Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.89 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
Mục
Nội dung
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
I
Tiến trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua
II
Những thành tựu đạt được từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
III
Những khó khăn của cổ phần hố doanh nghiệp nhà nước
IV
Nguyên nhân của những hạn chế
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY Q TRÌNH CỔ PHẦN HỐ DNNN
I
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.

NỘI DUNG
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
I. Tiến trình thực hiện cổ phần hố doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua
Ở nước ta, doanh nghiệp nhà nước được hình thành từ sau Cách mạng Tháng Tám và phát triển mạnh
sau khi đất nước thống nhất. Doanh nghiệp nhà nước đã từng giữ vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế –
xã hội, nhất là đóng góp to lớn vào thắng lợi chung của tồn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, bước sang thời kỳ đổi mới, cùng với sự phát triển kinh tế chung của cả nước, trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước không những đã không kịp chuyển mình để đáp ứng
được yêu cầu mới đặt ra, mà cịn bộc lộ nhiều yếu kém như: quy mơ sản xuất kinh doanh nhỏ bé, công nghệ sản
xuất lạc hậu, trình độ quản lý non kém; tổ chức, bộ máy cồng kềnh; cơ chế quản lý trong các doanh nghiệp chưa
hợp lý, kém hiệu quả; khả năng cạnh tranh yếu trên thị trường trong nước và quốc tế.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp sắp xếp, đổi mới và nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được coi là một giải pháp
quan trọng để giảm bớt số lượng doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh


doanh của các doanh nghiệp này, tăng cường huy động vốn đầu tư từ xã hội…
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có nhiều tác động
đến sự phát triển kinh tế của đất nước, đời sống người lao động và những vấn đề xã hội khác nên được tiến hành
một cách thận trọng với những bước thí điểm ban đầu vào năm 1990 trên cơ sở pháp lý là Quyết định số
143/HĐBT ngày 10-5-1990. Sau đó, Chính phủ đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về vấn đề này, như: Chỉ
thị số 202 ngày 6-8-1992; Chỉ thị số 84 ngày 4-3-1993 của Thủ tướng Chính phủ; Nghị định số 28/NĐ-CP ngày
7-5-1996; Nghị định số 25/CP ngày 26-3-1997; Thơng báo số 63 TB/TW ngày 4-4-1997 của Bộ Chính trị; Nghị


định số 44/NĐ-CP ngày 29-6-1998; Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19-6-2002…và mới đây là Nghị định số
187 ngày 16-11-2004 qui định về thực hiện cổ phần hóa các DNNN.

Q trình cổ phần hóa ở Việt Nam có thể chia thành bốn giai đoạn, được đánh dấu bởi việc chính phủ ban hành
một nghị định mới. Và mỗi khi nghị định mới được ban hành thì tiến độ cổ phần hóa lại được đẩy nhanh hơn.
1. Giai đoạn 1 (6/1992-4/1996): Cổ phần hóa tự nguyện: quy định tại Quyết định số 202/CT của Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng

Đây là thời gian thực hiện chương trình thí điểm nhằm cổ phần hóa các DNNN vừa và nhỏ, thỏa mãn các điều kiện
sau:
(i)
(ii)
(iii)

Có lợi nhuận,
Khơng mang tính chiến lược, và do vậy nhà nước không cần sở hữu 100%.
Ban giám đốc và người lao động tự nguyện tham gia chương trình thí điểm.

Nhìn vào những tiêu chuẩn này có thể thấy rằng Việt Nam lúc ấy dự định cổ phần hóa theo hai giai đoạn:
Những doanh nghiệp nhỏ, không quan trọng được cổ phần hóa trước và những doanh nghiệp lớn và quan
trọng hơn được cổ phần hóa sau.


Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ) đã chọn 7 doanh nghiệp nhà nước do Chính
phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành cơng ty cổ phần, đó là:
1. Nhà máy xà phịng Việt Nam (Bộ cơng nghiệp)
2. Nhà máy diêm Thống nhất (Bộ cơng nghiệp)
3. Xí nghiệp ngun vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Bộ Nông nghiệp).
4. Xí nghiệp chế biến gỗ lạng Long bình (Bộ nông nghiệp),
5. Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (Bộ Thương mại).
6. Xí nghiệp sản xuất bao bì (thành phố Hà Nội).
7. Xí nghiệp dệt da may Lagamex (thành phố Hồ Chí Minh).
Sau một thời gian làm thử, 7 doanh nghiệp nhà nước được Chính phủ chọn làm thí điểm đều xin rút lui,
hoặc không đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá như Legamex, nhà máy xà phòng Việt Nam...
Hơn 30 doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ tài chính để thí điểm thực hiện cổ phần hố và 3 doanh nghiệp
nhà nước xin chuyển thành cơng ty trách nhiệm hữu hạn theo chỉ thị 84/TTg. Có 5 doanh nghiệp nhà nước được
phép chuyển sang công ty cổ phần, đó là:
1. Cơng ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ giao thông).
2. Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (TP Hồ Chí Minh)


3. Công ty cổ phần giầy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp).
4. Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh Long An)
5. Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (Bộ công nghiệp).
Kết quả của chương trình thí điểm này rất khiêm tốn:
Trong 5 năm từ 1992 đến giữa năm 1996, chỉ có vẻn vẹn 5 DNNN được cổ phần hóa trên tổng số hơn 6.000
DNNN hiện có trong thời gian ấy.Song giai đoạn thí điểm đã đem lại một số kết quả đáng chú ý:

 Q trình thí điểm cổ phần hố đã huy động được một lượng vốn quan trọng trong nhân dân. Qua bán cổ
phiếu, nhà nước đã thu được 14,165 tỷ đồng tiền mặt nộp vào ngân sách. Đây là số vốn quan trọng làm tăng tài
sản thuộc sở hữu nhà nước để đầu tư vào chiều sâu, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống doanh nghiệp nhà nước.

 Tại các doanh nghiệp đã cổ phần hố, 100% cán bộ cơng nhân viên tham gia mua cổ phiếu. Khi người
lao động có vốn trong cơng ty, lợi ích của họ gắn với lợi ích cơng ty vì vậy họ làm việc với trách nhiệm cao vì
quyền lợi của mình; mặt khác họ cũng yêu cầu hội đồng quản trị và giám đốc điều hành phải chỉ đạo và tổ chức
để cơng ty hoạt động có hiệu quả.
 Hiệu quả của các công ty này tăng lên rõ rệt. Các chỉ tiêu kinh tế như doanh thu tăng bình quân
56,9%/năm; lợi nhuận tăng 70,2%; nộp ngân sách tăng 89%/năm; tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là 14,10%.
 Vốn của các doanh nghiệp này tăng lên đáng kể. Tính bình qn vốn của các doanh nghiệp mỗi năm
tăng 45%.
 Người lao động trong các doanh nghiệp này tăng 46,8%, thu nhập của người lao động tăng 20%/năm.
 Nhà nước vẫn giữ được vai trò lãnh đạo doanh nghiệp nhờ duy trì tỷ lệ cổ phiếu chi phối, giám sát các
hoạt động bằng luật pháp và nội dung các điều lệ hoạt động phù hợp với quy định của nhà nước.
Tính đến hết thời gian thí điểm cổ phần hoá (hết năm 1996) tổng số doanh nghiệp nhà nước được chuyển
sang công ty cổ phần là 12 doanh nghiệp.
Tình hình hoạt động kinh doanh cụ thể ở một số doanh nghiệp thí điểm cổ phần hố:
Cơng ty đại lý liên hiệp vận chuyển GEMADEPT
Chỉ tiêu

ĐVT

Trước CPH

Sau CPH

1992

1993

1994

1995


1996

1. Doanh thu

Tr. đồng

11.120

16.530

24.134

47.538

65.046

2. Nộp NS

Tr.đồng

3.336

3.750

8.700

16.530

25.117


3. Lãi

Tr. đồng

3.400

3.700

8.800

15.200

23.000


4. Thu nhập bình 1000 đồng

850

900

1.200

1.400

2.000

quân người/tháng
5. Lao động


Người

56

320

Nguồn: Ban cổ phần hố Bộ Tài chính.
Cơng ty cổ phần cơ điện lạnh (REE).
Chỉ tiêu

Đơn vị tính

Trước CPH

Sau CPH

1992

1993

1994

1995

1996

1. Doanh thu

Tr. đồng


42.000

45.000

77.000

214.000

277.000

2. Nộp NS

Tr. đồng

2.570

54.370

13.126

48.000

61.000

3. Lãi

Tr. đồng

6.800


7.300

11.300

21.300

5.000

774

1.200

1.400

1.500

1.800

4.

Thu

nhập 1000đồng

bình

quân

người/tháng

5. Lao động

Người

200

800

Nguồn: Ban cổ phần hố Bộ Tài chính.

Cơng ty cổ phần giầy Hiệp An.
Chỉ tiêu

Đơn vị tính

Trước CPH

Sau CPH

1993

1994

1995

1996

1. Doanh thu

Tr. đồng


11.200

13.493

18.624

25.639

2. Nộp ngân sách

Tr. đồng

2.100

2.800

5.200

8.100

3. Lãi

Tr. đồng

2.718

3.152

5.412


7.918

420

470

850

1.200

4. Thu nhập bình quân 1000 đồng
người/tháng
5. Lao động

Người

380

400

2. Giai đoạn 2: (5/1996-5/1998): Mở rộng chương trình thí điểm: Nghị định 28/CP của Chính phủ.
Vào năm 1996, sau khi đánh giá kết quả của chương trình thí điểm, chính phủ quyết định mở rộng chương trình này
và đây cũng là lần đầu tiên chính phủ thể hiện sự cam kết mạnh mẽ với cổ phần hóa.
o Chọn những doanh nghiệp mà Nhà nước thấy khơng còn cần thiết phải nắm giữ 100% vốn nữa

làm đối tượng


o Cho phép các lãnh đạo bộ, ngành, địa phương có thêm quyền hạn trong việc tiến hành cổ phần


hóa các doanh nghiệp được chọn làm thử. Theo đó, đối với doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đồng
trở xuống thì lãnh đạo bộ, ngành, địa phương có quyền tự tổ chức thực hiện cổ phần hóa trên cơ
sở Nghị định số 28/CP.
Một lần nữa kết quả thu được không đáp ứng được kỳ vọng. Từ 1996 đến giữa 1998, chỉ có thêm 28
DNNN được cổ phần hóa.
3. Giai đoạn 3 (6/1998-5/2002): Tăng tốc chương trình cổ phần hóa:Chính phủ ban hành Nghị định số
44/1998/NĐ-CP

Từ tháng 6 năm 1998,chương trình thí điểm được thay thế bằng một kế hoạch cổ phần hóa kiên quyết hơn với sự
ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP và các văn bản có liên quan. Đây có thể có là khn khổ pháp lý đầu tiên về
cổ phần hóa ở Việt Nam.
Các DNNN lúc này khơng cịn quyền lựa chọn có tham gia vào chương trình cổ phần hóa hay khơng mà
chính phủ chủ động phân loại tất cả DNNN thành ba nhóm theo mức độ quan trọng của nó.
o Nhóm thứ nhất: bao gồm những DNNN có tầm quan trọng chiến lược và vì vậy nhà nước cần nắm
quyền sở hữu và kiểm sốt hồn tồn. Những DNNN trong nhóm này khơng là mục tiêu của cổ phần
hóa.
o Nhóm thứ hai: bao gồm những DNNN thuộc lĩnh vực công nghiệp mà nhà nước muốn giữ cổ phần
o

kiểm sốt (hay cổ phần đặc biệt) nếu nó được cổ phần hóa.
Nhóm thứ ba: bao gồm tất cả cácDNNN còn lại và là đối tượng của cổ phần hóa.

Nghị định số 44/1998/NĐ-CP quy định:

o Đối với cổ phần phát hành lần đầu của doanh nghiệp được chuyển đổi nhưng Nhà nước vẫn
muốn nắm quyền chi phối, cá nhân không được phép mua quá 5% và pháp nhân không được
phép mua quá 10%.
o


Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm quyền chi phối, cá nhân được phép mua tới
10% và pháp nhân được phép mua tới 20% tổng cổ phần phát hành lần đầu.

o Riêng đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước hồn tồn khơng cịn muốn sở hữu, cá nhân và
pháp nhân được phép mua không hạn chế.
o Tiền thu được từ bán cổ phần sẽ được sử dụng để đào tạo lại lao động, sắp xếp việc làm cho lao
động dư thừa, bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước khác.
Tiến độ cổ phần hóa của giai đoạn này rất ấn tượng. Từ tháng 6/1998 đến tháng 5/2002, cả nước cổ phần hóa
được 845 DNNN. Như vậy, cho đến tháng 5/2002, chính phủ Việt Nam đã cổ phần hóa được khoảng 15% tổng số
DNNN. Tuy nhiên, vốn của các doanh nghiệp này chỉ chiếm khoảng 2,5% tổng số vốn của khu vực DNNN.


4. Giai đoạn 4: Tiếp tục đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa:
Chính phủ dự tính đến cuối năm 2005, tức là trước khi Việt Nam gia nhập một cách trọn vẹn vào Khu vực Mậu
dịch Tự do ASEAN (AFTA), số DNNN sẽ chỉ còn khoảng 2.000. Nhận thấy tốc độ cổ phần hóa đang chững lại trong
năm 2002, chính phủ quyết định đẩy nhanh chương trình cổ phần hóa bằng cách ban hành Nghị định số
64/2002/NĐ-CP để hoàn thiện khung pháp lý cho cổ phần hóa.
Có nhiều điểm đáng chú ý trong nghị định mới này:
1. Chính phủ cho phép các bộ, ngành, chính quyền địa phương và các tổng cơng ty có nhiều thẩm quyền hơn
trong quyết định cổ phần hóa.
2. Các quỹ phúc lợi được thành lập để trợ cấp hoặc đào tạo lại lao động bị sa thải.
3. Những DNNN khơng có tầm quan trọng chiến lược và có vốn dưới 5 tỷ bị dọa đóng cửa nếu khơng chịu cổ
phần hóa.
4. Giới hạn trần của tỷ lệ cổ phần dành cho các cá nhân và tổ chức nước ngoài được điều chỉnh tăng từ 20% lên
30% cho các doanh nghiệp thuộc nhóm 2 và 3.
5. Các phương thức định giá và bán DNNN được phép linh hoạt hơn.
Mới đây, vào tháng 11 năm 2004, chính phủ ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ-CP để thay thế Nghị định số
64/2002/NĐ-CP. Nghị định này giúp giải quyết những vướng mắc liên quan tới nợ xấu của các DNNN (cả nợ phải
đòi và nợ phải trả). Quan trọng hơn là nghị định này đã dọn đường để áp dụng các phương pháp thị trường trong việc
định giá DNNN dự định cổ phần hóa (chẳng hạn như đấu giá cơng khai, kiểm tốn độc lập, trong đó có cả kiểm tốn

nước ngồi v.v.)

Theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP có một số hình thức cổ phần hóa sau:
1. Giữ ngun vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
2. Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
3. Bán tồn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
4. Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
Đối với cổ phần phát hành lần đầu, các nhà đầu tư trong nước được phép mua khơng hạn chế. Các nhà đầu
tư nước ngồi khơng được phép mua quá 30%.
Tháng 1 năm 2004, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX họp phiên thứ IX, tại đó
có thảo luận và quyết định đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cuối năm 2004, Chính phủ ra Nghị
định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần, theo đó cả các cơng ty thành viên
của các tổng cơng ty nhà nước và ngay cả chính tổng cơng ty nhà nước nào mà Nhà nước không muốn chi phối
đều có thể trở thành đối tượng cổ phần hóa.
Điểm mới quan trọng trong Nghị định số 187/2004/NĐ-CP là:


Quy định việc bán cổ phần lần đầu phải được thực hiện bằng hình thức đấu giá:
o Tại các trung tâm giao dịch chứng khốn nếu là cơng ty có số vốn trên 10 tỷ đồng
o Tại các trung tâm tài chính nếu là cơng ty có số vốn trên 1 tỷ đồng
o Tại cơng ty nếu cơng ty có số vốn không quá 1 tỷ đồng.

Bán đấu giá khiến cho giá cổ phiếu phát hành lần đầu của nhiều công ty nhà nước được đẩy vọt lên, đem
lại những nguồn thu rất lớn cho Nhà nước.
Đợt đấu giá cổ phần của 5 công ty nhà nước được cổ phần hóa : Cơng ty cổ phần kỹ nghệ thực phẩm,
Nhà máy thiết bị bưu điện, Nhà máy thủy điện Vĩnh Sơn - Sơng Hinh, Cơng ty điện lực Khánh Hịa, Công ty
sữa Việt Nam, Nhà nước đã thu vượt dự kiến 450 tỷ đồng.
Mặt khác, bán đấu giá cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa cịn trở thành một động lực cho sự
phát triển của thị trường cổ phiếu niêm yết ở Việt Nam. Trong số 30 công ty niêm yết cổ phiếu tại Trung tâm
Giao dịch chứng khốn thành phố Hồ Chí Minh (nay là Sở Giao dịch chứng khốn Thành phố Hồ Chí Minh)

vào ngày 31 tháng 10 năm 2005, có 29 cơng ty là doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.
Đến 2008, đã thực hiện ở khoảng trên 3.000 doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ được cổ phần hóa. Cịn
khoảng 2.000 doanh nghiệp nhà nước vừa và lớn như BIDV, Vietinbank, VMS-MobiFone, Vinaphone,... dự trù
sẽ cổ phần hóa đến năm 2010.
Chính phủ Việt Nam cũng khẳng định quyết tâm cổ phần hóa các trường đại học. Các cơ sở giáo dục ở
Việt Nam muốn tránh nguy cơ bị biến dạng do đưa các hoạt động giáo dục thành các dịch vụ đơn thuần, mang
nặng tính thương mại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sứ mệnh và mục tiêu của trường nên sẽ có q trình tách
bạch và phân định rõ các bộ phận thương mại hay phi thương mại hóa.
Các ngành như thể thao vốn chưa từng biết đến cổ phần hóa cũng đã bắt đầu quá trình này, song song
với việc ra đời một loạt các cơ sở thể thao cố phần hay tư nhân từ đầu.
Theo kế hoạch, chương trình cổ phần hóa sẽ cơ bản hồn thành vào năm 2010
Kết luận:
Nhìn chung, q trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã thu được những kết quả đáng khích lệ về
mặt kinh tế – xã hội. Kết quả hoạt động của 3000 doanh nghiệp cổ phần đã hoạt động trên 1 năm cho thấy: hơn
90% doanh nghiệp có hiệu quả sản xuất cao, vốn điều lệ tăng 40%, nộp ngân sách tăng 25%, thu nhập của


người lao động tăng 11,84%, cổ tức bình quân là 17,11%/năm, số lao động tăng gần 7%. Các doanh nghiệp nhà
nước cổ phần hóa đã góp phần làm giảm gánh nặng của Nhà nước phải bao cấp, bù lỗ hằng năm.
Hơn thế, trong q trình cổ phần hóa, nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước cũng được xử lý một cách cơ
bản; đồng thời, chấm dứt xu hướng thành lập doanh nghiệp nhà nước một cách tràn lan. Trong các doanh nghiệp
nhà nước được cổ phần hóa, vai trị làm chủ của người lao động – cổ đông được nâng lên rõ rệt, từ đó góp phần
nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
II. Những thành tựu đạt được từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
1.

Đối với doanh nghiệp:

Nhìn chung, doanh nghiệp là đối tượng được lợi nhiều nhất từ chính sách cổ phần hố. Hầu hết các doanh
nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước xét tổng thể trên các mặt doanh

thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn…Nhiều doanh nghiệp đã thốt ra khỏi tình trạng nợ nần, phá sản,
khắc phục được những hạn chế do cơ chế quản lý cũ như nạn tham nhũng, lãng phí trong sản xuất, sự thiếu
trách nhiệm trong lao động, quản lý trì trệ, yếu kém…
Kết quả hoạt động của 15 doanh nghiệp đã được CPH trước năm 1998 là rất khả quan. Những lợi ích mà CPH
mang lại cho doanh nghiệp được thể hiện rất rõ qua những con số sau:
Báo cáo hoạt động năm 1999 của 20 doanh nghiệp đã CPH có thời gian hoạt động trên 1 năm cũng cho thấy
những số liệu rất khả quan, cụ thể như sau:


Doanh thu tăng bình quân gần 2 lần: Điển hình cơng ty cổ phần Cơ điện lạnh năm 1999 đạt 178 tỷ
đồng, gấp gần 4 lần so với trước khi CPH ; công ty cổ phần bông Bạch Tuyết năm 1999 đạt 86 tỷ đồng,
gấp 1,5 lần so với trước khi CPH...



Lợi nhuận tăng bình quân hơn 2 lần, cổ tức bình quân đạt 1-2%/tháng.



Vốn tăng gần 2,5 lần (bao gồm cả tích luỹ từ lợi nhuận và thu hút thêm vốn đầu tư từ bên ngồi) : Nổi
bật là cơng ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An vốn tăng 5 lần; công ty cổ phần Việt Phong vốn
tăng 2,4 lần…

Ngoài những lợi ích kinh tế kể trên, khi CPH DNNN cịn có thêm những lợi ích khác góp phần tích cực vào
việc năng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh:


Thứ nhất: Năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên nhờ được bổ sung nguồn vốn lưu
động và đầu tư đổi mới công nghệ. Về nguyên tắc, tất cả số tiền bán cổ phiếu, sau khi trừ đi các chi phí
sẽ được điều chuyển để bổ sung vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh.





Thứ hai: Doanh nghiệp có quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh. Sự chuyển đổi này đã hạn chế
thấp nhất những can thiệp thô bạo, phi kinh tế của các cơ quan công quyền, hạn chế các chỉ đạo vốn có
của một DNNN.



Thứ ba: Doanh nghiệp đã có được một cách quản lý mới mang tính dân chủ. Với việc CPH , doanh
nghiệp đã chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần, cũng có nghĩa là xác định vai trò chủ nhân tập thể.
Hội đồng quản trị sẽ thực sự làm chủ công ty với động lực lợi nhuận, vì lợi ích của các cổ đơng (trong
đó có chính mình), thay mặt các cổ đơng và được các cổ đơng bầu lên chứ khơng phải ai khác.

Bên cạnh đó, với những đổi mới tích cực, Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ (gọi tắt
là Nghị định 187) về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần có hiệu lực thi hành kể từ ngày
10/12/2005 đã có tác động tốt thúc đẩy tiến trình cổ phần hố DNNN trong thời gian qua, cụ thể như sau:


Số lượng doanh nghiệp cổ phần hố (DNCPH) tăng mạnh: Tính đến 30/6/2006, cả nước đã cổ phần hoá
được 3.365 doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp, trong đó chỉ tính riêng năm 2005 thực hiện cơ chế cổ
phần hoá theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã có 967 đơn vị được phê duyệt phương án cổ phần hố.
Thơng qua cổ phần hố đã huy động được trên 22.000 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư vào sản
xuất kinh doanh.



DNCPH có quy mô vốn lớn hơn trước đây: Trong số 967 đơn vị đã được phê duyệt phương án cổ phần
hoá trong năm 2005 thì có tới 310 đơn vị có số vốn trên 10 tỷ đồng (chiếm 32%), trong đó có gần 10

doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 300 tỷ đồng. Nếu như trước năm 2005 vốn nhà nước trong 2.307
đơn vị cổ phần hoá chỉ khoảng 20 ngàn tỷ đồng, bằng 8% tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thì chỉ
riêng năm 2005 vốn nhà nước trong 967 đơn vị cổ phần hoá đã đạt 20 ngàn tỷ đồng, bằng 8% tổng số
vốn nhà nước.



Việc điều chỉnh mệnh giá cổ phần; quy định số lượng cổ phần tối thiểu phải đấu giá bán cơng khai; xố
bỏ cơ chế bán cổ phần theo mệnh giá chuyển sang phương thức bán đấu giá cổ phần lần đầu tại các tổ
chức tài chính trung gian (đặc biệt là tại hai Trung tâm giao dịch chứng khốn) đã góp phần nâng cao
tính cơng khai, minh bạch trong q trình cổ phần hố DNNN, khắc phục cơ bản tình trạng cổ phần hố
khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, gắn cổ phần hố với việc phát triển thị trường chứng khoán, giảm
áp lực cho công tác định giá, giảm tổn thất cho Nhà nước. Thông qua đấu giá, hầu hết các doanh nghiệp
đều bán được cổ phần cao hơn mệnh giá. Với việc bán cổ phần ra bên ngoài, DNCPH đã chủ động lựa
chọn được nhà đầu tư chiến lược cho mình và tạo điều kiện để các nhà đầu tư chiến lược tham gia góp
vốn quản lý doanh nghiệp.



Việc đẩy mạnh cổ phần hố những doanh nghiệp quy mơ lớn, hiệu quả cao gắn với việc thực hiện niêm
yết, đăng ký giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh và Trung tâm Giao dịch


chứng khoán Hà Nội đã tạo đà cho thị trường chứng khốn phát triển. Tính đến nay tổng số doanh
nghiệp đã niêm yết, đăng ký giao dịch tại các trung tâm giao dịch chứng khốn là 57, trong đó có tới 49
doanh nghiệp được hình thành từ quá trình cổ phần hoá DNNN với tổng số vốn điều lệ đăng ký giao
dịch, niêm yết trên 9.100 tỷ đồng.


Quyền lợi của người lao động trong DNCPH được đảm bảo: Cán bộ công nhân viên trong đơn vị cổ

phần được mua cổ phần ưu đãi giảm giá 40% so với giá đấu bình qn thành cơng. Trong số 967 đơn vị
đã cổ phần hố, theo phương án được duyệt thì người lao động được mua ưu đãi giảm giá tới 260 triệu
cổ phần. Lao động dôi dư ở các đơn vị cổ phần được hưởng chính sách trợ cấp theo quy định tại Nghị
định số 41/2002/NĐ-CP (gọi tắt là Nghị định 41) về chính sách lao động dơi dư, được hỗ trợ đào tạo
nghề mới cho phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh. Riêng năm 2005 có trên 85.500 lao động dơi dư
do sắp xếp lại được hưởng chính sách này, bình qn mỗi lao động dơi dư được hỗ trợ 32 triệu
đồng/người. Nhờ có chính sách hợp lý, quyền lợi người lao động được đảm bảo, góp phần quyết định
trong việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hố, ổn định xã hội.



Thời gian thực hiện cổ phần hoá nhanh hơn trước. Nếu như trước đây, thời gian thực hiện cổ phần hố
bình qn một đơn vị vào khoảng 437 ngày thì sau khi có Nghị định 187 đã rút được xuống còn khoảng
260 ngày (giảm 40%). Thời gian cổ phần hoá được rút ngắn một phần là do các doanh nghiệp trong diện
cổ phần hoá bắt buộc phải chủ động xử lý những tồn tại về tài chính trước khi thực hiện cổ phần hoá;
mặt khác, việc xác định giá trị doanh nghiệp, bán cổ phần thông qua các định chế tài chính trung gian đã
góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp, đảm bảo tính khách quan trong quá trình định giá và bán cổ
phần, qua đó cũng phần nào rút ngắn thời gian thực hiện công việc này; Thêm vào đó, các quyết định
liên quan đến q trình cổ phần hố đã được xem xét, trình duyệt với thời gian nhanh hơn.

Nhìn chung, với sự đổi mới mang tính tồn diện, Nghi định 187 đã khắc phục một số tồn tại của cơ chế cũ, tạo
điều kiện để đẩy mạnh hơn nữa tình hình sắp xếp, cổ phần hố DNNN; đồng thời góp phần hồn thiện và phát
triển các yếu tố thị trường đặc biệt là thị trường vốn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá ổn
định và phát triển trong xu thế hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.

2.

Đối với Nhà nước:

Lợi ích đầu tiên mà Nhà nước thu được từ chính sách CPH là phần thuế thu được từ các công ty cổ phần tăng

hơn so với khi còn là DNNN, tất cả các CTCP đều đóng thuế đầy đủ, năm sau cao hơn năm trước từ 30-35%,
nộp ngân sách tăng bình quân 2 lần so với trước khi CPH : cụ thể như CTCP cơ điện lạnh tăng gần 3 lần, CTCP
sơn Bạch Tuyết tăng 2,7 lần…
Theo số liệu của 17 công ty cổ phần, Nhà nước đã thu được 377.244 triệu đồng từ các nguồn sau:




Tiền thu về bán cổ phần: 30.207 triệu đồng



Phần lợi tức của Nhà nước tại các CTCP: 6.905 triệu đồng



Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của CBCNV: 522 triệu đồng



Về huy động vốn: Tại thời điểm CPH trước 31/12/1999, 370 doanh nghiệp CPH có giá trị phần vốn Nhà
nước là 1.349 tỷ đồng, qua thực hiện CPH đã thu hút thêm 1.432 tỷ đồng, đồng thời Nhà nước cũng đã
thu lại được 714 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN và giải quyết một số chính sách cho người lao động
trong DNNN thực hiện CPH.

Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH khi xác định lại, nhìn chung đều tăng từ 10-50% so với giá trị
ghi trên sổ sách. Như vậy, khi CPH vốn Nhà nước không bị mất đi, được bảo tồn mà cịn tăng thêm.
Ngồi những lợi ích trên, từ kết quả cổ phần hố, hàng năm Nhà nước khơng cịn tốn một khoản ngân sách lớn
để bù đắp cho các DNNN thua lỗ, cán cân thu chi của Nhà nước được cân bằng hơn. Hệ thống các cơ quan quản
lý Nhà nước được hoàn chỉnh và gắn với mục tiêu của nền kinh tế. Chính cơ chế tạo chun mơn hố dẫn đến

sự thay đổi về trình độ quản lý đạt mức cao. Nhà nước có điều kiện quản lý nền kinh tế thơng qua các chính
sách vĩ mơ.
Cổ phần hố đã đặt cơ sở cho thị trường vốn ra đời bằng việc ra mắt Uỷ ban chứng khoán quốc gia và Trung
tâm giao dịch chứng khoán vừa qua, làm cơ sở để Nhà nước kiểm sốt lạm phát. Lượng tiền lưu thơng trong xã
hội trong tương lai gần sẽ chuyển một phần vào thị trương vốn, thực hiện tái đầu tư trên diện rộng hoặc tập
trung vốn giải quyết các cơng trình trọng điểm của Nhà nước.

3.

Đối với người lao động:
Có thể nói, nhờ CPH mà người lao động đã trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp xét theo cổ phần

mà họ sở hữu. Qua CPH các DNNN, tất cả ngưòi lao động trong doanh nghiệp bằng các nguồn vốn tự có, quỹ
phúc lợi của doanh nghiệp được phân bổ và cả vốn riêng của cá nhân, đều có thể tham gia mua cổ phần tại cơng
ty, xí nghiệp được cổ phần hố.
Với việc góp vốn này, người lao động , từ công nhân trực tiếp sản xuất đến vị giám đốc, đều có thể trở thành
người chủ thực sự đối với doanh nghiệp, được tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào việc lập phương hướng kế
hoạch, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp với quyết tâm và ý chí chung là gặt hái được hiệu quả cao nhất,
tốt nhất.


Trong thực tế, các doanh nghiệp Nhà nước được CPH bảo đảm việc làm và thu nhập của người lao động ổn
định và có chiều hướng tăng lên. Do mở rộng sản xuất, số lao động ở các DN này tăng bình quân 12%. Thu
nhập của người lao động làm việc tai các cơng ty cổ phần tăng bình qn hằng năm gần 20% (chưa kể thu nhập
từ cổ tức). Điển hình trong năm 1999, người lao động tại cơng ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển có thu
nhập 4 triệu đồng/người/tháng bằng gần 3 lần so với trước khi CPH; công ty cổ phần Ong mật TP.HCM đạt 1,3
triệu đồng/người/tháng bằng 2,6 lần so với trước khi CPH…
Việc đầu tư vào các cơng ty cổ phần, nói chung người lao động đã thu được lợi tức cao hơn gửi tiết kiệm và
vốn của họ trong công ty tăng gấp 1,5-2 lần so với lúc mới mua cổ phiếu. Do lãi cao đã bổ sung thêm vào vốn,
đến nay giá trị cổ phần người lao động sở hữu bình qn tăng gấp 2-3 lần, đặc biệt có những công ty tăng tới 45 lần như CTCP Cơ điện lạnh và CTCP Đại lý liên hiệp vận chuyển.

Là chủ nhân thực sự trong CTCP, ngưòi lao động đã nâng cao tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự
giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm hiệu quả hoạt động của DN ngày một nâng cao, mang lại
lợi ích thiết thực cho bản thân mình, cơng ty, Nhà nước và xã hội.
III. Những khó khăn của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Theo số liệu tổng hợp từ các Bộ, địa phương, tổng công ty 91, đến nay, cả nước còn 2.176 doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước với tổng số vốn nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Trong đó, 1.546 doanh nghiệp
hoạt động sản xuất, kinh doanh, 335 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm,
dịch vụ cơng ích và 295 nông, lâm trường quốc doanh. Phân theo cơ quan chủ sở hữu, có 301 doanh nghiệp
thuộc tổng cơng ty 91; 408 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90; 307 doanh nghiệp thuộc các Bộ, ngành;
1.160 doanh nghiệp thuộc địa phương.
1. Những vướng mắc về pháp luật và cơ chế chính sách
- Hệ thống văn bản hành chính, thủ tục rườm rà, chồng chéo.
- Về chính sách đối với người lao động tại các doanh nghiệp CPH.
- Một số khó khăn, vướng mắc trong chính sách cổ phần hố chưa được xử lý kịp thời như: đối tượng
cổ phần hố, việc bán cổ phần ra bên ngồi, chính sách bán cổ phần ưu đãi, phương thức bán cổ phần, quy định
về xác định giá trị doanh nghiệp; chưa có giải pháp xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, quy trình cổ phần
hố tồn bộ tổng cơng ty nhà nước.
- Chính sách và quy trình cổ phần hóa ở nước ta, trên thực tế, vẫn dựa trên tư duy cũ. Vì vậy, từ khâu
định giá tài sản doanh nghiệp, cho đến tổ chức quản lý sau khi doanh nghiệp đã cổ phần hóa đều tồn tại nhiều
vấn đề. Việc giải quyết vấn đề tài chính trước, trong và sau khi cổ phần hóa cịn nhiều bất cập như:


+ Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa đúng, gây nên thất thốt và lãng phí tài sản nhà
nước trong và sau quá trình cổ phần hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp trải qua hai giai đoạn khác nhau.
Trong giai đoạn chưa có Nghị định 187: việc xác định giá trị doanh nghiệp do một Hội đồng hoặc doanh nghiệp
tự đảm nhận. Điều đó dẫn đến việc xác định thấp hoặc quá thấp giá trị doanh nghiệp, do đó, phần lớn cổ phần
rơi vào tay một nhóm người. Trong giai đoạn sau khi có Nghị định 187: sự thất thoát tài sản nhà nước đã được
hạn chế, nhưng lại nảy sinh tình trạng liên kết, gian lận trong đấu thầu.
+ Việc xử lý các khoản nợ tồn đọng gây nhiều khó khăn. Đặc biệt, việc xử lý nợ xấu đã mất rất nhiều
thời gian do thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành ngân hàng, thuế, tài chính.

+ Chất lượng định giá doanh nghiệp của nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ thẩm định giá trị có độ tin
cậy thấp. Mặt khác, quy chế lựa chọn, giám sát hoạt động tư vấn và xác định giá trị doanh nghiệp chưa được
quy định rõ, chưa gắn trách nhiệm của tổ chức tư vấn, định giá với việc bán cổ phần.
- Quy trình cổ phần hóa (từ xây dựng đề án đến thực hiện đề án) chưa sát thực tế, còn rườm rà, phức
tạp nên đã kéo dài thời gian cổ phần hóa. Bình qn thời gian để thực hiện cổ phần hóa một doanh nghiệp mất
437 ngày, tổng công ty mất 554 ngày. Sau khi cổ phần hóa, rất nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động như cũ; quản
lý nhà nước vẫn chi phối mọi hoạt động, kể cả trong các doanh nghiệp mà vốn nhà nước chưa tới 30% vốn điều
lệ doanh nghiệp; bộ máy quản lý cũ trong nhiều doanh nghiệp vẫn chiếm giữ đến 80%.
2. Những khó khăn xuất phát tử phía TW và chính quyền các cấp
- Cơng tác chỉ đạo của các cơ quan quản lí nhà nước cịn hạn chế, nhiều khi là thiếu thống nhất.
- Tình trạng can thiệp của các cơ quan công quyền, cụ thể là việc hành chính hóa quan hệ kinh tế
vào tiến trình CPH DNNN 3. Những nguyên nhân về tốc độ Cổ phần hoá.
- Một số Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước chưa quán triệt sâu sắc và nghiêm chỉnh chấp
hành Nghị quyết của Đảng, quy định của Nhà nước, thiếu chương trình, kế hoạch cụ thể, chưa tích cực, sâu sát
trong chỉ đạo thực hiện đã làm ảnh hưởng tới tiến độ cổ phần hoá DNNN.
34. Những khó khăn xuất phát từ phía doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành trong q trình thực hiện
cơng hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở
các nước phát triển: là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của sở hữu tư nhân,
đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu.
- Các doanh nghiệp mà nước ta thực hiện cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ chế bao cấp và kế
hoạch của Nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở
các nước là đã tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh.


- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và hoạt động theo yêu cầu
và kế hoạch của Nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ chức và hoạt
động vì lợi nhuận tối đa của bản thân và tuân theo quy luật thị trường.
- Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu
quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác với lý do thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp ở các

nước phát triển là chuyển từ giai đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội (trong và ngoài
doanh nghiệp) để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh.
- Công tác đối chiếu, đôn đốc thu hồi nợ gặp nhiều khó khăn do nhiều doanh nghiệp (267/784
cơng ty cổ phần) chưa được các bộ, địa phương phê duyệt quyết tốn phần vốn nhà nước tại thời điểm
cơng ty chính thức chuyển sang cơng ty cổ phần (quyết tốn vốn nhà nước lần 2) nên khó đối chiếu nợ.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đã chiếm dụng vốn vào sản xuất kinh doanh, hiện nay gặp khó khăn và
khơng trả được nợ.
- Vấn đề kỹ thuật trong việc xác định giá trị doanh nghiệp:.
- Soạn thảo phương án kinh doanh và điều lệ cơng ty Cổ phần
- Những khó khăn, vướng mắc của DNNN sau cổ phần hoá chưa được xử lý kịp thời, vẫn cịn tình
trạng phân biệt đối xử trong việc cho thuê đất, chuyển quyền sử dụng đất, di chuyển địa điểm sản xuất, vay vốn
kinh doanh…
- Khó khăn nhất của doanh nghiệp trong q trình CPH là việc định giá trị sở hữu đất đai, giá trị
thương hiệu, mua bán cổ phần cho cổ đông chiến lược, giải quyết thế nào với người lao động…
Cụ thể là chuyện của 3 công ty bị hồi tố tính giá đất tại TPHCM. Theo quy định mới, giá trị DN
đã đội lên đến hàng chục lần (trong đó chủ yếu là giá đất) so với quy định trước đó.
Nếu áp theo NĐ 187/NĐ- CP trước đây, giá trị DN của Công ty TNHH một thành viên Bến Xe
miền Đơng (thuộc Tổng Cơng ty Cơ khí Giao thơng Vận tải Sài Gịn) chỉ 110 tỷ đồng.
Thế nhưng khi tính lại theo quy định mới (vì đã có quyết định chuyển đổi của TP nhưng chưa
hoàn thành việc chuyển đổi), số tiền tăng thêm đến gần 1.000 tỷ đồng.
Trường hợp Cơng ty Đầu tư hạ tầng Sài Gịn (thuộc Tổng Cơng ty Nơng nghiệp Sài Gịn) cũng
tương tự, từ 6 tỷ đồng đã tăng thêm 26 tỷ đồng.
Rồi Công ty TNHH một thành viên Dịch vụ Du lịch Bến Thành, ước tính sơ bộ giá chênh nhau
khoảng… 800 tỷ đồng.


Do rơi vào điểm giao thời nên 3 công ty này là một minh chứng để so sánh sự khác biệt giữa
những DN bị áp giá đất theo quy định mới với những DN đi trước, liền kề (áp giá theo quy định cũ) khi
CPH.
Theo quy định, DN CPH có quyền lựa chọn 1 trong 2 hình thức: mua hoặc thuê đất. Nhưng NĐ

187/NĐ-CP trước đây không đề cập đến việc thuê đất theo giá thị trường, còn nay, NĐ 109 buộc phải tính
giá thuê theo giá thị trường- tức đưa cả phần giá trị vị trí địa lý vào tài sản DN.
Do khung giá đất mà nhà nước quy định trung bình chỉ bằng 40% giá thị trường, chưa tính ở một
số vị trí đắc địa thì giá đất thị trường còn cao hơn gấp nhiều lần, nên dẫn đến giá trị DN giữa quy định cũ
và mới chênh nhau nhiều đến vậy.
Thế nhưng, theo báo cáo của Ban Đổi mới Quản lý Doanh nghiệp, kết quả xác định giá trị DN
cho thấy tỷ suất lợi nhuận của DN chỉ đạt khoảng 1,9% (không cao hơn lãi suất ngân hàng), do tăng chi
phí tính khấu hao và trả tiền thuê đất hàng năm nên việc đưa ra bán đấu giá cổ phần sẽ khó thu hút được
các nhà đầu tư, nhất là vào thời điểm giá chứng khoán sụt giảm như hiện nay.
Một lý do tế nhị nữa khiến việc đấu giá chậm là do địa phương không dám quyết “giá đất thị
trường”, vì nếu phê duyệt giá cao thì ngân sách khó mà kham nổi khi địa phương có dự án đền bù thu hồi
đất.5. Những nguyên nhân về mặt tài chính và tư tưởng
- Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên ở các cấp, người lao động trong doanh nghiệp chưa
nhận thức đúng đắn về cơng cuộc đổi mới, sắp xếp và cổ phần hố DNNN. Một số khác còn mang nặng
tư tưởng bao cấp, lo ngại sau cổ phần sẽ mất đặc quyền, đặc lợi. Tư tưởng của một số giám đốc doanh
nghiệp còn chần chừ chưa quyết tâm
46. Một số khó khăn khác:
- Q trình cổ phần hóa diễn ra chậm một phần là do kinh tế thế giới và trong nước suy giảm. Bản thân
thị trường chứng khoán từ năm 2008 đến nay gặp rất nhiều khó khăn, giá cổ phiếu sụt giảm, vì vậy, chính các
cơng ty khơng dễ dàng để tìm được nhà đầu tư mua cổ phần, trong đó có cả cổ đơng chiến lược và nếu có thì lại
địi mua với giá thấp. Mặc dù Chính phủ vẫn chỉ đạo các doanh nghiệp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa nhưng
khơng phải bằng mọi giá, vì như thế vơ hình chung là có hại chứ khơng phải có lợi cho doanh nghiệp.
- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc CPH các doanh nghiệp Việt Nam chậm. Trong đó, việc thị
trường Việt Nam đang trong giai đoạn nền kinh tế suy giảm nên không nhiều hấp dẫn dẫn tới khi cổ phần
hóa khơng hấp dẫn được các nhà đầu tư, nhất là đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng tác động nhiều
đến CPH.


IV. Hạn chế và những nguyên nhân:
1. Hạn chế:

Nếu đánh giá một cách khách quan thì rõ ràng quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta
trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế nhất định, đó là:
- Q trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước vẫn mang tính khép kín. Phần lớn các doanh nghiệp
được cổ phần hóa là những doanh nghiệp vừa và nhỏ (1.372 doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỉ đồng, chiếm
59,2% số doanh nghiệp cổ phần hóa). Về cơ cấu cổ đơng, bình qn Nhà nước giữ 45,6% vốn điều lệ, cán bộ,
công nhân viên giữ 39,3%, cổ đơng bên ngồi giữ 15,1% và số doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước nắm cổ
phần chi phối (trên 50%) là 27,4%. Riêng năm 2004, có 42% doanh nghiệp cổ phần mà Nhà nước nắm cổ phần
chi phối. Những con số đó đã cho thấy sự tham gia của các cổ đơng bên ngồi cịn rất hạn chế, chưa thu hút
được nhiều cổ đơng lớn, có tiềm lực về cơng nghệ và tài chính.
- Tiến độ cổ phần hóa còn chậm thể hiện qua những số liệu về số lượng các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ
phần hóa đều thấp hơn chỉ tiêu đề ra. Chẳng hạn, dự kiến trong 3 năm từ 2000-2002 sẽ tiến hành cổ phần hóa
1.056 doanh nghiệp nhà nước, nhưng đến tháng 12 năm 2002 mới chỉ cổ phần hóa được 523 doanh nghiệp,
bằng 50% số doanh nghiệp dự kiến; trong 6 tháng đầu năm 2004 cũng mới đạt được 20% kế hoạch.Trên thực tế,
đến tháng 8/2000 ta mới CPH được 460 doanh nghiệp. Và cho đến nay (năm 2008), theo số liệu của Bộ Tài
chính, cả nước chỉ cổ phần hố (CPH) được 74 doanh nghiệp nhà nước (DNNN), bằng 25% kế hoạch và chưa
bằng 50% so với số thực hiện năm 2007. Một trong những nguyên nhân khiến tốc độ CPH năm 2008 chỉ đạt
25% kế hoạch là do thị trường chứng khốn giảm mạnh, trong khi đó, theo Nghị định 109/2007/NĐ-CP, mức
giá bán ưu đãi cho người lao động trong DN được xác định bằng 60% mức đấu giá bình quân trên sàn giao dịch.
Việc thị trường chứng khoán sụt giảm đến 70% đã tác động nghiêm trọng đến thu nhập của người lao động,
nhất là với người lao động phải vay vốn ngân hàng để mua cổ phiếu. Tốc độ CPH như vậy đã không đáp ứng
được yêu cầu sắp sếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
- Việc cổ phần hóa chưa được thực hiện đều khắp trong các lĩnh vực. Cơng tác cổ phần hóa mới chỉ tập trung
ở các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp, thương mại và xây dựng, cịn số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa
trong các lĩnh vực khác vẫn ít. Trên thực tế, cũng chưa đặt ra vấn đề cần cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước có quy mơ lớn hay một số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nhưng lại đang hoạt động trên những địa bàn
không thật sự cần thiết. Các doanh nghiệp được cổ phần hóa chủ yếu là những doanh nghiệp vừa và nhỏ (có
1.372 doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỉ đồng, chiếm 59,2% số doanh nghiệp cổ phần hóa). Vì thế, chưa đem lại
những tác động tích cực và toàn diện cho nền kinh tế quốc dân.



- Hiệu quả của q trình cổ phần hóa chưa cao như mong muốn. Cổ phần hóa là nhằm đưa các doanh nghiệp
nhà nước đạt được hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao, tăng khả năng cạnh tranh trên thương trường. Tuy vậy, vì
một số khó khăn mà các doanh nghiệp cổ phần hóa vấp phải như đã trình bày ở trên, nên nếu đánh giá thật
khách quan thì hiệu quả hoạt động của những doanh nghiệp đã cổ phần hóa chưa cao, chưa tạo ra được những
bước ngoặt như mong muốn. Chủ yếu các doanh nghiệp đã cổ phần hóa mới chỉ tập trung vào việc tiết kiệm chi
phí, giảm giá thành để tăng lợi nhuận chưa kể được ưu tiên giảm và miễn thuế 2 năm đầu. Thực tế hoạt động
của nhiều doanh nghiệp cổ phần hóa vẫn cầm chừng, phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn của Nhà nước hiện có tại
các doanh nghiệp và vay vốn ngân hàng vì phần vốn huy động qua phát hành cổ phiếu nhỏ bé (chiếm 15,1%),
không thực sự thu hút được những nhà đầu tư chiến lược. Cũng chính vì vậy, đầu tư cho đổi mới công nghệ ở
các công ty cổ phần hóa diễn ra chậm chạp và các cơng ty này ít có khả năng mở rộng sản xuất, kinh doanh trên
quy mơ lớn một cách có hiệu quả. Ngồi ra, cách thức quản lý trong những cơng ty cổ phần hóa hiện cũng cịn
nhiều bất cập giữa mối quan hệ của cơ quan chủ quản, hội đồng quản trị, giám đốc… làm hạn chế tính năng
động, sáng tạo để nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
- Việc giải quyết vấn đề tài chính trước, trong và sau khi cổ phần hóa cịn nhiều bất cập như:
Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa đúng, gây nên thất thốt và lãng phí tài sản nhà nước trong
và sau q trình cổ phần hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp trải qua hai giai đoạn khác nhau. Trong giai
đoạn chưa có Nghị định 187: việc xác định giá trị doanh nghiệp do một Hội đồng hoặc doanh nghiệp tự đảm
nhận. Điều đó dẫn đến việc xác định thấp hoặc quá thấp giá trị doanh nghiệp, do đó, phần lớn cổ phần rơi vào
tay một nhóm người. Trong giai đoạn sau khi có Nghị định 187: sự thất thốt tài sản nhà nước đã được hạn chế,
nhưng lại nảy sinh tình trạng liên kết, gian lận trong đấu thầu.
Việc xử lý các khoản nợ tồn đọng gây nhiều khó khăn. Tính đến ngày 31-12-2005, dư nợ cho vay đối với các
công ty cổ phần vào khoảng 51.603 tỉ đồng. Đặc biệt, việc xử lý nợ xấu đã mất rất nhiều thời gian do thiếu sự
phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành ngân hàng, thuế, tài chính.
Chất lượng định giá doanh nghiệp của nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ thẩm định giá trị có độ tin cậy thấp. Mặt
khác, quy chế lựa chọn, giám sát hoạt động tư vấn và xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quy định rõ, chưa
gắn trách nhiệm của tổ chức tư vấn, định giá với việc bán cổ phần.
2. - Nguyên nhân: có nhiều ngun nhân làm tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm
và hiệu quả hạn chế, trong đó đáng lưu ý là do những nguyên nhân chủ quan như sau:
Thứ nhất, còn nhiều vướng mắc về tư tưởng, nhận thức của lãnh đạo, đảng viên và người lao động trong các
doanh nghiệp. Những vướng mắc này xuất phát từ nhận thức về việc cổ phần hóa còn hạn chế và trên hết là tâm

lý lo ngại lợi ích của mình sẽ khơng được bảo đảm. Nhiều lãnh đạo các doanh nghiệp không muốn doanh


nghiệp chuyển sang hình thức cổ phần bởi vị trí quản lý của họ có thể sẽ bị thay đổi, và ngay cả khi cịn nắm
giữ vị trí quản lý, cũng khó có thể điều hành cơng ty theo lối cũ mà phải chịu sự giám sát mới chặt chẽ hơn của
hội đồng quản trị và các cổ đông. So với khi chưa cổ phần hóa, người lãnh đạo ở các doanh nghiệp cổ phần hóa
cịn phải đương đầu và chịu trách nhiệm nhiều hơn, trong khi sự hiểu biết về cách thức điều hành một cơng ty
cổ phần cịn hạn chế. Điều đó sẽ làm cho họ lúng túng ngay cả đối với những vấn đề tưởng đơn giản. Người lao
động trong các doanh nghiệp cũng có nhiều điều phải lo lắng như sau cổ phần hóa họ sẽ làm gì nếu như trở
thành lao động dơi dư. Bản thân doanh nghiệp khó có đủ kinh phí để giải quyết chính sách hay tìm việc làm mới
cho người lao động….
Thứ hai, các doanh nghiệp cịn gặp nhiều khó khăn trong q trình tiến hành cổ phần hóa. Đó là: quy trình cổ
phần hóa rườm rà, phức tạp, có phần cịn cứng nhắc; khó xác định đúng được giá trị của doanh nghiệp khi
chuyển sang công ty cổ phần bởi chưa có chế tài cụ thể tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp,
ngay cả các cơ quan chức năng nhiều khi cũng không thống nhất được các mức giá khác nhau về tài sản của
doanh nghiệp. Thêm nữa, nếu như trường hợp giá trị quyền sử dụng đất được tính vào giá trị của doanh nghiệp
thì lại kéo theo những tranh chấp mà các doanh nghiệp phải đương đầu trong quá trình sử dụng. Các doanh
nghiệp cịn khó định được giá trị của các lợi thế kinh doanh (như thương hiệu) như là một phần giá trị tài sản vơ
hình của doanh nghiệp…
Thứ ba, nhiều doanh nghiệp khơng muốn chuyển sang cổ phần hóa bởi chưa có được mơi trường thật sự bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế. Trong thực tế, khi các doanh nghiệp đã được cổ phần hóa thì thường được coi
là doanh nghiệp ngồi quốc doanh, khơng được đối xử ngang hàng như những những doanh nghiệp nhà nước
khác. Điều này thể hiện rất rõ qua khả năng tiếp cận các nguồn vốn của những tổ chức tín dụng nhà nước. Nếu
như khi còn là doanh nghiệp nhà nước, những doanh nghiệp này không chỉ nhận được nguồn vốn từ nhiều kênh
khác nhau như đầu tư cơ bản, bổ sung vốn lưu động, được xóa nợ, hay bảo lãnh nợ, thì nay khơng những khơng
cịn các nguồn vốn trên, mà lại cịn bị rơi vào tình trạng khó được vay vốn bởi tâm lý lo ngại họ là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, khơng có người bảo đảm (Chính phủ, các Bộ hay Uỷ ban nhân dân các cấp) khi
khơng có khả năng trả được nợ. Trong lĩnh vực thuế, cách tính thuế đối với một số tài sản của doanh nghiệp nhà
nước được cổ phần hóa cũng chứa đựng những bất hợp lý. Chẳng hạn, nếu tài sản được chuyển giao khi cịn là
doanh nghiệp nhà nước thì khơng bị tính thuế trước bạ, nhưng sau khi doanh nghiệp đã cổ phần hóa thì phải

chịu thuế này… Sự phân biệt đối xử như kiểu “con cùng cha khác mẹ” đã tạo lên tâm lý lo ngại trong lãnh đạo
doanh nghiệp khi phải đương đầu với nhiều khó khăn phía trước, nên rất lưỡng lự trước việc lựa chọn phương
án cổ phần hóa doanh nghiệp.
Thứ tư, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những đặc điểm khác với tính quy luật chung ở các
nước, bởi:


-

Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành trong q trình thực hiện cơng hữu
hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các
nước phát triển: là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của sở hữu tư nhân,
đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu.

-

Các doanh nghiệp mà nước ta thực hiện cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ chế bao cấp và kế hoạch
của Nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở
các nước là đã tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh.

-

Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và hoạt động theo yêu cầu và kế
hoạch của Nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ chức và hoạt động
vì lợi nhuận tối đa của bản thân và tuân theo quy luật thị trường.

Thứ năm, hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước cịn thấp; cơng tác kế tốn, kiểm tốn cịn nhiều yếu kém chưa
bảo đảm phục vụ một cách hữu hiệu cho công tác thanh tra, kiểm tra, dẫn đến tình trạng đánh giá chưa đúng đắn
và khơng giám sát được tình hình tài chính doanh nghiệp.Tình trạng chia chác, tham nhũng trong khu vực
doanh nghiệp nhà nước đang diễn ra khá trầm trọng, biểu hiện rõ nét nhất là trong lĩnh vực đầu tư, mua sắm (lại

quả, gửi giá). Hiện tượng này xảy ra bên cạnh lý do về cơ chế, chính sách, hiệu lực quản lý của các cơ quan
quản lý nhà nước cịn có lý do từ chính quy mơ q lớn, vượt q giới hạn tối ưu của khu vực doanh nghiệp nhà
nước. Các phương tiện giúp cho công tác thanh tra, kiểm tra còn đơn sơ, trong khi do năng lực của cán bộ thanh
tra có hạn và thường chỉ giỏi một lĩnh vực chuyên môn nhất định nên không thể đáp ứng được yêu cầu kiểm tra
hết các bước của quy trình cổ phần hóa. Cán bộ có chun mơn về lĩnh vực đất đai chỉ tiến hành kiểm tra việc
xác định vị trí đất, chủng loại đất, hạng đất để làm cơ sở xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh
nghiệp nhưng khi mà doanh nghiệp được quyền chuyển đổi hình thức sử dụng đất từ giao đất sang thuê đất, khi
mà quy định về nội dung này giữa Nghị định hướng dẫn về cổ phần hóa và Luật Đất đai còn chưa thống nhất sẽ
dễ dẫn đến những cách hiểu không đồng nhất giữa người đi thanh tra và đối tượng thanh tra. . .

CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HỐ DNNN
1. Tun truyền, phổ biến để tồn dân nhận thức được một cách đúng đắn về mục tiêu cổ phần hố
doanh nghiệp nhà nước
Các cấp uỷ Đảng chính quyền phải quán triệt, tuyên truyền, giải thích trong nhân dân chủ trương chính sách
của Đảng về cổ phần hố doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá phải xuất phát từ yêu cầu của doanh nghiệp nhà
nước nhằm huy động thêm vốn từ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để đầu tư mở rộng ngành nghề, hiện đại


hố cơng nghiệp tạo thêm cơng ăn việc làm, phân cơng lại lao động, phát triển sản xuất tăng tích luỹ cho doanh
nghiệp, đóng góp cho ngân sách và thu nhập của người lao động
Tổ chức Đảng, chính quyền tại doanh nghiệp được cổ phần hóa phải nắm vững về chủ trương cổ phần hóa
của Đảng và Nhà nước tránh tình trạng khơng hiểu sâu dẫn đến những lo ngại cổ phần hóa sẽ làm mất chủ
quyền của Nhà nước, làm mất vai trò kinh tế quốc doanh, ảnh hưởng tiờu cực đến nền kinh tế vĩ mô đặc biệt là
trong giai đoạn nền kinh tế đang điều chỉnh để kiềm chế lạm phát như hiện nay.
Việc thực hiện cổ phần hóa là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm sắp xếp lại khu vực kinh tế
Nhà nước – nó khơng phải là một giải pháp tình thế mà là một phương thức đổi mới cơ chế quản lý cho thích
nghi với sự vận động của cơ chế thị trường. Do đó chủ trương cổ phần hóa phải được chủ động giải quyết từ
phía Nhà nước, khơng chỉ dựa vào sự tự nguyện của các doanh nghiệp
Phải tuyên truyền chủ trương cổ phần hóa sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng, giải đáp các
thắc mắc dù nhỏ của người lao động tại doanh nghiệp, không phải chỉ tuyên truyền chung chung mà phải xuống

tận cơ sở, tiếp xúc với người lao động và cả giám đốc của họ. Khi quần chúng lao động nhận thức được và lãnh
đạo doanh nghiệp có quyết tâm, tiến độ cổ phần hóa sẽ rất nhanh.
Những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng là một trong những trở lực lớn, đầu tiên trong việc tiến hành cổ
phần hóa ở bất cứ một doanh nghiệp nào.
- Quán triệt tư tưởng xem cổ phần hóa là phương thức huy động vốn tối ưu và hiệu quả nhất:
+ Xét ở góc độ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ, thiếu vốn khiến các hoạt động trở lên cầm
chừng rất kém hiệu quả, khơng có khả năng mở rộng và phát triển sản xuất. Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt
động kém hiệu quả nên các nhà đầu tư còn e dè sợ đồng tiền mình đầu tư sẽ khơng có hiệu quả, không sinh lời.
Để vay được vốn ngân hàng doanh nghiệp phải gặp rất nhiều khó khăn như: phải thế chấp các khoản cho vay
thường ngắn hạn, lãi suất cao nên sau khi kinh doanh và trả lãi ngân hàng thì lãi thực khơng cịn bao nhiêu.
Trong khi đó, việc mở rộng liên doanh với nước ngồi cũng cịn nhiều bất cập do những bất đồng về ngôn ngữ,
quyền lợi và các thủ tục giấy gờ. Vì vậy phải quán triệt tư tưởng. Xem cổ phần hóa là phương thức huy động
vốn tối ưu và hiệu quả nhất. Cổ phần hóa mở ra một cánh cửa đầu tư thuận lợi và dễ dàng huy động được một
lượng vốn không lãi suất, không kỳ hạn. Các doanh nghiệp nên chủ động đăng ký cổ phần hóa để nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn nâng cao trách nhiệm của người lao động tạo cơ sở cho sự phát triển ổn định và bền vững.
- Giải pháp những thắc mắc cho cán bộ cơng nhân viên trong doanh nghiệp và những người có liên quan
trước khi cổ phần hóa:
+ Cán bộ cơng nhân viên trong doanh nghiệp phải có ý thức một cách rõ ràng cổ phần hóa là một tất yếu
khách quan. Họ cần phải hiểu, cổ phần hóa là vì lợi ích của các doanh nghiệp của chính họ. Sau khi tiến hành cổ
phần hóa họ sẽ hồn tồn độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Đây là cơ hội cho những người có thực lực,
những doanh nghiệp vươn lên khẳng định mình. Cịn đối với những người kém năng lực, những doanh nghiệp
yếu thì phải nhận ra là đã đến lúc phải tự vươn lên hồn thiện mình nên không muốn bị đào thải theo quy luật


cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Các cơ quan chức năng có trách nhiệm làm rõ cho người lao động hiểu
rõ những lợi ích mà họ được hưởng khi tiến hành cổ phần hóa. Đồng thời phải làm rõ cho họ thấy được những
trách nhiệm mà họ sẽ phải gánh vào, những rủi ro có thể xảy ra để họ có nỗ lực, quyết tâm hơn.
+ Các phương tiện thơng tin đại chúng góp phần rất đắc lực để hỗ trợ việc tuyên truyền các mục tiêu
trên. Tuyên truyền qua đài, báo, ti vi đặc biệt ở những tờ báo uy tín, truyền hình trung ương. Tun truyền qua
các chương trình thời sự, những bộ phim, những câu chuyện… là những chương trình thu hút được nhiều khán

giả. Việc đưa tin về các công ty cổ phần làm ăn có hiệu quả, những buổi phỏng vấn trực tiếp trên đài truyền
thanh, truyền hình về chủ trương cổ phần hóa chắc chắn sẽ đóng góp vào việc tuyên truyền cho đông đảo quần
chúng về quan điểm của Đảng và Nhà nước. Qua đây, doanh nghiệp cũng tác động đến các cổ đơng tiềm năng
ngồi doanh nghiệp.
+ Ngồi ra, các cơ quan chức năng phải nhận thức rõ và hiểu những chủ trương chính sách mới của
Chính phủ về cổ phần hóa "truyền bá cho đơng đảo quần chúng những chủ trương mới của Chính phủ về cổ
phần hóa.
- Đối với những hành động chân lý có ý cản trở việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa cần có những chế
tài xử lý nghiêm minh. Những thành phần này chủ yếu là những cán bộ lãnh đạo sợ mất chức hoặc những người
có năng lực kém sợ mất chỗ làm. Cần xử lý nghiêm minh những trường hợp này, có như vậy vai trị chỉ đạo của
các cơ quan, tổ chức mới được đảm bảo, trên cơ sở đó tiến hành đẩy nhanh các cơng đoạn của quy trình cổ phần
hóa.
- Phê phán và khắc phục triệt để tư tưởng ỷ lại vào bao cấp của Nhà nước:
+ Trước kia, các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành một cách ồ ạt khơng quan tâm đến việc có
hoạt động hiệu quả hay khơng. Chính cơng tác quản lý lỏng lẻo, thiếu đồng bộ, khơng đi sâu đi sát tình hình tạo
ra một bộ máy cồng kềnh ỳ ạch chuyên dựa vào bao cấp của ngân sách. Tư tưởng ngày đã ăn sâu vào một bộ
phận lớn doanh nghiệp. Vì vậy cần có những cải cách kịp thời và đúng đắn để xóa dần tư tưởng trên. Chính vì
vậy cần phải nhanh chóng làm cho họ hiểu được cổ phần hóa là một biện pháp giúp họ vươn lên, tự đứng ra
chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
2. Về quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hoá
Nhằm đảm bảo sau cổ phần hóa các doanh nghiệp thực thi “cơ chế quản lý Nhà nước” theo đúng Luật
Công ty, ngoại trừ các doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước nắm cổ phiếu chi phối hoặc cổ phần đặc biệt, Nhà
nước chỉ giữ 2 cổ đông làm đại diện. Một là, đại diện của Cục quản lý vốn (Cơng ty tài chính); hai là, đại diện
cơ quan chủ quản. Khi tiến hành đại hội cổ đông để bầu Hội đồng quản trị, hoặc Tổng giám đốc (Giám đốc)
doanh nghiệp đại diện Nhà nước chỉ bỏ phiếu không tuỳ thuộc vào số vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp nhiều
hay ít. Như vậy, loại trừ khả năng Nhà nước dùng quyền khống chế để cử người vào Hội đồng quản trị hay
Giám đốc theo ý đồ riêng, bảo đảm quyền dân chủ rộng rãi trong bầu cử.


Nhà nước nên nhanh chóng chấm dứt cơ quan chủ quản, để doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh

nghiệp số 13/1999/ QH10. Khi đó đại diện vốn Nhà nước chỉ cịn là một của Bộ Tài chính. 3.Về chính sách hỗ
trợ tài chính đối với doanh nghiệp cổ phần hóa.
Căn cứ NĐ 44/1998/ NĐ-CP thì doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa được hưởng hai nội dung ưu đãi:
một là, miễn lệ phí trước bạ khi chuyển sở hữu từ doanh nghiệp nhà nước sang Công ty Cổ phần; hai là, giảm
50% thuế lợi tức hai năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển sang hoạt động theo Luật Công ty.
Những nội dung cịn lại về thực chất khơng có gì đáng gọi là ưu đãi. Nhà nước nên có những chính sách
thật sự ưu đãi hơn nữa cho các doanh nghiệp cổ phần như:
-

Giảm mức thuế suất thu nhập Cơng ty cổ phần thấp hơn các loại hình doanh nghiệp khác (như nhiều nước
đã làm)

-

Miễn thuế thu nhập cho phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư.

-

Khi xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa nên theo giá “thuận mua vừa bán”, không nên quá nặng
về bên nào.

-

Không nên hạn chế số lượng cổ phần bán ra cho công nhân viên (trừ giới lãnh đạo doanh nghiệp)và cho các
nhà đầu tư nước ngoài.

-

Số tiền thu được do bán cổ phần nên ưu tiên đầu tư lại cho doanh nghiệp cổ phần hóa (để đào tạo lại cơng
nhân viên, đầu tư đổi mới công nghệ ).


-

Nhà nước cần có sự giúp đỡ đối với các cán bộ cơng nhân viên có đủ khả năng mua cổ phần ở các doanh
nghiệp tiến hành cổ phần hoá, như cho vay tín dụng với lãi suất thấp, thời hạn dài. Tương tự như Nhà nước
cho nông dân vay vốn để sản xuất. Đây là một kinh nghiệm tốt mà nhiều nước trên thế giới đã thực hiện
trong quá trình cổ phần hố các doanh nghiệp.

4. Tạo mơi trường pháp lý đầy đủ đồng bộ về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cũng có nghĩa là bán đi một phần tài sản Nhà nước có giá trị lớn hàng
chục ngàn tỉ đồng. Vậy liệu Nghị định 44/1998/NĐ và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính của Ban đổi
mới doanh nghiệp Trung Ương có đủ tầm cỡ và sức mạnh pháp lý để điều chỉnh hay phải có văn bản pháp luật
cao hơn (Luật kinh tế cổ phần chẳng hạn). Trong khi chưa có luật, Nhà nước giao nhiệm vụ cho Ban chỉ đạo cổ
phần hóa Trung Ương tập trung chỉ đạo các tỉnh , thành phố và các Bộ phải thường xuyên theo dõi, nắm chắc
tình hình, giúp các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa và hoạt động thuận lợi. Tiến hành bổ sung, sửa đổi kịp
thời các văn bản có liên quan, hồn chỉnh dần các chính sách nhằm bảo đảm cổ phần hóa – doanh nghiệp nhà
nước một cách vững chắc, đạt mục tiêu đã đề ra, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát tài sản Nhà nước.
Nhà nước nên thành lập Ủy Ban Quốc Gia (UBQG) về cổ phần hóa – doanh nghiệp nhà nước do một phó
Thủ tướng làm Chủ tịch, BộTài chính làm phó Chủ tịch thường trực, các Bộ liên ngành làm Uỷ viên. UBQG về
cổ phần hóa được quyền giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến cổ phần hóa theo Luật kinh tế cổ phần.


Giảm thiểu những thủ tục hành chính rườm rà, khơng cần thiết để tránh gây phiền hà, hay làm lỡ thời cơ
kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tạo ra sân chơi bình đẳng giữa Doanh nghiệp nhà nước và cơng ty cổ phần về những điều kiện hoạt động
kinh doanh. Do đó để thúc đẩy tiến trình cổ phần hố Doanh nghiệp nhà nước cần phải tạo ra sự bình đẳng giữa
các khu vực kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngồi. Đồng thời cần xố bỏ chế độ bao cấp cho khu
vực kinh tế quốc doanh.
5. Phát triển hệ thống Ngân hàng Thương mại, Công ty Tài chính, Cơng ty Bảo hiểm, đưa nhanh thị
trường Chứng khốn vào hoạt động.

Chủ trương hình thành và đưa vào hoạt động thị trường chứng khoán ở nước ta đã có từ năm 1996. Đến
năm 2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên đã đưa vào hoạt động từ đó tạo lịng tin vào cổ đơng của
các doanh nghiệp được cổ phần hóa . Bởi vì khi cổ phiếu của công ty được niêm yết tại trung tâm giao dịch
chứng khốn thì khi cổ đơng hoặc giảm lịng tin đối với cơng ty mà mình mua cổ phần, cổ đơng có thể bán ngay
cổ phần mình có tại thị trường chứng khốn.
Cơng ty cổ phần và thị trường chứng khốn là “hai người bạn đồng hành” vốn có quan hệ nhân quả với
nhau, cái nọ là tiền đề để cái kia tồn tại và phát triển, tạo nên thị trường vốn. Điều này giúp làm lành mạnh hoá
nền tài chính quốc gia và là một biểu hiện cụ thể tiềm lực của nền kinh tế. Khi có thị trường chứng khoán, vốn
nhàn rỗi trong xã hội sẽ được thu hút vào đầu tư.
Tuy nhiên, do thị trường Chứng khoán ở nước ta đang ở giai đoạn sơ khai, do đó việc tham gia thị
trường Chứng khốn của các Cơng ty cổ phần để huy động vốn còn phải thực hiện nhiều thủ tục phức tạp. Vì
vậy, Bộ Tài chính cần đơn giản thủ tục phê chuẩn phát hành cổ phần nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tham
gia thị trường Chứng khoán .
6. Giải pháp cho vấn đề dư thừa lao động trong doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hóa
-

Dư thừa lao động sau cổ phần hóa là một trong những mặt trái của quá trình cải cách doanh nghiệp, nó là
vấn đề cực kỳ phức tạp. Vì vậy các doanh nghiệp phải trực tiếp đưa ra hướng giải quyết, các cơ quan Nhà
nước chỉ hỗ trợ giúp đỡ và tháo gỡ những vướng mắc giữa doanh nghiệp với người lao động.

-

Đối với doanh nghiệp:
+ Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư: Đối với số lao động cịn lại có nhiều hướng giải

quyết như: sử dụng sau khi đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển sang ngành nghề mới.
+ Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dơi dư hiện có tại doanh nghiệp có thể lấy từ: quỹ hỗ trợ
mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc, quỹ đào tạo của đơn vị…
-


Đối với Nhà nước nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp tăng cường hỗ trợ gián tiếp.


+ Hỗ trợ trực tiếp: hỗ trợ một phần kinh phí cho doanh nghiệp có thể lấy quỹ cổ phần hóa doanh nghiệp
Nhà nước. Những hỗ trợ nên tập trung vào đào tạo, dạy nghề cho người lao động, hỗ trợ trong thời gian mất
việc.
+ Hỗ trợ gián tiếp: là hỗ trợ về cơ chế chính sách cho người lao động, tín dụng, thuế sản xuất kinh
doanh.
-

Việc đào tạo cho người lao động mang tính sách lược, vừa mang tính chiến lược. Khi doanh nghiệp cổ phần
hóa sau khi đi vào sản xuất ổn định thì cần mở rộng quy mô sản xuất nên tuyển thêm lao động những lao
động đó phải là lao động có tay nghề cao đã qua đào tạo.

7. Các biện pháp khác
-

Định giá cổ phiếu và mức độ bán cổ phần, cổ phiếu. Chế độ tài chính thống nhất ghi mẫu in ấn và cung cấp
tờ cổ phiếu chậm nhất trong vũng 30 ngày kể từ khi kết thúc thời hạn phát hành của doanh nghiệp cổ phần
hố. Các cơ quan tài chính phổ biến hướng dẫn các công ty cổ phần thực hiện.

-

Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ có trình độ chun mơn giỏi về cổ phần hoá. Kinh nghiệm cho thấy muốn kinh
tế phát triển năng động có hiệu quả trước hết phải có chiến lược con người, xây dựng một đội ngũ các nhà
kinh doanh nhất là đối với công ty cổ phần mới hình thành, giám đốc điều hành giỏi là hết sức cần thiết. Để
thực hiện điều này cần phải:
+ Đồng thời với việc thực hiện chủ trương cổ phần hố Doanh nghiệp nhà nước cần có chương trình bồi
dưỡng kiến thức quản lý công ty cổ phần cho tất cả các cán bộ quản lý doanh nghiệp nằm trong diện cổ
phần hoá.

+ Mở các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý các cơng ty cổ phần hố cho tất cả các cán bộ quản
lý các doanh nghiệp đã cổ phần hố. Về kinh phí cho các lớp bồi dưỡng này cần có sự hỗ trợ nhất định
của Nhà nước. đây là vấn đề đặc biệt quan trọng.

Như vậy, những giải pháp nêu trên tuy chưa phải là những giải pháp tốt nhất nhưng nên thực hiện tốt thì chúng
sẽ đẩy nhanh được q trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, thuận lợi cho tiến trình cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện tại và trong tương lai. Nhằm đáp ứng những nhu cầu tất yếu thay đổi của thị
trường cũng như hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo động lực cho nền kinh tế cạnh tranh với các nền kinh tế trên thế
giới.

1. Tuyên truyền, phổ biến để toàn dân nhận thức đợc một cách đúng
đắn về mục tiêu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nớc.
Các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải quán triệt, tuyên truyền, giải
thích trong nhân dân chủ trơng chính sách của Đảng về cổ phần hóa


doanh nghiệp nhà nớc, cổ phần hóa phải xuất phát từ yêu cầu của doanh
nghiệp nhà nớc

nhằm huy động thêm vốn từ bên trong và bên ngoài

doanh nghiệp để đầu t mở rộng ngành nghề, hiện đại hoá công nghệ
tạo thêm công ăn việc làm, phân công lại lao động, phát triển sản xuất
tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách và thu nhập
của ngời lao động.
Tổ chức Đảng, chính quyền tại doanh nghiệp đợc cổ phần hóa phải
nắm vững về chủ trơng cổ phần hóa của Đảng và Nhà nớc tránh tình
trạng không hiểu sâu dẫn đến những lo ngại cổ phần hóa sẽ làm mất
chủ quyền của Nhà nớc, làm mất vai trò kinh tế quèc doanh, ảnh hưởng
tiêu cực đến nền kinh tế vĩ mô đặc biệt là trong giai đoạn nền kinh tế đang

điều chỉnh để kiềm chế lạm phát như hiện nay.
ViÖc thực hiện cổ phần hóa là một chủ trơng lớn của Đảng và Nhà nớc
nhằm sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nớc nó không phải là một giải
pháp tình thế mà là một phơng thức đổi mới cơ chế quản lý cho thích
nghi với sự vận động của cơ chế thị trờng. Do đó chủ trơng cổ phần
hóa phải đợc chủ động giải quyết từ phía Nhà nớc, không chỉ dựa vào
sự tự nguyện của các doanh nghiệp
Phải tuyên truyền chủ trơng cổ phần hóa sâu rộng trên các phơng
tiện thông tin đại chúng, giải đáp các thắc mắc dù nhỏ của ngời lao
động tại doanh nghiệp, không phải chỉ tuyên truyền chung chung mà
phải xuống tận cơ sở, tiếp xúc với ngời lao động và cả giám đốc của họ.
Khi quần chúng lao động nhận thức đợc và lÃnh đạo doanh nghiệp có
quyết tâm, tiến độ cổ phần hóa sẽ rất nhanh.
Những tồn tại về mặt nhận thức t tởng là một trong những trở lực
lớn, đầu tiên trong việc tiến hành cổ phần hóa ở bất cứ một doanh
nghiệp nào.
- Quán triệt t tởng xem cổ phần hóa là phơng thức huy động vốn tối u
và hiệu quả nhất:
+ Xét ở góc độ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ, thiếu
vốn khiến các hoạt động trở lên cầm chừng rất kém hiệu quả, không cã


×