Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

SU NGHIEP TT HCM DE LAI CHO DT VA NHAN LOAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.86 KB, 35 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc và nhân loại
trong thời kỳ 1945 - 1954 có một ý nghĩa rất quan trọng trong đường lối
cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh là những sự kiện,
thời điểm, thời gian gắn với tư tưởng của người. Ý nghĩa giá trị của sự
nghiệp và tư tưởng của Người đối với dân tộc Việt Nam và nhân loại trong
giai đoạn đó và ngày nay.
Vấn đề cơ bản trong sự nghiệp Hồ Chí Minh giai đoạn 1945 - 1954
là tư tưởng của Người về đường lối kháng chiến, khẳng định lại tư tưởng
của mình là mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Đặt nhiệm vụ giải pháp dân
tộc lên hàng đầu. Lực lượng kháng chiến là toàn dân tổ chức các đoàn thể
quần chúng để thu hút lực lượng, xây dựng lực lượng vũ trang; xây dựng
nhà nước dân chủ nhân dân…,
Cho đến bây giờ nhiều cuộc hội thảo quốc gia, quốc tế đã được tổ
chức, nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học, nhiều giáo trình, nhiều bài viết
của rất nhiều nhà khoa học và nhiều nhà lãnh đạo Đảng, nhà nước ta đã
nghiên cứu, viết rất nhiều về sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai
đoạn 1945 - 1954. Song cho đến nay vấn đề cơ bản trong sự nghiệp Hồ Chí
Minh giai đoạn này vẫn còn nhiều giá trị sự nghiệp chưa được liệt kê một
cách hệ thống và tách riêng sự nghiệp và tư tưởng ở giai đoạn này một cách
chi tiết.
Vì những lý do trên em chọn đề tài: “Sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí
Minh để lại cho dân tộc và nhân loại giai đoạn 1945 - 1954 làm tiểu luận.
Hồ Chí Minh tiểu sử, với mong muốn bước đầu tìm hiểu, liệt kê một cách
ngắn gọn, hệ thống sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh và tư tưởng của người
trong giai đoạn này phục vụ nhiệm vụ chun mơn của mình và làm tài liệu
tham khảo.

1



2. Mục đích nhiệm vụ
- Mục đích: Tiểu luận liệt kê một số sự kiện gắn với sự nghiệp Hồ
Chí Minh và tư tưởng của Người trong giai đoạn 1945 - 1954 nhằm làm
hiểu rõ chi tiết hơn sự nghiệp, tư tưởng của người. Qua đó làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nhiệm vụ: + Nêu sự kiện, sự nghiệp Hồ Chí Minh gắn với điều
kiện lịch sử xã hội cụ thể và tư tưởng của Người trong các sự kiện đó.
+ Ý nghĩa, giá trị của sự nghiệp Hồ Chí Minh qua các sự kiện đó.
+ Ý nghĩa giá trị của sự nghiệp Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc và
nhân loại
3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận liệt kê, sắp xếp các sự kiện, sự nghiệp Hồ Chí Minh trong
giai đoạn 1945 - 1954, nên chủ yếu qua sự kiện đó làm rõ hơn vai trị,
nhiệm vụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các sự kiện đó.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lơgic lịch sử, phân tích tổng hợp, diễn dịch, khái qt
hố, trong đó chủ yếu là phương pháp lịch sử và khái quát hoá.
5. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
- Sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn 1945 - 1954, nên các sự
kiện có gắn với vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tư tưởng của người.
Thời gian nghiên cứu ngắn, phát triển tiểu luận mang tính chất liệt kê
khái quát những sự nghiệp, tư tưởng chính của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa của tiểu luận
Cung cấp một hệ thống sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh thời kỳ
1945 - 1954, đưa đến sự hiểu biết, nhận thức đúng vai trị của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Tạo nguồn tài liệu tham khảo cho việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
7. Kết cấu tiểu luận:
Tiểu luận gồm 3 chương, ngoài phần mở đầu và kết luận

2


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
SỰ NGHIỆP HỒ CHÍ MINH ĐỂ LẠI CHO DÂN TỘC
VÀ NHÂN LOẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
1. Cách mạng Tháng tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
mở phiên họp đầu tiên với Ban thường vụ Trung ương tại Hà Nội để thảo
luận những vấn đề đối nội, đối ngoại trong tình hình mới, đặc biệt là vấn đề
sớm cơng bố danh sách các chính phủ lâm thời bao gồm đại biểu các tầng
lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước, các nhân sĩ không đảng phái.
Ngày 28/8/1945 Tuyên cáo của chính phủ và danh sách của chính
phủ lâm thời được cơng bố trên các báo chí tại Hà Nội, đó là chính phủ liên
hiệp quốc dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo đúng nghĩa của
hội nghị trung ương Tám đã đề ra.
Ngày 2/9/1945, thay mặt chính phủ Lâm thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc bản tuyên ngôn nền độc lập lịch sử. Người mở đầu bằng cách nêu lên
những nguyên lý bất hủ về các quyền của con người, quyền của các dân tộc
đã được khẳng định trong những bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và nước
Pháp. Tiếp theo Người tố cáo và lên án những tội ác man dợ của thực dân
Pháp đối với đồng bào ta về các mặt chính trị, kinh tế, văn hố…, trong đó
có tội trong 5 năm chúng đã hai lần bán nước ta cho Nhật. Người khẳng
định: “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không
phải là từ tay Pháp. Pháp chạy, Nhật hàng , vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã

3



đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hồ”.
Người tun bố “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,
và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”.
Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định với thế giới cơ sở pháp lý vè
quyền được hưởng tự do độc lập của dân tộc Việt Nam, đồng thời qua đó
đóng góp vào sự phát triển nền pháp lý dân chủ và tiến bộ của loài người
trong thời đại hiện nay.
Cách mạng Tháng Tám là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài và
anh dũng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Xây dựng và bảo vệ nền cộng hồ dân chủ, đối phó thù trong giặc
ngoài, chuẩn bị kháng chiến lâu dài
a. Lựa chọn và giải quyết nhiệm vụ cấp bách
Sáng ngày 3/9/1945 tại Bắc Bộ phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ toạ
phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ Người nói có 6 vấn đề cấp bách
chính phủ phải tập trung giải quyết để đưa đất nước ta khỏi nguy hiểm:
Một là, giải quyết nạn đói, hai là thanh tốn nạn dốt, ba là tổ chức
tổng tuyển cử, bốn là giáo dục lại nhân dân theo tinh thần cần kiệm, liêm,
chính năm là bỏ ngay các thứ thuế bóc lột vơ nhân đạo và sáu là thực hiện
tự do tín ngưỡng, lương giáo, đoàn kết.
Vừa giành lại độc lập sau 80 năm nô lệ, đất nước ngổn ngang bao
công việc cấp bách nhất, giải quyết kịp thời, có hiệu quả đưa đất nước từng
bước vượt qua tình thế khó khăn.

4



Để khắc phục nạn đói, Người đề nghị Hội đồng chính phủ phát động
một chiến dịch tăng gia sản xuất và mở cuộc lạc quyên cứu đói, Người “coi
cuộc chống nạn đói cũng như cuộc chống ngoại xâm”. Trong thư gửi nông
gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản
xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!... Đó là cách thiết thực của chúng ta để
giữ vững quyền tự do độc lập”.
Tại buổi khai mạc cuộc lạc quyên ở Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đem phần gạo nhịn ăn của mình quyên trước tiên. Từ đó một phong trào
tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách với nhiều hình thức phong phú
như “hũ gạo cứu đói” “ngày đồng tâm nhịn ăn”…được tổ chức trên khắp
phố xá, làng quê.
Nhờ biện pháp đó, nạn đói từng bước được đẩy lùi, nhân dân thêm
vững tin vào Chính phủ và chế độ mới.
Tháng 9/1945 theo sự chi đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ
cũng đã trả lương cho công nhân và ký ngay một loạt sắc lệnh bãi bỏ thuế
thân, thuế đò, miễn thuế cho những vùng có chiến sự, thiên tai và đói, ban
hành tự do tín ngưỡng, cấm hút thuốc phiện, ban hành luật lao động bảo vệ
quyền lợi của công nhân, quyết định giảm tô 25% cho nông dân, chia ruộng
đất của thực dân Pháp và ruộng đất công cho nông dân nền tảng của chế độ
mới, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng bước đầu đã tạm ổn định.
Ngày 4/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh đặt ra quỹ độc lập
và gửi thư kêu gọi các tầng lớp nhân dân hưởng ứng tuần lễ vàng ủng hộ
chính phủ. Trong thời gian ngắn nhân dân cả nước đã tự nguyện đóng góp
được 370 kg vàng, 20 triệu đồng vào quỹ độc lập và 40 triệu đồng vào quỹ
đạm phụ quốc phịng.
Cùng với chiến dịch diệt giặc đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
động diệt giặc dốt. Người viết: “Một dân tộc dốt là một một dân tộc yếu”.

5



Vì vậy Người kêu gọi đẩy mạnh phong trào thanh tốn nạn mù chữ và nâng
cao trình độ văn hố cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học
vụ, Hội đồng cố vấn học chính để giúp chính phủ soạn thảo chương trình
giáo dục mới của đất nước. Người viết: “Non sơng Việt Nam có trở nên
tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh
vai với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần
lớn ở công học tập của các em”.
Ngày 20/9/1945, Người ký sắc lệnh số 34 về việc thành lập uỷ ban
dự thảo Hiến pháp để trình Quốc hội, gồm 7 thành viên và lập ra Uỷ ban tổ
chức tổng tuyển cử gồm 9 thành viên.
Ngày 3/1/1946, Người chủ trì phiên họp của Chính phủ Liên hợp lâm
thời để kiểm tra lần cuối công việc chuẩn bị Tổng tuyển cử.
Ngày 5/1/1946, trên các phương tiện thông tin đại chúng truyền đi
lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước ta được tổ
chức trên cả nước, bất chấp bom đạn của thực dân Pháp ở miền Nam và
những hành động phá hoại của bọn phản động ở miền Bắc.
Với lòng yêu nước của nhân dân, với sự chuẩn bị chu đáo, cuộc
Tổng tuyển cử như Hồ Chí Minh tin tưởng đã thành cơng rực rỡ, 333 đại
biểu đã được trúng cử với số phiếu cao.
Ngày 2/3/1946, Quốc hội lần đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà họp phiên thứ nhất tại nhà hát lớn Hà Nội. Phát biểu trước quốc
hội, Hồ Chí Minh nói rõ: Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử đã tỏ rõ cho thế
giới biết toàn dân Việt Nam đoàn kết nhất trí, Người đề nghị với Quốc hội
chấp nhận mở rộng thêm 70 ghế, không qua bầu cử cho các anh chị em hải
ngoại về (Việt Nam quốc dân Đảng 50 ghế và Việt Nam cách mạng đồng
6



chí Hội 20 ghế) và quốc hội đã biểu quyết tán thành và quốc hội đề cử
Người làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến và đề nghị Người
thành lập chính phủ mới. Quốc hội đã thơng qua thành lập chính phủ mới.
Để kiện tồn bộ máy nhà nước, chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy một loạt
sắc lệnh về hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước với chức năng, nhiệm vụ
mới.
Nhờ sự tận tình chỉ bảo và tấm gương cao đẹp của vị lãnh tụ - người
thầy, cán bộ chính quyền các cấp đã nhanh chóng khắc phục được những
sai sót buổi đầu, góp phần khẳng định bản chất tốt đẹp của chính quyền
mới.
Với tất cả những nỗ lực đó, nhà nước cách mạng non trẻ do Chủ tịch
Hồ Chí Minh lãnh đạo được tồn dân thừa nhận là nhà nước của dân, hoạt
động vì cơm áo, hạnh phúc của dân, đấu tranh cho độc lập dân tộc tự do
của dân, nên được toàn dân sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ nhà nước của
mình.
b. Kiên trì sách lược mềm dẻo, hồ hỗn với quốc dân Đảng Trung Hoa
Các thế lực xâm lược và phản động vào nước ta đều có chung mục
đích là tiêu diệt Đảng ta, lật đổ chính quyền nhân dân, thiết lập chính quyền
tay sai của chúng.
Ngày 25/11/1945, Ban Thường vụ Trung ương đã vạch rõ…. “Cuộc
cách mạng Đông Dương lúc này là dân tộc giải phóng…kẻ thủ chính của ta
lúc này là thực dân Pháp xâm lược; phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào
chúng”. Âm mưu của quân đội Tưởng trong kế hoạch “Hoa quân nhập
Việt” là bằng mọi cách thực hiện mục tiêu “diệt cộng cầm Hồ” lật đổ chính
quyền nhân dân, dựng lên chính quyền tay sai thân Tưởng.
Hồ Chí Minh đã phát hiện những mâu thuẫn và nhược điểm trong
hàng ngũ Tướng lĩnh Quốc dân Đảng Trung Hoa, khai thác mâu thuẫn để
7



phân hố kẻ thù. Người dạy: kiên nhẫn khơng phải là hèn nhát mà là một
phương pháp đấu tranh. Để cứu nước lúc này chỉ có phải làm như Câu tiễn
cũng làm.
Người đã chủ động gặp các Tướng lĩnh của quân Tưởng, bằng đối
sánh khôn khéo, sáng suốt để cô lập, thuyết phục địch.
Trong tình hình phức tạp lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta “phải quyết đốn mau chóng, phải dùng những phương pháp đau đớn- để
cứu vãn tình thế” bằng việc ngày 11/11/1945 Đảng Cộng sản Đơng Dương
tun bố tự giải tán để xố đi một lý do mà các thế lực thù địch trong và
ngoài đảng lợi dụng khoét sâu để chống phá cách mạng.
Nhờ sách lược hoà giải của Người, chúng ta đã làm thất bại âm mưu
đen tối của bọn quân phiệt Tưởng và bè lũ tay sai, giữ vững được chính
quyền cách mạng trong nhân dân, tạm thời biến quân đội trưởng thành bức
rào ngăn cách quân pháp trở lại miền Bắc.
c. Ký hiệp định sơ bộ 6/3 tạm thời hoà hỗn với Pháp
Trước tình thế rất phức tạp, thực dân Pháp nóng lịng đưa qn ra
miền Bắc. Tưởng giới Thạch tuyên bố rút quân về nước và đàm phán với
Pháp và ký hiệp định Pháp - Hoa ngày 28/2/1946, theo đó Pháp được quyền
đem quân thay thế quân Tưởng ở miền Bắc; đổi lại Pháp trả cho Tưởng các
tô giới ở Thượng Hải…, song muốn đem quân ra miền Bắc thì Pháp phải
thoả thuận với chính phủ Hồ Chí Minh.
Tình thế trên đây đặt ra câu hỏi: chúng ta phải giải quyết đánh hay
tạm hồ mới Pháp. Trước tình thế đó Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban
Thường vụ Trung ương Đảng họp và quyết định ký hiệp định sơ bộ với
Pháp.
Ngày 6/3/1946, lễ ký kết hiệp định sơ bộ Pháp - Việt được tổ chức ở
Hà Nội với nội dung:
8



Nước Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ là một
quốc gia tự do, có Chính phủ, có nghị viện, qn đội và tài chính của mình.
Chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận kết quả của cuộc trưng cầu dân ý về
vấn đề thống nhất ba kỳ.
Nước Việt Nam thuận để 15 ngàn quân Pháp được vào Bắc Việt Nam
thay thế quân đội Trung Hoa và sẽ phải rút hết sau thời hạn 5 năm.
Hai bên đình chiến để mở cuộc đàm phán, quân hai bên ở đâu đóng
đấy.
Việc ký kết hiệp định đã đạt mục tiêu loại bỏ kẻ thù, thúc đẩy quân
đội. Tưởng sớm rời Việt Nam, đồng thời sẽ cuốn theo bọn tay sai của
chúng, tránh cho cách mạng Việt Nam cùng một lúc đối phó với nhiều kẻ
thù.
d. Thăm chính thức nước Pháp
Hiệp định sơ bộ chưa ráo mực, thực dân Pháp đã có những hành
động vi phạm; đòi quân đội ta nộp vũ khí, đánh úp quân ta ở Nam Bộ và
Nam Trung Bộ, di chuyển quân đến những nơi không được phép của Chính
phủ ta. Điều đó càng khẳng định rã tâm của thực dân Pháp muốn đặt lại nền
thống trị của chúng ta trên đất nước ta.
Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh đã xúc tiến những cuộc gặp gỡ với
người đại diện của nước Pháp để giải quyết những vấn đề quan trọng. Ngày
24/3/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hội kiến với đại diện của Pháp tại Hạ
Long, sau đó ngày 19/4/1946. Hội nghị trù bị ở Đà Lạt giữa Pháp và Việt
Nam, song hội nghị bị bế tắc do lập trường thực dân Pháp ngoan cố nhất là
trong vấn đề Nam Bộ.
Ngày 25/4/1946 phái đoàn Quốc hội nước ta gồm 15 thành viên lên
đường sang Pari để ký hiệp ước chính thức. Ngày 22/6/1946, lễ đón chính
thức chủ tịch Hồ Chí Minh được tổ chức tại sân bay quốc tế Lơ buốc giê.
9



Tại đây lần đầu tiên Quốc kỳ Việt Nam tung bay trên bầu trời mùa hè Pari,
Quốc ca Việt Nam hùng tráng vang lên.
Ngày 6/7/1946 cuộc đàm phán chính thức Việt - Pháp được khai mạc
tại lâu đài Phôngten nôblô, dẫu không tham dự nhưng Người vẫn theo dõi
sát sao từng diễn biến của cuộc đàm phán và cho những ý kiến chỉ đạo kịp
thời. Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức họp báo chính thức tại Pari, cơng bố
lập trường 6 điểm của Chính phủ ta trong cuộc đàm phán:
1. Việt Nam đòi quyền độc lập . Độc lập khơng phải hồn tồn tuyệt
giao với Pháp, mà ở trong liên hiệp Pháp vì như thế thì có lợi cho cả hai
nước về các mặt kinh tế - văn hoá, Việt Nam vui lòng cộng tác với Pháp.
2. Việt Nam tán thành liên bang Đông Dương, nhưng quyết không
chấp nhận có một chính phủ liên bang.
3. Nam Bộ là một bộ phận của nước Việt Nam, khơng ai có quyền
chia sẻ, khơng lực lượng nào có thể chia cắt Nam Bộ ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam.
4. Việt Nam sẽ bảo hộ tài sản của kiểu dân Pháp, nhưng người Pháp
phải tuân thủ pháp luật của nước Việt Nam và Việt Nam giữ quyền mua lại
những sản nghiệp có quan hệ đến quốc phịng.
5. Nếu cần cố vấn thì Việt Nam sẽ dùng người Pháp trước.
6. Việt Nam có quyền phái đại sứ và lãnh sự đi các nước. Lập
trường 6 điểm của nước Việt Nam tại cuộc đàm phán Pari mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu ra tại cuộc họp báo chính là những nguyên tắc bất di bất
dịch về độc lập và toàn vẹn lãnh thổ.
Đây là kim chỉ nam hành động cho phái đoàn ta đấu tranh tại Hội
nghị Phôngtennơblô.

10



Cuộc đàm phán tại Phôngtennơblô vẫn bế tắc do thái độ ngoan cố
của thực dân. Trong khi đó ở Việt Nam họ trắng trợn vi phạm hiệp định Sơ
bộ, âm mưu đảo chính, lập ra xứ Nam Kỳ.
Ngày 1/8/1946 tại Pari phái đoàn ta đơn phương tuyên bố ngừng
đàm phán, Nhờ hoạt động ngoại giao tích cực của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
ngày 10.9.1946, Hội nghị Phơngtennơblơ họp lại. Phía Pháp đưa ra một dự
thảo hiệp định, ép ta ký đoàn của ta cự tuyệt, hội nghị đi đến bế tắc và kết
thúc.
Để cứu vãn tình thế và cho nước ta chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng
chiến, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Pháp bản tạm ước
quy định hai bên đình chỉ xung đột, phía Pháp bảo đảm thực hiện các quyền
tự do dân chủ ở Nam Bộ, thả những người bị bắt, phía Việt Nam bảo đảm
nguồn lợi về kinh tế và văn hoá của Pháp tại Việt Nam.
Mặc dù hai vấn đề chính của Việt Nam chưa được giải quyết nhưng
chuyến thăm chính thức nước Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa
rất to lớn về mặt ngoại giao. Những hoạt động tích cực của Người “đã làm
cho Chính phủ và nhân dân Pháp chú ý và hiểu rõ vấn đề Việt Nam hơn
trước. Và thế giới cũng chú ý và hiểu rõ vấn đề Việt Nam hơn trước”.
Những hoạt động của Người thời kỳ này là mẫu mực, tuyệt vời của
sách lược về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân
nhượng có nguyên tắc.
e. Chỉ đạo chuẩn bị bước vào kháng chiến lâu dài:
Tuy đã ký Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9 nhưng với dã tâm
cướp lại nước ta một lần nữa, thực dân Pháp vẫn ngông cuồng lấn tới,
chúng liên tiếp gây ra nhiều vụ xung đột để tạo cớ phát động chiến tranh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng biết chắc là sẽ phải
đương đầu với một cuộc chiến tranh không tránh khỏi. Nên đã chủ động

11



chuẩn bị về lực lượng vũ trang nhân dân. Người đã ký Sắc lệnh đổi Vệ
quốc quân thành Quân đội nhân dân Việt Nam, mở các trường đào tạo cán
bộ chính trị, quân sự cho lực lượng vũ trang, quan tâm xây dựng dân qn
du kích ở nơng thơn và tự vệ ở thành phố. Kiện toàn tổ chức bộ máy của
quân đội: Lập Bộ Tổng tham mưu, Cục Chính trị, Cục Thông tin liên lạc,
đổi Uỷ ban kháng chiến toàn quốc thành Quân sự Uỷ viên hội… Người
quan tâm đến đời sống vật chất của bộ đội, phát động tồn dân hưởng ứng
phong trào Mùa đơng binh sĩ…, trên Báo Cứu quốc, Người đã đăng liên
tiếp một loạt bài về chiến lược, chiến thuật quân sự nhằm giới thiệu về nội
dung và phương pháp tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân giành độc
lập. Người nói: “Chúng ta phải đương đầu với bọn thực dân phản động
Pháp trong một cuộc kháng chiến lâu dài… Chúng ta phải thu góp tất cả
lực lượng của tồn quốc…, người có sức giúp sức, có tiền giúp tiền, có của
giúp của…phải tập trung hết thảy nhân lực, vật lực, tài lực… phải động
viên lao động, động viên giao thông, động viên công nghệ, động viên nơng
nghiệp, động viên tài chính, tiết kiệm…”. Đó là cuộc chiến tranh toàn dân,
toàn diện và trường kỳ.
Cùng với việc chuẩn bị về tư tưởng, lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh
tiến hành một số biện pháp về tổ chức, tạo cơ sở chính trị vững chắc cho
cuộc chiến tranh sắp tới.
Ngày 9/11/1946, Quốc hội thông qua Hiến pháp chính thức của nước
Việt Nam Dân chủ cộng hồ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đó là bản hiến
pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà, đồng thời cũng là bản hiến pháp đầu
tiên trong cõi Á Đơng này”.
Tình hình ngày càng thêm căng thẳng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi
đi các cấp lãnh đạo bản chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” với nội dung
nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân là “kháng chiến và kiến quốc”.


12


Ngày 20/11/1946, lấy cớ bảo vệ Hoa kiều và thực hiện quan thuế liên
bang, chúng nổ súng vào bộ đội và nhân dân ta, phong toả cảng Hải Phòng,
chiếm Lạng Sơn. Tại Hà Nội, thực dân Pháp tàn phá, bắn vào tàu điện, lập
nhiều ổ tác chiến…
Trước tình hình đó, trong 2 ngày, 18 và 19/12/1946, Thường vụ
Trung ương Đảng họp phiên bất thường dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, sau khi phân tích tình hình, Hội nghị quyết định: động viên sức
người, sức của của dân tộc, tiến hành cuộc chiến tranh chính nghĩa chống
thực dân Pháp xâm lược. Với đường lối kháng chiến là toàn dân, toàn diện,
trường kỳ. Để giành quyền chủ động trong chiến tranh Hội nghị Ban
Thường vụ Trung ương quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc
vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946.
Chiều 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến: Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hồ bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng
ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp
nước ta một lần nữa!.
Khơng! chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ!
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên…giờ cứu nước đã đến. Ta
phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ đất nước. Dù phải gian lao
kháng chiến, nhưng với một lòng quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân
tộc ta!
Từ ngày đất nước độc lập đến ngày toàn quốc kháng chiến, chỉ có 16
tháng nhưng đó là giai đoạn vơ cùng trọng đại của dân tộc. Trong thời gian
đó, nước ta đơn độc giữa vòng vây trùng điệp của kẻ thù - hết quân Tưởng
đến quân Pháp và bọn phản động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ln ung dung,


13


sáng suốt, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam bình tĩnh vượt qua bao
ghềnh thác nguy hiểm. Chính thời điểm khó khăn này, thiên tài của Người
đã bộc lộ sáng chói. Nắm vững mục tiêu bất biến là độc lập, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, ở từng thời điểm, từng đối tượng, Người đã
có những biến hố trong sách lược nhằm phân hố, cơ lập kẻ thù, tạo thêm
thời gian và điều kiện để củng cố chính quyền, chuẩn bị lực lượng, dẫn dắt
tồn dân đi vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Những đối sách linh hoạt, những chủ trương biện pháp sáng tạo của
Người trong đối phó với kẻ thù, xây dựng chế độ mới và chuẩn bị lực
lượng cho cuộc kháng chiến biết là khơng tránh khỏi, đã thể hiện bản lĩnh,
trí tuệ thiên tài của lãnh tụ mãi mãi là những bài học vô giá đối với chúng
ta ngày nay.
3. Lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược:
a. Hoạch định sáng suốt đường lối, phương châm kháng chiến
Để chuẩn bị kháng chiến, trước hết phải xây dựng niềm tin cho tồn
dân. Hồ Chí Minh khẳng định: “Khơng qn đội nào, khơng khí giới nào có
thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”.
Để chiến đấu và chiến thắng kể thù xâm lược hùng mạnh, Hồ Chí
Minh đã kết hợp được bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác
- Lênin với truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông ta để lại. Đó là
đường lối chiến tranh nhân dân tồn dân kháng chiến, toàn diện kháng
chiến với phương châm lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Để kháng chiến tồn dân, Người kêu gọi: “Mỗi công dân là một
chiến sĩ, mỗi làng là một chiến hào”. Chiến tranh nhân dân sẽ đưa kẻ thù
vào “thiên la, địa võng”, khơng có sự phân biệt giữa tiền tuyến và hậu
phương, trước mặt, sau lưng, bất cứ ở đâu và lúc nào cũng có thể bị tấn

công và tiêu diệt.
14


Kháng chiến toàn dân sẽ dẫn đến kháng chiến toàn diện. Cuộc chiến
đấu chống kẻ thù sẽ diễn ra trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh
tế, văn hoá…, Người đề ra khẩu hiệu: vừa diệt giặc đói, giặc dốt, vừa giặc
ngoại xâm, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa chi viện tiền tuyến, vừa
củng cố hậu phương. Người ra lời kêu gọi thi đua ái quốc: “Mỗi người dân
Việt Nam, bất kỳ già trẻ, trai gái, bất kỳ giàu, nghèo, lớn nhỏ đều cần trở
nên một chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận: Quân sự, kinh tế, chính trị, văn
hố. Thực hiện khẩu hiệu: “Tồn dân kháng chiến… toàn diện kháng chiến,
vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”.
Đường lối kháng chiến dựa vào sức mình là chính của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là đường lối phát huy sức mạnh tổng hợp của cuộc chiến tranh
nhân dân, nên nhờ đó càng đánh, ta càng mạnh, càng đánh ta càng thắng.
Đó là đường lối đúng đắn, sáng tạo.
b. Bồi dưỡng những nhân tố bảo đảm kháng chiến thắng lợi
Để đưa được kháng chiến toàn dân đi đến thắng lợi, Hồ Chí Minh
chăm lo giải quyết những vấn đề về xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán
bộ, rèn luyện tư tưởng đạo đức và tác phong lãnh đạo của cán bộ đảng viên
nhằm nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Người đề ra xây dựng:
“một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để”.
Đầu năm 1947, Người viết thư gửi các đồng chí Bắc Bộ, Trung Bộ,
biểu dương những ưu điểm của cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng nghiêm
khắc phê phán những khuyết điểm, lệch lạc có hại cho sự nghiệp kháng
chiến như đầu óc bè phái, hẹp hịi…, ngồi ra Người cịn viết hồn thành
hai tác phẩm quan trọng: Đời sống mới và Sửa đổi lối làm việc.
Tác phẩm Đời sống mới hướng dẫn bộ đội và nhân dân ta sửa chữa
những cái cũ, khơng cịn phù hợp, thực hiện những cái mới mà hay trong

đời sống, cách ăn mặc, đi lại… Tác phẩm đã giúp cho cán bộ và nhân dân

15


ta biết xử lý một cách đúng đắn mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới trong
đổi mới.
Sức mạnh tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân chỉ có thể phát
huy được đầy đủ khi xây dựng được một lực lượng vũ trang nhân dân ba
thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.
Tháng 6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc,
từ đó phong trào thi đua yêu nước đã phát triển mạnh “Người người thi
đua, ngành ngành thi đua, ngày ngày thi đua”.
c. Mở rộng hoạt động tuyên truyền đối ngoại
Sau thất bại Thu - Đông 1947 ở Việt Bắc, thực dân Pháp, từ chiến
lược “đánh nhanh, thắng nhanh” buộc phải chuyển sang chiến lược đánh
lâu dài, với âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh
ni chiến tranh”.
Trong tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đẩy mạnh các
hoạt động tuyên truyền đối ngoại, phá thế cô lập về ngoại giao, tranh thủ sự
đồng tình và ủng hộ của lồi người tiến bộ đối với cuốc đấu tranh chính
nghĩa của nhân dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên tục gửi nhiều thư, điện đến chính phủ
và nhân dân các nước Ấn Độ, Miến Điện,…, và cử đoàn đại biểu đi dự các
hội nghị Liên Á hợp tác Ấn Độ, dự Lễ tuyên ngôn độc lập của Miến
Điện…
Tháng 4/1949, quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tiến xuống
Hoa Nam. Theo đề nghị của Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định
mở chiến dịch Thập vạn đại sơn, tham gia giúp bạn giải phóng một khu vực
từ Thuỷ Khẩu đến Ninh Minh, Bằng Tường, Phòng Thành…


16


Ngày 01/10/1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện chúc mừng tới Đảng, nhân dân Trung Hoa.
Ngày 02/01/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Tân Trào, lên Bắc
Kinh hội đồn với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, sau đó đi Matxcơva để
đàm phán và ký hiệp định hợp tác với Liên Xơ.
Ngày 14/01/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời tun bố gửi chính
phủ các nước trên thế giới, Người tuyên bố: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hồ là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn
sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình
đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để
cùng nhau bảo vệ hồ bình và xây đắp dân chủ thế giới”.
Ngày 18/01/1950, Chính phủ Trung Quốc cơng nhận chính phủ ta,
tiếp theo ngày 30/01/1950, Chính phủ Liên Xơ, rồi chính phủ các nước dân
chủ nhân dân Đông Á lần lượt công nhận và lập quan hệ ngoại giao với
nước ta.
Với thắng lợi ngoại giao này của ta, vòng vây của chủ nghĩa đế quốc
đã bị phá vỡ. Từ đây, cuộc kháng chiến của nhân dân ta được tiếp thêm sức
mạnh của cách mạng thế giới sẽ từng bước chuyển sang giai đoạn phản
công và tấn công.
d. Chủ trì Đại hội tồn quốc lần thứ II của Đảng
Trước yêu cầu của tình hình mới, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương Đảng họp từ ngày 21 đến 23/6/1950 đã quyết định triệu tập Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo chính trị trước Đại hội, trong đó
đề ra những nhiệm vụ mới là “đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và

tổ chức Đảng lao động Việt Nam”.
17


Người nhận định cuộc kháng chiến của ta có thể trải qua ba giai
đoạn: “Giai đoạn thứ nhất thì ta cốt giữ vững và phát triển chủ lực. Giai
đoạn này từ 23/9/1945 đến hết chiến dịch Việt Bắc, Thu - Đơng giai đoạn
1947. Giai đoạn thứ hai thì ta tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công.
Giai đoạn này sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947 đến nay. Giai đoạn thứ ba
là tổng phản công”.
Để đưa kháng chiến đến thắng lợi, Người đề ra các nhiệm vụ: xây
dựng và phát triển quân đội về chính trị, quân sự, phát triển tinh thần yêu
nước của nhân dân, triệt để thi hành giảm tô, giảm tức, tịch thu ruộng đất
của thực dân Pháp và Việt gian tạm cấp cho dân cày nghèo và gia đình các
chiến sĩ. Tăng cường đồn kết dân tộc, củng cố mặt trận Liên Việt - Việt
Minh, Người khẳng định muốn thực hiện được những nhiệm vụ to lớn đó,
“Chúng ta phải có một Đảng cơng khai, tổ chức hợp với tình hình thế giới
và tình hình trong nước, để lãnh đạo tồn dân đấu tranh đến thắng lợi,
Đảng đó lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam”.
Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội là một văn
kiện lý luận quan trọng của Đảng ta, nó đã đúc kết một cách ngắn gọn, súc
tích q trình hoạt động và những bài học kinh nghiệm của Đảng, nó là
mẫu mực của sự kết hợp lý luận với thực tiễn, đem chủ nghĩa Mác - Lênin
vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta, báo cáo chính trị đã
vạch đường lối và phương hướng phấn đấu cho toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
e. Củng cố hậu phương về mọi mặt, tạo sức mạnh mới cho cuộc kháng
chiến
Sau hơn 4 năm chiến đấu, cuộc kháng chiến của ta đã từ bị động
chuyển dần sang chủ động, từ thế yếu chuyển dần sang thế mạnh, từ cầm

cự đang chuẩn bị chuyển sang tổng phản công.

18


Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (9/1951) đã nhận
định: ta đã giữ được quyền chủ động trên chiến trường nhưng chưa thay đổi
được tình thế ở đồng bằng Bắc Bộ. Hội nghị đề ra ba nhiệm vụ lớn:
Một là, ra sức tiêu diệt nhiều sinh lực địch
Hai là, phá tan kế hoạch “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng
người Việt đánh người Việt” của địch.
Ba là, bồi dưỡng sức kháng chiến của nhân dân, xây dựng căn cứ
địa, củng cố hậu phương để khắc phục tiền tuyến, phục vụ kháng chiến.
Phân tích mối quan hệ giữa ba nhiệm vụ trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Đánh địch về mặt quân sự và về mặt chính trị là để tiêu hao sinh
lực địch… Tăng gia sản xuất và tiết kiệm để bồi dưỡng lực lượng ta, tiêu
hao lực lượng địch. Tiêu hao lực lượng địch để bồi dưỡng lực lượng ta.
Cho nên 3 nhiệm vụ ấy phải cùng tiến hành cùng nhau”.
Nhờ đó, phong trào sản xuất nơng nghiệp đã nhanh chóng phát triển
mạnh, rộng khắp. Giữa năm 1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được
thành lập, mậu dịch quốc doanh ra đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tham ơ,
lãng phí, quan liêu là những căn bệnh rất nguy hiểm. Người xếp những “tôi
lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám” địi hỏi phải được trừng
trị nghiêm khắc.
Thắng lợi về chính trị, quân sự, kinh tế tạo những điều kiện thuận lợi
cho cơng tác văn hố, văn nghệ, giáo dục phát triển, tạo hậu phương vững
chắc về mọi mặt.
f. Chỉ đạo tiến công tiêu diệt sinh lực địch, đi tới trận quyết chiến chiến
lược Điện Biên Phủ
Cuối năm 1950 đến giữa 1951, ta liên tiếp mở 3 chiến dịch: Chiến

dịch Trung Du, chiến dịch đường số 18 và chiến dịch Hà - Nam - Ninh,

19


nhằm tiêu hao sinh lực địch song ta cũng bị tổn thất không đạt được mục
tiêu đề ra.
Ngày 24/11/1951, Trung ương Đảng ta chỉ thị về nhiệm vụ phá cuộc
tiến cơng Hồ Bình của địch. Thực hiện chỉ thị của Người, bộ đội chủ lực
của ta mở chiến dịch vây đánh địch ở Hồ Bình, qn Pháp đã thất bại buộc
phải rút khỏi Hồ Bình.
Ngày 14/10/1952, qn ta tiến vào Tây Bắc tiêu diệt địch. Ngày
6/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng
quyết định tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ của ta, mở cuộc đại tiến
cơng và tập đồn cứ điểm mạnh nhất của địch, chọn Điện Biên Phủ làm
điểm quyết chiến chiến lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước
kiên cường và chủ nghĩa anh hùng cách mạng bất khuất của quân và dân ta
dưới sự lãnh đạo tài tình của Trung ương Đảng và chính phủ, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
g. Mở mặt trận ngoại giao, kết thúc chiến tranh, lập lại hồ bình ở Đơng
Dương
Cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài đã làm cho nước Pháp suy yếu.
Ngày 8/5/1954, Hội nghị Giơnevơ về Đơng Dương được khai mạc. Phía ta
đưa ra 8 điểm để thảo luận tại Hội nghị, đó là: Đình chỉ chiến sự đi đơi với
một giải pháp chính trị cho Việt Nam, Lào và Campuchia, trên cơ sở tơn
trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ của mỗi nước
Đông Dương. Ngày 21/7/1954 Hiệp định Giơnevơ về Đơng Dương đã
được ký kết, theo đó: các nước thừa nhận và tôn trọng các quyền dân tộc cơ
bản của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia, ngừng bắn đồng thời trên

tồn chiến trường Đơng Dương, Pháp rút quân về nước, vĩ tuyến 17 chỉ ra

20


ranh giới quân sự tạm thời giữa hai miền, sau hai năm sẽ tông tuyển cử để
thống nhất đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đã sáng suốt hoạch định đường lối,
phương châm kháng chiến. Người đã bồi dưỡng những nhân tố bảo đảm
cho kháng chiến thắng lợi. Người là sức mạnh quy tụ khối đại đoàn kết dân
tộc. Người đã khéo kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để
chiến thắng kẻ thù.

21


CHƯƠNG II
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
Hồ Chí Minh xuất phát từ nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, Người
đã thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng mang bản chất của giai cấp
công nhân. Đây là Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, đảng
của dân tộc Việt Nam.
Trong giai đoạn này, Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng Đảng, xây
dựng đội ngũ cán bộ, rèn luyện tư tưởng đạo đức và tác phong lãnh đạo của
cán bộ, đảng viên, nhằm nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng.
Người đề ra phải xây dựng “một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong
sạch, cách mạng triệt để”.
Năm 1947, Người hoàn thành hai tác phẩm: Đời sống mới và Sửa

đổi lối làm việc.
Tác phẩm Sửa đối lối làm việc là tác phẩm quan trọng về xây dựng
Đảng, một tài liệu học tập rất bổ ích, thiết thực cho cán bộ để tu dưỡng về
tư tưởng, đạo đức, phương pháp và phong cách công tác.
Người chỉ ra những căn bệnh cần sửa chữa là bệnh chủ quan, kém lý
luận lại xa thực tế, bệnh hẹp hòi, cá nhân, bản vị, cục bộ, bệnh ba hoa trong
cách nói, cách viết. Người yêu cầu phải học cách nói, cách viết của quần
chúng, “mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ ra cái tư tưởng và
lịng ước ao của quần chúng”.
Người nói “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan, phát tài.
Nó phải làm trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc mạnh
giàu, đồng bào sung sướng”. Do đó, Đảng phải hiểu biết về lực lượng cách
mạng, phải kết hợp lý luận với thực tế, với kinh nghiệm cách mạng trong
22


nước và trên thế giới. Đảng phải liên hệ mật thiết với quần chúng, giữ kỷ
luật nghiêm từ trên xuống dưới, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê
bình, khơng che dấu khuyết điểm của mình. Theo Người, “một Đảng mà
giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan nhận
khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó,
xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng bộ, mạnh
dạn, chắc chắn, chân chính”.
Sửa đổi lối làm việc thể hiện những nội dung cơ bản của tư tưởng,
đạo đức, phương pháp và phong cách của Hồ Chí Minh. Đó là văn kiện vơ
giá, có đóng góp to lớn vào việc giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, thử
thách những người cách mạng trung thành với sự nghiệp của Đảng, của
nhân dân.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
Cách Mạng Tháng 8/1945 thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập

ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cơng hồ, Nhà nước dân chủ đầu tiên ở
Đông Nam Á. Nhà nước mang bản chất giai cấp cơng nhân, tính chất dân
chủ rộng rãi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu Tổng
tuyển cử bầu quốc hội vào ngàu 5/01/1946: “Ngày mai là một ngày sẽ đưa
quốc dân ta lên con đường mới mẻ”.
Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là
ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng chung quyền dân chủ của mình.
Ngày 6/01/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước ta được tổ
chức trên cả nước, bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Và Quốc hội đã xây dựng nên nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh

23


đã ký Sắc lệnh giải tán Chính phủ cũ xác lập chính phủ mới từ Trung ương
đến địa phương.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác lập những nguyên tắc hoạt động cơ bản
của chính quyền nhân dân là gánh vác cơng việc của nhân dân, là đầy tớ
của nhân dân, vì vậy cần thương yêu, gần gũi và kính trọng dân.
Người căn dặn cán bộ các cấp: “cơ quan của chính phủ từ tồn quốc
đến các làng, đều là cơng bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho
dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền dưới
quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm.
Việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải u dân, kính
dân, thì dân mới u ta, kính ta”. Người thẳng thắn vạch rõ “những lỗi lầm
rất nặng nề” của một số cán bộ có chức, có quyền, đó là các căn bệnh như:
Trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo…
Với tất cả sự nỗ lực đó, nhà nước cách mạng non trẻ do Chủ tịch Hồ

Chí Minh lãnh đạo được tồn dân thừa nhận là nhà nước của dân, hoạt
động vì cơm áo, hạnh phúc của dân, đấu tranh cho độc lập tự do của dân,
nếu được toàn dân sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ nhà nước của mình.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng các lực lượng vũ trang nhân
dân với ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ và
du kích. Đấy là nịng cốt cuộc đấu tranh vũ trang của tồn dân. Người nhấn
mạnh vai trò chiến lược của dân quân, tự vệ và du kích: “Dân quân, tự vệ
và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một
bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ địch hung bạo thế nào, hễ đụng vào
lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan dã”. Muốn đẩy mạnh
chiến tranh nhân dân, ba thứ quân phải dựa vào dân, bám sát lấy dân, phối

24


hợp chặt chẽ với nhau, lực lượng vũ trang phải vừa đánh địch bằng quân
sự, vừa đánh địch bằng chính trị và kinh tế.
Ngồi ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn coi trọng đến giáo dục chính trị,
tư tưởng, làm cho quân đội ta thực sự là quân đội của nhân dân, được dân
tin, dân phục, dân yêu. Người nhắc nhở: Quân đội từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu, “quân với dân như cá với nước”, cho nên phải bảo
vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, không được đụng đến một cái kim,
sợi chỉ của dân, đóng qn ở đâu thì phải giúp đỡ nhân dân ở đó, tăng gia
sản xuất. Khi chiến đấu, quân đội phải dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, thi đua
cướp súng giặc để giết giặc, tiêu diệt sinh lực địch và phát triển lực lượng
của ta.
Người đề ra ngày 27/7/1947 là ngày toàn dân giúp đỡ thương binh và
gia đình liệt sĩ. Chỉ thị cho các cấp, chính quyền và kêu gọi nhân dân giúp
đỡ thương binh và các gia đình liệt sĩ.

Được sự giáo dục, chăm sóc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung
ương Đảng, các lực lượng vũ trang nhân dân trong số lực lượng còn ít ban
đầu đã trưởng thành nhanh chóng, trở nên một đội quân cách mạng hùng
mạnh, làm thất bại mọi kế hoạch quân sự của địch.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định phương châm của Chính phủ Việt
Nam là “Đồn kết tồn dân, quyết tâm vì chính nghĩa, quyết giữ độc lập
bằng mọi giá”.
Tăng cường mở rộng khối đoàn kết toàn dân nhằm thu hút rộng rãi
đông đảo nhân dân tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Người chỉ thị phải nhanh chóng phát triển các tổ chức, thành lập tổng liên
đoàn lao động Việt Nam, thành lập hội liên hiệp quốc dân Việt Nam, thành
lập Đảng xã hội Việt Nam, Đảng của những người tri thức yêu nước, thành
25


×