Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

CƠ CẤU THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA VIỆT NAM – NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN 2008-2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.04 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH
ĐỀ TÀI:
CƠ CẤU THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA VIỆT NAM
– NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN 2008-2018
Sinh viên

: Đinh Thị Thu

MSV

: 11174486

Lớp tín chỉ

: Đề án chuyên ngành – Kinh tế quốc tế(219)_2

Lớp chuyên ngành
GV hướng dẫn

: Kinh tế Quốc tế 59B
: Lê Tuấn Anh

Hà Nội
5/2020

MỞ ĐẦU………………..…………………………………….………………………………1
....23


1


MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế theo hướng đi vào chiều sâu và
tăng cường hiệu quả, một trong những vấn đề đặt ra là phải xem xét lại cơ cấu hàng
hóa xuất nhập khẩu với một số đối tác lớn của Việt Nam như Mỹ, Trung Quốc, Nhật
Bản , Hàn Quốc Asean, EU… Sự tăng trưởng và phát triển xuất nhập khẩu dài hạn của
một nền kinh tế không chỉ phụ thuộc vào xuất nhập khẩu bao nhiêu mà còn phụ thuộc
vào xuất nhập khẩu cái gì.Trong số các quốc gia mà Việt Nam thiết lập quan hệ thương
mại và đầu tư, Nhật Bản là một trong những đối tác quan trọng. Quan hệ thương mại
Việt-Nhật đã không ngừng phát triển theo hướng mang lại lợi ích cho cả hai nước, góp
phần quan trọng vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của Việt Nam.
Trong quan hệ thương mại với Nhật Bản, Việt Nam hiện đang chủ yếu xuất khẩu các
mặt hàng có giá trị gia tăng thấp, cơng nghệ trung bình thấp và thâm dụng lao động.
Trong khi đó nhập khẩu từ Nhật Bản chủ yếu các mặt hàng hóa trung gian và tư liệu
sản xuất.Vấn đề đặt ra là làm thế nào để trong tương lai, Việt Nam có thể cải thiện cơ
cấu thương mại hàng hóa với Nhật Bản, gia tăng xuất khẩu những mặt hàng có hàm
lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao, các mặt hàng chế biến sâu vào thị trường Nhật
Bản.
Sau đây bài viết sẽ nghiên cứu đề tài : “ Cơ cấu thương mại hàng hóa Việt Nam – Nhật
Bản giai đoạn 2008-2018”.

2


1

KHÁI QUÁT QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA VIỆT NAM NHẬT BẢN
GIAI ĐOẠN 2008-2018

1.1 Lịch sử quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản
Việt Nam và Nhật Bản có mối quan hệ lâu đời, tuy nhiên mối quan hệ thương mại chỉ
phát triển mạnh mẽ từ khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước chính thức được thiết lập
năm 1973. Việt Nam và Nhật Bản đã ký kết Hiệp định đối tác kinh tế Việt - Nhật năm
2008, 2 nước đã áp dụng quy chế tối huệ quốc từ năm 2009, Nhật Bản đã ký kết Hiệp
định đối tác toàn diện với ASEAN (Việt Nam là thành viên), 2 nước cùng là thành viên
của nhiều tổ chức kinh tế thế giới, điển hình như: CPTPP, WTO..., nhờ đó mối quan hệ
thương mại giữa 2 quốc gia liên tục được cải thiện . Quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Nhật Bản là cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu có tính bổ sung rõ rệt, về cơ bản
khơng cạnh tranh trực tiếp với nhau. Thương mại giữa 2 quốc gia không ngừng tăng,
Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam sau Mỹ, Trung Quốc (2018 )
và là thị trường tiêu thụ đặc biệt đối với các sản phẩm may mặc, giày dép, thuỷ sản,
các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Nhật Bản là đối tác nhập khẩu hàng đầu của Việt
Nam, đứng thứ 3 về kim ngạch sau Trung Quốc và Hàn Quốc (năm 2018), cung cấp
những mặt hàng rất cần thiết cho q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố và thực hiện
chiến lược công nghiệp hướng về xuất khẩu của Việt Nam, như máy móc thiết bị,
phương tiện vận chuyển, các nguồn nguyên liệu quan trọng phục vụ đối với hoạt động
sản xuất trong nước.
1.2 Thực trạng quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn
2008-2018
Bảng 1: Kim ngạch thương mại Việt Nam-Nhật Bản giai đoạn 2008-2018
Đơn vị: Tỷ USD
Năm
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014

2015
2016
2017
2018

Việt Nam xuất Việt Nam nhập Tổng kim ngạch
khẩu sang Nhật khẩu từ Nhật Bản
xuất nhập khẩu
Bản
8,47
8,24
16.71
6,34
7,47
13.81
7,73
9,02
16.75
11,09
10,40
21.49
13,06
11,60
24.66
13,54
11,56
25.1
14,67
12,86
27.53

14,10
14,18
28.28
14,67
15,10
29.77
16,79
16,92
33.71
18,83
19,04
37.87
Nguồn: Tính toán của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD
3


Thương mại hàng hóa song phương Việt Nam – Nhật Bản liên tục trong gần một thập
niên qua. Cụ thể, tổng thương mại hai chiều Việt Nam – Nhật Bản tăng mạnh từ 16,71
tỷ USD năm 2008 lên tới 33,71 tỷ USD và 37,87 tỷ USD, lần lượt các năm 2017 và
2018. Đáng chú ý, thương mại hai chiều Việt Nam – Hàn Quốc tiếp tục tăng nhanh kể
từ khi VJFTA có hiệu lực từ cuối 2009, phản ánh những ảnh hưởng tích cực nhanh
chóng của các biện pháp tự do hóa thị trường song phương đối với thương mại giữa
đơi bên. Trong đó, xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản tăng 2,2 lần từ
8,47 tỷ USD năm 2008 lên tới 18,83 tỷ USD năm 2018. Cùng thời kỳ này, nhập khẩu
của Việt Nam từ Nhật Bản cũng gia tăng nhanh chóng, từ 8,24 tỷ USD năm 2008 tăng
lên đến 19,04 tỷ USD năm 2018, tăng 2,3 lần.
Biểu đồ 1: Kim ngạch thương mại Việt Nam-Nhật Bản giai đoạn 2008-2018.Đơn
vị: Tỷ USD
Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD
Nhìn chung kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam với Nhật Bản tương đối

cân bằng nhau, thâm hụt thương mại đạt mức cao nhất với khoảng 1,3 tỉ USD năm
2010 và thặng dư đạt mức cao nhất với khoảng 2 tỉ USD năm 2013, riêng năm 2015
cán cân thương mại của Việt Nam với Nhật Bản gần như đạt trạng thái cân bằng.
Trong giai đoạn 2011-2015 cán cân thương mại Việt Nam luôn ở trạng thái xuất siêu
( thặng dư) với Nhật Bản, từ năm 2016 đến nay cán cân thương mại lại rơi vào tình
trạng thâm hụt tuy nhiên mức thâm hụt không đáng kể dưới 0,5 tỷ USD.

Biểu đồ 2: Xuất nhập khẩu và Cán cân thương mại Việt Nam – Nhật Bản giai
đoạn 2008-2018
Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD
Bảng 2: Các thị trường xuất khẩu và nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam năm 2008
và 2018 (đơn vị: %)
Năm 2008
Xuất Khẩu
Nhập Khẩu

Năm 2018
Xuất Khẩu
Nhập Khẩu
4


Quốc gia

Tỷ
Quốc gia
trọng
18,99 Trung
Quốc
13,51 Singapore


Tỷ
trọng
19,79

Trung
Quốc
Australia
Singapore

7,74

Đài Loan

10,36

6,94
4,33

Nhật Bản
Hàn Quốc

10,21
8,99

Đức
Malaysia
Philippines

3,31

3,24
2,91

Hàn Quốc
Anh

2,86
2,52

Thái Lan 6,08
2,91
Thái Lan 5,08

3,29
2,82
Malaysia 3,15
Hồng
3,26
2,69
Indonesia 2,08
Kông
Malaysia 3,22
Anh
2,37
Singapore 1,91
Ấn Độ
2,59
Thái Lan
2,16
Ấn Độ

1,75
Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD.


Nhật Bản

11,62

Quốc gia


Tỷ
trọng
19,52

Quốc gia

Tỷ
trọng
27,66

Trung
Quốc
Nhật Bản

16,97

Trung
Quốc
Hàn Quốc 20,09


7,73

Nhật Bản

8,04

Hàn Quốc
Hồng
Kông
Hà Lan
Đức
Ấn Độ

7,48
3,27

Đài Loan


5,59
5,39

Về vị trí, năm 2008, Nhật Bản là đối tác xuất khẩu lớn thứ hai và đối tác nhập khẩu lớn
thứ tư của Việt Nam. Đến năm 2018, Nhật Bản là đối tác xuất khẩu lớn thứ ba của Việt
Nam, sau Hoa Kỳ, Trung Quốc; là đối tác nhập khẩu lớn thứ ba của Việt Nam, chỉ sau
Trung Quốc và Hàn Quốc.( Bảng 2)
Bảng 3 : Các thị trường xuất khẩu và nhập khẩu lớn nhất của Nhật Bản năm
2008 và 2018 (đơn vị: %)
Năm 2008

Xuất Khẩu
Nhập Khẩu
Quốc gia
Tỷ
Quốc gia
Tỷ
trọng
trọng

17,75 Trung
18,78
Quốc
Trung
15,98 Mĩ
10,35
Quốc
Hàn Quốc 7,61 Ả Rập
6,70
Xê-út
Đài Loan
5,90 Australia 6,23

Năm 2018
Xuất Khẩu
Nhập Khẩu
Quốc gia
Tỷ
Quốc gia
Tỷ
trọng

trọng
Trung
19,51 Trung
23,20
Quốc
Quốc

19,05 Mĩ
11,17

Hồng
Kông
Thái Lan
Singapore
Đức
Thụy Sĩ
Australia

5,15

UAE

6,17

3,77
3,40
3,07
2,70
2,21


Indonesia
Hàn Quốc
Quatar
Malaysia
Đài Loan

4,28
3,87
3,49
3,04
2,86

Hàn Quốc

7,11

Australia

Đài Loan

5,74

Hồng
Kông
Thái Lan
Singapore
Đức
Australia
Việt Nam


4,70

Ả Rập
4,51
Xê-út
Hàn Quốc 4,29

4,37
3,17
2,83
2,31
2,23

UAE
Đài Loan
Đức
Thái Lan
Indonesia

5

6,11

3,69
3,62
3,47
3,35
2,89



Nga

2,12

Đức
2,73
Indonesia
2,14
Việt Nam 2,82
Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD

Về phía Nhật Bản, năm 2008, Việt Nam khơng thuộc nhóm 11 đối tác xuất khẩu và
nhập khẩu lớn nhất của Hàn Quốc. Tuy nhiên, 10 năm sau, Việt Nam là đối tác xuất
khẩu lớn thứ mười của Hàn Quốc; và là đối tác nhập khẩu lớn thứ mười một của Nhật
Bản. Trên bình diện khu vực Đông Nam Á, dữ liệu thống kê từ UN Comtrade cho thấy,
năm 2018 xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đứng thứ 3 trong khu vực,chỉ sau
Thái Lan (25,06 tỷ USD) và Indonesia ( 21,58 tỷ USD. Về nhập khẩu , Việt Nam là
quốc gia ASEAN nhập khẩu hàng hóa lớn thứ 3 từ Nhật Bản, sau Thái Lan (32,27 tỷ
USD) và Singapore (23,41 tỷ USD). Kết quả trên cho thấy, Việt Nam hiện là một trong
những đối tác thương mại quan trọng của Nhật Bản tại khu vực Đông Nam Á. (Bảng
3)

2 THỰC TRẠNG CƠ CẤU THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA VIỆT NAMNHẬT BẢN GIAI ĐOẠN 2008-2018
2.1 Cơ cấu thương mại xét theo mặt hàng, nhóm hàng
2.1.1 Các mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu chính
Bảng 4 : Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu lớn nhất đến Nhật Bản ( HS cấp độ 2
chữ số)

HS


2008
Sản phẩm

85

Tỷ
trọng
(%)
Nhiên liệu khoáng, dầu 28,86
khoáng và các sản phẩm
chưng cất của chúng;
chất bitum; sáp khống
Máy móc thiết bị điện
16,54

3

Thuỷ sản

7,71

61

62

6,20

3

4,57


84

3,53

64

94

Quần áo và phụ kiện
(khơng dệt kim)
Động cơ và thiết bị cơ
khí
Xe cộ và các thiết bị phụ
tùng của chúng
Đồ nội thất

3,11

39

39

Nhựa và các sản phẩm 2,85

94

27

84

87


HS

6

2018
Sản phẩm

Tỷ
trọng
(%)
23,67

85

Máy móc thiết bị điện

62

Quần áo và phụ kiện 9,53
(không dệt kim)
Quần áo và phụ kiện 9,20
(dệt kim)
Thuỷ sản
4,92
Động cơ và thiết bị cơ 4,70
khí
Giày dép

4,62
Nhựa và các sản phẩm 4,10
bằng chất dẻo
Đồ nội thất
3,97


90

61

bằng chất dẻo
Các dụng cụ và thiết bị 2,84
44
Gỗ và sản phẩm gỗ
3,61
quang học, nhiếp ảnh,
điện ảnh, đo lường, kiểm
tra, độ chính xác, y tế
hoặc phẫu thuật; bộ phận
và phụ kiện của chúng
Quần áo và phụ kiện (dệt 2,73
87
Xe cộ và các thiết bị 2,86
kim)
phụ tùng của chúng
Tổng
78,94
Tổng
71,18

Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD

Về xuất khẩu, thị phần 10 mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang
Nhật Bản đã giảm nhẹ từ 78,94% năm 2008 xuống 71,18% năm 2018. Cụ thể, năm
2008, mặt hàng xuất khẩu chiếm tỉ trọng cao nhất của Việt Nam bao gồm các mặt hàng
nhiên liệu khoáng sản (28,86%) ; thứ hai là mặt hàng máy móc thiết bị điện (16,54%),
Trong top 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất còn bao gồm thủy sản; động cơ thiết bị cơ
khí; xe cộ phụ tùng, đồ nội thất và quần áo may mặc. Đến năm 2018, xuất khẩu mặt
hàng máy móc thiết bị điện đã vươn lên chiếm tỷ trọng cao nhất 23,67% , tiếp theo là
các mặt hàng quần áo phụ kiện và thủy sản. So sánh với năm 2008 thì năm 2018 đã
xuất hiện một số mặt hàng mới trong tốp 10 mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao nhất của
Việt Nam bao gồm mặt hàng dày dép và gỗ các sản phẩm từ gỗ đây là những mặt hàng
thâm dụng lao động và tài ngun. Đặc biệt khơng có sự xuất hiện của mặt hàng nhiên
liệu khống sản trong top 10 dù trước đó năm 2008 là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao
nhất.
Bảng 5 : Các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu lớn nhất từ Nhật Bản ( HS cấp độ 2
chữ số)

SIT
C
84
85
72
39
87

2008
Sản phẩm

Tỷ

trọng
(%)
Động cơ và thiết bị cơ 25,21
khí
Máy móc thiết bị điện
16,45


SIT
C
85

Sắt thép
13,85
Nhựa và các sản phẩm 6,98
bằng chất dẻo
Xe cộ và các thiết bị phụ 5,07
tùng của chúng

72
39

84

90

7

2018
Sản phẩm

Máy móc thiết bị điện
Động cơ và thiết bị cơ
khí
Sắt thép
Nhựa và các sản phẩm
bằng chất dẻo
Các dụng cụ và thiết bị
quang học, nhiếp ảnh,
điện ảnh, đo lường,
kiểm tra, độ chính xác,
y tế hoặc phẫu thuật; bộ

Tỷ
trọng
(%)
31,02
14,57
11,51
7,47
4,92


27

90

73
40
29


Nhiên liệu khoáng, dầu
khoáng và các sản phẩm
chưng cất của chúng;
chất bitum; sáp khoáng
Các dụng cụ và thiết bị
quang học, nhiếp ảnh,
điện ảnh, đo lường, kiểm
tra, độ chính xác, y tế
hoặc phẫu thuật; bộ phận
và phụ kiện của chúng
Các sản phẩm bằng sắt
hoặc thép
Cao su và các sản phẩm
từ cao su
Hóa chất hữu cơ

phận và phụ kiện của
chúng
Xe cộ và các thiết bị 3,30
phụ tùng của chúng

4,23

87

3,67

73

Các sản phẩm bằng sắt 3,05

hoặc thép

3,38

74

1,64

40

1,38

48

Đồng và các mặt hàng 2,23
của chúng
Cao su và các sản phẩm 1,88
từ cao su
Giấy và bìa; các mặt 1,59

hàng bột giấy, giấy
hoặc bìa
Tổng

81,86
81,54
Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD

Về nhập khẩu, tốp 10 mặt hàng Việt Nam nhập khẩu lớn nhất từ Nhật Bản các năm
2008 và 2018 gần như không thay đổi, chiếm khoảng 82% tổng nhập khẩu , trong đó

hầu hết là các sản phẩm liên quan tới công nghệ cao, nguồn nguyên liệu đầu vào hoặc
các sản phẩm có hàm lượng chế biến cao. Trong giai đoạn này, Việt Nam chủ yếu nhập
khẩu từ Nhật Bản các sản phẩm cơng nghiệp chế tạo như máy móc thiết bị điện; động
cơ và thiết bị cơ khí và sắt thép, chiếm khoảng 1/2 trên tổng nhập khẩu của Việt Nam.
Ngoài ra tốp 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất còn bao gồm các sản phẩm nhựa và các
sản phẩm bằng chất dẻo; thiết bị và dụng cụ y tế; xe cộ và các thiết bị phụ tùng và Cao
su và các sản phẩm từ cao su.

2.1.2 Các nhóm, ngành hàng xuất khẩu và nhập khẩu

Bảng 6 : Việt Nam xuất khẩu đến Nhật Bản theo các ngành (đơn vị: %)
Ngành thứ 1 (nông nghiệp,
thịt, sữa và hải sản)
Ngành thứ 2 (thực phẩm, đồ
uống, thuốc lá, giấy)
Ngành thứ 3 (các ngành
công nghiệp khai khống)
Ngành thứ 4 (hóa chất,

2008
9,93

2010
10,66

2012
8,01

2014
7,45


2016
7,26

2018
6,69

5,64

7,74

6,32

8,21

8,27

7,67

30,81

8,01

22,38

12,80

3,25

3,24


5,51

8,49

6,84

8,56

8,12

7,88

8


nhựa, cao su)
Ngành thứ 5 (dệt may, quần 13,75
20,33
20,41
25,46
29,12 29,16
áo, đồ da, giày dép)
Ngành thứ 6 (sắt, thép và
2,58
3,12
3,30
4,19
4,74
5,16

kim loại khác)
Ngành thứ 7 (máy móc, điện 25,00
32,80
25,74
26,01
30,53 31,26
tử, thiết bị vận tải)
Ngành thứ 8 (các ngành
6,78
8,85
7,00
7,32
8,71
8,94
cơng nghiệp khác)
Tổng
100
100
100
100
100
100
Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD

Kết quả trình bày từ Bảng 6 cho thấy, năm 2008 xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật
Bản tập trung chủ yếu vào ngành 3, gồm các sản phẩm thuộc nhóm ngành cơng nghiệp
khai khống (30,81%) ; và ngành 7, gồm các sản phẩm máy móc, điện tử và thiết bị
vận tải (25%). Tổng tỷ trọng hai ngành này trên tổng xuất khẩu của Việt Nam lên tới
gần 56%. Ngành đóng vai trò quan trọng thứ ba trong cơ cấu xuất khẩu hàng hóa từ
Việt Nam tới Nhật Bản là ngành 5, gồm các sản phẩm dệt may, đồ da và giày dép, là

ngành thâm dụng lao động. Qua thời gian, Việt Nam đã giảm mạnh sự phụ thuộc vào
xuất khẩu nhóm hàng cơng nghiệp khai khống, đồng thời tăng mạnh tỷ trọng nhóm
hàng máy móc, điện tử và thiết bị vận tải và nhóm hàng dệt may, quần áo, đồ da và
giày dép. Cụ thể năm 2018 nhóm hàng cơng nghiệp khai khống giảm cịn 3,24% ,
nhóm hàng dệt may, quần áo, đồ da và giày dép chiếm tới 29,16% và nhóm hàng máy
móc, điện tử và thiết bị vận tải chiếm tỉ trọng cao nhất 31,26%, đây vốn là ngành yêu
cầu hàm lượng khoa học kỹ thuật và kỹ năng lao động cao hơn.

Bảng 7 : Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản theo các ngành (đơn vị: %)
Ngành thứ 1 (nông nghiệp,
thịt, sữa và hải sản)
Ngành thứ 2 (thực phẩm, đồ
uống, thuốc lá, giấy)
Ngành thứ 3 (các ngành
công nghiệp khai khống)
Ngành thứ 4 (hóa chất,
nhựa, cao su)
Ngành thứ 5 (dệt may, quần
áo, đồ da, giày dép)
Ngành thứ 6 (sắt, thép và
kim loại khác)
Ngành thứ 7 (máy móc, điện
tử, thiết bị vận tải)

2008
0,81

2010
0,36


2012
0,51

2014
0,55

2016
0,64

2018
0,72

1,95

2,22

1,66

2,05

2,16

2,38

5,45

2,23

2,18


2,81

1,96

1,77

13,39

16,29

15,62

14,51

13,75

14,57

6,09

6,17

7,22

6,45

6,07

5,68


20,03

22,64

22,58

21,42

17,64

18,67

47,46

44,82

45,43

47,77

52,61

49,59

9


Ngành thứ 8 (các ngành
cơng nghiệp khác)
Tổng


4,82

5,27

4,8

4,44

5,17

6,62

100
100
100
100
100
100
Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD

Về nhập khẩu, cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản khơng có sự thay đổi q
lớn trong giai đoạn 2008-2018. Cụ thể trong 10 năm qua, nhập khẩu của Việt Nam từ
Nhật Bản vẫn tập trung chủ yếu vào ngành 6 (sắt, thép và kim loại khác) và ngành 7
(máy móc, điện tử, thiết bị vận tải), với tổng thị phần của 2 ngành trên tổng nhập khẩu
luôn chiếm tới khoảng 68% qua các năm.Theo sau là nhập khẩu của ngành 4, gồm các
mặt hàng hóa chất, nhựa và cao su, trung bình chiếm khoảng 14 % tổng nhập khẩu của
Việt Nam qua các năm.
Như vậy, cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng có xu
hướng tập trung vào nhóm hàng máy móc, điện tử và thiết bị vận tải, đặc biệt là xuất

khẩu của Nhật Bản đến Việt Nam. Tuy thế, Việt Nam vẫn phụ thuộc vào xuất khẩu
nhóm hàng dệt may, đồ da và giày dép thâm dụng chi phí lao động giá rẻ, đồng thời
cũng là những mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh khơng chỉ với Nhật Bản mà với
nhiều nước khác.

2.2 Cơ cấu thương mại xét theo giai đoạn sản xuất, chế tạo
Bảng 8 :Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản phân theo giai đoạn sản xuất
Hàng sơ cấp
Hàng trung gian
Hàng bán thành phẩm

2008
32,93
32,94
13,73

2010
9,66
42,56
17,99

2012
24,23
34,81
14,58

2014
14,94
38,20
17,69


2016
5,84
39,29
18,04

2018
5,72
40,13
19,20

Linh kiện và phụ tùng

19,21

24,57

20,23

20,51

21,25

20,93

Hàng hóa cuối cùng
Tư liệu sản xuất
Hàng tiêu dùng

34,1

4,76
29,34

47,77
7,19
40,58

40,94
4,76
36,18

46,85
4,92
41,93

54,85
8,35
46,50

50,61
9,05
41,56

Hàng khơng được phân loại 0,03
0,01
0,02
0,01
0,02
3,54
Tổng

100
100
100
100
100
100
Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD
Kết quả từ Bảng 8 biểu đạt những biến đổi tương đối lớn về tỷ trọng các giai đoạn sản
xuất, chế tạo trên tổng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản thời kỳ 2008 – 2018.
Cụ thể, năm 2008 các nhóm hàng sơ cấp, trung gian và hàng hóa cuối cùng chiếm tỷ
trọng gần như ngang nhau, với thị phần của mỗi nhóm trên tổng nhập khẩu là khoảng
33%.
Theo thời gian, nhóm hàng sơ cấp giảm mạnh về tỷ phần từ 32,93% năm 2018 xuống
cịn 5,72% vào năm 2018.Trong khi đó, nhóm hàng hóa cuối cùng,có xu hướng tăng
10


tương đối rõ nét, chiếm xấp xỉ 51% năm 2018 so với tỷ lệ 34,1% năm 2008, trong đó
hàng tiêu dùng vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất 46,50% năm 2016 và 41,56% năm 2018
trên tổng xuất khẩu của Việt Nam đến Nhật Bản. Đối với nhóm hàng tư liệu sản xuất,
dù nhóm sản phẩm này có mở rộng những năm gần đây nhưng vẫn chiếm tỷ phần
khiêm tốn. Cùng giai đoạn này, tỷ trọng nhóm hàng trung gian tăng khoảng 1,2 lần;
chiếm 40,13% năm 2018.
Bảng 9: Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản phân theo giai đoạn sản xuất
Hàng sơ cấp
Hàng trung gian
Hàng bán thành phẩm
Linh kiện và phụ tùng
Hàng hóa cuối cùng
Tư liệu sản xuất

Hàng tiêu dùng
Hàng khơng được
phân loại
Tổng

2008
1,36
67,54
44,54
23,00
31,06
25,01
6,05
0,04

2010
0,93
70,48
47,03
23,45
28,58
22,33
6,25
0,01

2012
1,58
71,66
45,55
26,11

26,74
21,76
4,98
0,02

2014
2,92
68,75
42,66
26,09
28,30
23,09
5,21
0,03

2016
3,63
70,18
36,72
33,46
25,80
19,83
5,97
0,39

2018
3,73
73,73
48,21
25,52

22,24
17,66
4,58
0,30

100
100
100
100
100
100
Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD

Về nhập khẩu, các kết quả trong Bảng 9 cho thấy, nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật
Bản chủ yếu là nhóm hàng trung gian, với tỷ trọng trên tổng nhập khẩu không ngừng
tăng lên trong giai đoạn 2008-2018. Trong đó, hàng bán thành phẩm là nhóm hàng
trung gian quan trọng nhất trong nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản, chiếm khoảng
1/2 cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam năm 2018 . Cùng thời kỳ này, tỷ phần nhập khẩu
nhóm hàng hóa cuối cùng lại co hẹp tương đối nhanh, từ 31,06% năm 2008 xuống còn
22,24 % vào năm 2018, với đà sụt giảm xảy ra đồng thời ở hai nhóm tư liệu sản xuất
và hàng tiêu dùng.
2.3 Cơ cấu thương mại xét theo hàm lượng công nghệ
Bảng 10: Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản theo hàm lượng công nghệ
Hàng sơ cấp
Hàng chế tạo dựa
vào tài nguyên
Nông nghiệp
Sản phẩm khác
Hàng sử dụng công
nghệ thấp

Dệt may và giày dép
Sản phẩm khác
Hàng sử dụng cơng
nghệ trung bình

2008
41,23
6,77

2010
19,53
8,07

2012
31,19
6,95

2014
21,95
8,54

2016
12,30
7,82

2018
11,39
6,88

3,97

2,80
22,15

5,56
2,51
33,5

4,40
2,55
31,08

5,78
2,76
37,57

5,51
2,31
43,62

5,12
1,76
42,64

13,76
8,39
20,90

20,53
12,97
27,91


20,61
10,47
23,23

25,54
12,03
24,77

29,24
14,38
24,47

27,87
14,77
25,89

11


Phương tiện vận tải
Các sản phẩm đã được
gia công, xử lý
Các sản phẩm cơ khí,
kĩ thuật
Hàng sử dụng cơng
nghệ cao
Điện và điện tử
Sản phẩm khác
Hàng khơng được

phân loại
Tổng

3,51
1,61

2,92
2,73

2,97
2,50

3,47
3,46

2,98
2,87

4,38
2,82

15,78

22,26

17,76

17,84

18,62


18,69

8,84

10,87

7,43

7,05

11,66

12,31

6,95
1,89
0,11

9,53
1,34
0,12

6,81
0,62
0,12

6,48
0,57
0,12


10,39
1,27
0,13

11,28
1,03
0,89

100
100
100
100
100
100
Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD

Kết quả trình bày trong Bảng 10 chỉ ra, giai đoạn 2008 – 2018 cơ cấu xuất khẩu của
Việt Nam sang thị trường Nhật Bản đã có những thay đổi đáng kể theo hướng giảm tỷ
trọng các mặt hàng sơ cấp, hàng nguyên vật liệu thô và tăng tỷ phần các mặt hàng
công nghiệp chế biến, chế tạo. Cụ thể tỷ trọng nhóm hàng sơ cấp giảm mạnh từ
41,23% năm 2008 xuống còn 11,39% năm 2018. Ngược lại, cùng giai đoạn này, tỷ
trong nhóm hàng sử dụng cơng nghệ thấp tăng khoảng 2 lần lên tới 42,64% năm 2018,
trong đó tỷ trọng của nhóm hàng dệt may và giày dép chiếm 27,87%. Tỷ trọng xuất
khẩu các sản phẩm công nghệ cao và trung bình cũng tăng khá nhanh, từ khoảng
29,74% năm 2008 lên tỷ lệ 38,2% năm 2018, phần lớn đến từ tăng trưởng xuất khẩu
nhóm hàng cơ khí, kỹ thuật và điện, điện tử.
Bảng 11:Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản theo hàm lượng công nghệ
Hàng sơ câp
Hàng chế tạo dựa

vào tài nguyên
Nông nghiệp
Sản phẩm khác
Hàng sử dụng công
nghệ thấp
Dệt may và giày dép
Sản phẩm khác
Hàng sử dụng cơng
nghệ trung bình
Phương tiện vận tải
Các sản phẩm đã được
gia công, xử lý
Các sản phẩm cơ khí,
kĩ thuật
Hàng sử dụng cơng
nghệ cao

2008
2,69
10,69

2010
3,07
7,84

2012
2,62
7,78

2014

3,20
10,21

2016
2,84
10,18

2018
3,75
10,05

2,94
7,75
19,85

3,41
4,43
22,00

3,43
4,35
21,13

3,60
6,61
19,26

3,66
6,52
17,47


3,37
6,68
16,40

4,11
15,74
49,30

4,50
17,50
50,03

5,19
15,94
46,33

4,30
14,96
44,87

3,87
13,60
41,80

3,59
12,81
38,58

4,85

14,73

4,10
17,05

2,12
17,83

3,73
15,12

5,46
11,95

3,86
13,64

29,72

28,88

26,38

26,02

24,39

21,08

16,91


16,44

21,38

21,78

27,15

30,74

12


Điện và điện tử
Sản phẩm khác
Hàng khơng được
phân loại
Tổng

14,45
2,46
0,56

13,37
3,07
0,62

18,05
3,33

0,76

18,82
2,96
0,68

22,83
4,32
0,56

26,04
4,70
0,48

100
100
100
100
100
100
Nguồn: Tính toán của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD

Về nhập khẩu, Bảng 11 cho thấy, trong giai đoạn 2008-2018 cơ cấu nhập khẩu của
Việt Nam từ Nhật Bản tập trung chủ yếu vào các nhóm hàng sử dụng cơng nghệ thấp,
cơng nghệ trung bình và cơng nghệ cao. Trong đó, đóng góp của nhóm hàng sử dụng
cơng nghệ cao, đặc biệt sản phẩm điện, điện tử Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản đã
tăng mạnh, từ 16,91% năm 2008 lên 30,74% năm 2018. Dù vẫn đóng vai trị đáng kể,
tỷ phần xuất khẩu nhóm hàng sử dụng cơng nghệ trung bình, nhất là các sản phẩm cơ
khí đã giảm mạnh theo thời gian. Nhóm hàng sử dụng cơng nghệ thấp cũng có xu
hướng giảm tuy nhiên mức giảm khơng quá lớn.


2.4 Cơ cấu thương mại xét theo đóng góp của các nhân tố
Bảng 12:Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản theo đóng góp của các yếu tố
Sản phẩm thơ
Sản phẩm thâm dụng
tài nguyên
Sản phẩm thâm dụng
lao động phổ thông
Sản phẩm thâm dụng
cơng nghệ
Sản phẩm thâm dụng
vốn-trí tuệ
Sản phẩm khơng phân
loại
Tổng

2008
44,33
1,22

2010
23,28
1,88

2012
34,57
1,99

2014
25,55

2,72

2016
15,72
2,36

2018
14,93
2,02

19,07

28,18

26,13

32,03

36,40

33,65

27,18

37,29

29,51

30,24


35,41

37,19

8,16

9,34

7,78

9,44

10,07

11,40

0,04

0,03

0,01

0,02

0,04

0,81

100
100

99,99
100
100
100
Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD

Về xuất khẩu, có sự biến động lớn về tỷ trọng các nhóm hàng thâm dụng các yếu tố
sản xuất trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản giai đoạn 2008-2018. Cụ
thể, vào năm 2008, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản phụ thuộc chủ yếu vào
nhóm sản phẩm thơ và sản phẩm thâm dụng cơng nghệ. Tổng tỷ phần xuất khẩu của
hai nhóm này lên tới gần 72%. Theo sau là nhóm sản phẩm thâm dụng lao động phổ
thông, với tỷ trọng 19,07%. Trong khi đó, đóng góp của nhóm sản phẩm thâm dụng
vốn-trí tuệ chỉ chiếm 8,16%. Tuy thế, kể từ 2010 trở đi, một mặt, Việt Nam đã giảm
mạnh sự phụ thuộc vào xuất khẩu nhóm sản phẩm thơ, lần lượt xuống mức 15,72% và
14,93% các năm 2016 và 2018, mặt khác, gia tăng đóng góp của nhóm sản phẩm thâm
13


dụng yếu tố công nghệ, lên tới 35,41% năm 2016 và 37% năm 2016. Đáng chú ý, tỷ
trọng nhóm sản phẩm thâm dụng lao động phổ thông tăng mạnh từ 19,07% năm 2008
lên đến 33,65% năm 2018 chiếm 1/3 tổng xuất khẩu đến thị trường Nhật Bản năm
2018. Trong giai đoạn này nhóm sản phẩm thâm dụng vốn trí tuệ cũng có xu hướng
tăng tuy nhiên mức tăng khơng q lớn.
Bảng 13: Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản theo đóng góp của các yếu tố
Sản phẩm thơ
Sản phẩm thâm dụng
tài nguyên
Sản phẩm thâm dụng
lao động phổ thông
Sản phẩm thâm dụng

cơng nghệ
Sản phẩm thâm dụng
vốn-trí tuệ
Sản phẩm khơng phân
loại
Tổng

2008
7,40
2,14

2010
3,45
3,36

2012
3,66
2,83

2014
5,94
3,38

2016
6,12
2,99

2018
5,39
3,54


7,41

8,19

8,74

7,44

7,46

6,85

55,82

56,08

58,54

57,75

60,03

62,33

27,05

28,79

26,08


25,35

23,31

21,56

0,18

0,13

0,15

0,14

0,09

0,33

100
100
100
100
100
100
Nguồn: Tính tốn của sinh viên dựa trên dữ liệu của UNCTAD

Nhìn chung cơ cấu nhập khẩu Việt Nam – Nhật Bản xét theo yếu tố hàm lượng hầu
như không thay đổi trong cả giai đoạn. Hơn một nửa hàng hóa nhập khẩu từ Nhật Bản
là những sản phẩm thâm dụng công nghệ, khoảng 1/4 là sản phẩm có hàm lượng vốn,

trí tuệ. Trong đó các sản phẩm nhập khẩu thâm dụng công nghệ tăng từ 55,82% năm
2008 tới 62,33% năm 2018. Ngược lại các sản phẩm thâm dụng vốn-trí tuệ lại có xu
hướng giảm cịn 21,56% năm 2018.

3 ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CẤU
THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA VIỆT NAM NHẬT BẢN
3.1 Đánh giá
3.1.1 Ưu điểm
- Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản được cải thiện đáng kể trong việc
giảm tỷ trọng nhóm sản phẩm thô, sơ chế chưa qua chế biến, tăng tỷ trọng sản phẩm
tập trung hàm lượng cơng nghệ và nhóm hàng tập trung vốn-trí tuệ. Xu hướng này
nhìn chung phù hợp với điều kiện tự nhiên, tiến bộ về trình độ khoa học kỹ thuật của
Việt Nam. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang Nhật Bản là những mặt
hàng Việt Nam có lợi thế so sánh xuất khẩu trên thị trường quốc tế như các sản phẩm
dệt may, giày dép, các sản phẩm cơ khí kĩ thuật và sản phẩm điện điện tử. Trong đó,
xuất khẩu nhóm hàng trung gian, đặc biệt linh kiện và phụ tùng từ Việt Nam sang Nhật
Bản có xu hướng mở rộng, ở mức độ nhất định cho thấy sự hội nhập khu vực sâu hơn
của lĩnh vực sản xuất chế tạo nội địa vào mạng lưới sản xuất khu vực, trước tiên của
14


các công ty đa quốc gia Nhật Bản , sau là mạng lưới sản xuất, phân phối của khu vực
Đông Á và tồn cầu. Nói khác đi, vị thế, vai trò của Việt Nam trong các hoạt động
thương mại và đầu tư khu vực ngày càng được khẳng định và nâng cao.
-Về nhập khẩu, cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản ngày càng tập trung vào
nhóm hàng thâm dụng yếu tố cơng nghệ trung bình và cao, vốn tri thức, và nhóm hàng
tư liệu sản xuất như máy móc, phương tiện vận tải. Đây là những sản phẩm Nhật Bản
đang có lợi thế so sánh xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Cơ cấu nhập khẩu như trên
phần nào đáp ứng nhu cầu nhập khẩu thiết bị máy móc cơng nghệ tiên tiến phục vụ
cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp tại Việt Nam.

-Về tổng thể, cơ cấu xuất nhập khẩu Việt – Nhật là phù hợp với các điều kiện tự nhiên,
trình độ khoa học kỹ thuật và chất lượng nguồn nhân lực của mỗi quốc gia. Nhật Bản
là quốc gia cơng nghiệp phát triển, có thế mạnh sản xuất nhóm hàng tư liệu sản xuất
nên cơ cấu xuất khẩu tập trung nhóm sản phẩm địi hỏi vốn lớn và trình độ cơng nghệ
cao, trong khi Việt Nam có lợi thế chi phí lao động thấp, nên cơ cấu xuất khẩu phụ
thuộc nhóm hàng tiêu dùng.
3.1.2 Hạn chế
Tuy đạt nhiều kết quả đáng khích lệ, sự dịch chuyển của cơ cấu thương mại hàng hóa
giữa Việt Nam với Nhật Bản thời gian qua còn nhiều hạn chế, vấn đề đặt ra, cụ thể như
sau:
Những năm qua, dù giảm mạnh tỷ phần, nhập khẩu của Việt Nam đối với nhóm sản
phẩm sử dụng cơng nghệ thấp và trung bình từ Nhật Bản vẫn là tương đối đáng
kể.Hiện nay, cơ cấu nhập khẩu như vậy có thể vẫn phù hợp với trình độ phát triển, khả
năng tiếp thu cơng nghệ của Việt Nam, nhưng về dài hạn, Việt Nam cần có những điều
chỉnh để tận dụng nhập khẩu máy móc, thiết bị vận tải hàm lượng khoa công nghệ và
tri thức cao từ Nhật Bản, qua đó tiếp tục nâng cao năng lực sản xuất, xuất khẩu của các
công ty nội địa.. Đồng thời, lợi thế so sánh xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường Nhật
Bản chưa có thay đổi tích cực đáng kể. Theo đó, Việt Nam vẫn chủ yếu duy trì lợi thế
so sánh với nhóm sản phẩm xuất khẩu thâm dụng nhân tố lao động phổ thông và cơng
nghệ thấp mà chưa có sự dịch chuyển đáng kể lên nhóm sản phẩm sử dụng nhiều yếu
tố cơng nghệ cao và lao động kỹ năng. Trong tương lai, để duy trì tăng trưởng xuất
khẩu, Việt Nam cần dịch chuyển và tạo ra lợi thế so sánh trong sản xuất, xuất khẩu
hàng hóa sử dụng nhiều yếu tố cơng nghệ, vốn-tri thức. Điều này xuất phát từ thực tế,
lợi thế tài nguyên, lao động chi phí thấp của Việt Nam sẽ ngày càng mất đi, nhất là
trong bối cảnh các nước trong khu vực và trên thế giới đã và đang có những điều chỉnh
về chiến lược, chính sách phát triển các ngành cơng nghiệp, dịch vụ để thích ứng với
xu hướng mới của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Sự phụ thuộc lớn vào nhập khẩu hàng hóa trung gian từ Nhật Bản suốt một thời gian
dài đã chỉ ra thực trạng yếu kém của các ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam.
Đồng thời, nó cũng cho thấy Việt Nam vẫn chưa tận dụng được nhiều lợi ích mang lại

từ tăng trưởng vốn đầu tư của các công ty đa quốc gia Nhật Bản vào cải thiện năng lực
15


sản xuất các ngành công nghiệp nội địa, vào nâng cao vị thế, vai trò của quốc gia trong
mạng lưới sản xuất, phân phối hàng hóa khu vực.
Bên cạnh đó, nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản vẫn còn gồm nhiều sản phẩm xa xỉ
(đặc biệt ô tô) và nhóm hàng sử dụng cơng nghệ thấp, là những mặt hàng thường tạo ra
những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và xã hội. Nếu cơ cấu xuất khẩu của Việt
Nam không chuyển dịch lên các chuỗi sản xuất cao hơn sẽ tác động trực tiếp đến tăng
trưởng doanh thu và giá trị tăng thêm của hàng xuất khẩu đến thị trường Nhật Bản nói
riêng và ra thế giới nói chung thời gian tới.
3.2 Giải pháp cải thiện cơ cấu thương mại hàng hóa Việt Nam – Nhật Bản
3.2.1 Xây dựng và thực thi chính sách định hướng xuất nhập khẩu phù hợp với
thị trường Nhật Bản
- Về định hướng xuất khẩu:
Thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục giảm xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản những
mặt hàng có giá trị gia tăng thấp, tăng xuất khẩu nhóm hàng hóa có giá trị tăng thêm
cao, nhóm hàng thân thiện với môi trường, đặc biệt các sản phẩm sinh thái. Trong đó,
tăng cường các cơng đoạn chế biến đối với nhóm hàng nơng nghiệp, thủy sản, đồng
thời chuyển dần sang sản xuất và xuất khẩu sang Nhật Bản các sản phẩm cơng nghiệp
có giá trị tăng cao hơn. Để làm được điều này cần có thời gian, cần xây dựng được các
ngành công nghiệp phụ trợ cạnh tranh, lực lượng lao động có kỹ năng, sáng tạo và cải
thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa.
 Cụ thể, các mặt hàng nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là những mặt hàng

thường có tính nhạy cảm cao tại thị trường Nhật Bản, vì vậy Việt Nam cần đặc
biệt chú ý đến yếu tố nguồn gốc xuất xứ cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật có
ảnh hưởng đến mơi trường và sức khỏe trong quá trình sản xuất, bảo quản và
phân phối,qua đó gia tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp trên thị

trường Nhật Bản.
 Đối với các sản phẩm công nghiệp, Việt Nam cần chuyển từ phương thức sản
xuất, xuất khẩu gia công cho các doanh nghiệp nước ngoài sang phương thức
sản xuất và xuất khẩu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị hàng hóa như
sản xuất linh phụ kiện nguồn, các hoạt động marketing, xây dựng thương hiệu
cho sản phẩm. Đồng thời, chính phủ cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính để
cắt giảm các khâu trung gian trong q trình xuất khẩu, qua đó nâng cao sức
cạnh tranh cho các sản phẩm công nghiệp xuất xứ từ Việt Nam. Trong quan hệ
với Nhật Bản, về ngắn hạn Việt Nam vẫn có thể dựa vào sản xuất và xuất khẩu
các nhóm hàng đang có lợi thế so sánh như tài nguyên năng lượng, sản phẩm
lương thực, sản phẩm sử dụng nhiều yếu tố lao động chi phí thấp như dệt may,
giày dép, hay các khâu gia công và lắp ráp trong các sản phẩm công nghiệp, đặc
biệt ngành điện tử, lắp ráp ô tô,xe máy. Tuy thế, về dài hạn Việt Nam cần định
hướng, xây dựng và tạo ra lợi thế so sánh trong sản xuất các sản phẩm sử dụng
nhiều yếu tố công nghệ, lao động kỹ năng phức tạp như các sản phẩm vật liệu
16


mới, các sản phẩm sinh học. Một lựa chọn khác nữa là, nếu tiếp tục coi các
ngành truyền thống như dệt may và nơng nghiệp là thế mạnh thì Việt Nam có
thể tập trung cải thiện khả năng cạnh tranh ở các khâu tạo ra giá trị cao hơn, bao
gồm thiết kế và làm thương hiệu. Việc lựa chọn các lĩnh vực, sản phẩm Việt
Nam có lợi thế cần dựa trên xem xét, so sánh với thế mạnh, xu hướng phát triển
công nghiệp, liên kết kinh tế của các quốc gia trong AEC, khu vực Đông Á, xu
hướng mới của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhằm làm tăng thêm khả năng
thành công của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Nhật Bản.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần hạn chế xuất khẩu sang Nhật Bản các mặt hàng không
được khuyến khích, trong đó chủ yếu là tài ngun khơng thể tái tạo như dầu thơ,
khống sản kim loại. Đây là những mặt hàng thường tạo ra nhiều ảnh hưởng khơng
tích cực đến mơi trường và sức khỏe trong q trình khai thác, giá trị gia tăng lại thấp,

đồng thời dễ chịu tác động trước những biến động bất lợi của thị trường hàng hóa năng
lượng quốc tế. Điều này đã được chứng minh khi giá dầu mỏ và khí ga trên thị trường
giảm mạnh giai đoạn 2013-2015 đã có những tác động tiêu cực đáng kể đến doanh thu
xuất khẩu hàng hóa, đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
- Về định hướng nhập khẩu:
Hiện nay, tỷ trọng nhóm hàng tư liệu sản xuất trên tổng nhập khẩu của Việt Nam từ
Nhật Bản là rất thấp, chưa đến 18 %. Do vậy, thời gian tới, Việt Nam cần ưu tiên đẩy
mạnh nhập khẩu tư liệu sản xuất, đặc biệt các thiết bị nguồn, tiên tiến mà Nhật Bản có
thế mạnh như máy móc cơng nghiệp trong sản xuất thiết bị điện tử viễn thông, linh
phụ kiện ô tô, xe máy, hóa chất, vật liệu và năng lượng mới. Song song với đó là hạn
chế nhập khẩu từ Nhật Bản các công nghệ loại hai, vừa không hiệu quả trong quá trình
vận hành sử dụng lại vừa gây ra các tác động xấu đến môi trường và sức khỏe. Qua đó,
từng bước cải thiện năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu từ Việt Nam.
Mặt khác, do công nghiệp phụ trợ nội địa còn chưa phát triển, trong ngắn hạn Việt
Nam vẫn cần ưu tiên nhập khẩu từ Nhật Bản sản phẩm trung gian cần thiết cho quá
trình sản xuất và xuất khẩu của doanh nghiệp như nguyên vật liệu cho ngành dệt may
và linh phụ kiện, nhất là ngành điện tử. Về dài hạn, Việt Nam cần đầu tư vào vùng sản
xuất nguyên liệu quy mô lớn, nhất là các cụm công nghiệp phụ trợ, sản xuất các lĩnh
vực ưu tiên như cơ khí, linh phụ kiện điện tử, ô tô,xe máy.
Đối với nhóm hàng tiêu dùng, tuy chiếm tỷ trọng không lớn trên tổng nhập khẩu từ
Nhật Bản nhưng Việt Nam cũng cần có các biện pháp hạn chế nhập khẩu nhóm hàng
khơng khuyến khích, nhóm hàng hóa xa xỉ, không thân thiện với môi trường, ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe, đến tính ổn định của xã hội như mỹ phẩm và rượu bia. Đối
với doanh nghiệp Việt Nam, cần chủ động tìm kiếm và tăng cường nhập khẩu dây
chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại từ Nhật Bản nhằm phục vụ cho các hoạt động sản
xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu của mình. Một hình thức khác là,
tăng cường liên kết với doanh nghiệp Nhật Bản để tận dụng dòng vốn đầu tư của họ
cho các dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao chất lượng và khả
năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam.
17



3.2.2

Đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản

Đa dạng hóa xuất khẩu đóng vai trị quan trọng đối với sự ổn định, bền vững của cơ
cấu xuất khẩu của các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Vì thế, trong nhiều năm
tới, đa dạng hóa danh mục hàng xuất khẩu tới Nhật Bản cần tiếp tục là giải pháp ưu
tiên để cải thiện quan hệ, cấu trúc thương mại của Việt Nam với thị trường này. Đa
dạng hóa xuất khẩu có thể được thúc đẩy nhờ gia tăng trao đổi thương mại hàng hóa
trung gian của Việt Nam với Nhật Bản và thông qua phát triển các sản phẩm mới. Do
đó, các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam phát triển sản phẩm mới, hoặc
đa dạng hóa chủng loại, mẫu mã các sản phẩm hiện có, thơng qua đầu tư máy móc,
thiết bị sản xuất hiện đại và nguồn nhân lực có chất lượng cao, và các hoạt động R&D
cần được đặc biệt chú trọng. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể đa dạng hóa xuất
khẩu đến Nhật Bản bằng cách phân chia các nhóm sản phẩm riêng biệt cho từng nhóm
khách hàng khác nhau về thu nhập, văn hóa vùng miền, mức độ phát triển (giữa thành
thị và nông thôn) của Nhật Bản, cũng như khuyến khích hoạt động xúc tiến tìm hiểu
thị hiếu nhu cầu thị trường và quảng bá sản phẩm Việt Nam tại thị trường Hàn Quốc.
3.2.3

Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ ưu tiên

Công nghiệp phụ trợ đóng vai trị thiết yếu đối với sự phát triển của các ngành công
nghiệp, đến khả năng tạo ra hàng hóa có sức cạnh tranh, giá trị tăng thêm lớn của Việt
Nam trên thị trường nội địa và quốc tế. Phát triển cơng nghiệp phụ trợ cịn giúp Việt
Nam giảm thiểu việc phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu, hàng hóa trung gian từ thị
trường Trung Quốc, các quốc gia ASEAN hay chính Nhật Bản, qua đó nâng cao tính tự
chủ của khu vực doanh nghiệp nội địa, của tổng thể nền kinh tế. Việt Nam cần ưu tiên

đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ, nhất là với các mặt hàng đang và sẽ có lợi thế
sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản như dệt may, sản phẩm điện tử,
phương tiện vận tải và phụ tùng, qua đó gia tăng doanh thu xuất khẩu và quan trọng
hơn cải thiện hàm lượng giá trị gia tăng nội địa của các doanh nghiệp Việt Nam.
Việc phát triển các ngành cơng nghiệp hỗ trợ ưu tiên có thể thực hiện thơng qua xây
dựng, ban hành chính sách hỗ trợ về tài chính đối với các hoạt động R&D, các hoạt
động khởi nghiệp của doanh nghiệp hay thông qua hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực.
Ngoài ra, trong bối cảnh nguồn lực trong nước cịn hạn chế, Việt Nam cần có chính
sách thu hút, khuyến khích các doanh nghiệp Nhật Bản và những quốc gia có kinh
nghiệm phát triển cơng nghiệp phụ trợ khác như Hàn Quốc, Malaysia hay Thái Lan
đầu tư và hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ nội địa.
3.2.4

Tăng cường thu hút FDI, chuyển giao công nghệ, hợp tác công nghiệp Việt
Nam – Nhật Bản

Trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển thương mại quốc tế của Việt
Nam, các doanh nghiệp FDI, đặc biệt các doanh nghiệp tới từ các nền kinh tế Đông Á
như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan (Trung Quốc) đóng vai trị khơng nhỏ. Vì thế,
u cầu đặt ra là cần có chính sách thu hút FDI hợp lý, có chọn lọc, vừa phục vụ cho
thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, đồng thời giúp cải thiện năng lực sản xuất hàng hóa
18


của các doanh nghiệp nội địa. Để làm được việc này, trước tiên Việt Nam cần tiếp tục
cải thiện thể chế, mơi trường đầu tư kinh doanh, bởi nó vừa giúp cải thiện năng lực
cạnh tranh chung của nền kinh tế và năng lực cạnh tranh riêng của doanh nghiệp xuất
khẩu sang thị trường Nhật Bản, lại vừa góp phần tăng cường sức hấp dẫn của quốc gia
đối với các nhà đầu tư nước ngoài.Việt Nam cần tiếp tục giảm thiểu tối đa sự can thiệp
vào thị trường, nhất là dưới hình thức mệnh lệnh hành chính cũng như giảm sự hỗ trợ

đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện bình đẳng để các doanh nghiệp
tư nhân tham gia vào các hoạt động sản xuất, đầu tư và trao đổi thương mại với phía
Nhật Bản và các quốc gia khác. Mặt khác, phát triển đầy đủ các thị trường vốn, khoa
học công nghệ, tư liệu sản xuất và nguồn nhân lực. Đối với môi trường đầu tư, Chính
phủ cần thực hiện các biện pháp thúc đẩy sự minh bạch của môi trường đầu tư, đặc
biệt là cải thiện, bổ sung hệ thống pháp luật về đầu tư, thương mại đối với các doanh
nghiệp trong nước và ngoài nước. Tiếp tục đơn giản hóa thủ tục đầu tư, xuất nhập khẩu
hàng hóa, dịch vụ tới Nhật Bản; đầu tư vào phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, dịch vụ
hậu cần, nhất là các cảng biển nhằm tạo điều kiện tiết giảm chi phí doanh nghiệp, qua
đó tăng tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu sang Nhật Bản.
Chính phủ Việt Nam có thể tiếp tục duy trì các khuyến khích, ưu đãi mà hiện đã là rất
cao dành cho doanh nghiệp Nhật Bản tuy nhiên, cần được định hướng vào những lĩnh
vực, ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Về ngắn hạn, đó là các ngành dệt
may, da giày, điện tử, phương tiện vận tải, máy móc, sau là những lĩnh vực dự báo có
tiềm năng mở rộng lớn như các ngành nông nghiệp và công nghiệp công nghệ cao, sản
xuất vật liệu mới hay các sản phẩm sáng tạo.
Bên cạnh thu hút có chọn lọc FDI, Việt Nam cần khuyến khích, thậm chí có quy định
bắt buộc các doanh nghiệp Nhật Bản và các quốc gia khác đầu tư vào Việt Nam thực
hiện yêu cầu nâng cao tỷ lệ nội địa hóa theo lộ trình cụ thể. Lý do là bởi, càng mở rộng
đầu tư vào Việt Nam và gia tăng xuất khẩu, các doanh nghiệp Nhật Bản lại càng tăng
nhập khẩu tư liệu sản xuất, hàng hóa đầu vào trung gian từ chính thị trường Nhật Bản,
hoặc các quốc gia thứ ba. Do đó, Việt Nam có thể xem xét đưa ra yêu cầu tương tự với
doanh nghiệp Nhật Bản để góp phần cải thiện năng lực sản xuất của các công ty nội
địa. Để tăng tỷ lệ nội địa hóa, việc khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp FDI của Nhật
Bản mở rộng liên kết với các doanh nghiệp nội địa trong sản xuất và thương mại là rất
cần thiết, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ.

3.2.5 Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại với thị
trường Nhật Bản
Về phía nhà nước, cần tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại với

thị trường Nhật Bản. Nhà nước có thể đứng ra làm đầu mối trung gian, bảo trợ cho các
hoạt động xúc tiến, tìm hiểu thị trường Nhật Bản của các doanh nghiệp cũng như các
chương trình riêng của địa phương, các hiệp hội ngành hàng Việt Nam. Đặc biệt, nhà
nước cần tập trung vào xác lập, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp ở thị
trường Việt Nam và Nhật Bản, hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm xuất khẩu,
19


thương hiệu doanh nghiệp thông qua quảng cáo giới thiệu trên các phương tiện thông
tin đại chúng của Nhật Bản, qua đó gia tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu
Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. Mặt khác, điều phối sự hợp tác giữa các cơ quan,
Bộ, ngành liên quan với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có quan hệ trao đổi,
bn bán hàng hóa với thị trường Nhật Bản. Trong đó, Chính phủ có thể giao cho Bộ
Công thương làm đầu mối, phối hợp với các Bộ, ngành, Phịng Thương mại và Cơng
nghiệp Việt Nam, hiệp hội doanh nghiệp, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản trong việc
thực hiện, triển khai các chiến lược, biện pháp phát triển các mặt hàng xuất nhập khẩu
tới thị trường Nhật Bản.
Đối với doanh nghiệp Việt Nam, cần tăng cường hoạt động tìm hiểu thói quen tiêu
dùng, quy định nhập khẩu, kênh phân phối, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của
người Nhật Bản. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm kiếm các
đối tác Nhật Bản thông qua xây dựng chiến lược marketing và tăng cường các hoạt
động xúc tiến thương mại. Đồng thời, định vị thương hiệu doanh nghiệp và thương
hiệu sản phẩm riêng, khác biệt với hàng hóa nội địa của Nhật Bản cũng như hàng xuất
khẩu của các quốc gia khác trong khu vực. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần tăng
cường cơng tác dự báo và khả năng thích ứng với những rủi ro trong điều kiện hội
nhập, tự do hóa thương mại với Nhật Bản ngày càng cao hơn.

Kết luận
Từ kết quả phân tích thực trạng cơ cấu thương mại hàng hóa Việt Nam-Nhật Bản có
thể rút ra kết luận : Cơ cấu xuât khẩu của Việt Nam sau 10 năm được cải thiện đáng kể

trong việc giảm dần tỷ trọng nhóm hàng sơ cấp, thơ chưa qua chế biến , đồng thời gia
tăng đáng kể đóng góp của nhóm sản phẩm thâm dụng cơng nghệ, vốn-trí thức. Tuy
nhiên tỷ phần nhóm sản phẩm thâm dụng yếu tố cơng nghệ thấp và lao động phổ thông
trong xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản vẫn còn cao; cơ cấu nhập khẩu của Việt
Nam từ Nhật Bản ngày càng tập trung cao vào nhóm hàng máy móc, linh phụ kiện,
điện, điện tử, hàng công nghiệp thâm dụng yếu tố công nghệ cao đã có những tác động
20


tích cực nhất định đến cải thiện năng lực sản xuất và xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam.
Theo đó, cải thiện cơ cấu thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản cần theo định
hướng: (1) tập trung xuất khẩu sang Nhật Bản các mặt hàng Việt Nam đang có lợi thế,
phát triển các mặt hàng nhiều tiềm năng tăng trưởng trong tương lai; (2) tập trung xuất
khẩu sang Nhật Bản các mặt hàng có hàm lượng cơng nghệ, lao động kỹ năng cao, giá
trị tăng thêm lớn; (3) cải thiện tính đa dạng của hàng xuất khẩu tới thị trường Nhật
Bản; (4) đẩy mạnh nhập khẩu máy móc cơng nghệ nguồn từ Nhật Bản, hạn chế nhập
khẩu mặt hàng trong nước có thể sản xuất được, hoặc hàng khơng khuyến khích nhập
khẩu.

Tài liệu tham khảo
1.

2.

3.

4.

5.


Lê Tuấn Lộc (2017), “Quan hệ thương mại của Việt Nam với Nhật Bản:
Thực trạng và xu hướng”, tạp chí phát triển KH & CN, tập 20, số Q2-2017,
79-91
file:///C:/Users/ASUS/Downloads/448-Fulltext-1249-1-10-20180905.pdf
Nguyễn Thị Minh Hương (2012), “ Cơ cấu thương mại hàng hóa Việt Nam –
Nhật Bản giai đoạn 2001-2010), luận án tiến sĩ, Viện khoa học xã hội Việt
Nam.
mại hàng hóa giữa Việt Nam - Nhật Bản và nhóm nước G7 những
bước phát triển vượt bậc (2016), truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2020, từ
/>ID=958&Category=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20chuy%C3%AAn
%20%C4%91%E1%BB%81&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch
Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản: Cơ hội song hành thách thức
(2018), truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2020, từ
/>Số liệu phân tích từ UNI COMTRADE
/>
21



×