Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

QUAN ĐIỂM VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ MỚI Ở VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC – MỘT TRONGNHỮNG SÁNG TẠO LỚN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.94 KB, 22 trang )

lOMoARcPSD|9242611

0
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN HỒ CHÍ MINH
************

TIỂU LUẬN
Chủ đề:
QUAN ĐIỂM VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ MỚI Ở VIỆT NAM
SAU CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC – MỘT TRONG
NHỮNG SÁNG TẠO LỚN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC

Người thực hiện:
Lớp:
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học

MỤC LỤC
HÀ NỘI, 2009


lOMoARcPSD|9242611

1

Nội dung

Trang

Mở đầu
I. TÍNH ĐÚNG ĐẮN, SÁNG TẠO CỦA QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ


MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ MỚI Ở VIỆT NAM

3

SAU CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin về nhà nước chuyên chính vơ sản
2. Hồ Chí Minh đã tìm tịi, khảo nghiệm, so sánh các mơ hình

3

nhà nước tiêu biểu trên thế giới và từng bước xác lập mơ hình nhà

7

nước dân chủ mới ở Việt Nam
II. NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM HỒ
CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ MỚI Ở VIỆT
NAM
1. Những nội dung cơ bản của quan điểm Hồ Chí Minh về nhà

12
1

nước dân chủ mới ở Việt Nam
2. Ý nghĩa của quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ

2

mới ở Việt Nam


19

KẾT LUẬN

20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

21

Mở đầu
Hồ Chí Minh là người luôn ý thức rất rõ về vấn đề quốc gia dân tộc và
chủ quyền của quốc gia dân tộc. Chính vì vậy, trong bối cảnh đất nước bị đô


lOMoARcPSD|9242611

2
hộ dưới ách thực dân, chủ quyền quốc gia dân tộc khơng cịn, nhân dân bị lầm
than nơ lệ dưới sự bóc lột tàn tệ của thực dân, Phong kiến, Hồ Chí Minh đã
quyết tâm tìm mọi cách để cứu nước, cứu dân.
Nhận thức rõ vai trò của nhà nước trong quốc gia dân tộc, cho nên
trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc cũng là quá trình Hồ
Chí Minh tìm kiếm và xác lập một mơ hình nhà nước mới cho dân tộc Việt
Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc
lột, bất cơng, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho con người là điều quan
trọng nhất, là mục tiêu cuối cùng của cách mạng. Vì vậy, theo Người, độc lập
của dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân, nếu khơng thì độc
lập ấy chẳng có ý nghĩa gì.

Với quan điểm như trên, cùng với việc xác định con đường cách mạng
giải phóng dân tộc cũng là lúc Hồ Chí Minh xác định mơ hình nhà nước kiểu
mới mà nhân dân ta phải xây dựng sau khi hồn thành cách mạng giải phóng
dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam từng bước
được xác lập, phát triển và hồn thiện. Từ chủ trương xây dựng nhà nước
cơng nơng binh, đến xây dựng nhà nước dân chủ mới và nhà nước xã hội chủ
nghĩa là một quá trình phát triển đầy sáng tạo trong tư tưởng của Người về
xây dựng nhà nước ở Việt Nam. Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng và
24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã có nhiều quan điểm thể hiện sự
sáng tạo trong tư tưởng của Người về vấn đề nhà nước, trong đó quan điểm về
xây dựng nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam sau khi hoàn thành cách mạng
giải phóng dân tộc là một sáng tạo lớn có ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc.

I. TÍNH ĐÚNG ĐẮN, SÁNG TẠO CỦA QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ
MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ MỚI Ở VIỆT NAM SAU
CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC


lOMoARcPSD|9242611

3
* Quan niệm chung về sáng tạo
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Sáng tạo là sự phát hiện, sáng
kiến hoặc phát minh ra một cái gì đó mới mà đem lại hiệu quả và hữu ích cho nhu
cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội. Khái niệm sáng tạo được sử
dụng trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần. Điều kiện cần và đủ để
được thừa nhận là sáng tạo: Thứ nhất, về thuộc tính MỚI của sự vật: Một vật lần
đầu tiên xuất hiện (ghi nhận) đều có thuộc tính (và được gọi là) MỚI. Người tìm ra
vật mới này có thể được cấp bằng phát minh hay sáng chế. Thứ hai, về thuộc tính
HỮU ÍCH của sự vật. Hữu ích (có ích) là q trình một vật đáp ứng được nhu

cầu bảo vệ hoặc phát triển của các chuẩn mực trong đời sống vật chất, tinh thần,
đạo đức, văn hóa, văn minh của xã hội lồi người.
Theo giáo sư - tiến sĩ khoa học Phan Dũng, Khái niệm sáng tạo được
dùng để chỉ những sự vật mới và có ích cho đời sống con người. Do đó, mọi
sự vật hoặc hiện tượng mới phát sinh phải thỏa mãn điều kiện thứ hai mới
được thừa nhận là sáng tạo, đó là tính hữu ích cho đời sống con người hoặc
văn minh nhân loại. Có những sự vật hoặc hiện tượng mới, nhưng khơng thỏa
mãn điều kiện này (về tính hữu ích) thì cũng khơng được gọi là sáng tạo, mà
chỉ dùng từ "mới" để nói về chúng mà thơi. Khơng phải phát kiến nào cũng
được xem là sáng tạo. Như vậy, sáng tạo là kết quả của hoạt động có ý thức
của con người nhằm tạo ra những giá trị mới, có ích phục vụ cho nhu cầu của
cá nhân, cộng đồng và xã hội.
1. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin về nhà nước chun chính vơ sản
Xuất phát từ thực tiễn lịch sử xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra
rằng sự tồn tại của xã hội và nhà nước không phải luôn luôn gắn liền với
nhau, nhà nước chỉ là một hiện tượng lịch sử và chỉ tồn tại gắn liền với xã hội
có phân chia giai cấp. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra, trong xã hội có phân
chia giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến đối kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu
tranh giai cấp đến một mức độ nhất định sẽ bùng nổ cách mạng xã hội và vấn


lOMoARcPSD|9242611

4
đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội là việc xóa bỏ nhà nước cũ của giai
cấp thống trị, thiết lập nhà nước mới của giai cấp tiến hành cách mạng. Sở dĩ
như vậy là vì, trong xã hội có đối kháng và đấu tranh giai cấp thì xã hội sẽ
không thể tồn tại trong trật tự nếu khơng có nhà nước. Trong xã hội có giai
cấp bao giờ cũng tồn tại nhiều giai cấp, trong đó có giai cấp đã lỗi thời, có

giai cấp mới ra đời là sản phẩm của phương thức sản xuất mới, bên cạnh đó
cịn có các giai cấp, tầng lớp trung gian khác. Tuy nhiên, bao giờ cũng chỉ có
hai giai cấp cơ bản trong xã hội là giai cấp thống trị đại biểu cho phương thức
sản xuất đã lỗi thời và giai cấp bị trị đại biểu cho phương thức sản xuất mới.
Sự tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp trong xã hội là một tất yếu khách
quan và luôn vận động cùng với sự vận động, phát triển của xã hội. Chính vì
vậy, nhà nước là cơng cụ của giai cấp thống trị nhưng nó lại tồn tại như một
cơ quan quyền lực công cộng của xã hội. Thực tế đó đã quy định nhà nước có
hai chức năng cơ bản là chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Chức năng
giai cấp của nhà nước là bằng sức mạnh và quyền lực của mình trấn áp các
giai cấp đối lập, buộc các giai cấp này phải phục tùng ý chí và quyền lợi của
giai cấp thống trị. Mặt khác, nhà nước cịn phải lơi kéo các giai cấp, tầng lớp
trung gian, chia rẽ, xoa dịu các giai cấp đối lập để ngăn chặn những xung đột
ảnh hưởng đến địa vị thống trị của giai cấp thống trị. Điều này đã được
Ăngghen chỉ rõ: “…Muốn cho những mặt đối lập đó, những giai cấp có
quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, khơng đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và
tiêu diệt luôn cả xã hội trong một cuộc đấu tranh vơ ích, thì cần phải có một
lực lượng cần thiết…là nhà nước” [7, tr.252-253]. Cùng với việc thực hiện
chức năng giai cấp, nhà nước còn phải thực hiện tốt chức năng xã hội, tức là
nhà nước phải đứng ra giải quyết những công việc chung của xã hội, thực
hiện lợi ích chung của tồn thể xã hội, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã
hội và duy trì trật tự cơng cộng. Hai chức năng của nhà nước có mối quan hệ
biện chứng với nhau, trong đó chức năng giai cấp là yếu tố quyết định tính
hiệu quả của chức năng xã hội, Chức năng xã hội là cơ sở để nhà nước thực


lOMoARcPSD|9242611

5
hiện chức năng giai cấp. Như vậy, nếu nhà nước khơng hồn thành chức năng

xã hội thì xã hội sẽ lâm vào khủng hoảng và ảnh hưởng tới địa vị thống trị của
giai cấp thống trị. Ngược lại, nếu giai cấp thống trị đã lỗi thời, lạc hậu, khơng
cịn vai trị lịch sử thì sẽ làm hạn chế tính hiệu quả của chức năng xã hội.
Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ăngghen
đã phát hiện ra vai trò và sứ mệnh to lớn của giai cấp công nhân, là giai cấp
quyết định tương lai của nhân loại. Xuất phát từ thực tiễn sự vận động, phát
triển của xã hội loài người, C.Mác và Ăngghen đã khẳng định xã hội loài
người sẽ vượt qua chủ nghĩa tư bản và tiến đến chủ nghĩa cộng sản và đó là
một quy luật khách quan. Tuy nhiên, để xã hội vận động đúng quy luật địi hỏi
phải xóa bỏ quyền thống trị của các giai cấp đã lỗi thời, lạc hậu, cụ thể là phải
thủ tiêu nhà nước của giai cấp tư sản để thiết lập nhà nước của giai cấp tiến bộ
nhất trong xã hội – giai cấp vơ sản. Sau khi phát hiện ra vai trị, sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân và chỉ ra rằng, cách mạng vô sản là một tất yếu
khách quan trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Mục
tiêu cuối cùng của cuộc cách mạng vô sản là thủ tiêu mọi áp bức giai cấp, tức
là xây dựng một xã hội khơng cịn phân chia giai cấp và như vậy là một xã hội
không cịn nhà nước với đúng nghĩa của nó.
Tuy nhiên, để chuyển biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản phải trải qua một thời kỳ quá độ và thời kỳ đó chính là thời kỳ thiết
lập chun chính vơ sản, tức là xây dựng nhà nước của giai cấp vơ sản. Chính
vì vậy, sau khi chỉ ra tính khách quan của cách mạng vơ sản và vai trị của giai
cấp vơ sản, C.Mác và Ăngghen đã khẳng định rằng: “Bước thứ nhất trong
cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị,
là giành lấy dân chủ…” [8, tr.626]. Như vậy, theo Mác, Ăngghen giai đoạn
thứ nhất có tính chất tiền đề trong cuộc cách mạng vô sản là đập tan nhà nước
của giai cấp tư sản và xây dựng củng cố nhà nước chun chính vơ sản. Thời
kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước tư bản bắt đầu từ khi giai cấp vơ
sản giành được chính quyền, thiết lập chun chính vơ sản. Giai đoạn hai của



lOMoARcPSD|9242611

6
cuộc cách mạng vô sản là giai cấp vô sản sử dụng chính quyền đó để thực
hiện chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Nhà nước chuyên chính vơ sản
càng thực hiện tốt hai chức năng đó thì cách mạng vơ sản càng nhanh đến
đích. Điều này đồng nghĩa với việc nhà nước chun chính vơ sản càng nhanh
đi đến chỗ tự tiêu vong.
Bảo vệ và phát triển một cách sáng tạo quan điểm C.Mác và Ăngghen
về nhà nước trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, Lênin tiếp tục khẳng định vai
trò của nhà nước trong xã hội có giai cấp và sự cần thiết của nhà nước chun
chính vơ sản trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội. Người đã khẳng định:
“Chỉ những người đã hiểu rằng chuyên chính của một giai cấp là tất yếu
khơng những cho mọi xã hội có giai cấp nói chung, không những cho giai cấp
vô sản sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản, mà còn cho suốt cả thời kỳ lịch sử từ
chế độ tư bản chủ nghĩa đến “xã hội khơng có giai cấp”, đến chế độ cộng sản
chủ nghĩa, chỉ những người đó mới thấm nhuần được thực chất của học
thuyết của Mác về nhà nước” [9, tr.43,44].
Cuộc đấu tranh cách mạng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là
cuộc đấu tranh vơ cùng khó khăn, gian khổ, ác liệt, giai cấp tư sản không từ
bỏ một thủ đoạn nào để giữ vững địa vị thống trị của chúng. Do vậy, theo
Lênin, giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền cịn khó hơn. Trong thời kỳ
quá độ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, mặc dù địa vị thống trị của chúng đã bị
đánh đổ nhưng chúng ln tìm mọi cách chống phá cách mạng và muốn giành
lại quyền thống trị. Mặt khác, thời kỳ quá độ còn tồn tại các giai cấp và tầng
lớp trung gian khác mà do địa vị kinh tế xã hội của mình mà họ dễ giao động có
thể đi theo giai cấp vơ sản hoặc giai cấp tư sản. Chính vì vậy, trong thời kỳ q
độ, nhà nước chun chính vơ sản phải làm tốt chức năng xã hội để lôi kéo, thu
hút họ về phía mình. Như vậy, trong thời kỳ q độ, chun chính vơ sản là cần
thiết để một mặt dùng bạo lực trấn áp những thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân

dân, bảo vệ thành quả cách mạng. Mặt khác để tổ chức xây dựng xã hội mới trên
tất cả các lĩnh vực, đây là nhiệm vụ cơ bản. Để thực hiện được sứ mệnh lịch sử


lOMoARcPSD|9242611

7
của mình, giai cấp vơ sản khơng thể khơng liên minh với quần chúng lao động
phi vô sản khác. Do vậy, chun chính vơ sản là một hình thức liên minh đặc
biệt giữa giai cấp công nhân với quần chúng lao động khác. Nhà nước chun
chính vơ sản là chính quyền của nhân dân, là nhà nước của dân, do dân, vì dân,
chế độ dân chủ vơ sản là chế độ dân chủ đầy đủ nhất, rộng lớn nhất và sâu sắc
nhất. Nhà nước chun chính vơ sản là cơng cụ thống trị của giai cấp vô sản
trong phạm vi một quốc gia dân tộc. Tuy nhiên, giai cấp vô sản là giai cấp có sứ
mệnh lịch sử tồn thế giới, do vậy nhà nước chun chính vơ sản cịn phải có
nghĩa vụ quốc tế để giúp đỡ cho cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Như vậy, xuất phát từ thực tiễn các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô
sản chiếm đại đa số, là lực lượng chủ yếu của cách mạng, cho nên chủ nghĩa
Mác - Lênin khẳng định phải tiến hành cách mạng vô sản, thiết lập chun
chính vơ sản và q độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước vơ sản nói chung, nhà
nước Xơ viết nói riêng là nhà nước đại biểu cho giai cấp cơng nhân, nơng dân
và trí thức. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ở Liên Xơ khơng có giai cấp tư sản nữa.
Xô viết tức là đại biểu cho tồn thể nhân dân: cơng nhân, nơng dân trong các
nơng trường tập thể và tầng lớp trí thức” [6, tr.218].
2. Hồ Chí Minh đã rút kinh nghiệm từ nhà nước thực dân, phong
kiến và tìm tịi, khảo nghiệm, so sánh các mơ hình nhà nước tiêu biểu trên
thế giới, từng bước xác lập mơ hình nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam
Hồ Chí Minh lớn lên trong hồn cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân
Việt Nam đang rên xiết dưới sự cai trị của chính quyền thực dân nửa phong

kiến. Thấu hiểu lỗi thống khổ của người dân mất nước và căm ghét sự cai
trị tàn bạo của nhà nước thực dân, phong kiến, Hồ Chí Minh đã đi tìm cách
lật đổ, xóa bỏ nhà nước đó. Q trình bơn ba tìm đường cứu nước mà thực
chất là tìm cách lật đổ chính quyền thực dân phong kiến giành độc lập cho
dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân cũng chính là q trình Hồ Chí Minh
tìm tịi, khảo nghiệm, xác lập mơ hình nhà nước mới sẽ thay thế cho nhà


lOMoARcPSD|9242611

8
nước thực dân phong kiến ở Việt Nam sau khi hồn thành cách mạng giải
phóng dân tộc. Bằng nhiều cơng việc cụ thể, Hồ Chí Minh đã hịa mình vào
cuộc sống của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhiều nơi trên thế
giới để trực tiếp tìm hiểu thực chất cuộc sống của họ dưới các chế độ nhà
nước khác nhau.
Ngay từ năm 1919, thay mặt một nhóm người Việt Nam yêu nước tại
Pháp, Hồ Chí Minh đã ký tên Nguyễn Ái Quốc dưới bản “Yêu sách của nhân
dân An Nam” gửi tới Hội nghị Véc xây đòi quyền tự do tối thiểu cho dân tộc
Việt Nam. Bản u sách khơng được chấp nhận, Hồ Chí Minh đã nhận ra bản
chất lừa bịp của chính quyền tư sản. Sau khi trở thành đảng viên Đảng cộng
sản Pháp và được tiếp xúc với luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa, Hồ Chí Minh đã đi sâu nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc
biệt là về cách mạng Tháng mười Nga.
Kết quả nghiên cứu, khảo nghiệm các cuộc cách mạng tiêu biểu trên
thế giới như: Cách mạng tư sản Mĩ; Cách mạng tư sản Pháp; Cách mạng
tháng mười Nga đã được Hồ Chí Minh nêu ra trong tác phẩm “Đường cách
mệnh” xuất bản năm 1927. Nói về hai cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu, Người
đã khẳng định “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mĩ, nghĩa là cách
mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực

trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã
bốn lần rồi mà nay cơng nơng Pháp hẵng cịn phải mưu cách mệnh lần nữa
mới hịng thốt khỏi vịng áp bức. cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy
[2, tr.274]. Nói về cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới giành thắng
lợi triệt để - Cách mạng tháng mười Nga, Hồ Chí Minh đã khẳng định “Trong
thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành cơng, và thành công đến
nơi, nghĩa là dân chúng công nông được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình
đẳng thật, khơng phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa
Pháp khoe khoang bên An Nam” [2, tr.280].


lOMoARcPSD|9242611

9
Tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và thơng qua việc
so sánh các mơ hình nhà nước mà Người đã khảo sát, lúc đầu Hồ Chí Minh
có chủ trương thiết lập nhà nước cơng nơng binh. Tư tưởng này được thể hiện
trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng” do Hồ Chí Minh soạn thảo và được
thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng ngày 03/02/1930. Chánh cương đã nêu
rõ chủ trương của Đảng là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản. Về phương diện chính trị, Chánh cương
khẳng định “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho
nước Nam được hồn tồn độc lập; Dựng ra chính phủ cơng nơng binh; tổ
chức ra quân đội công nông” [3, tr.1].
Đến đầu năm 1941 Hồ Chí Minh về nước và sau một thời gian chuẩn bị,
Hồ Chí Minh với danh nghĩa đại diện Quốc tế cộng sản đã triệu tập và chủ trì
Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng cộng sản Đơng Dương. Hội nghị đã
bàn về vấn đề chính quyền và nêu rõ “Khơng nên nói cơng nơng liên hiệp và
lập chính quyền Xơ viết mà phải nói tồn thể nhân dân liên hợp và lập chính
phủ dân chủ cộng hòa” [1, tr.127]. Như vậy, xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt

Nam lúc này, vấn đề dân tộc đang là vấn đề cấp thiết đòi hỏi phải được giải
quyết trước. Mặt khác, ở Việt Nam vấn đề giai cấp không gay gắt như ở các
nước tư bản phương Tây, cho nên Hồ Chí Minh đã có sự thay đổi quan điểm về
nhà nước. Từ chủ trương xây dựng nhà nước công nông binh đến chủ trương
xây dựng nhà nước dân chủ cộng hòa. Hội nghị Trung ương tám còn quyết
định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội (gọi tắt là Việt Minh), một hình
thức của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, đại biểu cho lợi ích chung của
tồn thể dân tộc, khơng phân biệt giai cấp, tầng lớp xã hội. Ngày 19/5/1941,
Mặt trận Việt Minh chính thức ra đời có tun ngơn và chương trình cụ thể với
mười chính sách lớn về đối nội và đối ngoại có thể coi như một chính phủ nhân
dân trong quá trình chuẩn bị cho cách mạng giải phóng dân tộc.
Khi thời cơ cách mạng đã chín muồi, Hồ Chí Minh đã tích cực chỉ đạo
chuẩn bị tổng khởi nghĩa, đồng thời Người cũng chuẩn bị để khi cách mạng


lOMoARcPSD|9242611

10
thắng lợi có ngay một chính phủ mới đại biểu cho lợi ích và nguyện vọng của
nhân dân. Từ 13 đến 15/8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại
Tân Trào quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và ra Quân lệnh
số 1 khẳng định giờ tổng khởi nghĩa đã đến. Ngay sau đó, Hồ Chí Minh đã
triệu tập và chủ trì cuộc họp của Quốc dân Đại hội đại biểu cũng họp tại Tân
Trào vào chiều 16 và ngày 17/8/1945 với sự tham dự của hơn 60 đại biểu đại
diện cho nhân dân ba miền, các đảng phái chính trị, các đồn thể nhân dân,
các dân tộc tôn giáo và kiều bào ở nước ngoài. Đại hội đã cử ra Ủy ban dân
tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch với một Ủy ban thường trực
gồm 5 người – tức Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Như vậy, Quốc dân Đại hội đại biểu là hình ảnh của khối Đại đồn kết
tồn dân, đóng vai trị như một Quốc hội lâm thời và việc Đại hội cử ra Ủy

ban dân tộc giải phóng, tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời một chính phủ lâm
thời sau khi cách mạng thành công.
Ngay sau khi cách mạng Tháng tám thành cơng, Hồ Chí Minh đã họp
với Ban thường vụ Trung ương Đảng để thảo luận các vấn đề quan trọng. Tại
cuộc họp, Hồ Chí Minh cho rằng việc tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội, ra mắt
Chính phủ lâm thời, tuyên bố Việt Nam độc lập và thiết lập chính thể dân chủ
cộng hịa phải được làm ngay trước khi quân đồng minh vào giải giáp vũ khí
qn nhật. Trên tinh thần đó, Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh
đứng đầu đã tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời có sự tham gia của các đảng
phái khác. Sau một thời gian chuẩn bị tích cực, chiều ngày 02/9/1945, một
cuộc mít tinh lớn của nhân dân Hà Nội đã diễn ra tại Quảng trường Ba Đình.
Trong buổi mít tinh đó, Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc
Tun ngơn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tiếp sau đó, trước sự chống phá của thù trong, giặc ngồi và yêu
cầu của cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo nhiều hoạt động cụ thể nhằm
giữ vững và xây dựng Nhà nước dân chủ mới ngày càng vững mạnh, bảo
đảm tính hợp pháp, hợp hiến của Chính phủ mới. Trong suốt 24 năm làm


lOMoARcPSD|9242611

11
Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh ln quan tâm xây dựng, củng cố nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa về mọi mặt, bảo đảm cho nhà nước hoàn
thành tốt chức năng của mình, thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Hồ Chí Minh đã viết:
“Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đánh đổ nền thống trị tối tăm của
đế quốc và Phong kiến, đã đưa nhân dân ta lên con đường sáng sủa, vẻ
vang. Nhà nước ta đã thành nhà nước của nhân dân” [6, tr.216]. Theo Hồ
Chí Minh, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước dân chủ

mới. Người đã phân tích: “Trước kia Việt Nam ta vẫn có Nhà nước và
chính phủ. Song đó là cơng cụ của đế quốc và Phong kiến để áp bức nhân
dân. Cách mạng tháng tám thành công, ta lập ra chính phủ mới…của
nhân dân để chống kẻ địch trong và ngoài, và để giữ quyền lợi của nhân
dân” [6, tr.217]. Nhà nước dân chủ mới của Việt Nam là sự vận dụng Học
thuyết Mác – Lênin về nhà nước vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Do
vậy, nhà nước đó khơng hồn tồn giống nhà nước chun chính vơ sản
nói chung hay nhà nước Xơ viết nói riêng. Đó là nhà nước dân chủ nhân
dân, mà nhân dân theo Hồ Chí Minh là bốn giai cấp: công nhân, nông dân,
tiểu tư sản, tư sản dân tộc và các phần tử khác yêu nước. Như vậy, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước dân
chủ mới hay nhà nước của dân, do dân, vì dân có nghĩa tương đồng.
Quan điểm về nhà nước dân chủ mới là một quá trình hình thành,
phát triển và hồn thiện cả trong tư duy cũng như trong chỉ đạo thực tiễn
xây dựng nhà nước của Hồ Chí Minh. Đây là một sáng tạo lớn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về thiết lập và xây dựng nhà nước sau khi hồn thành
cách mạng giải phóng dân tộc.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ
MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ MỚI Ở VIỆT NAM

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

12
1. Những nội dung cơ bản của quan điểm Hồ Chí Minh về nhà
nước dân chủ mới ở Việt Nam
Quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam khơng
chỉ thể hiện trong các bài nói, bài viết hay các tác phẩm của Người mà quan

điểm đó đã được hiện thực hóa trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa từ sau Cách mạng Tháng tám năm 1945 cho đến khi Người qua
đời. Lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam của Hồ
Chí Minh bao quát một phạm vi rộng lớn. Tuy nhiên, nội dung quan điểm Hồ
Chí Minh về nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam có thể khái quát trên một số
vấn đề cơ bản sau đây.
Thứ nhất, Nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam là nhà nước thực sự của
dân, do dân và vì dân.
Về mặt văn bản, Hồ Chí Minh chưa từng sử dụng cụm từ Nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, trong tư tưởng và hành động của Người, nhân
dân ln được đặt đúng vị trí là người làm lên lịch sử, sáng tạo ra các giá trị
vật chất và tinh thần, là động lực của mọi cuộc cách mạng. Mục đích cao cả
nhất của Hồ Chí Minh là khơng chỉ đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp mà là giải phóng con người một cách triệt để. Với Hồ
Chí Minh, đấu tranh để lật đổ nhà nước bóc lột của thực dân, Phong kiến để
giải phóng dân tộc là giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng hướng tới giải
phóng con người. Giải phóng dân tộc là tiền đề và đã bao hàm một phần sự
nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Theo Hồ Chí Minh,
quyền con người không thể thực hiện được nếu tách rời quyền dân tộc. Một
dân tộc mất độc lập, mất chủ quyền thì nhân dân khơng thể có tự do, ấm no,
hạnh phúc. Chính vì vậy, Nhà nước dân chủ mới sau khi hồn thành cách
mạng giải phóng dân tộc phải là công cụ để giai cấp công nhân tiếp tục sự
nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Là cơng cụ
chun chính của giai cấp cơng nhân, Nhà nước dân chủ mới không chỉ phải
làm tốt chức năng giai cấp mà còn phải làm tốt chức năng xã hội. Trong điều

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611


13
kiện cụ thể của Việt Nam, công nông là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội,
là gốc của cách mạng. Tuy nhiên, ngồi giai cấpcơng nhân, nơng dân cịn có
các giai cấp, tầng lớp khác có lịng u nước, có chung mục tiêu độc lập, tự
do, ấm no, hạnh phúc đã đoàn kết dưới sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân
trong cách mạng giải phóng dân tộc. Do vậy, để bảo đảm giành thắng lợi
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhà nước của giai cấp công nhân phải
đoàn kết toàn thể nhân dân và những phần tử khác yêu nước, tạo nên sức
mạnh tổng hợp cho cách mạng và từng bước hướng dẫn nhân dân đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Nếu khơng có nhân dân thì
Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu khơng có Chính phủ thì nhân dân khơng
ai dẫn đường” [4, tr.56]. Muốn có lực lượng đơng đảo cho cách mạng, Nhà
nước dân chủ mới phải thực sự đại biểu cho lợi ích, nguyện vọng của nhân
dân, phải thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nhà nước của dân có nghĩa là nhà nước chỉ là cơ quan được ủy quyền
để thực thi quyền lực của nhân dân. Nhân dân là người được tự do lựa chọn
để bầu cử các đại biểu của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước, đồng
thời có quyền bãi miễn các đại biểu do mình bầu ra nếu các đại biểu ấy khơng
cịn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Trong nhà nước của dân thì
Dân là chủ và là người làm chủ, cán bộ công chức chỉ là công bộc của dân.
Dân được hưởng mọi quyền dân chủ và nhà nước phải có cơ chế để thực thi
quyền làm chủ của nhân dân. Quyền làm chủ nhà nước của nhân dân được ghi
trong điều 1 Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo
“Nước Việt Nam là nước Dân chủ cộng hịa, tất cả quyền bính trong nước là
của nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo”.
Nhà nước do dân là nhà nước do dân lựa chọn bầu ra, do dân ủng hộ,
giúp đỡ, bảo vệ và đóng thuế để bảo đảm cho nhà nước chi tiêu, hoạt động.
Hiến pháp năm 1959 cũng do Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo đã

quy định rõ quyền và nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước: Quyền của

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

14
công dân, Hiến pháp quy định “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng
hồ, khơng phân biệt dân tộc, nịi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tơn
giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hố, nghề nghiệp, thời hạn
cư trú, từ mưới tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ hai mốt tuổi trở lên
đều có quyền ứng cử, trừ những người mất trí và những người bị Toà án
hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử. Công dân đang ở trong quân
đội có quyền bầu cử và ứng cử”. Về nghĩa vụ, Hiến pháp quy định “Công
dân nước Việt Nam dân chủ cộng hồ có nghĩa vụ tn theo Hiến pháp,
pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng, và những quy tắc sinh hoạt
xã hội. Tài sản công cộng của nước Việt Nam dân chủ cộng hồ là thiêng
liêng khơng thể xâm phạm. Cơng dân có nghĩa vụ tơn trọng và bảo vệ tài
sản công cộng. Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hồ có nghĩa vụ
đóng thuế theo pháp luật. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao
quý nhất của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hồ. Cơng dân có bổn
phận làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc”.
Nhà nước vì dân, nghĩa là nhà nước phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân
dân, luôn quan tâm chăm lo đến lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, khơng có
đặc quyền, đặc lợi. Theo Hồ Chí Minh, quyền lực nhà nước là của nhân dân,
các cơ quan nhà nước do nhân dân bầu ra thì nhà nước đó phải vì dân mà
phục vụ. Trong “thư gửi Ủy ban nhân dân các Kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng”
ngày 17/10/1945, Hồ Chí Minh đã viết “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ
quan của Chính phủ từ tồn quốc cho đến các làng, đều là cơng bộc của dân,

nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân…Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết
sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải u dân,
kính dân thì dân mới u ta, kính ta” [4, tr.56, 57].
Thứ hai, Nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam là nhà nước mang bản chất
giai cấp cơng nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
Vận dụng học thuyết Mác – Lênin về nhà nước vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phát triển và làm phong phú thêm lý luận Mác

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

15
– Lênin về bản chất của nhà nước. Theo Người, nước ta là nước thuộc địa và
Phong kiến. Cho nên cách mạng của ta là cách mạng dân tộc và dân chủ mới.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, bốn giai cấp: công, nông, tiểu tư sản và tư
sản dân tộc đều là động lực của cách mạng, trong đó do giai cấp công nhân là
giai cấp lãnh đạo thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản, nhân dân ta đã vùng lên làm cách mạng Tháng tám
thành cơng, giành lấy chính quyền, lập nên nhà nước dân chủ cộng hòa. Nhà
nước dân chủ cộng hòa là nhà nước của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản, lấy liên minh cơng nơng làm nịng cốt. Nhà nước đó thực
hành dân chủ với nhân dân và chuyên chính với đế quốc, Phong kiến và bọn
tay sai, phản động.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định, nhà nước là công cụ của giai
cấp thống trị, do vậy nó ln mang bản chất của một giai cấp nhất định,
khơng có nhà nước phi giai cấp hay nhà nước của nhiều giai cấp. Nhà nước
dân chủ mới ở Việt Nam là sản phẩm của cách mạng dân tộc dân chủ, là công
cụ chuyên chính của nhân dân để giữ vững thành quả cách mạng và tổ chức

xây dựng xã hội mới. Vì vậy, Nhà nước dân chủ mới là nhà nước mang bản
chất của giai cấp công nhân đồng thời thống nhất với tính nhân dân và tính
dân tộc sâu sắc. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước dân chủ mới thể
hiện ở nguyên tắc tổ chức nhà nước là theo nguyên tắc dân chủ tập trung –
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng cộng sản. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Nhân
dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ.
Cơ quan chính quyền là thống nhất, Tập trung. Bản chất giai cấp cơng nhân
của nhà nước dân chủ mới cịn thể hiện ở định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã khẳng định lồi người tiến lên chủ nghĩa xã hội là quy luật
“Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau.
Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xơ. Có nước
thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)
như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta” [6, tr.247].

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

16
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước dân chủ mới không tách
rời và càng không mâu thuẫn với tính nhân dân và tính dân tộc. Bởi vì, giai
cấp cơng nhân là đại biểu trung thành lợi ích của tồn thể dân tộc, ngồi ra
khơng có lợi ích nào khác. Mặt khác, giải phóng dân tộc là bước đầu của
q trình giải phóng giai cấp, là tiền đề, điều kiện của giải phóng giai cấp.
Nhà nước dân chủ mới ra đời là kết quả cuộc đấu tranh lâu dài và sự hy
sinh xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam từ khi thực dân pháp
đô hộ nước ta, mà đỉnh cao là cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc
do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước dân chủ mới là nền
chuyên chính của nhân dân để bảo vệ lợi ích của nhân dân và của dân tộc

Việt Nam, trấn áp các lực lượng đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Tính
nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước dân chủ mới cịn thể hiện ở cơ cấu,
thành phần của Chính phủ. Sau cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh chủ
trương cải tổ Ủy ban dân tộc giải phóng thành chính phủ lâm thời, đề nghị
thi hành chính sách đại đồn kết dân tộc, thành lập Chính phủ thống nhất
quốc gia, bao gồm đại biểu của các Đảng phái yêu nước và những nhân sĩ
khơng đảng phái. Hồ Chí Minh ln chủ trương xây dựng nhà nước thể
hiện rõ tính nhân dân và tính dân tộc. Người nói “Tơi có thể tun bố trước
Quốc hội rằng, Chính phủ này là Chính phủ tồn quốc, có đủ nhân tài
Trung, Nam, Bắc tham gia”[4, tr.430].
Thứ ba, Nhà nước dân chủ mới phải từng bước trở thành nhà nước
pháp quyền, có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.
Nhà nước pháp quyền là một nhà nước dân chủ, trong đó Nhà nước xây
dựng nên pháp luật để quản lý xã hội và tự đặt mình dưới pháp luật. Mọi cơ
quan Nhà nước đều phải được tổ chức và chỉ được phép hoạt động trong
khuôn khổ quy định của pháp luật. Quyền dân chủ của công dân là nền tảng
để hồn chỉnh pháp luật, quyền cơng dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Tính chất pháp quyền của Nhà nước dân chủ mới theo Hồ Chí Minh,
trước hết phải là một nhà nước hợp pháp và hợp hiến. Ngay sau cách mạng

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

17
Tháng tám, Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên
ngôn độc lập để tuyên bố với quốc dân, đồng bào và toàn thế giới về sự ra đời
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tính hợp pháp của Chính phủ lâm
thời do cuộc cách mạng của nhân dân lập nên. Tiếp đó, ngay trong phiên họp

đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Hồ Chí Minh đã nêu 6
nhiệm vụ cấp bách để cứu nguy dân tộc, trong đó có nhiệm vụ tổ chức sớm
cuộc tổng tuyển cử. Người nói “Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ.
Tơi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế
độ phổ thông đầu phiếu” [4, tr.8]. Với quan điểm đó, dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng ta và của Hồ Chí Minh, chỉ bốn tháng sau, mặc dù trong điều
kiện vơ cùng khó khăn của đất nước, cuộc tổng tuyển cử đã được tiến hành
thắng lợi vào ngày 06/01/1946, bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam
độc lập. Phiên họp đầu tiên của Quốc hội mới, diễn ra ngày 02/3/1946, tại
đây, Hồ Chí Minh đã được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Chính phủ liên
hiệp kháng chiến, đây là Chính phủ hợp hiến dầu tiên do đại biểu của nhân
dân bầu ra.
Tính chất pháp quyền của Nhà nước dân chủ mới theo Hồ Chí Minh,
nhà nước đó phải hướng tới việc cai trị bằng pháp luật và làm cho pháp luật
có hiệu lực trong thực tế. Ngay từ năm 1919, Hồ Chí Minh đã yêu cầu chính
quyền thực dân pháp bỏ chế độ cai trị thuộc địa bằng các sắc lệnh và thay vào
đó bằng các đạo luật. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai
lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp (1946 và 1959), đã ký lệnh công bố
16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác.
Để Nhà nước dân chủ mới từng bước trở thành nhà nước pháp quyền có
hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, Hồ Chí Minh khơng chỉ quan tâm tới việc từng
bước hoàn thiện hệ thống pháp luật. Người còn rất coi trọng việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. Theo Người, sau khi
công bố một đạo luật chưa phải mọi việc đã song xi, mà cịn phải tun
truyền giáo dục lâu dài mới bảo đảm cho luật đó được thực hiện tốt.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611


18
Để hướng tới một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ,
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và đạo
đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Người đã quyết định
mở trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, ký sắc lệnh số 197 thành lập Ban
pháp lý học tại Trường đại học Việt Nam ngày 11/10/1946. Ngày 20/5/1950,
Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 76, ban hành quy chế công chức, trong đó xác
định rõ “Cơng chức Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ
máy nhà nước của chính quyền nhân dân dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính
phủ”. Theo Người, cơng chức làm việc theo chế độ chức nghiệp, vì vậy cần
phải qua một kỳ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính.
Thứ tư, Nhà nước dân chủ mới theo Hồ Chí Minh phải từng bước trở
lên trong sạch, vững mạnh, hiệu quả.
Để xây dựng nhà nước từng bước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả,
trước hết phải kết hợp chặt chẽ giữa tăng cường pháp luật với đẩy mạnh giáo
dục đạo đức cách mạng. Đạo đức và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Chuẩn mực đạo đức là cơ sở để xây dựng nên các điều luật, ngược lại,
pháp luật bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo
đức và biến nó thành thói quen trong cuộc sống. Với một đất nước nông
nghiệp lạc hậu lại trải qua thời gian dài dưới ách đô hộ của thực dân, Phong
kiến, cho nên việc đòi hỏi có ngay một nhà nước pháp quyền là điều khơng
thể. Do vậy, để mỗi cán bộ, công chức của Nhà nước dân chủ mới thực sự là
công bộc của dân, chính quyền các cấp vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
phải từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, kết hợp tuyên truyền giáo dục
pháp luật với giáo dục đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng sẽ góp phần
bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Trái lại, pháp luật sẽ bảo
đảm cho các chuẩn mực đạo đức được giữ vững.
Để bảo đảm cho Nhà nước dân chủ mới trong sạch, vững mạnh, hiệu

quả phải kiên quyết chống tham ơ, lãng phí, quan liêu. Lênin đã từng khẳng

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

19
định “Chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản
đã trở thành những tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì
chính là cái đó (tức là chủ nghĩa quan liêu)” [10, tr.235]. Quán triệt tư tưởng
của Lênin và xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh ln quan tâm
khắc phục bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu. Người coi đây là ba thứ giặc nội
xâm, nó là bạn đồng minh của tực dân, Phong kiến và do đó, “Chống tham ơ,
lãng phí quan liêu cũng cần kíp như đánh giặc trên mặt trận” [5, tr.495]. Tham
ơ, lãng phí, quan liêu là căn bệnh cố hữu của mọi nhà nước. Theo Hồ Chí
Minh, tham ơ, lãng phi, quan liêu có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó quan
liêu là nguồn gốc của tham ơ, lãng phí “Vì vậy, muốn trừ sạch tham ơ, lãng
phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”.
Tóm lại, quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước dân chủ
mới ở Việt Nam sau cách mạng giải phóng dân tộc, và tiến dần từ chế độ dân
chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội là một sáng tạo lớn trong tư tưởng của
Người về nhà nước.
2. Ý nghĩa của quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ mới ở
Việt Nam
Quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ mới sau cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Về lý luận, quan điểm về Nhà nước dân chủ mới đã phát triển và làm
phong phú thêm học thuyết Mác – Lênin về nhà nước chun chính vơ sản.
Quan điểm đó phù hợp với thực tiễn Việt Nam sau cách mạng tháng tám, đã là

cơ sở lý luận để Đảng ta và Hồ Chí Minh chỉ đạo, tổ chức xây dựng nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa sau khi giành được chính quyền. Quan điểm đó
đã giải quyết nhiều vấn đề lý luận quan trọng về xây dựng nhà nước, bảo đảm
cho Nhà nước dân chủ mới vừa mang tính phổ biến của nhà nước chun
chính vơ sản, vừa mang tính đặc thù của Việt Nam.
Về thực tiễn, quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ mới đã
được hiện thực hóa thơng qua việc xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

20
cộng hòa. Một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, mang bản chất giai
cấp cơng nhân, đại diện cho lợi ích và nguyện vọng của cả dân tộc, tạo được
sự đồng thuận xã hội, phát huy được quyền làm chủ của nhân dân trong xây
dựng chế độ mới. Nhà nước dân chủ mới mà Hồ Chí Minh xây dựng đã phát
huy được sức mạnh toàn dân bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng và
đánh thắng hai đế quốc đầu xỏ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ mới khơng chỉ có ý
nghĩa lịch sử mà ngày nay vẫn cịn ngun giá trị. Trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện quốc tế và trong nước có nhiều thay đổi,
thuận lợi nhiều song khó khăn cũng khơng ít. Nhiệm vụ, mục tiêu của cách
mạng ngày càng nặng nề, Đảng và nhân dân ta đang tập trung xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước dân
chủ mới là cơ sở lý luận và kinh nghiệm quý báu để xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.
KẾT LUẬN

Quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ mới là hệ thống các
luận điểm về xây dựng nhà nước trong điều kiện của một nước quá độ gián
tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm đó được hình thành trên nền tảng học
thuyết Mác – Lênin về nhà nước nói chung và nhà nước chun chính vơ sản
nói riêng. Đồng thời quan điểm đó cịn là kết quả của q trình tìm tịi, khảo
nghiệm, so sánh và lựa chọn từ các mơ hình nhà nước tiêu biểu trên thế giới.
Quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ mới là sự vận dụng sáng tạo lý
luận và kinh nghiệm về xây dựng nhà nước trên thế giới vào điều kiện cụ thể
Việt Nam và đã được thực tiễn Việt Nam kiểm nghiệm là hoàn toàn đúng đắn.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

21

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng tồn tập, tập 7, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh (2002), Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh (2002), Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2002), Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh (2002), Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh (2002), Tồn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. C.Mác và Ăngghen ( 1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, sự
thật, Hà Nội.
8. C.Mác và Ăngghen ( 1995), Tồn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia,
sự thật, Hà Nội.
9. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva

10. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 54, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva

Downloaded by tran quang ()



×