hợp để kích thích, phát triển tính chủ
động, sáng tạo đó chứ khơng phải là “nhồi nhét” kiến thức “sẵn có” vào đầu họ.
Có như vậy mới đào tạo được một thế hệ tương lai “biết làm, muốn làm và làm
một cách sáng tạo, làm một cách có lương tâm nghề nghiệp”, tự kiếm được
“việc làm” trong xã hội đầy biến động của thiên niên kỷ này.
Như vậy, ở nước ngồi và trong nước có nhiều các cơng trình nghiên
cứu về TTC nói chung và TTCHT của người học nói riêng. Các nghiên cứu
này tập trung chủ yếu nghiên cứu các thành phần của TTC và sự hình thành
TTC. Cịn TTCHT của HS tiểu học nói chung, TTCHT của HS lớp 5 nói riêng
ít được quan tâm nghiên cứu. Bậc tiểu học là bậc học mang tính nền tảng cho
nền học vấn sau này nên để nâng cao hiệu quả học tập của các em thì việc tìm
hiểu TTCHT của HS tiểu học có ý nghĩa hết sức quan trọng.
1.2 Tính tích cực và tính tích cực học tập
1.2.1 Tính tích cực
1.2.1.1 Khái niệm về tính tích cực
TTC là một khái niệm khá phức tạp nên có nhiều quan điểm xem xét
vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau:
* Theo từ điển Tiếng Việt: Tính tích cực được hiểu theo hai nghĩa: Một
là chủ động hướng hoạt động nhằm tạo ra những thay đổi, phát triển (tư tưởng
tích cực, phương pháp tích cực). Hai là hăng hái, năng nổ với cơng việc (tính
tích cực học tập, tính tích cực làm việc).
* Quan điểm triết học: Các nhà triết học cho rằng mỗi sự vật bao giờ cũng
thể hiện TTC của nó bởi vật chất ln vận động và phát triển không ngừng.


9

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, TTC là thái độ cải tạo của

chủ thể đối với khách thể, đối tượng, với sự vật xung quanh; là khả năng của
mỗi người đối với việc tổ chức cuộc sống, điều chỉnh những nhu cầu, năng lực
của họ thông qua các quan hệ xã hội. TTC của từng cá nhân có thể được thực
hiện thơng qua hoạt động sáng tạo. Theo Mác và Lênin thì đây là một loại
hoạt động đặc biệt: tự giác, tự do, có hứng thú, những hành động và hành vi
được thôi thúc không phải do tính tất yếu bên ngồi mà do tính tất yếu bên
trong, do nhu cầu và lợi ích của chủ thể. TTC ở hình thái bên trong chủ yếu
bao hàm những chức năng và đặc điểm nhận thức như: mức độ hoạt động trí
tuệ, cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng… và các chức năng vận động thể
chất bên trong (các q trình sinh lí…). TTC ở hình thái bên ngoài bao hàm
các chức năng, khả năng, sức mạnh thể chất và xã hội thể hiện ở đặc điểm
hành vi, hành động, di chuyển… nhất là hành động ý chí, các phương thức
tiến hành hoạt động thực tiễn và tham gia các quan hệ xã hội. Tính thống nhất
của hai hình thức tồn tại: bên trong và bên ngồi của TTC, phản ánh “tinh
thần sáng tạo của con người”, phản ánh sự chuyển hóa từ hình thái bên trong
của TTC thành hình thái bên ngồi của nó, từ TTC tiềm tàng thành TTC hiện
thực, từ TTC như một hiện tượng bên trong của chủ thể thành TTC như một
hiện tượng của thực tại.
Do vậy, TTC cá nhân không chỉ đơn giản là một trạng thái tâm lí được
huy động vào một thời điểm hoặc một tình huống, mà nó là một thuộc tính
chung cho tất cả các chức năng, khả năng và sức mạnh của cá nhân.
* Quan điểm của các nhà sinh học
- Theo M.Kagan thì TTC của thực vật, đó là định hướng, là sự hướng
tới những yếu tố của hoàn cảnh để tạo nên sự thay đổi, vận động hoặc thích
nghi của sinh vật đối với mơi trường.
- Phát kiến của I.P.Paplop đã cho rằng: Cơ sở sinh lí của TTC chính là
hoạt động của vở bán cầu đại não và hệ thống tín hiệu thứ hai. Đây là sự khác
biệt giữa con người và con vật. Con vật chỉ bắt chước, chứ khơng có TTC. Chỉ
ở con người mới có TTC hoạt động, hành động.
* Quan điểm của các nhà Giáo dục học

V.Ơkơn cho rằng: TTC là lòng mong muốn hành động, được nảy sinh
một cách chủ định và gây nên những biểu hiện bên ngoài hoặc bên trong của
hoạt động. I.F.Kharlamop coi TTC là trạng thái hoạt động của chủ thể nghĩa là
của người hành động. Một số tác giả khác lại cho TTC là một hành động ý chí


10

hay một phẩm chất tâm lí. Các tác giả: B.P.Êxipop, A.I.Secbacop, L.Aristova,
Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo… xem TTC như là thái độ cải tạo của chủ
thể đối với thế giới khách quan thông qua việc huy động ở mức độ cao các
chức năng tâm lí nhằm giải quyết các vấn đề nảy sinh. TTC vừa là mục đích
của hoạt động, vừa là phương tiện, vừa là điều kiện để đạt mục đích vừa là kết
quả của hoạt động. Nó là phẩm chất hoạt động của cá nhân .
* Quan điểm của các nhà Tâm lí học
- S.Freud ( phân tâm học) cho rằng TTC của con người được hiểu như
một sức mạnh tự nhiên sinh vật giống như bản năng động vật. Luận điểm cơ
bản của ông là: Con người gồm ba khối (Cái ấy hay còn gọi là cái vô thức bao
gồm các bản năng vô thức như ăn uống, tình dục, tự vệ trong đó bản năng tình
dục giữ vai trị trung tâm quyết định tồn bộ đời sống tâm lí và hành vi của
con người, cái ấy tồn tại theo nguyên tắc thỏa mãn và đòi hỏi; Cái tơi là con
người thường ngày, con người có ý thức, tồn tại theo nguyên tắc hiện thực.
Cái tôi có ý thức theo ơng là cái tơi giả hiệu, cái tơi bề ngồi của cái nhân lõi
bên trong là cái ấy; Cái siêu tôi là cái siêu phàm, “cái tơi lí tưởng” khơng bao
giờ vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép.
- Theo Tâm lí học Mácxit
Các nhà tâm lí học Mácxit dựa vào triết học Mac – Lênin nghiên cứu về
vấn đề TTC hoạt động của cá nhân trên lập trường quyết định luận xã hội cho
rằng, các thái độ hình thành nên trong quá trình phản ánh sẽ trực tiếp biểu
hiện ra ở mức độ hoạt động và ở đặc điểm số lượng, chất lượng, hiệu suất của

hoạt động. Nhìn nhận TTC theo góc độ này được hiểu như sau:
+ TTC được đề cập và nhấn mạnh như là một đặc điểm chung của sinh vật
sống, là động lực đặc biệt của mối liên hệ giữa sinh vật sống và hoàn cảnh, là khả
năng đặc biệt của tồn tại sống giúp cơ thể thích ứng với mơi trường.
+ TTC được gắn liền với hồn cảnh bên ngồi, nó được biểu hiện như sau:
Nó gắn liền với hoạt động, được thể hiện như là động lực để hình thành
và hiện thực hóa hoạt động. Ở mức độ cao, nó thể hiện tính chế ước, chế định
trạng thái bên trong của chủ thể. Nó thể hiện sự thích ứng một cách chủ động
với hồn cảnh, mơi trường sống bên ngồi.
+ Như vậy, TTC được nghiên cứu trong mối quan hệ với hoạt động, nó
làm xuất hiện động lực thúc đẩy con người hoạt động có hiệu quả. Vì vậy,
TTC có các tính chất sau:


11

- Hoạt động phản ứng – sự hoạt động của trạng thái bên trong của chủ
thể với môi trường.
- Hoạt động ý chí thể hiện tính độc lập của chủ thể với mơi trường.
- Tính chất vượt khó khăn, trở ngại trong mọi hồn cảnh theo mục
đích của chủ thể.
- Tính ổn định – bền vững của hoạt động tạo thành kiểu phản ứng đối
với mơi trường bên ngồi của chủ thể.
Do vậy: Tính tích cực là phẩm chất tâm lí của cá nhân ln gắn liền với
hoạt động, được biểu hiện ở nhu cầu hoạt động, tính tự giác, tính chủ động
trong hoạt động và tính hiệu quả của hoạt động.
1.2.1.2 Nguồn gốc của tính tích cực
Nguồn gốc của TTC chính là nhân tố bên trong của sự phát triển nhân
cách. Bất kì mọi sự tác động bên ngồi nào cũng thông qua sư tác động bên trong
của trẻ và gây nên một phản ứng tâm lí nhất định: tích cực hay tiêu cực. Những

nhân tố bên trong tồn tại dưới dạng nhu cầu, hứng thú, động cơ và phương hướng
của hoạt động…Thực tiễn cho thấy, bất kỳ hiện tượng nào trong cuộc sống, nếu
có một ý nghĩa thiết thực đối với cá nhân, đều sẽ trở thành đối tượng của thái độ
tích cực của cá nhân đó.
Theo các nhà tâm lí học, nguồn gốc của TTC chính là nhu cầu. Chính
nhu cầu đã thúc đẩy con người ta hành động theo một cách nhất định, một
hướng nhất định. Chính nhu cầu là sự kích thích bên trong đầu tiên của bất cứ
hoạt động nào. C.Mác đã khẳng định: con người sẽ chẳng làm gì cả nếu khơng
có những nhu cầu của mình kích thích hành động. Khi nó kết hợp với ý thức sẽ
tạo ra một động lực thúc đẩy hành vi của con người. Trong hoạt động, con
người nảy sinh những nhu cầu cụ thể, rồi lại từ nhu cầu để tiến hành hoạt động
tiếp theo nhằm mục đích cuối cùng. Vì vậy, nhu cầu khơng những biểu hiện vai
trị quyết định các điều kiện bên ngồi và các điều kiện bên trong, mà nó cịn
biểu hiện ở vai trị của tính sáng tạo, của ý thức trong sinh hoạt của con người.
Nhu cầu bao gồm cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, quyết định hành vi
của nhân cách và kích thích TTC.
Đối với HS, kiến thức có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc học tập. Nếu
HS khơng có nhu cầu nhận thức, nhu cầu nâng cao hiểu biết thì khơng thể học
tập tích cực. Do vậy, giáo viên phải biết khơi nguồn và phát huy hứng thú nhận
thức và nhu cầu nhận thức. Nguồn hứng thú nhận thức là biểu hiện cao của
TTCHT, vừa là kết quả, vừa là nguồn gốc của TTC. Nếu khơng có hứng thú sẽ


12

khơng có thái độ say mê học tập, khơng có tính sáng tạo, khả năng suy đốn và
tìm tịi chân lí.
Hứng thú học tập được phát triển trên cơ sở của những nhu cầu và chi
phối bởi những nhu cầu đó. Theo I.F Kharlamop: “Hứng thú đó là nhu cầu
nhuốm màu sắc xúc cảm đi trước giai đoạn gây động cơ và làm cho hoạt động

của con người mang tính chất hấp dẫn” [14, 28]. Khi hoạt động nhận thức của
HS dựa trên cơ sở hứng thú, nó sẽ trở nên hào hứng, dễ dàng và thoải mái. Khi
đó HS khơng cần đến sự động viên bên ngồi đối với học tập, mà làm việc với
lòng say mê bên trong theo nguyện vọng của bản thân. Chính vì vậy, việc tạo ra
hứng thú nắm vững kiến thức của HS sẽ tạo nên những kích thích bên trong
mạnh mẽ. Nhưng làm thế nào để kích thích ở HS hứng thú nhận thức? Bởi vì,
hứng thú là một dạng độc đáo của nhu cầu, để hình thành hứng thú cần tạo nên
những mâu thuẫn trong quá trình học tập…Đặc điểm riêng của việc áp dụng các
phương pháp giáo dục hứng thú nhận thức là phải giúp cho HS có cảm xúc, niềm
tin vui sướng của thành công, tin tưởng vào khả năng của bản thân để có thể vượt
qua những khó khăn, đồng thời những tiến bộ trong học tập sẽ củng cố lịng tự
hào, vì thế HS sẽ cố gắng làm việc một cách chăm chỉ, phát huy TTCHT.
Trên cơ sở nhu cầu và hứng thú sẽ hình thành động cơ học tập. Nếu
hứng thú là nhu cầu mang màu sắc cảm xúc thì “Động cơ là thái độ chủ quan
của HS đối với học tập, mà cơ sở là mục đích được tự giác đặt ra” [15,29].
Mục đích học tập và cả kết quả học tập mà HS mong đợi đều được cụ thể hóa
trong động cơ. Có rất nhiều động cơ khác nhau như động cơ mang tính chất cá
nhân và động cơ mang tính chất xã hội. Tuy nhiên, cả hai loại động cơ này
đều có sức mạnh kích thích TTCHT, cần phải được duy trì và phát huy, đồng
thời loại trừ khỏi chúng những yếu tố ích kỷ, khơng tốt đẹp.
Tóm lại, nguồn gốc của TTC là nhu cầu, hứng thú và động cơ nằm
trong hoạt động chủ đạo của họ. Nhờ có nhu cầu, hứng thú, động cơ mà hoạt
động đó có thể đạt kết quả cao. Ngồi ra yếu tố tâm lí xã hội cũng là một trong
những nhân tố kích thích mạnh mẽ và đôi khi là nguồn gốc thúc đẩy TTC hoạt
động của cá nhân.
1.2.1.3 Q trình phát triển của tính tích cực.
Hoạt động giúp cho cơ thể thích nghi với hồn cảnh bên ngồi đồng thời
giúp cho cơ thể sống được. Thích nghi tức là biến đổi và phát triển cơ thể cả về
phương diện hình thái và phương diện chức năng cho phù hợp với hoàn cảnh.



13

Ở động vật nguyên sinh, TTC hoạt động biểu hiện ở tính chịu kích thích
– chưa được phân hóa, cứng nhắc và nhiều khi khơng hợp lí (khơng những
hấp thụ chất dinh dưỡng mà hấp thụ cả chất không dinh dưỡng, miễn là nó tác
động trực tiếp vào màng của amip). Càng ngày TTC hoạt động càng được
phân hóa hơn và do đó, thích hợp hơn với các nhu cầu và các tác động của bên
ngoài. Sự hoàn thiện các phản ứng này gắn liền với sự xuất hiện nhiều mơ mới
và giác quan mới, được chun mơn hóa để phân biệt các tác động và để có
hành vi có phân hóa.
Sự xuất hiện của hệ thần kinh, cơ quan giúp thống nhất các chức năng của
cơ thể với nhau để thiết lập những mối liên hệ phức tạp với hoàn cảnh bên ngoài,
là một bước nhảy vọt trong sự phát triển của cơ thể. Hoạt động của hệ thần kinh đó
là cơ sở sinh lí của TTC hoạt động, giúp cơ thể thích nghi một cách tốt nhất với
hồn cảnh bên ngoài.
Nếu động vật chỉ biết dựa vào tự nhiên và biến đổi mình cho phù hợp với
tự nhiên chỉ vì nó đang tồn tại ở đó thì con người thì tạo ra những biến đổi để bắt
tự nhiên phục vụ những mục đích của mình, tức là thống trị tự nhiên. Điều đó là
sự khác biệt căn bản giữa động vật và con người, sự khác biệt này là nhờ lao
động mà có. Sự thích ứng của động vật với mơi trường mang tính chất phản xạ
bản năng và thực hiện trên cơ sở tín hiệu thứ nhất, tức là trên cơ sở hình tượng.
Cịn hoạt động của con người thì mang tính chất ý thức, có chủ định trước, theo
một phạm trù nhất định.
Một cá nhân tích cực là một cá nhân hoạt động đến mức cao nhất, tham
gia vào cuộc sống chính trị xã hội và tư tưởng của xã hội. Hoạt động của con
người vốn đa dạng, nó chẳng những bao gồm lĩnh vực hoạt động xã hội mà cịn
có nhận thức, lao động. Cái được cá nhân phản ánh sẽ được cải biến, khái qt
hóa và trở thành một thuộc tính của người đó. Về vấn đề này, các nhà tâm lí
học như A.G.Cơvaliơp, P.A.Rudich đểu khẳng định “TTC được phát triển một

cách hoàn thiện nhất trong lao động, lao động tác động đến việc hình thành các
phẩm chất của tính cách như tính bền vững của ý chí, khả năng duy trì chú ý lâu
dài vào một đối tượng hay một hoạt động nào đó”[2, 392]. Như vậy q trình
phát triển TTC được hình thành và phát triển cùng với q trình thích ứng và
cải tạo của con người với môi trường. Điều đó được thể hiện trong hành động,
hoạt động, trong nhận thức, trong cải tạo thế giới khách quan của con người.
Vì thế I.M.Xêtrenop đã nhận xét rằng: Ngay trong sự tri giác, con người đã thể
hiện TTC hoạt động của mình. Ơng viết rằng chúng ta lắng nghe chứ khơng


14

phải là nghe thấy, chúng ta để mắt nhìn chứ khơng phải là trơng thấy, tức là
chúng ta tích cực tìm tịi, chọn lọc, kiểm nghiệm.
Mặt khác ở mỗi lứa tuổi, TTC là được thể hiện ở những biểu hiện và cấp
độ khác nhau. TTC được hình thành và phát triển dần theo sự phát triển của lứa
tuổi. Tuổi nhỏ thì TTC thể hiện rất mờ nhạt, càng lớn thì TTC càng được thể
hiện rõ nét hơn và sinh động hơn đặc biệt là khi khả năng ý thức và tự ý thức
phát triển mạnh mẽ ở lứa tuổi thiếu niên, các em biết đánh giá mình khơng chỉ
cịn thơng qua sự đánh giá của người lớn nữa mà đã có những ý kiến, những
nhận xét riêng và dần xây dựng một thế giới quan của riêng mình đồng thời các
em cũng biết điều chỉnh hành vi của mình.
Tuy nhiên khơng phải ai cũng có sự phát triển TTC như nhau và ở
những lĩnh vực giống nhau. Có người phát triển sớm, có người lại phát triển
chậm… hoặc có người thì lĩnh vực này thể hiện TTC rất cao, nhưng lĩnh vực
khác thì lại rất thấp hoặc khơng có, rất hiếm có những người mà TTC được
thể hiện ở nhiều lĩnh vực. Như vậy, mỗi người đều có tiềm năng ở những mức
độ khác nhau.
1.2.2 Tính tích cực học tập
1.2.2.1 Khái niệm về tính tích cực học tập

Trên cơ sở khái niệm về TTC ở trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về
TTCHT như sau:
TTCHT là một phẩm chất tâm lí cá nhân ln gắn liền với hoạt động
học tập, được biểu hiện ở nhu cầu học tập, tính tự giác, tính chủ động trong
học tập và tính hiệu quả của hoạt động học tập.
Từ khái niệm trên đã cho thấy: TTCHT gồm 4 biểu hiện:
- Nhu cầu học tập
- Tính tự giác trong học tập
- Tính chủ động trong học tập
- Tính hiệu quả của hoạt động học tập
Chúng tơi cho rằng, HS muốn tích cực học tập, trước hết phải có nhu cầu
học tập, nhu cầu nhận thức, sự khao khát chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo để
tồn tại và phát triển nhân cách phù hợp với yêu cầu của xã hội. Đó là động lực để
thúc đẩy HS tích cực học tập. HS càng tích cực tham gia vào HĐHT, thì sự thoả
mãn nhu cầu nhận thức càng cao. Vì vậy các em có niềm vui và say mê học tập.
Chính trong q trình này, HS dần ý thức được sự cần thiết phải thoả mãn nhu
cầu nhận thức như thế nào cho có hiệu quả trong hiện tại và tương lai. Mặt khác,


15

khi các em có nhu cầu học tập, các em khơng chỉ tự giác thực hiện HĐHT mà
cịn chủ động trong học tập. Các em luôn làm chủ được các hành động học tập
cũng như trong từng giai đoạn của quá trình học tập, biết đặt ra các mục tiêu, kế
hoạch trong học tập. Các em thường xuyên đi học đầy đủ, tích cực phát biểu xây
dựng bài, ln đưa ra những sáng kiến trong quá trình giải quyết nhiệm vụ học
tập, ln chủ động tìm và đọc thêm các sách tham khảo, sách nâng cao và vận
dụng những kiến thức, kĩ năng đã có vào giải quyết các bài tập, nhiệm vụ học
tập.
Một yếu tố không thể thiếu của TTCHT đó là tính hiệu quả của HĐHT.

Tính hiệu quả của HĐHT được biểu hiện ở sự biến đổi toàn bộ nhân cách, cụ thể
hơn là biểu hiện ở việc ghi nhớ và hiểu rõ nội dung của bài học, ở điểm số mà
các em đạt được trong các bài kiểm tra và bài thi.
Mỗi yếu tố trên có một vị trí, vai trị riêng trong cấu trúc của TTCHT,
chúng khơng đứng độc lập một mình mà ln tác động qua lại với nhau, thúc
đẩy nhau cùng phát triển. Có thể nói, nhu cầu học tập là cơ sở để thúc đẩy con
người tự giác, tích cực, chủ động tham gia vào HĐHT, từ đó tạo ra hiệu quả
cao trong học tập. Khi trẻ đạt được hiệu quả cao trong học tập thì lại tiếp tục
hình thành nên các nhu cầu cao hơn và tiếp tục thực hiện các hành động để
thoả mãn những nhu cầu đó. Cứ như vậy TTC, TTCHT của trẻ càng được phát
triển mạnh mẽ.
Có rất nhiều khái niệm liên quan đến khái niệm TTCHT trong đó có
khái niệm thường dùng là:
- Tính tích cực nhận thức
- Tính tích cực trí tuệ
- Tính tích cực học tập
1.2.2.2 Những biểu hiện của tính tích cực học tập
Xuất phát từ chỗ có nhiều tác giả nhìn nhận TTCHT ở nhiều góc độ
khác nhau mà có nhiều quan niệm khác nhau về biểu hiện của TTCHT.
Ơ.Cơn cho rằng TTCHT của HS được biểu hiện như sau:
- Hình dung những mục đích, mà để đạt tới nó người ta cần khắc phục khó
khăn
- Đi đến quyết định
- Thực hiện quyết định
- Đạt tới mục đích.


16

Theo G.I.Sukina (1979) TTC hoạt động trí tuệ được biểu hiện bởi các

dấu hiệu sau:
- HS khao khát, tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ
sung các câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề nêu
ra.
- HS hay nêu thắc mắc, địi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề giáo viên
trình bày chưa đủ rõ.
- HS chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kĩ năng đã học để
nhận thức các vấn đề mới.
- HS mong muốn được đóng góp với thầy và các bạn những thơng tin
mới lấy từ những nguồn khác nhau, có khi vượt ra ngồi phạm vi bài học,
mơn học.
Ngồi những biểu hiện nói trên mà giáo viên dễ nhận thấy – cịn có
những biểu hiện về mặt xúc cảm, khó nhận thấy hơn, như thờ ơ hay hào hứng,
phớt lờ hay ngạc nhiên, hoan hỉ hay buồn chán trước một nội dung nào đó của
bài học hoặc khi tìm ra lời giải cho một bài tập. Nhũng dấu hiệu này biểu hiện
khác nhau ở từng cá thể HS, bộc lộ rõ ở các lớp HS bé và kín đáo ở các HS
lớp trên.
G.I.Sukina còn phân biệt những biểu hiện của TTCHT về mặt ý chí như:
- Tập trung vào vấn đề đang học, kiên trì làm cho xong bài tập.
- Khơng nản trước những tình huống khó khăn
- Thái độ phản ứng khi chuông báo hết tiết học: tiếc rẻ, cố làm cho xong
hoặc vội vàng gấp vở chờ được lệnh ra chơi.
Trần Bá Hồnh thì lại cho rằng TTCHT của HS được biểu hiện ở sự
khao khát học, hay nêu thắc mắc, chủ động vận dụng, sự tập trung chú ý, sự
kiên trì vượt khó khăn để đạt mục đích. Và TTCHT được thể hiện ở các mức
độ khác nhau đó là: tái hiện, tìm tịi, sáng tạo [11, 9].
Hai tác giả này đã chỉ ra tương đối đầy đủ các thành phần tâm lí của
TTCHT, Họ chủ yếu đi sâu nghiên cứu ở lứa tuổi học sinh phổ thông.
Khi nghiên cứu TTCNT của HS, Thái Duy Tuyên đã chỉ ra biểu hiện
của TTCHT như sau:

- Các em có chú ý học tập
- Hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động (thể hiện ở chỗ
giơ tay phát biểu ý kiến, ghi chép…)
- Hoàn thành những nhiệm vụ được giao


17

- Ghi nhớ tốt những điều đã học.
- Hiểu bài học và có thể trình bày lại nội dung bài học theo ngơn ngữ
riêng của mình
- Biết vận dụng được kiến thức đã học vào thực tiễn.
- Đọc thêm, làm thêm các bài tập khác.
- Tốc độ học tâp nhanh và hứng thú trong học tập.
- Có sáng tạo trong học tập.
Ngồi ra ơng cịn chỉ ra các mức độ tích cực của học sinh, đó là:
- Có tự giác học tập không hay bị bắt buộc bởi những tác động bên
ngồi (gia đình, bạn bè, xã hội…)
- Thực hiện nhiệm vụ của thầy giáo theo yêu cầu tối thiểu hay tối đa.
- Tích cực nhất thời hay thường xuyên, liên tục.
- Tích cực ngày càng tăng hay giảm dần.
- Có kiên trì, vượt khó hay khơng.
Từ những ý kiến trên và căn cứ vào định nghĩa tính tích cực học tập,
theo chúng tôi TTCHT của HS được biểu hiện ở các mặt như sau:
- Nhu cầu học tập.
Nhu cầu học tập là đòi hỏi của người học đối với sự lĩnh hội nội dung kiến
thức, phương pháp học tập, nhằm làm giàu vốn kinh nghiệm, phát triển và hoàn
thiện nhân cách của bản thân, là trạng thái thiếu hụt về kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo
mới được phản ánh trong não của người học. Nhu cầu học tập là thành phần cơ
bản của động cơ học tập, thúc đẩy TTC và có ảnh hưởng quyết định đến kết quả

học tập.
Biểu hiện của nhu cầu học tập:
+ Hãy nêu ra các thắc mắc, địi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề giáo
viên trình bày chưa đủ rõ.
+ Say mê tìm hiểu đối tượng nhận thức (hào hứng, thích thú khi học
tập, dành nhiều thời gian cho học tập, …)
- Tính tự giác trong học tập
Tính tự giác trong học tập là người học tự mình tìm hiểu được tại sao
mình cần phải học và học để làm gì đồng thời tự nguyện thực hiện các hoạt động
học tập, các nhiệm vụ học tập mà không cần sự đôn đốc, nhắc nhở của bất cứ
một người nào.
Biểu hiện của tính tự giác trong học tập:


18

+ Tự giác tập trung chú ý vào bài giảng, thực hiện đầy đủ các yêu cầu của
GV.
+ Tự giác suy nghĩ và trả lời những vấn đề cô giáo đặt ra
+ Tự xác định kế hoạch dành cho học tập.
+ Tự giác học bài khi đến giờ học bài ở nhà.
+ Tự giác hoàn thành bài tập về nhà.
+ Tự giác tham gia các HĐHT và thực hiện các nhiệm vụ học tập.
+ Tự giác suy nghĩ và hành động, tự mình tìm kiếm phương thức để giải
quyết nhiệm vụ học tập.
- Tính chủ động trong hành vi học tập
Tính chủ động trong hành vi học tập là việc làm chủ các hành động hoặc
trong từng giai đoạn của quá trình học tập như: đặt ra nhiệm vụ, lập kế hoạch,
thực hiện nhiệm vụ đó, tự đọc thêm làm thêm các bài tập, tự kiểm tra…
Biểu hiện của tính chủ động trong hành vi học tập

+ Chủ động đi học thường xuyên đầy đủ
+ Chủ động phát biểu xây dựng bài
+ Chủ động đưa ra sáng kiến trong quá trình giải quyết nhiệm vụ học
tập, hoặc biết giải quyết nhiệm vụ theo cách riêng của mình.
+ Chủ động tìm và đọc thêm các sách tham khảo, sách nâng cao
+ Chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã có vào giải quyết các bài
tập, nhiệm vụ học tập.
+ Chủ động đặt ra những mục tiêu, nhiệm vụ trong học tập và tự mình
thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đó.
- Hoạt động học có hiệu quả (Tính hiệu quả của hoạt động học)
Biểu hiện hoạt động học có hiệu quả:
+ Hiểu bài học và có thể trình bày lại nội dung bài học theo ngơn ngữ
riêng của mình
+ Vận dụng được những kiến thức đã học để giải quyết các bài tập khác
tương tự, các nhiệm vụ học tập.
+ Kết quả học tập, thể hiện ở sự biến đổi toàn bộ nhân cách đặc biệt là
hoạt động nhận thức và ở điểm số mà trẻ đạt được.
1.2.2.3 Phân loại tính tích cực học tập
Có nhiều cách phân loại TTCHT theo các tiêu chí khác nhau:
* Dựa theo tính chất tái tạo hay sáng tạo của kết quả hoạt động,
G.I.Shukina, Trần Bá Hoành đã chia TTCHT gồm 3 loại:


19

- TTC tái hiện, bắt chước: là TTC chủ yếu dựa vào trí nhớ (HS tái hiện,
thể hiện lại những gì đã nhận thức đã biết, tái tạo lại những kiến thức đã học,
thực hiện những thao tác, kĩ năng mà giáo viên đã nêu ra).
- TTC tìm tịi được đặc trưng bằng sự bình phẩm, phê phán, tìm tịi tích
cực về mặt nhận thức, óc sáng kiến, lịng khao khát hiểu biết, hứng thú học tập.

- TTC sáng tạo là mức độ cao nhất của TTCNT, được đặc trưng bởi sự
khẳng định con đường riêng của mình khơng giống hoặc phát triển con đường
mà mọi người đã thừa nhận, đã trở thành chuẩn hóa, để đạt mục đích.
* Dựa vào hình thái của hoạt động, hành động Skatkin, Đặng Thành
Hưng đã chia TTC như sau:
- Theo hình thái bên ngoài của TTCHT gồm các hoạt động quan sát,
khảo sát, ứng dụng, thực nghiệm, đánh giá, thay đổi, dịch chuyển đối tượng…
được thể hiện ở mức độ, cường độ học tập cao, HS rất năng động, ln hoạt
động và hồn thành những công việc được giao, tập trung chú ý…
- Theo hình thái bên trong của TTCHT gồm các hoạt động trí óc (sự căng
thẳng về trí lực, những hành động và thao tác tư duy như phân tích, tổng hơp, so
sánh, khái quát hóa…), tâm vận, các chức năng cảm xúc, ý chí, các phản xạ thần
kinh cấp cao, các biến đổi về cường độ, độ bền vững… của nhu cầu, hứng thú,
tình cảm…
Trong khóa luận này, chúng tơi nghiên cứu TTCHT theo quan điểm tiếp cận
hoạt động – nhân cách – giao tiếp nên khi phân tích những biểu hiện của các loại
TTCHT của học sinh lớp 5, chúng tơi kết hợp cả cách phân loại: theo tính chất tái
tạo - sáng tạo và cách phân loại theo hình thái hoạt động bên ngồi - bên trong.
1.2.2.4 Vai trị của tính tích cực học tập trong hoạt động học tập và trong sự
phát triển nhân cách.
- Vai trò của TTCHT đối với hoạt động học tập:
Qua thực tiễn ta có thể khẳng định: TTCHT quyết định trực tiếp chất
lượng HĐHT của các em HS, SV. Nhà sư phạm Kharlamop đã khẳng định: “chỉ
có sự phối hợp hữu cơ và sự liên hệ qua lại chặt chẽ giữa tác động bên ngồi của
giáo viên, bộc lộ trong việc trình bày tài liệu, chương trình và tổ chức cơng tác
học tập của học sinh và sự căng thẳng trí tuệ bên trong của các em mới tạo nên
được cơ sở của sự học tập có kết quả” [14, 35]. Hiệu quả của học tập chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố như mục đích, nội dung, phuơng pháp, cách thức tổ chức
dạy học của giáo viên cũng như quá trình HS tự đề ra mục đích, lựa chọn nội
dung, cách thức chiếm lĩnh tri thức và tự tổ chức hoạt động của mình như thế



20

nào. Trong đó nếu HS tham gia tích cực vào quá trình lĩnh hội tri thức thì họ sẽ
biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, đồng thời tạo ra một sự thống
nhất cao giữa nội lực và ngoại lực. Từ đó HĐHT của các em mới đạt hiệu quả
cao nhất. Bản chất của HĐHT là một q trình nhận thức tích cực nên HS muốn
chiếm lĩnh được tinh hoa văn hóa của nhân loại, muốn tồn tại và phát triển trong
nền kinh tế tri thức thì bản thân họ phải thực sự cầu thị, khát khao chiếm lĩnh tri
thức, có nghị lực để vượt qua những khó khăn để giải quyết có hiệu quả những
nhiệm vụ học tập và những vấn đề khác trong cuộc sống. Sự khát khao chiếm
lĩnh tri thức của HS, SV có thể gọi là khát vọng hành động, khao khát khám phá.
Khát vọng hành động có thể dẫn tới kéo dài các hứng thú và hành động tích cực
đồng thời nó đóng góp đáng kể vào tình cảm hứng thú nào thường nâng đỡ
chúng ta trong những việc hằng ngày. Murphy cho rằng khao khát khám phá như
là đỉnh cao của sự phát triển của con người, như là khát vọng về tiếp xúc cảm
giác và vận động, về tìm hiểu và điều khiển thế giới… làm cho bản chất của con
người có khả năng cộng hưởng hầu như khơng hạn chế. Chỉ có như vậy họ mới
phát huy hết tiềm năng vơ hạn của mình, đồng thời làm nảy sinh, hình thành,
phát triển, bộc lộ những q trình tâm lí (cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng
tượng… đặc biệt là tư duy sáng tạo), những cảm xúc tích cực và những phẩm
chất nhân cách của người chuyên gia trong thời đại ngày nay.
- Vai trò của TTC đối với sự phát triển nhân cách
TTC là một thuộc tính của nhân cách cần hình thành và phát triển ở HS
cho nên nó có mối liên hệ chặt chẽ với sự hình thành và phát triển nhân cách của
các em. Chúng ta thấy TTCHT của HS có cấu trúc tâm lí rất phức tạp bao gồm
cả nhận thức, thái độ và những hành động chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.
Nên khi các em tích cực trong học tập, tức là xác định được đúng đắn mục đích
của việc học tập, các em sẽ có thái độ học tập đúng đắn, có cách thức chiếm lĩnh

tri thức phù hợp và hồn thiện nhân cách theo yêu cầu của xã hội. Do vậy khơng
những các em thích thú học tập mà cịn tạo ra khả năng phát triển năng lực học
tập và làm việc sau này. L.X.Xolovaytrich đã cho rằng hứng thú và năng lực là
hai mặt của một hiện tượng. Nó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tài năng sẽ bị
thui chột nếu hứng thú không thực sự sâu sắc, đầy đủ và nói chung hứng thú
khơng được ni dưỡng lâu dài nếu khơng có năng lực cần thiết ni dưỡng
hứng thú. Cho nên những HS tích cực học tập sẽ thường xuyên tri giác bài giảng
một cách chăm chú, ghi chép cẩn thận, hăng hái nhiệt tình tham gia vào các hoạt
động nội ngoại khóa cũng như thường xuyên bổ sung, mở rộng hiểu biết của


21

mình bằng các nguồn tài liệu khác nhau. Những HS này thường xuyên hoàn
thành nhiệm vụ học tập một cách tự giác và có hiệu quả. Bên cạnh đó các em còn
thiết lập được mối quan hệ thầy trò, bạn bè đúng đắn, tạo ra được những điều
kiện thuận lợi cho việc học tập, khám phá tri thức, có cảm nghiệm sự thành cơng
trong học tập. Tính năng động và sáng tạo của các em được bộc lộ, hình thành và
phát triển trong q trình các em tích cực vận dụng những tri thức đã học vào
trong cuộc sống. Tác giả Nguyễn Quang Uẩn đã từng viết “phương thức của hoạt
động hay hành vi do học tập mang lại có tính chất vững chắc trở thành một thuộc
tính của hoạt động hay hành vi”[20; 149]. TTCHT chẳng những là phẩm chất
nhân cách của HS, mà còn là điều kiện cần thiết của học tập, của sự hình thành
và phát triển nhân cách con người.
1.2.2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến tính tích cực học tập
Theo đa số các nhà Tâm lí, sự phát triển tâm lí nói chung, TTC, TTCHT
nói riêng phụ thuộc vào các yếu tố bên trong của con người như: sự phát triển
lứa tuổi, giới tính, tư chất, nhận thức, hoạt động của bản thân mỗi HS… đồng
thời TTC, TTCHT cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên ngồi như mơi
trường dạy học và giáo dục, bầu khơng khí tâm lí dành cho học tập trong gia

đình… Mỗi yếu tố nêu trên có mức độ ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển
TTC, TTCHT của HS nói chung, học sinh tiểu học nói riêng.
a, Các yếu tố bên trong
- Nhận thức của học sinh về hoạt động học tập
HĐHT là một hoạt động nhận thức tích cực, tự lực, tự giác. Q trình
này có sự địi hỏi, sự nỗ lực rất lớn của chính chủ thể học tập. Các em chỉ có
được nhu cầu, hứng thú học tập cũng như sự nỗ lực trong học tập nếu các em
hiểu rõ được vai trò, ý nghĩa, mục đích của HĐHT. Do đó ta có thể nói nhận
thức của trẻ về vai trị, ý nghĩa, mục đích của HĐHT sẽ là cơ sở để hình thành
nhu cầu và hứng thú học tập. Từ đó làm hoạt động học của trẻ trở nên dễ dàng
hơn, có hiệu quả hơn. Khi HS xác định được đúng đắn mục đích của việc học
tập, các em sẽ có thái độ học tập đúng đắn, có cách thức chiếm lĩnh tri thức phù
hợp và hoàn thiện nhân cách theo yêu cầu của xã hội. Các em sẽ tự giác học tập
khơng phải vì điểm số, vì sự khen ngợi, vì áp lực của cha mẹ hay thầy cơ khiến
các em học tập tích cực mà vì chính sự tồn tại, phát triển trí tuệ, phát triển nhân
cách của bản thân. Do vậy các em khơng những thích thú học tập mà cịn tạo ra
khả năng phát triển năng lực học tập và làm việc sau này. Ngược lại nếu các em
HS nhận thức khơng đúng về vị trí, vai trị, ý nghĩa của HĐHT sẽ khiến cho các


22

em khơng có nhu cầu, hứng thú và khơng tích cực tham gia vào HĐHT. Đó là
một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả học tập kém. Do vậy để giúp
HS phát huy được TTCHT, người giáo viên cần giúp cho trẻ nhận thức được
đúng đắn về vai trò, ý nghĩa, mục đích, nhiệm vụ của HĐHT.
Về kĩ năng nhận thức: là khả năng giải quyết nhiệm vụ dựa trên cơ sở tổng
hợp những tri thức được hình thành bằng con đường luyện tập. Nó tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thực hiện các hành động trong những điều kiện quen thuộc và
cả những điều kiện đã bị thay đổi. Trẻ càng có nhiều kĩ năng học tập thì trẻ càng

tích cực học tập hơn. Năng lực học tập cũng là một trong những yếu tố dẫn đến
TTCHT ở HS.
Trong giai đoạn tiểu học, dưới tác động của hoạt động học, nhận thức
của HS đã có bước phát triển mớí. Trẻ đã biết tự tổ chức các hành động nhận
thức, hành động học tập của mình một cách có ý thức nhằm thực hiện các
nhiệm vụ học tập. Sở dĩ học sinh tiểu học có khả năng này vì trong hoạt động
nhận thức của các em, thành phần chủ định ngày càng phát triển và chiếm ưu
thế.
Khả năng tổ chức các hành động học tập của HS tiểu học được thể hiện
ở cả hai phương diện. Thứ nhất: là tổ chức các hành động học tập có hiệu quả.
Các em biết cách tổ chức các hành động quan sát, ghi nhớ có chủ định, tập
trung chú ý, tư duy, luyện tập để làm cho HĐHT có hiệu quả hơn. Khi đó, trẻ
càng tích cực tham gia vào HĐHT. Thứ hai: Phối hợp các hoạt động nhận
thức để giải quyết nhiệm vụ học cụ thể. HS tiểu học nhất là HS lớp 5, nhận
thức của các em mang tính chủ định rõ rệt. Các em không triển khai các hành
động nhận thức theo từng mục đích riêng của chúng mà đã biết tổ chức và
phối hợp các hành động nhận thức vào việc giải quyết các nhiệm vụ học. Thời
kì đầu, việc xác định mục đích và nhiệm vụ học của HS được định hướng từ
bên ngoài do giáo viên, sau đó dần dần HS tự định hướng, tự giải quyết và tự
kiểm soát, tự đánh giá kết quả. Như vậy khả năng tổ chức hành động nhận
thức ngày càng phát triển thì TTCHT của các em cũng ngày càng phát triển
hơn. TTC của trẻ phụ thuộc vào mức độ kiến thức. Càng hiểu biết về thế giới
xung quanh, càng nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bao nhiêu thì trẻ càng
tích cực, chủ động, sáng tạo bấy nhiêu. Do đó, nhà sư phạm phải biết kích
thích lịng say mê hoạt động, ham hiểu biết, TTC, sáng tạo của trẻ.
- Hoạt động


23


Hoạt động là quá trình tác động qua lại giữa con nguời với hiện thực mà
thơng qua đó mối quan hệ của con người với thế giới xung quanh được thiết lập.
TTC, TTCHT cũng là một trong những hiện tượng tâm lí của con người
nên nó cũng khơng nằm ngồi quy luật trên. TTC, TTCHT cũng luôn gắn liền
với hoạt động, HĐHT. TTCHT của HS được hình thành, bộc lộ và phát triển
thông qua HĐHT. Nếu trẻ không tham gia vào HĐHT thì TTCHT của trẻ sẽ
khơng thể hình thành, bộc lộ và phát triển. Thực tế khi trẻ tham gia vào hoạt
động học tập đã giúp trẻ thoả mãn nhu cầu học tập và một số nhu cầu khác.
Trong q trình đó trẻ nhận thức được rõ vai trị, ý nghĩa của việc học tập. Từ đó
trẻ sẽ tự giác, chủ động tham gia vào HĐHT. Khi trẻ đạt được những thành quả
nhất định sẽ tiếp tục kích thích trẻ hình thành những nhu cầu mới và thực hiện
các hành động để thoả mãn nhu cầu trên. Cứ như vậy, tâm lí – ý thức nói chung,
TTC, TTCHT của trẻ nói riêng ngày càng được bộc lộ và phát triển mạnh mẽ.
Như vậy, yếu tố hoạt động cá nhân nói chung, HĐHT của trẻ nói riêng có vai trị
quyết định trong việc hình thành, bộ lộ và phát triển TTCHT. Do vậy, người giáo
viên phải luôn quan tâm đến việc tổ chức một cho trẻ tham gia vào các hoạt
động, đặc biệt là HĐHT một cách khoa học, giúp trẻ phát huy cao độ TTC,
TTCHT, đạt hiệu quả học tập cao, nâng cao nhận thức và ngày càng hoàn thiện
nhân cách.
b, Các yếu tố bên ngoài
- Dạy học và giáo dục
Dạy học là q trình tác động có mục đích, có chương trình, có kế
hoạch của người giáo viên nhằm tổ chức cho HS lĩnh hội những tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo để phát triển trí tuệ cho HS.
Giáo dục là q trình tác động có mục đích, có chương trình, có kế
hoạch của nhà giáo dục đến HS nhằm hình thành nhân cách cho HS.
Dạy học và giáo dục có ảnh hưởng to lớn, giữ vai trị chủ đạo trong sự
phát triển tâm lí, TTC, TTCHT của người học nói chung, HS tiểu học nói riêng.
I.F.Kharlamop cho rằng: “Học tập là một q trình nhận thức tích cực của học
sinh” [14,11]. Vai trò của người giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn việc học

tập, tạo ra những điều kiện cần thiết để kích thích hoạt động nhận thức của HS,
cịn HS phải tự giác, tích cực, chủ động tổ chức việc học của mình, qua đó TTC
được hình thành và phát huy.
Thơng qua dạy học mà trẻ có thể hình thành được những q trình nhận
thức: tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng… Đó là cơ sở để trẻ có những thái


24

độ đúng đắn và tích cực hơn trong các hoạt động nói chung và HĐHT nói
riêng.
Đặc biệt, dạy học ngày nay có xu hướng “lấy học sinh làm trung tâm”.
Người học vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình dạy học. Dưới sự tổ
chức, điều khiển của giáo viên người học phải là chủ thể của HĐHT, ln tự
giác, tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo đáp ứng
yêu cầu của xã hội.
Việc lựa chọn, trình bày nội dung dạy học, sử dụng phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học nhằm làm sao giúp người học biết tư duy, biết cách
học thơng minh và sáng tạo, có thái độ đúng đắn với học tập càng giúp cho
HS phát triển tâm lí, ý thức, TTC, TTCHT.
Có thể nói rằng dạy học trong nhà trường và sự phối hợp giáo dục giữa
gia đình, nhà trường, xã hội, có ảnh hưởng to lớn, quyết định chiều hướng
phát triển tâm lí nói chung, TTC, TTCHT nói riêng của HS tiểu học. Vì vậy
dạy học ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành, phát triển TTC, TTCHT của
HS.
Như vậy, dạy học và giáo dục là hai nhân tố có ảnh hưởng to lớn đến sự
phát triển TTC, TTCHT của HS tiểu học. Do vậy giáo viên cần phải lựa chọn,
đổi mới phương pháp dạy học và giáo dục cho phù hợp nhằm thúc đẩy TTCHT
của các em.
- Ngơn ngữ tích cực của người giáo viên

Ngơn ngữ tích cực của người giáo viên là loại ngơn ngữ mà khi giáo
viên sử dụng chúng tác động đến HS để tạo ra sự phát triển cả về nhận thức
và nhân cách của các em. Đây là một trong những cách tác động mạnh đến
đời sống tâm lí, tình cảm của HS. Các biểu hiện của ngơn ngữ tích cực:
- Ngơn ngữ tích cực là những lời khen, lời khuyến khích, động viên trước
những tiến bộ của trẻ. Điều này đã tác động đến nhu cầu tự khẳng định của trẻ.
Khi trẻ được cô giáo, người lớn khen, trẻ sẽ thấy tự tin, hào hứng, mạnh dạn và
hăng hái thực hiện những hoạt động của mình. Mặt khác sự khen ngợi đối với trẻ
cịn có tác dụng củng cố nhận thức, củng cố niềm tin và động viên trẻ khác noi
theo. Tuy nhiên lời khen ngợi phải xác đáng, nghĩa là đáng được khen. Khen ngợi
phải chừng mực, không nên chỉ tập trung khen vào một vài HS sẽ gây nên tâm lí:
Những em thường được khen sẽ trở nên tự kiêu, tự đại, tự mãn, cịn những em
khơng được khen sẽ trở nên tự ti. Khen ngợi phải chỉ rõ lí do tại sao được khen.


25

Lời khen ngợi có thể đi kèm với những cử chỉ thân ái, với những nụ cười, ánh mắt
hài lòng…
- Ngơn ngữ tích cực là lời nhắc nhở. Giáo viên nhắc nhở HS làm đúng hoặc
chưa đúng việc gì đó để giúp cho trẻ nhận biết và nên tiếp tục thực hiện những
hành động phù hợp, tránh những hành động khơng phù hợp. Nhắc nhở ở đây chính
là nhằm khích lệ, động viên trẻ chứ khơng nhằm mục đích răn đe, dọa dẫm trẻ. Vì
thế đi kèm với lời nhắc nhở là thái độ và ngôn từ hết sức nhẹ nhàng, ân cần, tế nhị
để trẻ thấy mình cần phải cố gắng, phải tích cực hơn. Ví dụ: Bạn Tiến lớp ta mọi
ngày thường không làm đầy đủ các bài tập mà cô giao cho, nhưng hôm nay bạn ấy
rất tiến bộ đã làm rất tốt các bài tập về nhà. Lớp mình tun dương bạn ấy nào!
- Ngơn ngữ tích cực là lời phê bình, thể hiện cơ giáo khơng hài lịng với việc
làm của trẻ, u cầu trẻ phải sửa lại. Khi phê bình phải làm cho trẻ bị phê bình và cả
lớp thấy được lí do bị phê bình đó là xứng đáng cần phải sửa chữa. Khi phê bình cũng

cần xét đến tâm trạng và tính cách của trẻ bị phê bình. Lời phê bình tức thời, đúng
lúc, đúng chỗ, đúng người, đúng việc. Có khi phê bình trước lớp, phê bình riêng đối
với trẻ, có khi phê bình chậm hơn sự việc đã xảy ra vì để trẻ bình tĩnh và có tâm thế
chờ đợi thái độ của cơ giáo. Lời phê bình phải thẳng thắn, không xúc phạm, không
định kiến với trẻ. Những lời phê bình này có thể là những “cú hích” để trẻ phải hoạt
động tích cực.
- Ngơn ngữ tích cực cịn là sự kết hợp của cả những lời khen và lời nhắc
nhở phê bình.
Trong quá trình tác động, người giáo viên cần sử dụng ngơn ngữ tích cực một
cách linh hoạt, nên thường sử dụng những lời khen nhiều hơn, dù có định phê bình
HS thì giáo viên cũng nên tìm ra những mặt tích cực của HS đó để khen ngợi trước
rồi mới nhắc nhở phê bình sau, nhờ đó mà HS vừa thấy được những ưu điểm, vừa
thấy được những nhược điểm của mình. Từ đó, các em tích cực hoạt động phát huy
những ưu điểm và khắc phục những nhược điểm để được cô khen
- Bầu không khí tâm lí học tập trong gia đình
Bầu khơng khí tâm lí trong gia đình là tồn bộ những sắc thái tâm lí hợp
thành khơng khí tâm lí chung tạo ra nếp sống truyền thống, thói quen, sự hồ hợp
hoặc khơng hồ hợp của các thành viên trong gia đình, đảm bảo sự tồn tại, phát
triển của gia đình.


×