Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Xây dựng hệ thống marketing mix của Công ty Giày Thượng Đình.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.22 KB, 61 trang )

CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG
MARKETING MIX CỦA DOANH NGHIỆP TRONG KINH DOANH
QUỐC TẾ
I Khái quát về marketing quốc tế
1. Khái quát chung về Marketing quốc tế
Tồn cầu hố và tiêu chuẩn hố trở thành một đặc điểm quan trọng
của kinh tế và thương mại quốc tế . Trong nhiều thập kỷ qua, Marketing
quốc tế đã có sự phát triển mạnh mẽ . Xu hướng tồn cầu hố sản phẩm và
thị trường ngày càng trở nên rõ nét.Nguyên nhân là do:
Tính chất đồng nhất của nhu cầu thế giới ngày càng cao
Nhu cầu và mong muốn có tính chất tồn cầu của người tiêu dùng là
muốn được có những sản phẩm với giá thấp và chất lượng đảm bảo
Nhiều doanh nghiệp theo đuổi chiến lược chi phí vì vậy tìm cách thực
hiện theo quy mơ sản xuất
Chính xu hướng tồn cầu hố thị trường và sản phẩm dẫn đến nhiều
thay đổi trong thương mại quốc tế và nâng cao vai trò của Marketing quốc tế
.
Trên thị trường thế giới , Marketing được thể hiện ở 2 góc
độ:Marketing ra nước ngồi hay Marketing xuất khẩu Marketing đa quốc gia
hay Marketing toàn cầu
Marketing xuất khẩu là Marleting nội địa được vận dụng trong một
môi trường nước ngồi. Marketing ra nước ngồi địi hỏi quản lý cùng một
hoạt động như Marketing trên thị trường nội địa, nhưng trong một mơi
trường khơng quen thuộc .Marketing ra nước ngồi hay Marketing xuất
khẩu là kết quả của sự phát triển quốc tế của hãng nên cũng được gọi là
Marketing quốc tế
Cùng với sự phát triển quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới , khái
niệm thị trường nước ngoài có những thay đổi . Đối với cá hãng đa quốc gia


, do có thể tổ chức các cơ sở sản xuất kinh doanh ở khắp nơi nên không tồn


tại thị trường nước ngồi mà chỉ có thị trường ở các vùng khác nhau trên thế
giới , có mức độ phát triển khác nhau , và có những đặc điểm khác nhau .
Trong trường hợp này , Marketing có tên gọi là Marketing đa quốc gia
Vì vậy trên thực tế , Marketing bao gồm:
Marketing xuất khẩu là Marketing của các doanh nghiệp xuất khẩu
với yêu cầu cơ bản là làm thích ứng các chính sách Marketing với nhu cầu
của thị trường xuất khẩu bên ngoài
Marketing toàn cầu là Marketing của một hãng lớn theo đuổi mục tiêu
hướng ra thị trường thế giới và thoả mãn nhu cầu của đoạn thị trường quốc
tế hoặc của toàn bộ thị trường thế giới.
Khác với quản lý Marketing nội địa , quản lý Marketing quốc tế phải
tính đến sự can thiệp của các chính quyền sở tại , tính đa dạng của các điều
kiện thị trường bên ngồi và địi hỏi những kiến thức riêng như kỹ thuật
Marketing , hiểu biết mơi trường bên ngồi , khả năng mức độ sử dụng các
kiến thức tích luỹ.
Trong môi trường quốc tế , khái niệm Marketing mang tính chất chiến
lược . Như vậy , bản chất Marketing quốc tế là một trạng thái cân bằng giữa
những thay đổi của các yếu tố mơi trường bên ngồi với các chính sách
Marketing hỗn hợp của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế .Chính bản chất
này địi hỏi các doanh nghiệp phải đưa ra các kế hoạch Marketing quốc tế
bao gồm các quyết định cơ bản:
Nghiên cứu môi trường Marketing quốc tế .
Quyết định có nên thâm nhập thị trường nước ngồi khơng?
Quyết định những thị trường nào cần thâm nhập?
Quyết định các phương pháp thâm nhập thị trường.
Các chương trình Marketing quốc tế , việc triển khai các chính sách
bộ phận của Marketing hỗn hợp.


Quyết định về cơ cấu của bộ phận Marketing quốc tế của doanh

nghiệp.
2. Tầm quan trọng và sự cần thiết của Marketing quốc tế
a. Những lợi ích của Marketing quốc tế
Việc mở rộng hoạt động ra thị trường thế giới cho phép các công ty
,lớn hoặc nhỏ , tăng tỷ lệ lợi nhuận của mình bằng cách mà các doanh
nghiệp trong nước khơng có.
Các cơng ty hoạt động trên phạm vi quốc tế có thể đạt mức doanh số
lớn hơn nhờ thực hiện chuyển giao các khả năng riêng của mình .Các khả
năng riêng biệt được định nghĩa là những điểm mạnh duy nhất cho phép các
công ty đạt được hiệu quả , chất lượng đổi mới, hoặc sự nhạy cảm với khách
hàng cao hơn.Những điểm mạnh này thường được thể hiện trong các sản
phẩm đưa ra mà các công ty khác khó làm theo hoặc bắt chước. Như vậy ,
các khả năng riêng biệt tạo ra nền tảng cho lợi thế cạnh tranh của công ty
.Chúng làm cho công ty có thể hạ thấp chi phí trong việc tạo ra giá trị hoặc
tạo ra những sự khác biệt và đặt giá cao hơn.Với khả năng riêng biệt có giá
trị , các cơng ty thường có thể đạt mức doanh số khổng lồ bằng việc thực
hiện những khả năng riêng biệt đó và bằng các sản phẩm sản xuất ra cho các
thị trường nước ngồi mà ở đó các đối thủ cạnh tranh bản địa thiếu khả năng
sản xuất ra các sản phẩm tương tự.
Nhờ các hoạt động quốc tế , doanh nghiệp có thể thực hiện được lợi
thế theo vị trí .Lợi thế theo vị trí là lợi thế phát sinh từ việc thực hiện hoạt
động tạo ra giá trị ở mức tối ưu đối với hoạt động đó, bất kể nơi nào trên thế
giới với các chi phí vận chuyển và các hàng rào thương mại cho phép
Việc tham gia vào hoạt động quốc tế cho phép doanh nghiệp có thể hạ
thấp chi phí nhờ có được lợi thế quy mô và hiệu ứng đường cong
b. Những lý do thúc đẩy công ty tiếp cận với Marketing quốc tế
Xu hướng buộc các doanh nghiệp ngày càng phải tham gia vào thị
trường quốc tế và thúc đẩy thực hành thông thạo quản trị Marketing quốc tế



. Một nhân tố thúc đẩy các công ty phải tính đến việc bắt đầu hoạt động trên
các lĩnh vực quốc tế là do số lượng các nhà cạnh tranh nước ngoài tham gia
vào thị trường trong nước họ càng tăng và thực tế việc kinh doanh ở nước
ngoài chiếm một tỷ lệ càng lớn trong tổng số GNP của tất cả các nước công
nghiệp lớn . Một lý do khác làm cho việc quốc tế hoá kinh doanh ngày càng
tăng là tổ chức thương mại xuyên biên giới các quốc gia ngày càng dễ dàng
hơn nhiều so với trước kia . Các thiết bị thông tin ngày càng phát triển ,
phương tiện đi lại trong kinh doanh quốc tế ngày càng thuận tiện hơn và các
các công ty phục vụ cho việc kinh doanh (như quảng cáo , nghiên cứu thị
trường , vận chuyển đường bộ ….) . Hiện nay hoạt động mang tính quốc tế
cao . Do vậy việc đi lại , thăm và kiểm tra thị trường nước ngồi đơn giản
hơn và do đó việc kiểm sốt quốc tế cung đơn giản hơn .
3. Marketing xuất khẩu - một hình thức của marketing quốc tế
Một trong những hình thức của marketing quốc tế được biểu hiện
dưới hình thức marketing xuất khẩu . Đó là hoạt động marketing của các
doanh nghiệp của một quốc gia nhất định , ứng dụng vào việc xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ của mình ra nước ngồi với u cầu cơ bản là làm thích
ứng các chiến lược marketing nội địa với môi trường và nhu cầu của thị
trường xuất khẩu bên ngồi.
Như vậy , marketing quốc tế có nghĩa rộng xuất khẩu quốc tế . Bởi vì
marketing quốc tế có thể bao hàm cả việc một công ty thực hiện sản xuất
hay lắp giáp một phần hàng hoá ở trong nước của cơng ty và một phần ở
nước ngồi , hoặc nhập khẩu cho một nước khác những hàng hoá từ một
nước thứ hai để họ bán trong nước hoặc tái sản xuất hoặc việc thành lập
những đại diên thường trực ở nước ngoài để lưu kho và phân phối các sản
phẩm . Marketing quốc tế cịn có thể thơng qua việc cấp giấy phép sản xuất
những sản phẩm của công ty cho các doanh nghiệp địa phương , hoặc tổ
chức các hoạt động marketing khác ở nước ngoài .
II. Tầm quan trọng của marketing xuất khẩu



1. Marketing trong hoạt động kinh doanh quốc tế
Khi mới ra đời, marketing chỉ là một khái niệm đơn giản giới hạn
trong lĩnh vực thương mại. Nó chỉ bao gồm các hoạt động của doanh nghiệp
nhằm tiêu thụ những hàng hố và dịch vụ đã có sẵn nhằm thu đưọc lợi
nhuận. Việc áp dụng các biện pháp marketing đã tạo điều kiện kích thích sản
xuất hàng hố phát triển. Với những tính ưu việt của nó marketing khơng chỉ
phát huy trong lĩnh vực thương mại mà ngày càng được áp dụng rộng rãi
trong các lĩnh vực phi thương mại khác. Đặc biệt với các doanh nghiệp kinh
doanh quốc tế , Marketing có một vai trị hết sức quan trọng . Marketing
quốc tế có vai trị như là một trung tâm nghiên cứu , dự báo , thiết kế chiến
lược cho việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nước nhập khẩu . Nơi mà
việc thích ứng các sản phẩm nhãn hiệu , xúc tiến và thu thập thông tin hết
sức khó khăn .
Marketing có vai trị đặc biệt quan trọng trong quản trị kinh doanh của
doanh nghiệp. Marketing làm cho khách hàng và người sản xuất xích lại gần
nhau hơn. Ngồi ra, nó cịn có vai trị hướng dẫn, chỉ đạo và phối hợp các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách nhịp nhàng giữa
công ty và nước nhập khẩu hàng của công ty . Nhờ marketing mà doanh
nghiệp có những thơng tin phản hồi từ phía khách hàng, để rồi có sự thay
đổi và thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngày nay, marketing là một
trong những công cụ hữu hiệu giúp cho doanh nghiệp có được vị thế trên
thương trường.
Với các lợi thế trên marketing đã mang lại những thắng lợi huy hoàng
cho nhiều doanh nghiệp. Nó đã trở thành một trong những vũ khí cạnh tranh
rất hiệu quả trên thị trường quốc tế.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu


Xuất khẩu hàng hố là hoạt động kinh doanh bn bán ở phạm vi

quốc tế. Thông qua xuất khẩu, hàng hố sản xuất trong nước được bán ra
nước ngồi, thu ngoại tệ. Qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, giải
quyết công ăn việc làm nâng cao đời sống của nhân dân, tạo ra nguồn ngoại
tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại ở nước ngồi đáp ứng nhu cầu
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm
phát huy lợi thế của đất nước.
Đối với nước ta, nền kinh tế đang bước đầu phát triển, cơ sở vật chất
kỹ thuật phần nào được cải thiện nhưng vẫn còn thấp kém, dân số phát triển
nhanh nên lao động dư thừa nhiều. Do đó, việc đẩy mạnh xuất khẩu, thu
ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, giải quyết cơng ăn việc làm là rất
quan trọng. Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển quan hệ kinh tế đối
ngoại, trong đó đặc biệt hướng mạnh vào xuất khẩu hàng hố dịch vụ. Đó là
một đường lối đúng đắn, phù hợp với qui luật kinh tế khách quan. Có thể
nói, xuất khẩu hàng hố, dịch vụ đóng vai trị cực kỳ quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay.
3. Tầm quan trọng của marketing xuất khẩu
Xuất khẩu và nhập khẩu là hai mặt của cùng một đồng xu. Hoạt động
xuất khẩu cung cấp cho các khách hàng những sản phẩm được sản xuất ở
một quốc gia khác, hoạt động nhập khẩu cũng thực hiện chính chức năng
trên. Tuy nhiên có một sự khác nhau quan trọng giữa xuất khẩu và nhập
khẩu. Người nhập khẩu là người mua- khách hàng, ngược lại người xuất
khẩu là người bán- người làm marketing.
Điều quan trọng là chúng ta phải phân biệt được giữa bán hàng xuất
khẩu và marketing hàng xuất khẩu. Trong kỷ nguyên định hướng khách
hàng bằng sản phẩm, bán hàng xuất khẩu không phải là marketing. Bán
hàng xuất khẩu không liên quan đến việc biến đổi sản phẩm, giá cả, các


cơng cụ xúc tiến cho thích hợp với nhu cầu của thị trường quốc tế. Yếu tố
duy nhất của marketing hỗn hợp có sự khác biệt đó là phân phối (place), tức

là quốc gia nơi hàng hóa được bán. Phương thức bán hàng này có thể phát
huy tác dụng đối với một số hàng hóa và dịch vụ; với những sản phẩm độc
nhất với rất ít hoặc khơng có sự cạnh tranh ở phạm vi quốc tế, cách tiếp cận
này có thể khả thi. Tương tự như vậy, những cơng ty mới tham gia hoạt
động xuất khẩu khởi đầu có thể gặt hái được thành công với việc bán hàng.
Thậm chí ngày nay, các bộ óc quản lý ở nhiều cơng ty vẫn ưa thích bán hàng
xuất khẩu hơn. Nhưng khi công ty đã trưởng thành trên thương trường quốc
tế, hoặc khi tham gia vào thị trường có nhiều đối thủ cạnh tranh, việc tiến
hành hoạt động marketing xuất khẩu bắt đầu trở nên cần thiết hơn.
Marketing xuất khẩu là marketing hỗn hợp của hàng hóa và dịch vụ
dành riêng cho khách hàng trên thị trường quốc tế. Marketing xuất khẩu yêu
cầu:
- Một sự hiểu biết về môi trường của thị trường mục tiêu.
- Sự áp dụng tất cả các công cụ marketing, đặc biệt là:
+ Việc sử dụng nghiên cứu marketing và xác định tiềm năng thị
trường.
+ Các quyết định về thiết kế sản phẩm, giá cả, các quyết định về kênh
phân phối, quảng cáo và xúc tiến.
+ Vấn đề tổ chức, hoạch định và kiểm sốt.
Mục đích của chúng ta là có được một cái nhìn bao qt về những
thực tế và vấn đề nảy sinh với các công ty tiến hành marketing xuất khẩu
cung như thấy được tầm quan trọng của nó đối với hoạt động kinh doanh
xuất khẩu của doanh nghiệp.
III. Chính sách marketing- mix trong hoạt động xuất khẩu
1. Quyết định về sản phẩm


Trên thị trường quốc tế, các quyết định về sản phẩm rất phức tạp do
nhu cầu và môi trường khác nhau. Khi xác lập chiến lược sản phẩm quốc tế,
nhất thiết phải phân tích và tơn trọng các u cầu kỹ thuật nhằm bảo đảm an

toàn, sức khỏe và bảo vệ mơi trường, kiểm tra các đặc tính thương mại của
sản phẩm nhằm thích nghi với nhu cầu của thị trường. Các quyết định và
chính sách về sản phẩm mà cơng ty cần quan tâm đến đó là:
- Chính sách về nhãn hiệu của sản phẩm xuất khẩu.
Nhãn hiệu sản phẩm cho phép khách hàng xác định người sản xuất
hay phân phối và phân biệt sản phẩm đó với sản phẩm cạnh tranh. Khi bán
hàng thông qua hệ thống các nhà phân phối nước ngồi , cơng ty cần phải
đảm bảo rằng sản phẩm được bán đến tay người tiêu dùng cuối cùng với
đúng nhãn hiệu của nó. Để một nhãn hiệu được xác định ở thị trường nước
ngồi thì người sản xuất cần phải thực hiện truyền tin và xúc tiến bán cũng
như tạo lập và củng cố lòng tin của người tiêu dùng đối với hình ảnh nhãn
hiệu. Cơng ty cần cụ thể hố những đặc tính độc đáo của sản phẩm sao cho
chúng có liên hệ với hìmh ảnh một nhãn hiệu được nhận biết và hấp dẫn.
Khi sử dụng nhãn hiệu ở thị trường nước ngoài , cần phải đặt tên “quốc tế”
cho nó với yêu cầu: dễ ghi nhớ , phân biệt hợp pháp và phù hợp về văn hố
.Tên nhãn hiệu quốc tế khơng chỉ có ý nghĩa xác định người cung cấp mà
cịn là cách thức tự quảng cáo một cách chính đáng và là phương tiện gây
cảm xúc và ấn tượng tới người tiêu dùng và do đó dẫn đến hành động mua.
Tên nhãn hiệu phải ngắn gọn , đơn giản , dễ đọc và dễ đánh vần . Nhãn hiệu
phải dễ ghi nhớ , không dễ dàng nhầm lẫn với sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh .Nhãn hiệu quốc tế cũng có thể sử dụng trên nhiều thị trường khác
nhau như một tập hợp nhãn hiệu ,và được củng cố thông qua các trương
trình quảng cáo bằng hình ảnh và minh hoạ
- Quyết định về bao bì của sản phẩm.


Bao bì trong Marketing quốc tế phải đảm bảo thực hiện các chức năng
vốn có của nó .Đó là các chức như thông tin về sản phẩm và nguồn gốc của
nó, phân biệt sản phẩm của cơng ty so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh,
thuân tiện trong việc chuyên chở và vận chuyển ra nước ngoài, bảo vệ sản

phẩm và dễ dàng cho việc sử dụng.Mức độ yêu cầu bảo vệ sản phẩm về
phương diện vật chất trên thị trường quốc tế thường quan trọng hơn so với
thị trường nội địa. Bao gói là một trong những yếu tố chủ chốt của việc phát
triển nhãn hiệu trên các thị trường quốc gia khác nhau. Nó giúp cho người
tiêu quốc tế nhận ngay ra nhãn hiệu và những đặc tính cơ bản của sản phẩm
liên quan đến khả năng đáp ứng và thoả mãn nhu cầu của họ.
Nhìn chung , quyết định về bao gói sản phẩm phụ thuộc vào nhiều
nhân tố như chi phí nguyên vật liệu phục vụ trực tiếp cho việc đóng gói , chi
phí cho người trung gian , giá trị và đặc tính riêng biệt của sản phẩm , loại
hình vận chuyển….
Chiến lược bao bì cũng cần phải chú ý đến sự khác giữa các quốc gia
về yêu cầu đóng gói .Chiến lược bao bì cũng phải góp phần hỗ trợ cho việc
thực hiện chiến lược sản phẩm. Một điều quan trọng là phải xác định ngay
từ đầu những yêu cầu và quy định trong việc đóng gói bao bì cho sản phẩm
phân phối tới các quốc gia khác nhau . Bởi vì nó liên quan đến một số luật lệ
đặc biệt về nguyên vật liệu sử dụng để đóng gói , kiểu ký hiệu , yêu cầu về
việc thu lại hoặc tái sử dụng nguyên liệu .
- Quyết định liên quan đến dịch vụ khách hàng.
Chiến lược sản phẩm quốc tế cũng bao gồm cả quyết định về các dịch
vụ gắn liền với sản phẩm .Các quyết định này liên quan đến điều kiện sử
dụng sản phẩm và khả năng, yêu cầu tổ chức bảo dưỡng chúng. Quan trọng
nhất là điều kiện sử dụng sản phẩm. Chúng phụ thuộc vào các nhân tố như


trình độ học thức người sử dụng, tính kỹ thuật của sản phẩm, tài liệu hướng
dẫn …
Việc thường xuyên kiểm tra một cách toàn diện hoạt động cung ứng
dịch vụ cho khách hàng nhằm đảm bảo dịch vụ này phù với yêu cầu của
từng thị trường xuất khẩu là rất quan trọng .Bảo hành sản phẩm là một công
cụ mà tầm quan trọng của nó ngày càng ra tăng, nó là chứng minh bảo đảm

của hãng đối với chất lương dịch vụ cung cấp cho khách hàng , thúc đẩy sản
phẩm , giảm bớt hồi nghi .
Chính sách phát triển sản phẩm xuất khẩu bao gồm các chiến lược:
Chiến lược bành chướng hay tiêu chuẩn hố sản phẩm và truyền
thơng. Trên tất cả các thị trường quốc tế , công ty bán cùng một loại sản
phẩm với những chiến dịch quảng cáo giống nhau và theo cùng cách thức
khuyến mại mà công ty đã sử dụng trên thị trường nội địa .Đó thường là sản
phẩm đáp ứng những nhu cầu cơ bản giống nhau . Chiến lược bành trướng
tỏ ra hấp dẫn trong những điều kiện không kéo theo những khoản chi phí bổ
sung và nghiên cứu , sản xuất và xúc tiến bán
Chiến lược thích nghi sản phẩm với các điều kiện hay sở thích địa
phương nhưng khơng thay đổi chính sách xúc tiến hỗn hợp.
Ngược lại với chiến lược tiêu chuẩn hố , chiến lược thích ứng sản
phẩm được thể hiện ở việc thay đổi các đặc tính của sản phẩm tiêu thụ trên
các thị trường xuất khẩu khác nhau. Quyết định thay đổi sản phẩm phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như sở thích của khách hàng nước ngồi, khả năng
chi phí cải biến sản phẩm, quy định thể chế của nước nhập khẩu, hàng rào
phi thuế quan, khả năng thích nghi sản phẩm mới với mơi trường…
- Chiến lược đổi mới sản phẩm.


Các chiến lược thích ứng và điều chỉnh là những tiếp cận có hiệu quả
về phương diện Marketing quốc tế, nhưng nó khơng cho phép cơng ty chớp
lấy những cơ hội của thị trường rộng lớn trên thế giới
Lựa chọn chiến lược tiêu chuẩn hố hay thích nghi hố sản phẩm.
Phần lớn các cơng ty tìm cách phát triển chiến lược sản phẩm cho
phép tối ưu hoá lợi nhuận dài hạn hoặc tối đa hoá giá trị hiện tại các dịng tài
chính gắn liền với các hoạt động trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên , lựa
chọn chiến lược nào cho phép đạt được các mục tiêu trên không phải là đơn
giản và khơng có câu trả lời chung

Thử thách đối với các công ty hoạt động trên thị trường quốc tế là
phải phát triển những chiến lược và chính sách sản phẩm để có thể nhạy bén
trước những biến đổi của nhu cầu thị trường, của cạnh tranh và các nguồn
lực của công ty trên phạm vi quốc tế. Chính sách sản phẩm phải cân đối giữa
nhu cầu và sự thưởng phạt xứng đáng trong việc làm cho sản phẩm thích
nghi với thị trường, với những lợi thế cạnh tranh có được từ việc tập trung
nguồn lực của cơng ty vào một số sản phẩm đạt tiêu chuẩn.
2. Quyết định về giá
Quản lý giá và các chiến lược giá trong marketing quốc tế phức tạp
hơn so với marketing nội địa. Công ty phải đưa ra các quyết định về giá ban
đầu cho các đối tượng khách hàng khác nhau, về thay đổi giá hiện tại, về giá
cho chủng loại sản phẩm, về hình thức và mức độ kiểm sốt về giá trên các
thị trường khác nhau, về giá chu chuyển nội bộ trong công ty và về mức độ
khác biệt giữa giá nội địa và giá quốc tế. Về phương diện quốc tế, chính
sách giá có thể có 3 hướng lựa chọn:
Thứ nhất, chính sách giá duy nhất, tức là quy định giá thống nhất cho
sản phẩm trên tất cả các thị trường .


Thứ hai, chính sách giá thích ứng theo từng khu vực thị trường.
Thứ ba, xác định thông số chung cho tất cả các thị trường và sử dụng
chúng khi quyết định giá.
Mỗi công ty quốc tế phải quan tâm phát triển những hệ thống định giá
và các chính sách định giá làm sao để chỉ ra được những nhân tố cơ bản có
liên quan đến quyết định giá trong mỗi một thị trường quốc gia mà tại đó,
cơng ty của mình đang hoạt động.
Quyết định giá bán sản phẩm trên thị trường quốc tế là một quá trình
phức tạp do cùng một lúc phải giải quyết nhiều mối quan hệ. Hơn nữa, việc
hình thành mức giá cịn khó khăn thêm bởi vấn đề thiếu thông tin, phản ứng
khác nhau của người tiêu dùng, sự giao động thường xuyên và mức chênh

lệch lớn về tỷ giá hối đoái.
Mối quan hệ giữa giá xuất khẩu và giá nội địa
+ Các phương án về mối quan hệ giữa giá xuất khẩu với giá nội địa .
Một trong những nội dung quan trọng của việc xác lập giá trên thị
trường quốc tế là xác định mối quan hệ giữa giá xuất khẩu và giá nội địa .
Có thể có ba khả năng
- Giá xuất khẩu cao hơn giá nội địa . Lập luận ở đây là chi phí thâm
nhập thị trường xuất khẩu tăng đáng kể cũng như là mong muốn bán giá cao
để tận dụng cơ hội thị trường , bù đắp rủi ro của người xuất khẩu
- Giá xuất khẩu ngang bằng giá nội địa . Chính sách này được áp dụng
cho các cơng ty chưa có nhiều kinh nghiệm xuất khẩu với mức gía đó , họ
cảm thấy an tồn khi hoạt động trong mơi trường chưa quen thuộc . Chính
sách này dễ bị thay đổi khi cơng ty tích luỹ được kinh nghiệm xuất khẩu


- Giá xuất khẩu thấp hơn gía nội địa . Chính sách này thường được áp
dụng đối với sản phẩm chưa được người tiêu dùng biết đến hoặc do cạnh
tranh về gía trên các thị trường xuất khẩu rất mạnh mẽ hoặc do cách tính
khấu hao của người xuất khẩu .
+ Giá cận biên trong xuất khẩu ,trên thực tế nhiều doanh nghiệp có
quy mơ nhỏ áp dụng phương pháp xác định giá xuất khẩu thấp hơn giá nội
địa cộng thêm chi phí vận chuyển và bảo hiểm quốc tế , chi phí phân phối và
các chi phí khác liên quan đến việc bán hàng trên thị trường nước ngoài .
Phương pháp xác định giá ở đây là phương pháp giá cận biên . Đó là việc
xác định mức giá chỉ căn cứ vào chi phí khả biến của sản phẩm xuất khẩu
(Giá = Chi phí biến đổi + Lãi dự kiến ).Trong trường hợp này , giá
hoà vốn đối với sản phẩm xuất khẩu thấp hơn so với sản phẩm nội địa
Phưong pháp này thường được áp dụng với một hay các điều kiện
sau:
- Phần chi phí cố định được bù đắp bởi khối lượng sản phẩm tiêu thụ

trên thị trường nội địa hoặc doanh nghiệp chủ động không tính phần chi phí
này vào giá xuất khẩu .
- Tồn tại qui luật lợi thế qui mô và hiệu ứng đường cong kinh nghiệm
, tức là chi phí đơn vị sản phẩm giảm mạnh theo khối lượng sản xuất và tiêu
thụ
- Dư thừa công xuất sản xuất và mong muốn phát triển dài hạn ở nước
ngoài .
- Sản phẩm xuất khẩu là sản phẩm bị ứ đọng , tồn kho .
- Mức giá này không vi phạm luật chống bán phá giá của nước sở tại


Việc áp dụng chính sách giá này có thể làm lợi nhuận gắn liền với
việc bán hàng xuất khẩu thấp hơn việc bán trên thị trường nội địa . Tuy
nhiên , nó cho phép doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh , đặc biệt
trong trường hợp thị trường trong nước đã bão hoà . Hơn nữa giá thấp cho
phép vượt qua hàng rào thuế quan và nâng cao khả năng cạnh tranh về giá
trên thị trường nước ngoài.
3. Quyết định về kênh phân phối
Tổ chức xuất khẩu phải sắp xếp sao cho phân phối được sản phẩm ở
quốc gia sẽ tiêu thụ. Quyết định cơ bản mà mọi tổ chức xuất khẩu đều giáp
mặt là: Trong phạm vi nào thì chúng ta dựa vào đại diện thị trường trực tiếp
chứ không phải là sự đại diện của các trung gian độc lập?
- Đại diện thị trường trực tiếp: Có hai lợi ích lớn đối với việc sử dụng
đại diện trực tiếp trên một thị trường là: Sự kiểm soát và sự liên lạc. Khi một
nhà marketing mong muốn phát triển một chương trình đặc biệt, cam kết
những nguồn lực cho một số hoạt động như quảng cáo hoặc thay đổi giá,
giới thiệu trực tiếp cho phép thực hiện các quyết định một cách đơn phương.
Khi một sản phẩm chưa được thiết lập trên một thị trường, các nỗ lực đặc
biệt là cần thiết để bán được hàng. Lợi ích của giới thiệu trực tiếp là những
nỗ lực quan trọng đó được đảm bảo bằng sự đầu tư của nhà kinh doanh. Một

lợi thế lớn khác là khả năng phản hồi thông tin từ thị trường lớn hơn. Thông
tin này có thể cải thiện rất nhiều các quyết định marketing xuất khẩu liên
quan đến sản phẩm, giá cả, truyền thông và phân phối.
Đại diện trực tiếp khơng có nghĩa là người xuất khẩu đang bán hàng
trực tiếp cho khách hàng. Trong đa số các trường hợp, đại diện trực tiếp liên
quan đến bán hàng cho những người bán buôn và bán lẻ.


- Đại diện gián tiếp: những thị trường nhỏ hơn, việc thiết lập đại diện
trực tiếp thường không khả thi bởi vì số lượng bán khơng đủ bù đắp chi phí.
Thậm chí ở những thị trường lớn hơn, một nhà sản xuất nhỏ cũng thường
thiếu doanh số bán để trang trải chi phí giới thiệu trực tiếp. Bất cứ trường
hợp nào doanh số nhỏ việc sử dụng một nhà phân phối độc lập là một phân
phối hiệu quả. Tìm kiếm được những nhà phân phối tốt có thể là chìa khố
đi tới xuất khẩu thành cơng.
- Marketing qua kênh của người khác(Piggyback Marketing- PM):
Đây là một sự đổi mới trong phân phối trên phạm vi quốc tế. Nó là một sự
dàn xếp qua đó một nhà sản xuất nhận được sự phân phối sản phẩm của
mình ở thị trường nước ngồi thơng qua các kênh phân phối của người khác.
Nhà sản xuất sử dụng phương pháp phân phối này sẽ làm cho chi phí thấp
hơn nhiều so với chi phí đòi hỏi bởi sự phân phối trực tiếp. Biện pháp
marketing này muốn thành cơng thì chủng loại sản phẩm phải có tính bổ
sung lẫn nhau. Chúng phải cùng thu hút một đối tượng khách hàng và không
được cạnh tranh lẫn nhau. Nếu những đòi hỏi này được đáp ứng, phương
thức này sẽ là một cách có hiệu quả trong việc sử dụng một hệ thống kênh
phân phối quốc tế khai thác lợi thế của cả hai bên.
4. Quyết định về xúc tiến hỗn hợp
Các công cụ xúc tiến hỗn hợp như quảng cáo, khuyến mại, tuyên
truyền và bán hàng cá nhân đều có thể được sử dụng trong marketing quốc
tế. Tuy nhiên, do thị trường và môi trường kinh doanh thay đổi từ quốc gia

này sang quốc gia khác nên các cơng cụ này cũng phải thích ứng với các
quốc gia cụ thể.
- Quảng cáo quốc tế: Muốn thực hiện quảng cáo quốc tế thành công
phải quan tâm đặc biệt đến ba cơng việc chính: Tạo ra những chiến lược
quảng cáo phù hợp với thị trường quốc tế, xác định và lựa chọn những


phương tiện truyền thông tốt nhất để truyền tải thông điệp, lựa chọn hoặc
điều hành một hãng quảng cáo có đủ khả năng để đảm trách công việc
quảng cáo quốc tế.
- Quan hệ công chúng quốc tế : Những mối quan hệ cơng chúng- PR
(Public Relations) có ảnh hưởng đến việc tạo ra và duy trì danh tiếng. Tuy
nhiên, cần chú ý rằng danh tiếng đối với những "thính giả" (ví dụ như khách
hàng hay các chính phủ) thì quan trọng hơn nhiều so với các đối tượng khác
(như các công ty cạnh tranh). Do vậy một công ty cần phải:
+ Xác định rõ những nhóm cơng chúng khác nhau mà công ty cần tác
động đến và những thông điệp sẽ được những nhóm cơng chúng này nhiệt
tình đáp lại.
+ Xác định cách tiếp cận những nhóm khách hàng mục tiêu như thế
nào là tốt nhất. Điều này đòi hỏi nghiên cứu xem một hãng quảng cáo và
hoạt động , sản phẩm của nó được chấp nhận bởi khách hàng bên ngoài như
thế nào ? Cũng như là nghiên cứu xem các phương tiện truyền thơng đại
chúng nào được nhóm nhóm khách hàng lớn của cơng ty xem ?
- Marketing quốc tế trực tiếp: Bao gồm thư trực tiếp, bán hàng qua
điện thoại, các bản giới thiệu hàng hóa, bán hàng ngồi danh mục thơng qua
mục thơng tin lượm lặt ở các bài báo và tạp chí quảng cáo. Marketing trực
tiếp là một phương thức bán hàng ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới,
đặc biệt ở Tây Âu và Mỹ.Các công ty cần quan tâm đến sự phát triển cuả
Marketing trực tiếp . Thư trực tiếp là môt phương tiện linh hoạt chọn lọc , có
khả năng đạt hiệu quả cao trong việc xúc tiến với khách hàng nước ngồi .

Các thư này có thể gửi đến các thị trường mục tiêu , ngân sách dành cho
quảng cáo sẽ tập trung vào các đoạn thị trường hứa hẹn nhất . Thư trực tiếp
mang tính cá nhân , chọn lọc và hữu ích để thơng tin cho khách hàng , đặc
biệt là những khách hàng tổ chức .


- Marketing quan hệ quốc tế: Marketing quan hệ- RM (Relationship
Marketing) là một cách tiếp cận marketing nhằm tìm kiếm và thiết lập mối
quan hệ lâu dài với khách hàng dựa trên lòng tin và thiết lập mối quan hệ
hợp tác tương trợ lẫn nhau. RM bao gồm việc thiết lập các mối quan hệ và
tiếp xúc mang tính cá nhân giữa khách hàng và đại diện cuả doanh nghiệp
làm xuất hiện tình cảm ngẫu nhiên giữa các bên về trách nhiệm tương trợ, về
các mục đích chung, sự thống nhất mọi hoạt động của hãng gắn với sự quan
tâm của khách hàng. Với những doanh nghiệp xuất khẩu thì các khách hàng
được xem như là thành viên của quá trình Marketing chứ khơng phải là các
cá nhân bị ảnh hưởng bởi một lần bán. Cần thấy rằng các đơn hàng lặp lại từ
các khách hàng cũ tạo ra lợi nhuận nhiều hơn so với khách hàng mới vì
khơng cần tiêu tiền vào quảng cáo hay chi phí cơng tác cho nhân viên bán
hàng . Các kỹ thuât marketing quan hệ bao gồm việc cung cấp rộng rãi
thông tin về hãng và các sản phẩm của nó , cá nhân hố việc truyền thơng
với khách hàng , q và hàng mẫu gửi tặng , các đề nghị về tiền thưởng hấp
dẫn , việc quản lý cẩn thận các quan hệ với khách hàng cụ thể . Các nhà
cung cấp cố gắng tạo ra và củng cố mối quan hê lâu dài , tối đa hoá lợi
nhuận trong các quan hệ lâu bền , tương trợ lẫn nhau , liên tục , không
ngừng với các khách hàng của hãng . Trong thực tế việc áp dụng Marketing
quam hệ đã trở nên thuận tiện hơn nhiều bởi những sự phát triển của cơng
nghệ thơng tin , cho phép cơng ty có đươc những thông tin chi tiết về cá
nhân tổ chức khách hàng của công ty . Điều này cho phép các hãng tổ chức
hoạt động xúc tiến của họ theo từng khách hàng mục tiêu , sử dụng từng
thông điệp khác nhau dựa trên sự hiểu biết cá nhân

- Khuyến mại quốc tế: Đây là các hoạt động xúc tiến bán hàng, nếu
được sử dụng một cách cẩn thận sẽ có thể trở thành một cơng cụ đặc biệt có
hiệu quả đối với marketing ở nước ngồi. Chúng có thể được dùng để kích
thích mua sắm, khuyến khích khách hàng trung thành, điều hoà nhu cầu theo


mùa vụ, tăng tần suất mua lại và nói chung tạo sự chú ý tới doanh nghiệp và
các sản phẩm của nó. Các khoản chi phí của doanh nghiệp cho xúc tiến bán
hàng đã tăng lên nhanh chóng trên tồn thế giới.
- Hội chợ: Hội chợ thương mại là hình thức của kích thích tiêu thụ
hay xúc tiến bán hàng lâu đời nhất trên thế giới. Hội chợ có thể giúp một
công ty trong một vài ngày tiếp cận được nhóm khách hàng tập trung có lợi
ích tiềm năng mà có thể mất vài tháng để tiếp xúc nếu khơng có hội chợ.
Hội chợ đặc biệt hữu ích trong việc giới thiệu các sản phẩm mới ra thị
trường vì doanh nghiệp có thể thu nhận được phản ứng ban đầu đối với sản
phẩm mới của khách hàng, các nhà phân phối, các đối thủ cạnh tranh, các
đại lý tiềm tàng,các nhóm lợi ích khác.


CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG
MARKETING MIX CỦA CƠNG TY GIÀY THƯỢNG ĐÌNH TRÊN
THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ .
I. Tổng quan về Công ty giầy Thượng Đình
Cơng ty giầy Thượng Đình được thành lập vào những năm đầu thủ đô
mới giành được độc lập vào tháng một năm 1957. Ngay từ giai đoạn mới
thành lập đến nay. Cơng ty giầy Thượng Đình đã cùng nhân dân thủ đơ nói
riêng và miền Bắc nói chung đã góp sức vào xây dựng đất nước. Cho đến
nay trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển với bao khó khăn và thách
thức sóng gió thăng trầm. Cơng ty giầy Thượng Đình trưởng thành, phát
triển và bước tới tương lai.

Giới thiệu sơ lược về Công ty
- Tên Công ty: Cơng ty giầy Thượng Đình
-Tên giao dịch quốc tế: ZINAVI
- Địa chỉ: Số 277/Km 8 - Đường Nguyễn Trãi - Thanh Xuân - Hà Nội.
- Các mặt hàng xuất khẩu chính; Giầy vải, giầy thể thao, các loại dép
xăng đan để xuất khẩu và phục vụ thị trường nội địa.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Cơng ty
Giai đoạn 1957 - 1960 (trưởng thành từ quân đội những chặng đường
đầu tiên).
Tháng 1 năm 1957 xí nghiệp X30 - Tiền thân của Cơng ty giầy
Thượng Đình ngày nay ra đời, có nhiệm vụ sản xuất mũ cứng và giầy vải
cung cấp cho bộ đội thay thế các loại mũ đan bằng tre lồng vaỉ lưới nguy
trang và dép lốp cao su.


Giai đoạn 1961 -1972 (sống lao động, chiến đấu vì miền Nam ruột
thịt).
Tháng 6 -1965 xí nghiệp X30 đã tiếp nhận thêm một đơn vị công tư
hợp doanh là Liên xưởng thiết kế giầy vải và đổi tên thành nhà máy cao su
Thuỵ Khuê. Đến năm 1970 nhà máy cao su Thuỵ Khuê đã xát nhập thêm xí
nghiệp giầy vải Hà Nội cũ (gồm 2 cơ sở Văn Thương - Chí Hằng) và đổi
thành: xí nghiệp giầy vải Hà Nội.
Giai đoạn 1973 -1989 (tự khẳng định)
Từ cái gốc X30 đến thời điểm này đã nẩy sinh nhiều xí nghiệp, đơn vị
mới.
+ Tháng 6 năm 1978: xí nghiệp giầy vải Hà Nội hợp nhất với xí
nghiệp giầy vải Thượng Đình và lấy tên: Xí nghiệp giầy vải Thượng Đình.
+ Tháng 4 năm 1989 theo yêu cầu của phát triển ngành giầy, xí
nghiệp đã tách cơ sở 152 Thuỵ Khuê để thành lập xí nghiệp giầy Thuỵ
Kh. 1700 cán bộ cơng nhân viên cịn lại tiếp tục cùng xí nghiệp giầy vải

Thượng Đình.
Giai đoạn 1990 đến 1997 (thị trường và đổi mới)
Ngày 8 tháng 7 năm 1993 xí nghiệp giầy vải Thượng Đình đã chính
thức đổi tên thành Cơng ty giầy Thượng Đình theo giầy phép số 2753 của
UBND Thành Phố Hà Nội.
Giai đoạn 1997 đến nay (tự tin bước vào thiên niên kỷ mới )
Cơ chế quản lý kinh doanh theo chế độ tập trung quan liêu bao cấp đã
bộc lộ nhiều nhược điểm: sản xuất bị đình trệ, thị trường tiêu thụ biến động,
đời sống CB - CNV gặp nhiều khó khăn.
Với tinh thần đồn kết, cần cù, chịu khó và tính năng động sáng tạo
của tồn thể CB - CNB Cơng ty giầy Thượng Đình đã lựa chọn con đường
đi đúng để tồn tại và phát triển đó là Hợp tác kinh doanh với các đối tác
nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi.


Từ đây, sản phẩm của Công ty liên tục được cải tiến về mẫu mã, chất
lượng và chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước.
Đây là một chặng đường thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cải tổ vdà
đổi mới theo Nghị quyết trung ương XI của Đảng, đây cúng chính là bệ
phóng vững chắc cho việc cất cánh của Công ty trong thời kỳ tiếp theo:
Thời kỳ tự tin bước vào thiên niên kỷ mới.
Tóm lại: Cơng ty giầy Thượng Đình trải qua hơn 45 năm xây dựng và
phát triển với bao khó khăn, Cơng ty đã đạt được nhiều thành tựu, đóng góp
một phần vào ngân sách nhà nước và tăng thu ngoại tệ từ hoạt động xuất
khẩu.
2. Mục đích hoạt động,
Cơng ty giầy Thượng Đình là một doanh nghiệp nhà nước với sản
phẩm chủ yếu là giầy vải. Mục đích chủ yếu của Cơng ty là có lãi nên lợi
nhuận là mục tiêu hàng đầu của Công ty.
Để đáp ứng với tình hình mới, Cơng ty đã tiến hành đổi mới trang

thiết bị, tăng quy mô sản phẩm để đảm bảo công ăn việc làm cho công nhân,
góp phần tạo ra của cải cho xã hội, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế đất
nước.
3. Nhiệm vụ của Cơng ty.
Để thích ứng với cơ chế thị trường, Công ty đã đề ra các nhiệm vụ cơ
bản sau:
+ Dựa vào năng lực thực tế của Công ty, kết quả nghiên cứu thị
trường trong và ngoài nước, xây dựng và thực hiện totó các kế hoạch. Nâng
cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, tự bù đắp chi phí,
trang trải vốn và hồn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước trên cơ sở tận
dụng năng lực sản xuất ứng dụng khoa học kỹ thuật đổi mới sản phẩm.
+ Nghiên cứu luật pháp: Các thông lệ kinh doanh quốc tế, tình hình
thị trường thế giới về các loại giầy, đặc biệt là giầy vải, giầy thể thao...


Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh và đưa ra phương án kinh doanh của
mình.
+ Mở rộng sản xuất với các cơ sở kinh doanh thuộc phần kinh tế, tăng
cường hợp tác với liên doanh nước ngoài.
+ Thực hiện phân phối theo lao động và công bằng xã hội, tổ chức tốt
đời sống cán bộ công nhân viên.
+ Thực hiện tốt các chỉ tiêu kinh tế nhà nước giao cho cụ thể là:
- Nộp ngân sách nhà nước.
- Đảm bảo việc làm và thu nhập
4. Phạm vi hoạt động.
Công ty chịu sự quản lý trực tiếp của Sở công nghiệp Hà Nội, được
phép xuất khẩu sản phẩm chủ yếu là các loại giầy vải giầy thể thao, dép
xăngđan phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, ngồi ra Cơng ty còn
tham gia sản xuất các loại sản phẩm bảo hộ lao động như: Quần áo, túi, găng
tay... Công ty có quyền sản xuất các loại sản phẩm cao su khác.

5. Cơ cấu tổ chức bộ máy Công ty.
Công ty giầy Thượng Đình là đơn vị hoạch tốn kinh doanh độc lập
và có tư cách pháp nhân. Căn cứ vào đặc điểm tính phức tạp của kỹ thuật,
quy mơ sản xuất lớn. Công ty đã xây dựng phương thức quản lý theo kiểu
trực tuyến chức năng. Bên cạnh đó có trợ lý giám đốc và bộ phận QRM (đại
diện lãnh đạo về chất lượng) hỗ trợ giúp việc cho giám đốc trong q trình
ra quyết định. Hệ thống phịng ban của Cơng ty có chức năng riêng nhưng
đều có nhiệm vụ tham gia tham mưu cho giám đốc, theo dõi kiểm tra và có
hướng dẫn thực hiện các quyết định của giám đốc theo chức năng của mình.
Các phân xưởng trực tiếp tham gia sản xuất. Mối quan hệ giữa các phòng
ban, phân xưởng là mối quan hệ ngan cấp. Cơng ty giầy Thượng Đình thực
hiện mơ hình quản lý theo hai cấp như sau”.
Cấp 1 bao gồm
+ Ban giám đốc. Đứng đầu là giám đốc và sau đó là 4 phó giám đốc.


Hệ thống phịng ban: Hệ thống phịng ban bố trí để tham mưu chủ đạo
sản xuất bao gồm.
+ Phòng kinh doanh xuất khẩu (P. KD - XNK).
+ Phịng kế tốn - tài chính (P. KD - TC).
+ Phịng chế thử mẫu
+ Phịng hành chính - Tổ chức (P. HC - TC).
+ Phòng kế hoạch - vật tư (P. KH - VTP)
+ Phịng thống kê - gia cơng
+ Phịng tiêu thụ
Cấp 2 bao gồm:
Các phân xưởng đứng đầu là các quản đốc phân xưởng. Bộ phận này
trực tiếp chỉ đạo công nhân sản xuất. Hiện nay Cơng ty có các phân xưởng
sau:
+ Phân xưởng cắt

+ Phân xưởng may A
+ Phân xưởng may B
+ Phân xưởng cán
+ Phân xưởng gò
+ Phân xưởng bơi tráng
+ Xưởng cơ năng
Ngồi ra Cơng ty cịn có một số phịng ban khác làm cơng tác chính
trị tư tưởng như phịng đảng uỷ, phịng hành chính tổng hợp, phịng bảo vệ,
ban vệ sinh lao động.
II . Vị trí hoạt động xuất khẩu trong công ty.
Hoạt động xuất khẩu được coi là hoạt động quan trọng nhất cực kỳ
quan trọng của cơng ty vì nó có một vai trị to lớn quyết định đến sự phát
triển của công ty. Trong chiến lược công ty đã xác định được thị trường
chính của cơng ty là thị trường xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu chiếm một


tỷ lệ khá cao trong tổng doanh thu. Trong giai đoạn 1998 – 2002 trung bình
là 70%, một con số rất lớn.
Tỷ trọng doanh thu xuất khẩu khá cao năm 1998 chiếm 69,6% năm
1999 chiếm 84,3%, năm 2000 chiếm 56,1% v nm 2001 chim 53,7%, nm
2002 chim 56,52%.

Biểu 1
tỷ đồng
120
100
80
60
40
20

0

1998

1999

2000

2001

2002

năm

doanh thu
doanh thu xuÊt khÈu
Kim ngạch suất khẩu cao, tỷ trọng xuất khẩu cao. Doanh thu xuất
khẩu năm 1998 đạt 6,36 triệu USD, năm 1999 là 6,2 triệu USD, năm 2000
có thấp hơn đạt 4,32 triệu USD và năm 2001 là 4,6 triệu USD, năm 2002 là
4,324 triệu USD điều đó cho thấy hoạt động xuất khẩu của công ty hiện nay
là hoạt động chủ yếu của cơng ty nó có vị trí quan trọng nhất, cơ bản nhất.
Để cơng ty có thể ổn định và phát triển thì khơng thể thiếu được hoạt động
xuất khẩu. Công ty đã xem hoạt động xuất khẩu như là hoạt động mũi nhọn,
hoạt động chủ lực nhằm phát triển công ty thành một công ty đầu ngành của
ngành giầy dép.
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong các năm qua (1998 2002)


Đặc điểm của ngành giầy dép là vốn đầu tư ít, thu hồi vốn nhanh, sử
dụng nhiều lao động. Công nghiệp giầy dép là ngành sản xuất gắn với nhu

cầu tiêu dùng của xã hội. Vì vậy nó có vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân, là ngành thu hút nhiều lao động xã hội, cung cấp sản phẩm tiêu
dùng cho xã hội, tạo nguồn hàng xuất khẩu. Trong những năm gần đây,
ngành giầy dép Việt Nam đã có hướng đi đúng đắn, tận dụng được lợi thế
của mình nhằm sản xuất và xuất khẩu giầy dép ra thị trường nước ngồi.
Trong bối cảnh đó cơng ty giầy Thượng Đình đã mạnh dạn đầu tư
cơng nghiệp, khảo sát, nghiên cứu thị trường xuất khẩu. Trải qua những khó
khăn thử thách công ty đã đạt được những kết quả đáng kể.
Bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
(1998 - 2002)
Các chỉ
tiêu
Giá
trị
sản xuất
công
nghiệp
Doanh
thu
Kim
ngạch
xuất khẩu
Lợi nhuận

ĐVT

1998

1999


2000

2001

2002

1000
đ

68.182.13
8

83.367.57
7

79.051.20
7

101.662.63
1

110.066.26
2

127,9

103

107,5


120

118

1,12

6,36

6.2

4,31

4.6

4.324

0.7

1,3

1,1

1,5

1,6

1,8

1,64


1,7

2,31

1,547

1,7

1,76

0,76

3.890

1.755

4.296

3.820

4,276

0,89

2060

1970

1220


1776

1733

0,88

1892

2965

3075

1334

2543

0,857

740

750

760

780

810

1,08


2,43

4,1

2,55

10

0,96

0,234

0,074

0,104

0,15

0,18

0,17

1,16

Tỷ
đồng
Triệ
u
USD
Tỷ

đồng
Nộp ngân Tỷ
sách
đồng
Tổng sản 1000
phẩm
đơi
xuất khẩu
Xuất
1000
khẩu
đơi
Nội địa
1000
đơi
Thu nhập 1000
bình qn đơi
đầu tư
Tỷ
đồng
Tỷ suất Triệ
u
lợi
nhuận/vố đồng
n đầu tư

2002/199
9
1,325



×