Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.4 KB, 22 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Đồn kết dân tộc là một truyền thống quý báu của dân tộc ta trong
suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Kế thừa và phát huy truyền
thống đó, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn coi trọng và không
ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp
lãnh đạo nhân dân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa của chúng ta trong bối cảnh mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, giao
lưu với thế giới hiện đại , tình hình quốc tế có nhiều biến động khơn lường,
việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên tổng hợp lực để
thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm đạt mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh cần có sự đồn kết
thống nhất cao độ theo tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Do
đó u cầu tìm hiểu sâu sắc tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh
là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay. Từ những lý do trên,
tác giả đã chọn đề tài tiểu luận mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết với tên đề tài là: "Đại đồn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, quyết định thành bại của cách mạng", một mảng đề tài nhỏ trong nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh vêf đại đồn kết ít có người nghiên cứu sâu sắc.
Với phạm vi là một tiểu luận tác giả chỉ có thể đi vào những nội dung cơ bản
nhất trong tư tưởng của Người về vấn đề mà ta. Từ lúc bắt tác giả chọn để
nghiên cứu. Từ khi tìm hiểu nội dung đề tài tiểu luận, thu thập tài liệu cho
đến khi bắt tay vào viết tiểu luận và hoàn thành đề tài, tác giả chủ yếu dùng
phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp tổng hợp khi phân tích các sự


kiện. Bố cục của đề tài được tác giả chia thành 3 chương chính, ngồi phần
mở đầu, kết luận và phụ lục.
Với những hiểu biết về cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết nói
riêng, tác giả hy vọng sẽ đóng góp phần nhỏ vào cuộc làm sáng tỏ hơn nữa,


sâu sắc hơn nữa về vai trò của người thanh niên Nguyễn Tất Thành - Nguyễn
Ái Quốc đối với vấn đề đại đoàn kết dân tộc trong quá trình chỉ đạo chiến
lược cách mạng cũng như việc Đảng ta vận dụng vấn đề này trong tình hình
mới hiện nay. Tuy nhiên đề tài chỉ được nghiên cứu trong một thời gian
ngắn, kiến thức của tác giả về đối tượng nghiên cứu vẫn còn hạn chế khó
tránh khỏi những thiếu sót, xin được sự đóng góp ý kiến về phía thầy cơ và
các bạn sinh viên để tiểu luận có thể hồn chỉnh hơn.

CHƯƠNG I: VÀI NÉT VỀ NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
ĐẠI ĐỒN KẾT HỒ CHÍ MINH
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Truyền thống tốt đẹp của dân tộc và nhân loại, đặc biệt là truyền
thống đồn kết
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống tốt đẹp từ bao đời nay. Trong
kho tàng truyền thống tốt đẹp đó, truyền thống u nước, đồn kết, nhân
nghĩa của cộng đồng dân tộc, những kinh nghiệm, tư tưởng tập hợp lực
lượng dân tộc để cứu nước, dựng nước của các thế hệ yêu nước, các mạng
của ông cha đi trước đã tác động mạnh mẽ đến việc hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đồn kết.
truyền thống đại đồn kết được hình thành và bắt nguồn từ đặc điểm,
vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của nước ta. Đó là một dãy đất hẹp nằm trọn


trong vành đai nhiệt đới gió mùa, quay mặt ra biển đông, lưng tựa vào dãy
Trường Sơn hùng vĩ. Tất cả những điều đó đã tạo cho cư dân vùng đất này
xa xưa đã hưởng được sự ưu đãi của trời đất nhưng đồng thời cũng đối mặt
với những thử thác khắc nghiệt của thiên tai, địch họa…Cuộc đấu tranh hàng
ngàn năm không mệt mỏi chống chống lại sự hà khắc của thiên nhiên như
hạn hán, lũ lụt, chống bọn đế quốc, thực dân xâm lược…đã tạo cho cộng
đồng ý thức dân tộc, ý thức tập thể, sự gắn kết cộng đồng làng xã. Ý thức

này đã ngấm vào máu, vào thịt của con người Việt Nam và được truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác, nó đã tạo thành truyền thống đoàn kết, nhân
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước. Bên cạnh đó, quê hương Nghệ An
của Nguyễn Ái Quốc, một miền quê nghèo khó, đau thương nhưng vô cùng
kiên cường, bất khuất. Nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng bao thế hệ anh hùng
cách mạng. Ở đó hội tụ và kết tinh một cách điển hình truyền thống yêu
nước, đoàn kết, nhân nghĩa của dân tộc. Hồ Chí Minh lại được sinh ra và lớn
lên trong một gia đình nhà nho yêu nước từ bao thế hệ. Thân phụ của Người
là một thầy đồ mẫu mực, hết lịng lo cho nước lo cho dân, ln có nguyện
vọng thiết tha là làm sao đấu tranh giành lại nền độc lập cho nước nhà. Bên
cha, Hồ Chí Minh sớm đã hấp thụ được những giá trị nhân bản của truyền
thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa Việt Nam. Bác đã từng khái quát: "
Nhân dân ta có một lịng nồng nàng u nước, đó là một truyền thống tốt
quý báu của dân tộc. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh
thần ấy lại dâng lên mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước1.
Ngoài truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những giá trị nhân bản trong
văn hoá Phương Đông, Phương Tây và tư tưởng tập hợp lực lượng của các
nhà cách mạng lớn ở khu vực, trên thế giới cũng là những cơ sở quan trọng
1

Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị quốc gia , H.1995, T.6, Tr.117


giúp Hồ Chí Minh xây dựng chiến lược đại đồn kết của mình. Đặc điểm do
được sinh trưởng trong gia đình Nhà nho chính thống cho nên Người sớm có
điều kiện tiếp xúc với văn hố Phương Đơng - trong đó giá trị nhânn bản của
Nho giáo, Phật giáo đóng vai trị hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, Hồ Chí
Minh đã tiếp những hạt nhân hợp lý của tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái
được ghi trên lá cờ của các trào lưu tư tưỏng Phương Tây. Những tư tưởng

nhân văn đó đã được Hồ Chí Minh tiếp nhận ngay từ lúc Người còn ngồi
trên ghế nhà trưởng quê hương và được Người kiểm chứng, sàng lọc trong
suốt ba mươi năm bơn ba hải ngoại. Điều đó thể hiện ở sự đồng cảm về quan
điểm qua những tác giả mà Người u thích như: Vơnte, Mơngtexkyơ,
Rutxo,…, trong những lời bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập mà Bác đã trích
trong Tun ngơn dân quyền và nhân quyền của Pháp (1789) và Mỹ (1776).
Bên cạnh đó, trong q trình xây dựng đường lối cứu nước nói chung, chiến
lược đại đồn kết nói riêng Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tham khảo các chủ
thuyết, các tư tưởng tập hợp cách mạng của các nhà cách mạng lớn trên thế
giới và trong khu vực. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc tới hai nhân vật: Tôn
Dật Tiên và Gandni. Người tiếp thu những tư tưởng tích cực của Tơ Dật
Tiên, Gandni và các nhà cách mạng khác trên thế giới, khu vực, đồng thời
Người cũng chú ý bổ sung những khiếm khuyết ở họ để sáng tạo ra một
chiến lược đại đồn kết theo lập trường giai cấp vơ sản và phù hợp với tình
hình, đặc điểm thực tiễn của Việt Nam.
Có thể nói Hồ Chí Minh là biểu tượng của sự kết hợp hài hồ cốt cách
Phương Đơng sau láng thâm trầm với phong cách khoáng đạt, cởi mở của
người Phương Tây. Bởi vậy tư tưởng Hồ Chí Minh khơng cỉ dễ thấm sâu vào
lòng người Việt Nam, lòng người Phương Đơng mà cịn có sức hấp dẫn, lơi
cuốn đối với cả người Phương Tây.
1.1.2 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về đại đoàn kết


Trong hệ thống quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, trong số
đó có những quan điểm cốt lõi mà Hồ Chí Minh đã trực tiếp tiếp thu để vận
dụng vào chiến lược cách mạng của dân tộc ta, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.
Thời đại mà Hồ Chí Minh sinh ra và hoạt động là thời đại của cách
mạng vô sản, thời đại mà chủ nghĩa cộng sản từ học thuyết trở thành hiện
thực sinh động. trong bối cảnh này Hồ Chí Minh đã có nhận định hết sức sâu

sắc rằng chủ nghĩa Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất, triệt
để nhất, tiên tiến nhất, khoa học nhất của thời đại có sức hấp dẫn đã chinh
phục được hàng triệu trái tim, khối óc của nhân loại.
Lúc sinh thời CacMac và Ăngghen do hoàn cảnh lịch sử qui định chưa
có điều kiện đi sâu tìm hiểu, đánh giá vai trò của phong trào cách mạng
thuộc địa. Tuy vậy, lúc cuối đời hai ông cũng bắt đầu nghiên cứu và viết một
loạt bài bênh vực phong trào giải phóng dân tộc ở Ailen, lên án chính
sáchthống trị của thực dân Anh ở Ấn Độ…Trong Tuyên ngôn Đảng cộng
sản, Mác và Ăngghen đã đưa ra một khẩu hiệu chiến đấu vang dội:
"Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại".
Lênin đã tiếp thu, kế thừa và phát triển tư tưởng tập hợp lực lượng
cách mạng quốc tế của Mác và Ăngghen phù hợp với thời kỳ lịch sử mới.
Ơng đã nêu vấn đề đồn kết những người vơ sản với nhân dân các nước bị
áp bức, bóc lột nhằm chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc thành một
khẩu hiệu mạng tính chiến lược có tính kế thừa và phát triển:
"Giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đoàn kết
lại"
Chúng ta thấy, chủ nghĩa Mác- Lênin khi nói tới sứ mệnh lịch sử giải
phóng lồi người của giai cấp vô sản đã chỉ rõ: ở mỗi nước, giai cấp vơ sản
là giai cấp cách mạng nhất. Ngồi ra, cịn có những tầng lớp bị giai cấp tư


sản bị bóc lột cũng làm cách mạng như tiểu nông, tiểu tư sản thành thị,. Giai
cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải đoàn kết những người bị áp bức, hình
thành nhân dân trong nước. Để đảm bảo thực hiện sứ mệnh lịch sử, giai cấp
vô sản cần phải có một bộ tham mưu ở mỗi nước trên phạm vi toàn thế giới.
Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chứng minh những
hoạt động thực tiễn của Quốc tế cộng sản. Đại hội các dân tộc Phương Đông
ở Ba Cu diễn ra tháng 9 năm 1921 là bước ngoặc quan trọng kết nối giữa
những người lãnh đạo Phương Tây và các dân tôc bị áp bức ở Phương Tây.

Bên cạnh đó, Đại hội Quốc tế cộng sản triệu tập các dân tộc Viễn Đông ở
Matxcơva- tháng 12 năm 1921 đã khẳng định con đường giành độc lập tự do
phải có sự liên minh giữa quần chúng lao động và các dân tộc bị áp bức. Đại
hội đã thông qua nghị quyết và khảng định: " Con đường thật sự dẫn tới tự
do và độc lập ở các dân tộc Viễn Đông với giai cấp vô sản các nước tiên
tiến và chỉ liên minh với họ mới chống lại các nước Đế quốc".
Hồ Chí Minh từ một người yêu nước đã trở thành một chiến sĩ cộng
sản. Đã đến với chủ nghĩa Mác- Lênin bởi lẽ động lực để người tin theo
Lênin, tin theo quốc tế III trước hết là vì Lênin là " vì Lênin là hiện thân của
tình anh em bốn bể, là vì chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mác đã đề cập đến sự
cần thiết và con đường tập hợp các lực lượng cách mạng trên toàn thế giới,
lực lượng cách mạng từng nước vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc.
1.1.3 Khái niệm đại đồn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo Hồ Chí Minh "Đại đồn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại
đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta la công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đồn kết. Nó cũng
như là cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng có nền vững, gốc tốt, cịn phải
đồn kết các tầng lớp nhân dân khác"


Đây là định nghĩa đầy đủ nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đồn
kết, đồng thời định nghĩa này còn chỉ ra nguyên tắc đầu tiên của đại đoàn kết
theo tư tưởng của Người..
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Thực tiễn Việt Nam
Về mặt thực tiễn, tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh được hình thành
trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm và nắm bắt những đòi hỏi khách quan
của phong trào cách mạng Việt Nam, phong trào cách mạng thế giới - đặc
biệt là phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.

Hồ Chí Minh là sự kết hợp hết sức hài hoà hoạt động lý luận và hoạt
động thực tiễn.Đối với Hồ Chí Minh hoạt động thực tiễn bao giờ cũng giờ
cũng là điểm xuất phát và là nhân tố thường xuyên kiểm chứng, điều chỉnh
hoạt động lý luận. Cuộc đời và hoạt động của Hồ Chí Minh bao giờ cũng là
một tám gương sáng về tinh thần xâm nhập, quan sát, phân tích, tổng kết
thực tiễn, để từ đó suy nghĩ, xác định phương hướng chủ trương để đưa hoạt
động thực tiễn đi đến đúng quỹ đạo và đạt hiệu quả cao nhất. Chiến lược đại
đồn kết Hồ Chí Minh chủ yếu và trước hết xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn
cách mạng Việt Nam, cách mạng thuộc địa.Từ giữa thế kỷ thứ XIX, thực dân
Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Với tinh thần yêu nước và sức mạnh
truyền thống của dân tộc, lịng câm thù giặc ngoại xâm và ý chí giành độc
lập, nhân dân Việt Nam đã nhất tề vùng lên chống quân xâm lược, mở đầu
cho thời kỳ dài đấu tranh đánh đuổi quân xâm lược của dân tộc ta.
Cuộc kháng chiến bắt đầu từ nơi Pháp đã bắt đầu nổ súng và đổ quân
xâm lược vào ngày 1-9-1858 - Đà Nẵng. Từ đây cuộc kháng chiến của nhân
dân ta nhanh chóng ra cả Quảng Nam và hầu khắp các tỉnh Nam Bộ. Trong
khơng khí sơi nổi chống giặc của nhân dân cả nước thì triều đình Huế lại
xuất hiện các phe khác nhau: phái chủ chiến, chủ hòa và phái khơng hịa


khơng chiến, trong đó phái chủ hịa lại chiếm ưu thế. Và trước tình hình đó
đã dẫn tới việc triều đình Huế đã ký kết với Pháp hiệp ước 5-6-1862, hiệp
ước nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam bộ và đảo Côn lôn. Hiệp ước
đã ký kết, phong trào khởi nghĩa của nhân dân 3 tỉnh miền Đông vẫn tiếp tục
dâng cao. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Trương Định (1820-1864) với tinh
thần trung với nước hiếu với vua. Đến năm 1867 khi ba tỉnh miền Tây là
Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên rơi vào tay giặc thì phong trào chống Pháp
của nhân dân lục tỉnh Nam kỳ phát triển một cách rầm rộ. Lần lượt kẻ trước
ngã, người sau tiếp bước nhưng cuối cùng các cuộc khởi nghĩa đều thất bại
nhưng tinh thần yêu nước, ý chí anh dũng kiên cường quyết đánh đuổi giặc

ngoại xâm và không khuất phục trước kẻ thù của nhân dân vẫn không hề
lung lay mà còn dâng lên mạnh mẽ. Từ đây thực dân Pháp bắt đầu đặt nền
cai trị thuộc địa trên đất nước ta mạôt cách tàn bạo và dã man.
Một trong những chính sách căn bản, xuyên suốt của thực dân Pháp là
chính sách chia để trị. Nước Việt Nam thống nhất bị chia thành ba xứ với
chế độ cai trị khác nhau: Nam kỳ là đất thuộc dịa, Bắc kỳ là xứ bảo hộ,
Trung kỳ là xứ lưỡng trị. Khơng những như thế, thực dân Pháp cịn áp dung
nguyên tắc chia để trị trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Trải qua hai chương
trinh khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông Dương trước và sau
chiến tranh thế giới thứ nhất xã hội Việt Nam đa phân hoá một cách sâu sắc.
Một xã hội thuộc địa mói đang hình thành vói một cơ cấu xã hội đan xen,
chồng chéo với những với những tôn giáo, đẳng cấp, tập tục đang dạng trên
nền một xã hội truyền thống đang phân rã.
Nhưng đối lập với chính sách chia để trị của bọn thực dân chính là sự
đồng tâm, hiệp lực đoàn kết hết thảy mọi người Việt Nam yêu nước không
phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc…cùng nhau đứng lên đánh
đuổi bọn xâm lược, giành lại độc lập cho xứ sở. Mâu thuẩn vốn có trong


lòng xã hội Việt Nam là mâu thuẩn giữa nhân dân ta, trước hết là mâu thuẩn
giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ, phong kiến không mất đi mà tiếp tục
tồn tại. Và xuất hiện mâu thuẩn mới: mâu thuẩn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với đế quốc Pháp. Sự bóc lột về kinh tế, nơ dịch văn hóa, chun chế
về chính trị dưới ách thống trị của tư bản thực dân Pháp càng đẩy nhân dân
ta vào cảnh khố cùng, cơ cực, càng đặt ra yêu cầu bức thiết cho dân tộc ta là
phải có một hệ tư tưởng, một tổ chức tiên tiến có đủ năng lực, vai trị để lãnh
đạo tồn dân tộc đứng lên chống lại chủ nghĩa thực dân, phong kiến và giành
lại độc lập tự do cho dân tộc. Thời đại mới, cuộc chiến đấu mới địi hỏi phải
có một sức mạnh đồn kết tự giác, có tổ chức của cả một dân tộc. Bi kịch
của đất nước, của dân tộc ta lúc này là thiếu một giai cấp, một lãnh tụ có đủ

tầm, đủ sức xây dựng khối đại đồn kết toàn dân, chiến đấu chống kẻ thù
dưới một cờ của một tư tưởng tiên tiến. Hồ Chí Minh đã cảm nhận được
những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng, tìm chọn bạn đồng minh
của các nhà cách mạng tiền bối, những nhu cầu khách quan mới của lịch sử
dân tộc.
Như vậy thực tiễn đất nước những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX với những bế tắt và địi hỏi bức thiết đó chính là cơ sở quan trọng cho
việi hình thành chiến lược đại đồn kết Hồ Chí Minh.
1.2.2 Thực tiễn thế giới
Trong q trình đi tìm đường cứu nước, qua việc nghiên cứu các cuộc
cách mạng cảu nhiều nước trên thế giới, Hồ Chí Minh đã có nhiều nhân định
về lực lượng đồn kết quốc tế. Người cho rằng thế giới dù đa dạng, nhân loại
vô cùng đông đảo nhưng suy cho cùng chỉ tồn tại hai giống người: người đi
bóc lột và người bị bóc lột. Những người bị bóc lột dù màu da có khác nhau
ở những quốc gia khác nhau đều có chung cảnh ngộ đói khổ, lầm than và do
vậy họ có nhu cầu, nguyện vọng chung đó là cơ sở để liên hiệp lại. Cũng


như giai cấp công nhân các nước tư bản chủ nghĩa, nhân dân bị áp bức, bóc
lột ở các nước thuộc địa tiềm ẩn một năng lực cách mạng vĩ đại và nung nấu
lòng căm thù sâu sắc đối với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. Thực tế
ở nhiều nơi trên thế giới các dân tộc bị áp bức đã tiến hành đấu tranh dưới
nhiều hình thức nhằm chống đế quốc, chống thực dân. Song những cuộc đấu
tranh anh dũng đó đều thất bại mà nguyên nhân theo Hồ Chí Minh suy cho
cùng do chưa có lý luận tiên tiến soi đường, chưa có chính đảng tiên phong
của giai cấp vô sản đứng ra tổ chức, tập hợp. Các dân tộc bị áp bức ở các
nước thuộc địa chưa có sự liên kết với nhau trên phạm vi quốc tế để tiến
hành cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa thực dân. Mặt khác giữa phong
trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa với phong trào giải
phóng dân tộc ở thuộc địa cịn thiếu sự phối hợp, gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau

làm hạn chế sức mạnh của trận tuyến đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Tháng 3-1919, Quốc tế cộng sản do Lênin sáng lập đã trở thành bộ
tham mưu chiến đấu của phong trào cộng sản công nhân quốc tế và phong
trào giải phóng dân tộc. Mặt khác trong thời kỳ đế quốc thực dân hóa, các
dân tộc thuộc địa bị lơi cuốn vào con đường của chủ nghĩa tư bản thực dân.
Đây cũng là một yếu tố quan trọng làm cho chủ nghĩa Mác dễ dàng xâm
nhập vào các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có châu Á và Đơng
dương. Bản thân sự nhu nhập của chủ nghĩa tư bản từ bên ngồi vào lại tạo
ra một cách khơng tự giác cho các dân tộc bị áp bức cả ý thức lẫn phương
tiện và phương pháp tự giải phóng. Sự thức tỉnh về ý thức dân tộc tăng lên
mạnh mẽ cả bề rộng lẫn chiều sâu từ những năm 20 của thế kỷ, nhất là từ
sau cách mạng tháng Mười Nga và Liên bang Xơ viết ra đời.
Lịch sử địi hỏi một cách khách quan sự ra đời của tổ chức để lãnh
đạo đoàn kết các phong trào. Và cách mạng Việt Nam đã chịu tác động mạnh
mẽ của bối cảnh quốc tế đó. Những nhận thức trên của Hồ Chí Minh đúc kết


từ thực tiễn phong trào cách mạng của Việt Nam và tình hình phong trào
cộng sản và cơng nhân quốc tế chính là cơ sở vững chắc hình thành tư
tưởng của Người về đại đồn kết.
CHƯƠNG II: ĐẠI ĐỒN KẾT LÀ VẤN ĐỀ CÓ Ý NGHĨA CHIẾN
LƯỢC LÂU DÀI, QUYẾT ĐỊNH THÀNH BẠI CỦA CÁCH MẠNG
2.1. Đại đoàn kết là một q trình cách mạng có tính sống cịn, lâu
dài của cả dân tộc
Thực tiễn lịch sử từ trước đến nay đã chứng minh tổ chức cách mạng
nào muốn thắng lợi, muốn giành được mục tiêu cuối cùng cũng phải đoàn
kết toàn dân, đoàn kết lâu dài. Nhưng mục tiêu đó, mong muốn đó có thực
hiện được hay khơng cịn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, sự lãnh đạo
và tài đức của Đảng, của lãnh tụ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Đại đồn kết dân tộc là một chiến

lược cách mạng có tính lâu dài, nhất qn, có ý nghĩa sống cịn đối với mọi
cuộc cách mạng. Nó quyết định sự thành bại cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, giành lại chủ quyền đất nước cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Với Người, đại đồn kết dân tộc khơng phải xuất phát từ ý muốn
chủ quan của lý luận mà đó là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của quá
trình cách mạng. Vì Người rất coi trọng vấn đề đại đồn kết dân tộc, coi
đoàn kết là lẽ sinh tồn của dân tộc nên Hồ Chí Minh ln xác định đồn kết
là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Người nhận thức và giải quyết
vấn đề chiến lược đại đồn kết trong suốt tiến trình cách mạng, từ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm thực
hiện mục đích chính trị, kinh tế, quân sự,…Cách giải quyết đó của Hồ Chí
Minh có tính chất tồn cục. Hồ Chí Minh cho rằng phải tìm ra được quy
luật, phương pháp, phương châm của đại đoàn kết. Dù mỗi giai đoạn và
chặng đường cách mạng có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và


phương pháp tập hợp lực lượng sao cho phù hợp với những đối tượng khác
nhau, nhưng đại đồn kết ln ln được Hồ Chí Minh xác định là vấn đề
sống cịn, lâu dài của cách mạng, khơng một phút, một giây nào được lơi là
sự đoàn kết . Bởi lẽ theo Người, đoàn kết làm ra sức mạnh, đoàn kết là then
chốt của thành cơng, "Đồn kết là điểm mẹ. Điều này mà thực hiện tốt thì đẻ
ra con cháu đều tốt".
Mùa xuân năm 1956, tiếng gọi của Bác vang lên, kêu gọi đồng bào cả
nước cùng nhau đoàn kết xây dựng nước nhà:
"Tồn dân đồn kết một lịng
Miền Bắc thi đua xây dựng
Miền nam giữ vững thành đồng
Quyểt chi bền gan phấn đấu
Hồ bình, thống nhất, thành cơng"
Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước cho đến cuối đời, Hồ Chí Minh ln

nhất qn vấn đề đại đồn kết. Trên cơ sở truyền thống đoàn kết của dân tộc
kết hợp với học thuyết khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đã xây
dựng cả một hệ thống quan điểm lý luận, vạch ra được quy luật đoàn kết ở
Việt Nam. Ở đây ván đề đại đồn kết được nhìn nhận là mức độ thắng lợi,
thành công tỷ lệ thuận v ới mở rộng lực lượng,địa bàn đoàn kết dân tộc.
Người đã từng nói một câu nói nổi tiếng v ề đoàn kết:
"Đoàn kết , đoàn kết đại đoàn kết
Thành cơng, thành cơng đại thành cơng"
Theo Hồ Chí Minh, càng đồn kết thì càng thành cơng. Đồng thời, vối
tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Bác, đoàn kết được xem xét và giải quyết
ở một phạm v i rộng, từ đoàn kết trong Đảng đến đoàn kết dân tộc và đồn
kết quốc tế. Vì Hồ Chí Minh ln cho rằng đồn kết có tính lâu dài quyết
định thành bại của cách mạng nên những khía cạnh liên quan đến đại đoàn


kết được Người phản ánh đậm nét trong các bài viết, chiếm trên 40% tổng số
các bài viết của Người. Điều quan trọng hơn là quá trình chỉ đạo thực tiễn
để cho chiến lược đại đoàn kết được vận hành trong suốt q trình cách
mạng. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới các tổ chức quần chúng từ rất
sớm, trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Từ năm 1930 trở đi, dưới sự
lãnh đạo của Đảng quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh đã lấy liên minh cơng
nơng làm nịng cốt và xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất.
Tuỳ vào từng thời kỳ và những nhiệm vụ cụ thể khác nhau của phong
trào cách mạng mà cần có phương pháp tổ chức, bố trí lực lượng tương ứng
với những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể trong từng thời kỳ. Hồ Chí Minh coi
đại đồn kết dân tộc là chiến lược lâu dài, quyết định thành công của sự
nghiệp cách mạng bởi sự nghiệp cách mạng là vơ cùng to lớn, những người
cách mạng phải đồn kết với nhau để thực hiện sự nghiệp đó. Theo Người,
mình đã làm cách mạng nhiều mà chưa thàh cơng trước hết là vì thiếu đồn
kết với nhau. Khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã dùng chính sách chia

để trị hịng phá tan khối đại đồn kết của dân tộc ta để bóc lột nhân dân ta.
Vì vậy, rõ ràng chỉ có đồn kết dân tộc lại thành một khối thống nhất mới
đánh bại lại âm mưu chia rẽ của kẻ thù, chỉ có đồn kết thì mới giành được
độc lập. Đó là tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng, củng cố, mở rộng và phát
triển khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt cuộc đời hoạt động của mình.
2.2. Đại đồn kết là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập
hợp được.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân trong một tổ chức mặt trận dân
tộc thống nhất rộng rãi, phải xây dựng được khối liên minh cơng nơng trí do
Đảng lãnh đạo, lấy đó làm nền gốc. Sự phát triển và thắng lợi của khối đại
đồn kết này sẽ tác đọng tích cực đến các lực lượng và cá nhân yêu nước
thuộc mọi tầng lớp nhân dân vì những lý do khác nhau chưa tham gia vào


mặt trận do Đảng trực tiếp lãnh đạo. Từ đó họ được đoàn kết lại, thành lập
liên minh yêu nước của mình, rồi thừa nhận quyền lãnh đạo của Đảng, tham
gia mặt trận thống nhất. Lịch sử dân tộc đã chứng minh mặt trận Việt minh
và thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945 do Việt minh đem lại đã dẫn
đến sự ra đời của Hội Liên Việt. Sau tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
năm 1968 của quân và dân miền Nam do mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam tổ chức lãnh đạo, liên minh các lực lương trong dân tộc, dân
chủ và hoà bình của Việt Nam ra đời. Đó là những dẫn chứng rất cụ thể điển
hình về thiên tài thực hiện đại đoàn kết toàn dân, tổ chức mặt trận dann tộc
thống nhất, tập hợp lực lượng toàn dân của Hồ Chí Minh. Bác cho rằng
muốn đồn kết đựoc tồn dân xây dựng được mặt trận dân tộc thống nhất thì
phải theo lập trưịng của giai cấp cơng nhân. Trên cơ sở khối liên minh cơng
nơng trí thức trong mặt trận thống nhất do Đảng cộng sản trực tiếp lãnh
đạo.Gạt bỏ thành kiến, thật sự đoàn kết với tất cả các lực lượng, cá nhân
muốn phụng sự Tổ quốc và nhân dân, tán thành một nước Việt Nam hồ
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình Bác xác định đại đồn kết là
đem lại quyền lợi cho toàn thể dân tộc, đất nước nên Bác đã sẵn sàng gạt bỏ
thành kiến, mặc cảm với các lực lượng, cá nhân yêu nước đã từng làm trong
bộ máy chính quyền của thực dân phong kién trước đây. Bác chủ trương sử
dụng họ sau chiến thắng cách mạng Tháng Tám 1945 và trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Sau đó vì đơc tự do và hạnh phúc tròn vẹn dân tộc, thống
nhất đất nước, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, Bác đã tiếp tục thực hiện chủ
trương này. Theo Hồ Chí Minh, đồn kết thống nhất tồn dân tộc là khơng
có sự phân biệt đối xử. Người đã từng cho rằng: Từ Nam tới Bắc, ai là
người tán thành hồ bình, thống nhất, dân chủ thì chúng ta hồn có thể sẵn


sàng đoàn kết với họ, thật thà hợp tác với họ, thật sự đoàn kết với họ dù
trước nay họ đã theo phe phái nào.
2.3 Đại đoàn kết là một bộ phận hữu cơ của đường lối cách mạng
Hồ Chí Minh ln khẳng định vai trị quan trọng của đại đoàn kết toàn
dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng. Với Hồ Chí Minh đồn kết là một
trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, một
chiến lược cách mạng chiến lược huy động, tập hợp mọi lực lượng có thể tập
hợp được, hình thành sức mạnh to lớn toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh
chống lại kẻ thù của tòan dân tộc, giai cấp. Bên cạnh đó, theo Hồ Chí Minh
đại đồn kết cịn là một bộ phận hữu cơ hết sức quan trọng của đường lối
cách mạng. Đây là một mặt không thể thiếu và là một bộ phận quyết định
thắng lợi của cách mạng.
Người nhắc lại truyền thống đoàn kết là sức mạnh của dân tộc, dù
đường lối cách mạng có như thế nào đi chăng nữa thì trong chiến lược lâu
dài của cách mạng khơng thể thiếu vấn đề đại đồn kết tồn dân tộc "nhân
dân Việt Nam có truyền thống u nước nồng nàn Lịch sử ngàn năm của dân
tộc Việt Nam đã ghi những trang oanh liệt của nhân dân đấu tranh để xây
dựng nước nhà và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc mình".

Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã vạch
ra những âm mưu "chia để trị" của chủ nghĩa thực dân Pháp và khẳng định
yêu cầu khách quan của đại đoàn kết dân tộc là để chiến thắng kẻ thù : "chủ
nghĩa thực dân không hề thay đổi châm ngôn "chia để trị" của nó". Chính vì
thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng
máu, chung một phong tục, chung lịch sử, chung một truyền thống, chung
một tiếng nói đã bị chia năm xẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt
ấy, người ta hy vọng làm nguội được tình đồn kết, nghĩa đồng bào trong
lòng người An Nam và tạo ra mối xung khắc giữa anh em ruột thịt đối với


nhau". Đến tác phẩm Đường cách mệnh Hồ Chí Minh đã phân tích vai trị
của các tổ chức quần chúng. Từ tác phẩm này chúng ta thấy Bác đã vạch ra
chiến lược đại đoàn kết lâu dài của dân tộc trong suốt q trình cách mạng.
Chiến lược đại đồn kết Hồ Chí Minh ở đây được thể hiện trong việc thành
lập mặt trận dân tộc thống nhất. Đến các văn kiện văn kiện hợp nhất đầu
năm 1930, tư tưởng này của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện một cách hoàn
chỉnh và rõ ràng: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp,…phải làm
cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, Đảng phải hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức, trung nơng, thanh niên, Tân Việt, …để kéo họ vào phe
vơ sản giai cấp. Cịn đối với bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho
họ đứng trung lập…" Tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã
được Người kiên trì và giữ vững, mềm dẽo thuyết phục và đấu tranh, trải qua
kiểm nghiệm và xác nhận của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Không chỉ trong những năm đặt nền móng cho đường lối cách mạng
Việt Nam mà suốt cả quá trình quanh co, phưsc tạp của cách magn Việt Nam
Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất, âm mưu, thủ đoạn, khả năng,
thực lưc của chúng mà dự báo, phát hiện kịp thời những chuyển biến trong
hàng ngũ của kẻ thù. Từ đó có những chiến lược, sách lược kịp thời, đúng

đắn nhằm phân hố kẻ thù. Đề ra chiến lược đại đồn kết dân tộc một cách
đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam
và linh hoạt sao cho phù hơpj với đường lối cách mạng mà Đảng đã đề ra.
Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng đưa đến thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám, của kháng chiến chống Pháp, Mỹ, giành độc lập, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc ngày nay.


CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
Từ khi Đảng thành lập đến nay, truyền thống đồn kết dân tộc ln
ln được phát huy cao độ. Kinh nghiệm chỉ ra rằng trong mọi hồn cảnh
khó khăn, có khối đại đồn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng thì bao giờ cũng
giành được thắng lợi. Khơng những thế, tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh
cịn trở thành đạo lý sống và lối ứng xử của người Việt Nam trong thời đại
Hồ Chí Minh.Với quan điểm đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược lâu dài quyết định mọi thành bại của cách mạng, đây là một tư tưởng
lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với cách mạng nước ta. Bên cạnh
đó, tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh cịn có đóng góp hết sức to lớn
vào kho tàng lý luận về đại đoàn kết của chủ nghĩa Mác - Lênin. Để lại
những kinh nghiệm vô cùng quý báu cho các nước, các dân tộc có cảnh ngộ
và điều kiện lịch sử tương tự Việt Nam. Ln ln phải coi đại đồn kết là
một chiến lược lâu dài, có tính quyết định và là một vấn đề sống cịn cảu
cách mạng.
Với tình hình đất nước ta hiện nay, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc
được đặt ra với những yêu cầu rất mới. Có đại đồn kết dân tộc mới tạo ra sự
đồng thuận, thống nhất, mới khơi dậy sự chủ động, sáng tạo trí tuệ, tài năng
của nhân dân, khai thác hết mọi quyền lực xã hộitạo nên sức mạnh lớn lao để
đất nước tiến vào giai đoạn cơng nghiệp hố - hiện đại hố. Từ bài học đồn
kết ở Hồ Chí Minh, từ việc quán triệt quan điểm đoàn kết là vấn đề chiến

lược quyết định mọi thành bại của cách mạng và từ điều kiện tình hình cụ
thể của nước ta hiện nay, vấn đề trên được nhìn nhận ở nhiều phương diện
khác nhau trên các lĩnh vực xã hội.


Vấn đề đầu tiên và dễ dàng nhận thấy đó chính là việc mở rộng lực
lượng đồn kết trong xã hội. Xác định lực lượng đoàn kết, cần căn cứ trên
những quan hệ xã hội hiện thực và cụ thể với nhiều khía cạnh khác nhau
trong một thể thống nhất. Bởi lẽ suy cho cùng đồn kết chính là xố bỏ các
hàng rào ngăn cách, những mặc cảm, định kiến để con người chia sẻ, liên
kết cùng nhau. Con người là con người trong các mối quan hệ xã hội và bản
chất của con người là tổng hoà các quan hệ xã hội. Vì vậy, từ quan hệ nào đó
cịn chưa được giải toả người ta sẽ khó có tiếng nối đồng thuận. Do đó, lực
lượng đồn kết cần được nhìn nhận từ mỗi góc độ, mối quan hệ. Hiện nay,
đồn kết dân tộc cịn cần được nhấn mạnh việc đoàn đồng bào trong nước và
kiều bào ở nước ngoài. Như vậy thực hiện được khối đại đoàn kết dân tộc là
thựchiện đoàn kết trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội, chính trị
xã hội của con người. Nếu một mặt nào đó bị vi phạm tất yếu sẽ ảnh hưởng
đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngược lại, thực hiện tốt trên các lĩnh vực
của đời sống con người là hình thức duy nhất bảo đảm cho sự ổn định vững
chắc của khối đại đồn kết tồn dân.
Bên cạnh đó, phưpưng pháp tập hợp lực lượng cũng là một yếu tố
không kém phần quan trọng trong vấn đề phát huy khối đại đoàn kết tồn
dân tộc. Trong bố cảnh tồn cầu hố diễn ra mạnh mẽ, đất nước hồ bình,
các quan hệ xã hội đã trở nên cởi mở và dân chủ, phương pháp để tập hợp
lực lượng cũng cần có sự thay đổi. Một đặc trưng dễ thấy của người Việt
Nam là khi nước nhà có giặc ngoại xâm thì mục tiêu bảo vệ Tổ quốc được
đặt lên hàng đầu. Vì lẽ đó, trong cách mạng dân tộc dân chủ, Bác Hồ luôn
lấy mục tiêu, làm điểm tương đồng để kêu gọi các lực lượng đồn kết. Khi
đã có hồ bình, độc lập thì sự quan tâm của con người cũng được chuyển

hướng. Sự đồng thuận phải được xây dựng trên nguyên tắc "công bằng và


bình đẳng, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp,
tầng lớp trong nhân dân".
Đặc thù xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là trên cơ sở dưới dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh chính là hạt
nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mọi sự quy tụ đều cần hạt nhân
nòng cốt. Hạt nhân của khối đại đồn kết của chúng ta hiện nay chính là
Đảng. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, giữ được niềm tin trong nhân
dân là điều cốt yếu trong xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân là điều cốt
yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay. Trong Di chúc, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: " Đoàn kết là một truyền thống quý báu
của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình" Tăng
cường củng cố hạt nhân đoang kết dân tộc cùng với chống tham nhũng, quan
liêu, lãng phí, sự thoái hoá, hư hỏng ở một số cán bộ có chức, có quyền thực
chất là nhằm chỉnh đốn, xây dựng, phát triển Đảng đáp ứng đòi hỏi của thực
tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Song song với các hình thức trên cần phải khơi dây lịng yêu nước, ý
chí độc lập, tư cường của mọi tầng lớp nhân dân. Yêu nước là một giá trị
tinh thần truyền thống tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam, mang dòng
máu Việt Nam. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng, Bác Hồ đã thành
công trong việc khơi dậy và phát huy cao độ tinh thần ấy, biến nó thành sức
mạnh quật khởi của dân tộc, tạo ra chiến thắng "lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu". Trong cách mạng dân tộc dân chủ, độc lập dân tộc thống nhất
đất nước đã thành một dải thì iệc vươn lên làm giàu chính đáng là nhiệm vụ
của mọi tầng lớp nhân dân nhằm góp phần đưa đất nước thốt khỏi tình
trạng tụt hậu kinh tế so với các nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng, Nhà nước cần có chính



sách, định hướng để giúp các tầng lớp nhân dân hiện thực hố mục tiêu của
mình.
Cần chăm lo lợi ích vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân lao
động - cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây chính là yêu cầu và
nhiệm vụ cơ bản mà Đảng ta đã đặt ra từ khi mới ra đời. Đây cũng chính là
cơ sở để Đảng ta thực hiện được thắng lợi những mục tiêu lâu dài mà chiến
lược cách mạng đã đề ra. Trong điều kiện ngày nay, đẩy mạnh phát triển
kinh tế ahngf hoá nhiều thành phần, tạo điều kiện để mọi người, mọi thành
phần kinh tế phát huy được tiềm năng sản xuất, mọi năng lực cũng chính là
nội dung, cơ sở để thực hiện thành cơng khối đồn kết dân tộc trong điều
kiện ở nước ta hiện nay.
Trong bước tiến chung của nhân loạ, các thế lực thù địch luôn luôn
hoảng sở trước sức mạnh của đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Chúng
ln lấy việc chia rẽ đồn kết là vũ khí đặc dụng để đánh vào cách mạng
nước ta và cách mạng thế giới, do vậy chúng ta phải nêu cao cảnh giác cách
mạng, và luôn luôn đề cao đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Duy trì
được đồn kết là tạo ra sức mạnh để ổn định và phát triển xã hội, để hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế. Cần quán triệt quan điểm của Hồ Chí Minh xem
đại đồn kết dân tộc là yếu tố hết sức quan trọng mang tính lâu dài và quyết
định mọi sự thành bại của cách mạng. Do vậy, đại đoàn kết trong giai đoạn
hiện nay là truyền thống, là nội sinh của chính nhiệm vụ cơng nghiệp hoá ở
hiện đại hoá đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa và đây cũng chính là tư tưởng của thời đại.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bá Ngọc, Hồ Chí Minh 79 mùa xuân, NXB Nghệ An,2006
2. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng - Tư tưởng Hồ Chí

Minh về đại đồn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc trong thời kỳ mới - NXBCTQG, H.2004
3. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh - Hội đồng biên soạn Trung
ương, NXB CTQG.H.2004
4. Hồ Chí Minh, Tuyển tập,tập1.NXB Sự thật.H.1980
5.
6.
7. Ngiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh, chương trình KX02,NXB
Viện Hồ Chí Minh.H.1993


8. Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh - Một con người - một dân tộc một thời đại - một sự nghiệp,NXB Sự thật.H.1990
9. Song Thành, Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, NXB
LLCT.H. 2005
10.Song Thành, Hồ Chí Minh Tiểu sử, NXB LLCT.H.2006
11.Tư tưởng Hồ Chí Minh - Di sản văn hóa dân tộc, NXB Quân
Đội.H.2000



×