Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

TU TUONG HCM VE KINH TE, VAN HOA VA CON NGUOI MOI, HP7docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.19 KB, 85 trang )

Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KINH TẾ
1.1. NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ
BẢN CHẤT CỦA TƯ TƯỞNG KINH TẾ HỒ CHÍ MINH
1.1.1. Hồn cảnh lịch sử và nguồn gốc hình thành, phát triển tư
tưởng kinh tế Hồ Chí Minh
1.1.1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng kinh tế Hồ Chí
Minh
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh được phát sinh, hình thành và phát triển
trong một bối cảnh quốc tế hết sức đặc thù. Trên trường quốc tế, chủ nghĩa tư
bản đang phát triển ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đã hình thành cơ bản sự phân
chia thế giới, ngày càng bộc lộ những xung đột gay gắt về kinh tế. Một chế độ
mới ra đời – chế độ xã hội chủ nghĩa – ngày càng lớn mạnh, trở thành một hệ
thống thế giới đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học - kỹ thuật,
quân sự, văn hóa v.v…So sánh lực lượng trên thế giới có lợi cho chủ nghĩa xã
hội. Mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện thực theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp ở Liên Xô và Đông Âu chưa bộc lộ rõ hết các khuyết tật của nó, vẫn cịn có
sức hấp dẫn những nước đi sau, trong đó có Việt Nam. Bởi thế, một số nhận
định của Hồ Chí Minh hồn tồn đúng với bối cảnh ngày đó, nhưng có thể
khơng cịn phù hợp với hiện nay, khi mà chủ nghĩa xã hội đang tạm thời lâm vào
thoái trào. Thí dụ, Hồ Chí Minh đánh giá: hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh
hơn hệ thống tư bản chủ nghĩa về nhiều mặt; chủ nghĩa xã hội đã thắng và thắng
một cách quyết định.
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh bắt đầu hình thành từ những năm 1920,
nhưng chủ yếu được thể hiện trong thời kỳ 1954-1969, tức là khi miền Bắc
nước ta bước vào thời kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội cho tới lúc Người
đi vào cõi vĩnh hằng. Thời kỳ này nước ta phải đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ
chiến lược cách mạng: xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, việc phát triển kinh tế phải


hướng vào phục vụ chiến đấu, tất cả phục vụ tiền tuyến để giành thắng lợi, tiến


tới thống nhất nước nhà.
Bản thân Hồ Chí Minh bao giờ cũng nhận thức sâu sắc, thấu đáo giữa nhu
cầu thực tiễn và sự vận dụng, phát triển tư duy lý luận. Người thường xuyên
căn dặn: phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác – Lênin để dùng lập
trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin mà tổng kết những
kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của
nước ta để dần dần hiểu được những quy định phát triển của cách mạng Việt
Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách
mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta. Ta có thể khơng giống
Liên Xơ, Trung Quốc, vì Liên Xơ, Trung Quốc có phong tục, tập quán khác, có
lịch sử, địa lý khác v.v…Việt Nam có thể đi con đường khác để tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: cách mạng chuyển biến địi hỏi phải có
một sự chuyển biến sâu sắc về tư tưởng và nhận thức, đòi hỏi phải có những
chính sách, những biện pháp về cơng tác tổ chức phù hợp với tình hình mới. Bởi
vậy, tuy có những nhận định cụ thể của Hồ Chí Minh khơng cịn phù hợp với
tình hình mới hiện nay, nhưng ý nghĩa về phương pháp tư duy vẫn còn giữ
nguyên giá trị đối với chúng ta.
1.1.1.2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh
Dưới góc độ chung nhất tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh được hình thành
từ bốn cơ sở chính: Tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân
loại, chủ nghĩa Mác – Lênin và những phẩm chất cá nhân riêng có của Hồ Chí
Minh. Đúng là Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin trên cơ sở chủ
nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, kế thừa có phê phán cac tư tưởng của
các nhà hiền triết phương Đông và phương Tây, theo thế giới quan Mác – Lênin
và nhân sinh quan cách mạng. Nhưng như thế vẫn cịn q chung chung, nói
một cách cụ thể hơn, nguồn gốc lý luận hình thành tư tưởng kinh tế Hồ Chí
Minh là lý luận kinh tế - chính trị, trực tiếp là lý luận về xây dựng nền kinh tế



của chế độ mới, về nội dung kinh tế của thời kỳ quá độ của chủ nghĩa Mác –
Lênin; các quan niệm truyền thống của dân tộc về tổ chức sản xuất, nhất là sản
xuất nông nghiệp lúa nước; các quan điểm kinh tế của các nhà tư tưởng trên thế
giới, đáng chú ý nhất là của phương Đông. Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh sẽ thấy rất rõ những nét đặc thù của phương thức sản xuất châu Á với tư
cách là một hệ thống tồn tại xã hội cũng là một nhân tố tác động đến việc hình
thành tư tưởng triết học, tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh. Từ rất sớm, chính Hồ
Chí Minh đã từng đề nghị phải bổ sung vào học thuyết Mác – Lênin, những giá
trị của tư tưởng phương Đông với cơ sở thực tiễn của phương thức sản xuất
châu Á. Những nét đặc thù của phương thức sản xuất này làm cho nó khác hẳn
với các phương pháp sản xuất đã từng tồn tại ở châu Âu và các châu lục khác.
Đặc điểm nổi bật nhất của phương thức sản xuất châu Á là các hình thức kinh tế
tự nhiên, tự cung tự cấp, phương thức sản xuất hàng hóa, kinh tế tiền tệ, thậm
chí cả kinh tế thị trường ở châu Âu. Trong phương thức sản xuất châu Á có sự
tồn tại dai dẳng các hình thức cơng xã nơng thôn khác nhau với sự tổ chức cố
kết cộng đồng ổn định, chặt chẽ và chế độ công điền trên một quy mô khá rộng
và một chế độ tự quản có chiều sâu. Chế độ cơng hữu về ruộng đất tồn tại lâu
dài ở châu Á là một trong những nguyên nhân hình thành nên phương thức sản
xuất châu Á, Hồ Chí Minh đã có những nhận xét rất tinh tế là các dân tộc châu
Á – phương Đông đi lên chủ nghĩa xã hội có phần dễ dàng hơn các nước châu
Âu tiên tiến, chủ yếu là dựa vào đặc điểm kinh tế này. Từ những năm hai mươi
của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã khẳng định “chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào
châu Á, dễ dàng hơn là ở châu Âu” 1 . Thực tiễn ngày nay cũng đã đang chứng
minh lời tiên đốn đó.
Các quan điểm về kinh tế và phát triển kinh tế của Hồ Chí Minh đều
mang tính biện chứng duy vật sâu sắc. Mặt khác, trong tư tưởng triết học duy
vật phương Đông cũng đã đặc biệt chú ý đến vai trò tiên quyết của những
phương tiện vật chất cho ăn, ở, sinh hoạt. Hồ Chí Minh vừa là nhà triết học
1 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 1, tr. 35.



mác-xít, vừa là nhà hiền triết phương Đơng nên Người nhận thức rất sâu sắc ý
nghĩa lớn lao của những phương tiện vật chất để thỏa mãn các nhu cầu sống,
sinh hoạt của con người. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Có thực mới vực được đạo.
Vì vậy, vơ luận thế nào chúng ta cũng phải giải quyết vấn đề lương thực cho tốt.
Muốn giải quyết vấn đề lương thực tốt, phải sản xuất cho tốt, như thế nông dân
mới có thừa thóc bán cho nhà nước” 2. Ở Hồ Chí Minh, quan niệm về vai trị
quan trọng của lương thực thực phẩm đối với đời sống xã hội không chỉ là
những cảm nhận từ thực tiễn mà còn xuất phát từ triết lý duy vật trong triết học
mác-xít và triết học phương Đơng. Trong bài nói chuyện với đại biểu cán bộ,
đảng viên tỉnh Hà Tĩnh ngày 15-6-1957, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Các cơ, các
chú có khi vì cơng tác, vì điều kiện, vì trình độ một phần nên chưa nghiên cứu
về chủ nghĩa Mác - Lênin. Muốn ăn là phải sản xuất, trước mắt là làm cho vụ
bát, vụ mười cho tốt”3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế ln ln xuất
phát từ một lôgic biện chứng, từ những vấn đề thực tiễn, định ra những chỉ dẫn
hoặc những giải pháp thiết thực để giải quyết các vấn đề kinh tế thực tiễn đặt ra.
Nhưng dù vấn đề rất thực tế, phong phú, rất đa dạng nhưng khơng bao giờ Hồ
Chí Minh xa rời những nguyên lý rất cơ bản của triết học duy vật biện chứng. Ở
Người, quan điểm thực tiễn và quan điểm nắm vững nguyên lý được nhất quán
trong khi giải quyết các vấn đề kinh tế ở Việt Nam.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng kinh tế Hồ Chí
Minh
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh phát sinh, hình thành và phát triển qua 3
giai đoạn lớn.
1.1.2.1. Trước năm 1945
Nghiên cứu, khảo sát nền kinh tế phong kiến thuộc địa ở Việt Nam, nhiều
nước khác trên thế giới, Hồ Chí Minh bắt đầu hình thành các quan điểm kinh tế
của riêng mình. Nội dung kinh tế của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian này
tập trung vào các vấn đề sau đây:
2 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 10 tr. 677.

3 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 4 , tr. 820.


Hồ Chí Minh đã dày cơng nghiên cứu một cách toàn diện bản chất kinh tế
của chủ nghĩa thực dân nói chung, chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam nói
riêng, quy luật vận động của chúng và sự diệt vong không thể tránh khỏi về mặt
lịch sử của chủ nghĩa thực dân. Các kết luận kinh tế về chủ nghĩa thực dân được
Hồ Chí Minh trình bày một cách có hệ thống trong: “Bản án chế độ thực dân
Pháp”. Xét về kinh tế, chủ nghĩa thực dân, chế độ thuộc địa là con đẻ không thể
tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản. Đây là một chế độ dã man, tàn bạo trong lịch
sử nhân loại: cưỡng ép, vơ vét thuộc địa làm giàu cho chính quốc, bần cùng hóa
người lao động, làm cho các nước thuộc địa trở nên nghèo đói, lạc hậu về mọi
mặt (nơng nghiệp, cơng nghiệp và chính sách mậu dịch).
Từ phương tiện kinh tế, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: Hệ thống thuộc địa
là nền tảng, cơ sở tồn tại, nuôi sống các đế quốc xâm lược. Chính thuộc địa đã
cung cấp cho chính quốc các phương tiện để kiếm sống, làm giàu duy trì sự tồn
tại của mình, đó là: Tài ngun thiên nhiên phong phú, đa dạng đủ các loại; đó
là vị trí địa lý quan trọng về quân sự và giao lưu quốc tế; nguồn nhân lực nhiều
và rẻ mạt; đó cịn là thị trường tiêu thụ hàng hóa của các nước đế quốc.
Bằng cách vạch trần bản chất xâm lược, ăn cắp của chủ nghĩa thực dân, vị
trí vai trị của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã dùng hình tượng ”con đỉa hai
vịi” để mơ tả phương thức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc: Một vịi hút máu của
nhân dân lao động chính quốc, một vịi hút máu của quần chúng lao khổ tại các
nước thuộc địa. Muốn tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc một cách triệt để phải đồng
thời chặt đứt cả hai vòi của con đỉa hút máu. Kết luận này của Hồ Chí Minh có
giá trị, ý nghĩa cả về kinh tế và chính trị.
Về kinh tế, Hồ Chí Minh đã lột trần bản chất thực sự của chủ nghĩa đế
quốc, vị trí của các nước thuộc địa trong hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế
giới, quy luật tồn tại của chủ nghĩa thực dân. Những khái quát kinh tế này của
Hồ Chí Minh đã góp phần cụ thể hóa các đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc mà

V.I. Lênin đã chỉ rõ trước đó, đồng thời Người đã bố sung vào lý luận của Lênin
những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra.


Về phương diện chính trị, kết luận của Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cơ sở kinh
tế khách quan của sự thống nhất các lực lượng cách mạng thời đại, xây dựng
khối đại đoàn kết quốc tế giữa lao động các nước chính quốc và các nước thuộc
địa; khẳng định tính chủ động và khả năng thắng lợi của cách mạng vơ sản ở
chính quốc.
Nghiên cứu kinh tế thuộc địa, Hồ Chí Minh vạch trần tính chất phản
động, dã man của chủ nghĩa thực dân đối với người dân thuộc địa, từ đó thức
tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giành lại tự do độc lập. Kết quả
nghiên cứu kinh tế thuộc địa của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở việc tố cáo
chủ nghĩa đế quốc và thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, chỉ ra sự diệt vong tất yếu
của chủ nghĩa thực dân, mà là còn cơ sở để Người dần hình thành tư tưởng về
một nền kinh tế dân chủ sẽ được xây dựng sau khi nước nhà được độc lập, nhà
nước dân chủ nhân dân ra đời. Những quan điểm kinh tế này được Hồ Chí Minh
trình bày rõ trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927) và các văn kiện được
thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (2-1930). Những bất cơng, những phi lý,
những thói quen, tập tục, bảo thủ, lạc hậu v.v…của nền kinh tế thực dân –
phong kiến cùng mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người của cuộc các mạng theo khuynh hướng vơ sản, khơng thể khơng
khiến Hồ Chí Minh suy ngẫm để rồi xác định một nền kinh tê độc lập, dân chủ
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế dân chủ mới đó: “Các sản
nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v) thuộc về kinh tế nhà
nước; ruộng đất thuộc về tài sản công cộng và đem chia cho nông dân sử dụng;
những thứ thuế vơ lý phải xóa bỏ; cơng nghiệp và nông nghiệp phải được mở
mang”4.
Đặc biệt, trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh đã xây dựng một lý luận tương
đối hoàn chỉnh về hợp tác xã với tư cách vừa là một hình thức tổ chức dồn kết,

tập hợp quần chúng cách mạng, vừa là một loại hình kinh tế chủ chốt của chế độ

4 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 1 tr. 1-2,10.


mới. Hồ Chí Minh đã đề cập đến hợp tác xă một cách toàn diện: cơ sở lý luận;
nguyên tắc tổ chức; phương thức lãnh đạo, quản lý; các hình thức chủ yếu.
1.1.2.2. Giai đoạn 1945-1954
Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ phục vụ công cuộc kháng chiến
và kiến quốc.
Tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đứng lên Tổng khởi nghĩa
thắng lợi, giành chính quyền trên cả nước từ tay phát xít Nhật. Ngày 2-9-1945,
chính phủ cách mạng lâm thời tuyên bố nước nhà độc lập, nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời. Nhưng sau đó thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta,
nhân dân Việt Nam lại phải tiến hành một cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn
dân, toàn diện để giữ vững nền độc lập vừa giành được. Cuộc kháng chiến kéo
dài trong vòng 9 năm và kết thúc thắng lợi vào năm 1954. Đây là thời kỳ một số
tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh được thực hiện, có bước phát triển và bố sung
những nội dung mới.
Hồ Chí Minh chủ trương và lãnh đạo xây dựng một nền kinh tế độc lập,
tự chủ nhằm mục đích cải thiện và nâng cao dần đời sống của nhân dân lao
động. Theo Hồ Chí Minh, độc lập về chính trị ln gắn liền với độc lập về kinh
tế: “Để xóa bỏ tàn tích của thực dân Pháp, các nước mới giành được độc lập về
chính trị cần giải quyết vấn đề kinh tế quốc dân khơng lệ thuộc vào kinh tế đế
quốc, thì độc lập mới hoàn toàn và thực sự” 5 và độc lập dân tộc phải gắn với
đem lại cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Người ý thức rất rõ: nước độc
lập tự do mà nhân dân không được no ấm, hạnh phúc thì độc lập đó chẳng có
nghĩa lý gì vì dân chỉ hiểu được giá trị của tự do, độc lập khi họ được ăn no mặc
đủ. Vì thế, sau khi giành được độc lập phải tập trung mọi nguồn lực để xây
dựng và phát triển kinh tế.

Xuất phát từ đặc điểm nước ta, Hồ Chí Minh đã có tư tưởng chỉ đaọ sáng
suốt, nhạy bén, vừa giải quyết được vấn đề trước mắt, vừa hướng đến sự phát
triển lâu dài. Người xác định phải tập trung phát triển nông nghiệp ,”Dĩ nông di
bản”, coi nông nghiệp là gốc của sự phát triển kinh tế. Sự lựa chọn đúng đắn
5 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 10 tr. 551.


này có thể tận dụng tối đa các tiềm lực sẵn có của đất nước:tài ngun đất đai
khí hậu, truyền thống kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp của nhân dân, phát huy
nguồn lực của con người mà đại bộ phận là nông dân nhằm trước hết giải quyết
vấn đề ăn cho nhân dân, cho bộ đội đánh giặc, trên cơ sở đó từng bước xây
dựng nền kinh tế độc lập của nước nhà. Coi trọng nơng nghiệp, Hồ Chí Minh đã
khái qt thành những luận đề có tính lý luận triết lý: “Nơng dân giàu thì nước
ta giàu, nơng nghiệp thịnh thì nước ta thịnh” 6. Thậm chí Người cịn đặt vấn đề
“công cuộc phát triển nông nghiệp là nền tảng để phát triển kinh tế”7 …
Để thực hiện chủ trương này, Hồ Chí Minh đã đề xuất hàng loạt chính
sách, biện pháp và cách làm để vực dậy một nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc
hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Người kêu gọi nông dân tăng gia sản xuất,
thực hành tiết kiệm, trồng đủ các loại cây: lúa, hoa mầu, cây ăn quả và tổ chức
lại sản xuất. Chính ở giai đoạn này Người đã nói đến “sách khuyến nông”, tổ
chức các tổ đổi công, hợp tác xã trong nơng thơn. Để khuyến khích nơng dân,
bồi dưỡng sức dân, tăng cường lực lượng cho cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh
đã bước đầu thực hiện giảm tơ, xóa bỏ triệt để mọi thứ thuế do chế độ thực
dân,phong kiến đã đặt ra, sau đó thực hiện cải cách ruộng đất, đưa lại đất cày
cho hàng triệu nông dân. Hồ Chí Minh đánh giá cải cách ruộng đất là một cuộc
cách mạng thật sự, là một bước phát triển tất yếu của nền nơng nghiệp nước
nhà. Cũng chính ở thời điểm đó Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân,trước hết là
nông dân tự lực tự cường theo phương châm: “làm cho nhiều, tiêu thì ít, làm
chóng tiêu chậm, tức là đầy đủ: như vậy “nghèo đói trở nên đủ,đủ trở nên khá,
khá trở nên giàu và giàu thì ngày càng giàu thêm 8”. Hồ Chí Minh khơng sợ dân

giàu, trong nhận thức của Người, tiến tới giàu có là một q trình lâu dài, có sự
phân tầng về mặt xã hội và dân có giàu thì nước mới mạnh. Dân giàu nước
mạnh trong độc lập dân tộc, dân giàu nước mạnh để giữ vững và bảo vệ độc lập
dân tộc.
6 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 4, tr. 217.
7 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 4, tr. 217.
8 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 5, tr. 62.


Từ quan điểm dân giàu nước mạnh, lần đầu tiên trong tư duy kinh tế mácxít ở Việt Nam,đã chủ trương thực hiện chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần với các hình thức sở hữu đa dạng. Người không chỉ rõ sự tồn tại khách
quan của số lượng các thành phần kinh tế mà còn xác định vị trí, vai trị xu
hướng biến đổi của chúng trong nền kinh tế mà cịn xác định vị trí, vai trị xu
hướng biến đổi của chúng trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Điều đặc
biệt lý thú là thứ tự sắp xếp cá thành phần kinh tế (Quốc doanh; hợp tác xã; tiểu
chủ, cá thể; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước) mà Hồ Chí Minh đưa ra vào năm
1953, lại được quán triệt và thể hiện rất rõ trong Văn kiện Đại hội đại điểu Đảng
toàn quốc lần thứ IX (2001). Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh là người lãnh đạo đầu
tiên của Đảng và Nhà nước ta nêu ra một cách đầy đủ và chủ trương sử dụng
nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong tư tưởng của
Người, nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sở hữu khác nhau tồn tại
lâu dài dưới chế độ dân chủ nhân dân do Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền
lãnh đạo.
Cùng với đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, Hồ Chí Minh cịn
chỉ rõ, để phát triển kinh tế của đất nước, Đảng và Chính phủ phải thực hiện bốn
chính sách mấu chốt là: “cơng tư đều có lợi”; “chủ thợ đều có lợi”; “cơng nơng
giúp đỡ lẫn nhau” và “lưu thơng trong ngồi” 9. Hồ Chí Minh đã xác định lợi ích
kinh tế là hạt nhân để xác định các loại kinh tế; giải quyết đúng đắn lợi ích của
các chủ thể kinh tế sẽ đảm bảo tạo được động lực cho nền kinh tế hoạt động có
hiệu quả và phát triển đúng hướng.

Trong thời gian này, Hồ Chí Minh đã từng bước hình thành một bộ máy
quản lý kinh tế với một cơ cấu hợp lý, hoạt động có hiệu quả thực tế, trong sạch,
liêm khiết. Tất cả những việc làm đó đều có tác dụng chuẩn bị các nhân tố, điều
kiện và tiền đề cần thiết để thực hiện bước quá độ từ chế độ dân chủ mới lên
chủ nghĩa xã hội.
1.1.2.3. Giai đoạn 1954-1969
9 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 7, tr. 221-222.


Đặc điểm lịch sử nổi bật của giai đoạn này là: sau Hiệp định Giơnevơ (71954) miền Bắc được hoàn tồn giải phóng, miền Nam cịn bị đế quốc Mỹ
chiếm đóng, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước
ta. Lúc này, cách mạng Việt Nam phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam
tiếp tục cuộc các mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai miền Nam Bắc đều nhằm
thực hiện mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn
thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, rồi cùng tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh đó, tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh có bước
phát triển kinh tế mới được bổ sung.
Hồ Chí Minh xác định rõ và nhất quán mục đích phát triển kinh tế của
nước ta là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết
là thõa mãn các nhu cầu thiết yếu nhất cho quần chúng lao động: làm cho họ có
ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành và có điều kiện để chữa bệnh, chăm sóc
sức khỏe. Hiệu quả của đường lối, chính sách kinh tế, năng lực tổ chức quản lý
của bộ máy, cán bộ kinh tế được đánh giá thông qua việc cải thiện, nâng cao đời
sống nhân dân. Muốn nâng cao đời sống nhân dân, theo Hồ Chí Minh, phải đẩy
mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm phân phối công bằng; và việc nâng
cao đời sống của nhân dân phải do nhân dân tự làm lấy. Hồ Chí Minh nhận thức
rõ mối quan hệ biện chứng và sự chi phối, tác động lẫn nhau giữa tăng gia sản
xuất, thực hành tiết kiệm với việc nâng cao đời sống nhân dân.
Hồ Chí Minh đã thực hiện một loạt các biện pháp lâu dài để xây dựng và

phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Quan điểm phát triển lực lượng sản xuất
hàm chứa một nội dung rất rộng, tác động đến nền tảng phát triển xã hội: xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học – kỹ thuật, văn hóa giáo
dục, hình thành đội ngũ tri thức cách mạng, xây dựng cơ cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, tiến hành cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh cho rằng: cơng
nghiệp hóa là con đường phải đi của nước ta và cơng nghiệp hóa phải bắt đầu từ


nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở xây dựng và phát triển một nền nơng nghiệp
tồn diện.
Trong giai đoạn này, Hồ Chí Minh đã bổ sung và phát triển quan niệm về
vai trị “gốc, nền tảng” của nơng nghiệp và xây dựng một nền nơng nghiệp tồn
diện với một hệ thống các chỉ dẫn thiết thực, cụ thể. Một nền nơng nghiệp tồn
diện theo Hồ Chí Minh bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng, đánh cá và
phát triển cả ngành nghề phụ ở nông thôn; trong trồng trọt cũng đa dạng các loại
cây trồng, chăn nuôi phải chú ý cả gia súc, gia cầm. Lần đầu tiên, Hồ Chí Minh
đã nêu lên ý tưởng quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh, đem
lại khối lượng sản phẩm lớn, có hiệu quả cao.
Về tổ chức sản xuất nơng nghiệp, Hồ Chí Minh đã chỉ ra các bước tiến
hành tuần tự phải trải qua: cải cách ruộng đất → tổ đổi công → hợp tác xã cấp
thấp → hợp tác xã cấp cao → nông trường nông nghiệp → làm cho nơng nghiệp
xã hội hóa. Riêng về xây dựng hợp tác xã nơng nghiệp, Hồ Chí Minh đã đề xuất
một hệ thống các luận điểm chỉ rõ tinh tất yếu khách quan, mục đích, phương
châm, ngun tắc, hình thức và các giải pháp thực hiện. Quan niệm đó ngày nay
vẫn cịn giữ ngun tính thời sự.
Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển quan niệm về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người đề cập đến ba loại cơ cấu kinh tế chủ yếu:
cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp; cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và cơ cấu
vùng, lãnh thổ.
Hồ Chí Minh lựa chọn cơ cấu cơng – nơng nghiệp là cơ cấu kinh tế ngành

hợp lý nhất, xem đó là hai chân của nền kinh tế, phải phát triển đồng đều, toàn
diện, cân đối; thương nghiệp là mắc khâu trung gian nối liền công nghiệp và
nông nghiệp. Cơ cấu công – nông nghiệp là cơ sở kinh tế thực hiện lien minh
công nhân với nông dân và lao động trí óc – nền tảng xã hội vững chắc của nhà
nước, ổn định của dân tộc.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh vẫn thực hiện đường lối
kinh tế nhiều hình thức sở hữu với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Bên


cạnh chăm lo, củng cố kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác xã, Hồ Chí Minh
khuyến khích phát triển kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân dưới mọi hình
thức. Chính ở điểm nút lý luận này, Hồ Chí Minh đã vượt qua truyền thống tư
duy kinh tế mác-xít đương thời, cho rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội, về thực
chất là một sự nghiệp kinh tế của toàn dân, của mọi người Việt Nam yêu nước,
kể cả tư sản dân tộc. Chủ trương này được Đảng ta vận dụng sáng tạo và thành
cơng trong q trình đổi mới.
Về quản lý kinh tế, Hồ Chí Minh đã xây dựng một bộ máy và cán bộ theo
hướng chuyên mơn hóa, chun nghiệp hóa. Người đã đề xuất và thực hiện một
loạt các nguyên tắc quản lý, phản ánh đúng bản chất các quan hệ kinh tế của chế
độ mới: tập trung dân chủ, chú trọng hiệu quả, hạch tốn, kế hoạch hóa; sử dụng
rộng rãi các địn bẩy kinh tế trong sản xuất và bắt đầu đề xuất, thực hiện quan
điểm về chế độ làm khoán. Người xác định rõ làm khoán là một đặc điểm của
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, trong đó kết hợp được ba lợi ích rất cơ bản: lợi ích
nhà nước, tập thể và lợi ích người lao động.
Bên cạnh kiên trì quan điểm xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ,
thực hiện các cách làm kinh tế phù hợp với đặc điểm, điều kiện của dân tộc Việt
Nam, Hồ Chí Minh lại chủ trương mở cửa, tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế
với các nước có chế độ chính trị khác nhau, tranh thủ viện trợ và học tập kinh
nghiệm tốt của các nước anh em. Đây chính là quan điểm lý luận với kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, thời đại trong xây dựng và phát triển

kinh tế nước nhà.
1.1.3. Những đặc điểm bản chất của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh
1.1.3.1. Khái niệm tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh
Từ việc trình bày khái quát quá trình hình thành, phát triển tư tưởng kinh
tế Hồ Chí Minh đã có thể hình dung diện mạo của tư tưởng đó, chúng tơi đi đến
xác định khái niệm khoa học. Việc định nghĩa khái niệm “Tư tưởng kinh tế Hồ
Chí Minh”, chúng tơi dựa vào các nguyên tắc phương pháp luận mác-xít.


Một là làm rõ nội hàm với những đặc trưng cơ bản của khái niệm. Công
việc này được tiến hành trên cơ sở tài liệu, sự kiện chính xác và những khái quát
lý luận khoa học.
Hai là, phải rút ra cái cốt lõi, bản chất của sự kiện, những quy luật vận
động tác động đến nó.
Ba là, mối quan hệ giữa nội dung tư tưởng với thực tiễn cuộc sống.
Từ những yêu cầu trên, khái quát các kết quả nghiên cứu đạt được chúng
tôi quan niệm rằng “Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành tư
tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm hệ thống những luận điểm lý luận được rút ra từ
thực tiễn cách mạng, từ sự kế thừa và phát triển những tinh hoa của dân tộc và
trí tuệ của thời đại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm giải quyết
những vấn đề kinh tế cơ bản của quá trình phát triển từ một xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, nông nghiệp lạc hậu tiến dần lên chế độ xã hội chủ nghĩa có cơ cấu
cơng – nơng nghiệp hiện đại, khoa học – kỹ thuật tiên tiến có khả năng không
ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao
động”.
Việc định nghĩa khái niệm “Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh” như vậy đạt
được các yếu tố sau:
Các bộ phận cấu thành nội dung khái niệm.
Nguồn gốc lý luận của khái niệm.
Những đặc trưng nêu rõ quy luật xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt

Nam với yêu cầu, nội dung cốt lõi và mục đích của nó.
Điểm xuất phát và tương lai phát triển của nền kinh tế Việt Nam, chi phối
và tác động đến toàn bộ hệ thống các quan hệ xã hội khác, nói lên bản chất nhân
văn của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh.
Đây cũng chỉ mới là ý kiến ban đầu, còn phải tiếp tục nghiên cứu và bổ
sung để tiến tới có một khái niệm hồn chỉnh, khoa học.
1.1.3.2. Một số đặc điểm bản chất của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh
Lược khảo lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh
chúng tơi phát hiện ra những đặc điểm chủ yếu sau đây:


Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng mác-xít đầy sáng tạo, có những cống
hiến lý luận rất phong phú, toàn diện. Tư tưởng kinh tế là một bộ phận đặc sắc,
chứa đựng những tư tưởng mới mẻ, hiện đại rất khoa học và cách mạng. Mặc
dầu được hình thành từ nhiều nguồn gốc lý luận khác nhau, nhưng nguồn gốc
thẳng, trực tiếp là học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin, Vì thế, tư tưởng
kinh tế Hồ Chí Minh thuộc phạm trù kinh tế - chính trị học Mác – Lênin, là sự
kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo kinh tế - chính trị học Mác – Lênin
trong điều kiện lịch sử của Việt Nam,
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh có cấu trúc nội tại, bao gồm một hệ
thống các luận điểm có quan hệ chặt chẽ với nhau: mục tiêu, cơ cấu, phương
hướng, biện pháp, nhịp độ, bước đi của nền kinh tế nước ta… trong tồn bộ q
trình vận động từ chế độ dân chủ mới quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Một đặc điểm đáng chú ý của tư tưởng kinh tế, bóc lột rõ phong cách lý
luận của Hồ Chí Minh, là Người khơng dùng ngơn ngữ trừu tượng để nói lý
luận với các nhà lý luận mà dùng ngôn ngữ thơng thường, giản dị, dễ hiểu với
nhiều hình ảnh so sánh để nói với quần chúng và những điều cụ thể, thiết thực
dễ nhớ, dễ làm. Dưới hình thức nơm na, những chỉ dẫn, gợi ý của Hồ Chí Minh
thường chứa đựng những hạt ngọc lý luận kinh tế quý giá bởi vì nó phản ánh
nhu cầu bức thiết của thực tiễn kinh tế đất nước, phản ánh nguyện vọng nóng

bỏng của người sản xuất, nên được quần chúng nhiệt tình đón nhận và dốc lịng
thực hiện. Trong tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh, dường như khơng có một
khoảng cách quá lớn giữa lý luận và đời sống hiện thực, và khả năng hiện thực
hóa các quan điểm lý luận là hết sức lớn. Điều đó cho thấy sức mạnh vật chất và
cải tạo hiện thực kinh tế khách quan của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh.
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh mang tính chất cách mạng và phát triển.
Hồ Chí Minh thường đề cập đến những vấn đề thiết thực vừa tầm với trình độ
nhận thức và hiểu biết của người dân, đặc biệt là nông dân – bộ phận dân cư
đông đảo nhất trong xã hội nước ta, nhưng đó cũng thường là những vấn đề cấp
bách, cốt lõi, bản chất có tính quy luật của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ mà


đến nay chúng ta vẫn tìm tịi cách để tháo gỡ để tiến tới xác lập được một mơ
hình kinh tế tổng quát định hướng cho hoạt động thực tiễn, khơng đi chệch con
đường xã hội chủ nghĩa. Vì thế, các quan điểm kinh tế phải thường xuyên được
bổ sung bằng những nội dung mới mà thực tiễn cuộc sống đặt ra.
1.1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế - một số vấn đề phương pháp
tiếp cận trong nghiên cứu
Nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của Hồ Chí Minh nói chung, tư
tưởng Hồ Chí Minh nói riêng, càng ngày dần dần chúng ta cảm nhận thêm được
nhiều vấn đề, trong đó có tư tưởng của Người về kinh tế.
Thật ra thì cho đến nay, khơng phải là khơng có người nghĩ rằng và nói
rằng, Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất,
cả cuộc đời của Người gắn với sự nghiệp giải phóng dân tộc cho nên ở Người
khơng “mạnh” lắm về những vấn đề kinh tế.
Theo nghiên cứu bước đầu, chúng tơi cảm nhận được, trên khía cạnh
phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, như
sau:
Có một cái nhìn tổng thể vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
trong tồn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong thực tế, chúng ta thấy Hồ Chí Minh khơng bao giờ tách riêng
những vấn đề kinh tế khỏi toàn bộ những vấn đề khác của đất nước Việt Nam.
Quan điểm nổi bật nhất là kinh tế gắn với chính trị với nghĩa rộng nhất của từ
này, kinh tế gắn với con người, với xã hội, v.v. Ở Người, khơng có kinh tế duy
nhất, biệt lập, làm “kinh tế”, bằng mọi giá…
Sử dụng phương pháp tiếp cận này, người nghiên cứu lại cần có ít nhất
hai vấn đề lưu ý:
Đặt những quan điểm hoặc cả những chỉ đạo cụ thể của Hồ Chí Minh về
kinh tế vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Chúng ta có thể dẫn một loạt thí dụ những
quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề này. Ở Hồ Chí Minh, có những vấn đề
quan điểm thuộc về chiến lược kinh tế nhưng cũng có khơng ít những quan


điểm chỉ đạo cụ thể trong một thời điểm cụ thể và đương nhiên có tác dụng
trong một khoảng thời gian và thời gian nhất định. Cả cuộc đời của Hồ Chí
Minh hầu như dành cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, kể cả trong thời
kỳ Người cùng toàn Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc nước ta cũng là nằm trong khói lửa chiến tranh, Nam – Bắc bị chia cắt, mọi
quy luật chiến tranh trùm lên những vấn đề kinh tế.
Khơng nên coi Hồ Chí Minh là một nhà kinh tế, để từ đó câu nệ vào chữ,
những ý kiến cụ thể của Người về kinh tế, mà phải coi ở Người trước hết là một
nhà chính trị, một nhà tư tưởng. Do vậy, nên khắc phục nhược điểm thường thấy
ở một số nhà nghiên cứu chỉ thấy những vấn đề rất vụn (thường trích dẫn để
chứng minh) mà chưa làm nổi bật lên vấn đề thuộc tư tưởng – điều mà nhà
nghiên cứu đang cần như một cái đích để phấn đấu làm rõ.
Nghiên cứu tư liệu thành văn đồng thời chú trọng nghiên cứu cả tư
liệu không thành văn.
Cách tiếp cận truyền thống từ trước đến nay là dựa chủ yếu vào tư liệu
thành văn. Điều này cực kỳ quan trọng, bởi vì nếu thiếu mảng này chúng ta khó
hoặc khơng thể nghiên cứu tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế. Ở đây, cũng có

sự phân loại để tiếp cận nghiên cứu cho tốt:
Thứ nhất, đó là những tác phẩm đã cơng bố của Hồ Chí Minh (trong Hồ
Chí Minh Tồn tập). Theo chúng tơi, đây là tài liệu cần ưu tiên chú trọng số 1
trong nghiên cứu tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh.
Thứ hai, những tác phẩm của Hồ Chí Minh và đang cịn nghi là của Hồ
Chí Minh chưa được xác minh và đương nhiên chưa được in ấn phát hành. Loại
tài liệu này chủ yếu được lưu giữ ở các kho lưu trữ trong và ngồi nước, thậm
chí ở một số cá nhân.
Thứ ba, những sách, tài liệu người khác biên soạn, viết về Hồ Chí Minh.
Loại tài liệu này cần có sự phân loại thành nhiều loại khác nhau nữa. Chẳng
hạn, có thể phân theo nhóm trong nước, ngồi nước; những loại biên soạn như


kiểu sách công cụ (như Biên niên tiểu sử 10 tập đã xuất bản), những sách
nghiên cứu, v.v..
Thứ tư, loại tài liệu hồi ký từ những người làm việc cùng với Hồ Chí
Minh, nhớ lại rồi ghi thành những sự kiện, những nhận xét của mình về những
vấn đề kinh tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở loại tài liệu này, cần chú ý cả
những sự kiện về cuộc sông thường nhật của Người, những ý kiến cụ thể của
Người khi phát biểu với đơn vị này, địa phương kia khi Người đến,v.v…
Thứ năm, loại tài liệu kiểm chứng thông qua sự khảo sát, liên tưởng, đối
chứng với tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế. Điều này là rất khó, địi hỏi tư duy
tổng kết của người nghiên cứu. Bởi vì, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn kết rất chặt
chẽ với cuộc sống, nó chỉ sống động trong cuộc sống ở các thời kỳ tiếp theo của
dân tộc. Việc nghiên cứu này tránh được kinh viện.
Năm loại trên đây địi hỏi người nghiên cứu phải có phương pháp nghiên
cứu riêng.
Một mặt khác, nói chung và đặc biệt đối với Hồ Chí Minh, chỉ tư liệu
thành văn khơng thơi thì chưa đủ mà cịn cả những tư liệu khơng thành văn.
Những tư liệu này có thể là hiện vật, có thể là di tích, bức ảnh… Hồ Chí Minh

khơng phải là người chuyên tâm viết những cuốn sách lớn bởi vì Người là nhà
chính trị. Do vậy, có thể có người nghiên cứu có vẻ thất vọng khi nghiên cứu
những tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế so với những tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là cảm nhận sai lầm. Một nhà tư
tưởng không nhất thiết là viết hàng pho sách mà chính cuộc đời mình là một
pho sách lớn.
Điều rất lý thú mà chúng tôi cảm nhận được qua bước đầu nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế là trong hoàn cảnh hiện nay, khi đất nước hoạt
động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa, hội nhập, chủ
động hội nhập trong tồn cầu hóa kinh tế, đọc lại những quan điểm của Hồ Chí
Minh về kinh tế mới thấy vẫn cịn ngun tính thời sự. Phải chăng tính dự báo


trong quan điểm đó rất nổi trội, hoặc phải chăng ở tầm nhìn xa của bậc vĩ nhân
Hồ Chí Minh như là một đặc tính khơng thể thiếu.
Chẳng hạn, ngay từ năm 1947, Hồ Chí Minh đã thay mặt Nhà nước Việt
Nam mới để tuyên bố với Liên hợp quốc rằng, Việt Nam sẵn sàng làm bạn với
tất cả các nước dân chủ mà khơng gây thù ốn với một ai. Cũng trong những
năm đầu của nước Việt Nam mới đó, Người gửi thư cho Liên hợp quốc với
những đoạn như sau: “Nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những nguyên tắc dưới
đây:
1. Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam tơn trọng nền độc lập của hai
nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa
các nước có chủ quyền.
2. Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách
mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư
bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao
thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.

c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc
tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.
d) Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân
trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những
hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân.”10.
Trong xây dựng kinh tế, mặc dù trong điều kiện chi viện cho cách mạng
miền Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm có ý nghĩa chiến lược: vấn
đề khoán trong chủ nghĩa xã hội; vấn đề sử dụng các đòn bẩy kinh tế; vấn đề
tăng năng suất lao động; vấn đề tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm; vấn đề
khoa học kỹ thuật trong sản xuất; vấn đề tổ chức quản lý sản xuất; vấn đề quan
hệ sản xuất vv…
10 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr. 469-470.


Nên cố gắng khái quát tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh theo những quan
điểm cơ bản nhất, ít nhiều có tính chất ngun lý trên tầm vĩ mơ.
Có thể có nhiều cách tiếp cận tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh. Thơng
thường người ta tìm hiểu tư tưởng kinh tế của Người về từng vấn đề kinh tế cụ
thể hay từng ngành, từng địa phương cụ thể thông qua các bài viết, các bài nói
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó khơng thơi thì chưa đủ,
khơng nói lên được chiều sâu lý luận và quy mô tác động của các quan điểm
kinh tế của Hồ Chí Minh. Trên bình diện lý luận, cách tốt nhất là phải từ những
tư liệu cụ thể đó khái qt thành những quan điểm cơ bản có tính chất nguyên
lý, chỉ đạo hoạt động kinh tế của đất nước.
Phải tìm hiểu và làm sáng tỏ cả những quan điểm mà Hồ Chí Minh gợi
mở, đề xuất, chưa có điều kiện luận giải rõ và thực hiện trong đời sống thực
tế, nhưng nhà nghiên cứu có thể cảm nhận là rất quan trọng.
Hiện nay, khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng kinh
tế Hồ Chí Minh nói riêng, người ta chỉ thường trích dẫn và luận giải những điều
đã rõ, đã được chính Hồ Chí Minh diễn đạt rành mạch và cụ thể. Đây mới chỉ là

một phần, mặc dù là phần trọng yếu nhất của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh.
Trong nội dung tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh cịn có một số luận điểm chưa rõ
cần phải được phân tích, nghiên cứu, bởi vì chúng rất quan trọng và có ý nghĩa
chỉ đạo xây dựng nền kinh tế Việt Nam hiện đại, chẳng hạn như quan điểm Hồ
Chí Minh về khuyến nơng; chia lãi cho cơng nhân trong xí nghiệp; quan điểm
làm cho cơng nghiệp xã hội hóa, quan điểm làm cho nơng nghiệp xã hội hóa v
v…
1.2 NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TƯ TƯỞNG KINH TẾ HỒ
CHÍ MINH
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh có nội dung phong phú, rất rộng, cho đến
nay đang ít được đề cập đến. Vì thế, nghiên cứu một cách nghiêm túc tư tưởng
kinh tế của Hồ Chí Minh trong mối liên hệ với những vấn đề kinh tế đang đặt ra
là một nhiệm vụ cấp thiết, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, thiết thực.


1.2.1. Vai trò nền tảng của kinh tế trong quá trình phát triển xã hội
1.2.1.1. Mối quan hệ giữa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong q
trình phát triển của lịch sử
Nghiên cứu đời sống xã hội, Hồ Chí Minh hồn tồn đứng trên quan điểm
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người quan niệm đời sống xã hội,
quá trình lịch sử là sự thống nhất của các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa.
Các mặt này thường đan xen, xâm nhập, làm tiền đề, cơ sở thúc đẩy và hỗ trợ
lẫn nhau, sự tách biệt giữa chúng chỉ có ý nghĩa tương đối. Sự thống nhất của
các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội theo Hồ Chí Minh được chế định
bởi chủ thể đích thực của q trình lịch sử: con người với hoạt động sống của
nó. Chính vì vậy, nét đặc sắc về mặt phương pháp tiếp cận xã hội của Hồ Chí
Minh là từ những nghiên cứu về kinh tế bao giờ Người cũng rút ra các kết luận
chính trị - xã hội nhằm hoạch định đường lối, chính sách khoa học đúng đắn chỉ
đạo và cải tạo thực tiễn khách quan. Khi xác định nhiệm vụ xây dựng một mặt
nào đó thuộc đời sống xã hội, Hồ Chí Minh khơng tách biệt, cơ lập riêng từng

lĩnh vực, mà thường đặt nó trong một tổng thể chung, bên cạnh các mặt khác.
Quan điểm có tính chất phương pháp luận này được Hồ Chí Minh quán triệt
nghiêm ngặt khi xây dựng chiến lược phát triển các mặt đời sống của chế độ
mới. Đề cập đến xây dựng đời sống văn hóa, Người xác định: “Năm điểm lớn
xây dựng nền văn hoá dân tộc.
1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân
dân trong xã hội.
4- Xây dựng chính trị: dân quyền.
5- Xây dựng kinh tế.”11.
Đời sống xã hội là sự thống nhất của các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội. Trong q trình phát triển lịch sử, mỗi nhân tố đóng một vị trí, vai trị
11 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 3, tr. 431.


khác nhau, có tính độc lập riêng, trong đó nhân tố kinh tế giữ vai trò nền tảng.
Kinh tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh thường được hiểu theo hai nghĩa. Một là,
kinh tế được Người xem như là sự tổng hợp các quan hệ sản xuất của một chế
độ xã hội. Tất nhiên hệ thống quan hệ sản xuất này bao giờ cũng được Hồ Chí
Minh gắn liền với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, trình độ xã hội
hóa sản xuất. Trong điều kiện nước ta, khi lực lượng sản xuất non yếu, phân tán
và lạc hậu, thì trước hết phải có các loại hình sở hữu, tổ chức tương ứng mới
phát huy được hiệu quả. Hai mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thống
nhất biện chứng trong nội tại bất kỳ một phương thức sản xuất xã hội nào. Hai
là, Hồ Chí Minh quan niệm kinh tế cụ thể là nền kinh tế quốc dân Việt Nam,
mới thoát ra từ nền kinh tế phong kiến thuộc địa với các ngành, lĩnh vực và các
hình thức sản xuất của nó. Đấy chính là đối tượng chủ yếu của tư tưởng kinh tế
Hồ Chí Minh.
Theo cả hai nghĩa đó, kinh tế được Người đặc biệt chú ý, xem nó như là

xương sống của đời sống xã hội, cơ sở hình thành các quan hệ xã hội – giai cấp,
thiết lập các thể chế chính trị, dân chủ, đời sống tinh thần, thỏa mãn các nhu cầu
tồn tại của con người và là lĩnh vực hoạt động sống cơ bản nhất. Trong tất cả
các chế độ xã hội, công nhân, nông dân và những người lao động nói chung là
động lực quan trọng nhất, họ trực tiếp tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất
vật chất, duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nói về vai trị của kinh tế khi
so sánh với các lĩnh vực khác, Hồ Chí Minh cho rằng “Muốn tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao khơng nói phát triển văn hóa
và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi
trước”12. Ý thức vai trò quyết định của kinh tế, Hồ Chí Minh vận dụng vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội xác định rõ, nhất quán “nhiệm vụ quan trọng nhất của
chúng ta là phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội” và
“trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế
cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu
12 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 10, tr. 59


dài”13. Đây cũng là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp nhất nhưng nếu giải quyết
được sẽ tạo điều kiện vật chất cần thiết, vững chắc đảm bảo cho sự thắng lợi của
chế độ xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm xem kinh tế là nền tảng vật chất, quyết định sự tồn tại của xã
hội được xuyên suốt trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Hồ Chí Minh, đặc
biệt rõ nhất khi nghiên cứu các nhân tố và quy luật khách quan tác động đến quá
trình phát triển của cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và
lựa chọn mô hình chế độ xã hội có thể đảm bảo đời sống no ấm, hạnh phúc cho
nhân dân lao động.
1.2.1.2. Bản chất kinh tế của chủ nghĩa thực dân Pháp và những đặc
điểm của nó ở Việt Nam
Nghiên cứu chủ nghĩa thực dân, hệ thống thuộc địa là một cơng trình lý

luận vĩ đại của Hồ Chí Minh, là sự bổ sung kịp thời, hoàn thiện và phát triến
sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về chủ nghĩa tư bản trên phạm vi quốc tế. Mác
và Ăngghen nghiên cứu, phát hiện bản chất và quy luật vận động của chủ nghĩa
tư bản ở giai đoạn tự do cạnh tranh. V.I. Lênin nghiên cứu và phát hiện bản chất
đặc trưng, quy luật vận động và vai trò lịch sử của chủ nghĩa đế quốc – giai
đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản; cịn Hồ Chí Minh đã tập trung nghiên cứu,
khảo sát chủ nghĩa thực dân, từ đó vạch ra bản chất, quy luật vận động của nó
trong thời đại ngày nay.
Những nghiên cứu chủ nghĩa thực dân của Hồ Chí Minh có sức thuyết
phục, chiều sâu khoa học, tồn diện trên cơ sở một vốn hiểu biết, tích lũy tường
tận và một dung lượng tư liệu phong phú, đồ sộ. Từ “thánh địa” của chủ nghĩa
đế quốc, Người nhận thức được rằng, chủ nghĩa thực dân và hệ thống thuộc địa
thế giới là sản phẩm tất yếu, cả về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản thế
giới. Dù tồn tại nhiều hình thức khác nhau, chủ nghĩa thực dân đều có một bản
chất kinh tế chung: xâm chiếm thuộc địa, vơ vét tài ngun khống sản, bóc lột
13 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 10, tr. 13


nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của
chính quốc. Trong khi mở rộng ách thống trị tư bản theo kiểu thực dân, đế quốc
Pháp vẫn duy trì phương thức bóc lột kinh tế phong kiến ở nông thôn với ý đồ
sử dụng giai cấp địa chủ làm tay sai cho chúng. Vì thế, xã hội Việt Nam đã từ
chế độ phong kiến độc lập chuyển thành chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Với
chế độ đó, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm nặng nề, phát triển chậm chạp, mất
cân đối nghiêm trọng, què quặt. Mọi tầng lớp nhân dân vơ cùng cực khổ.
Hồ Chí Minh, thơng qua nghiên cứu thực tiễn đã vạch trần những tội ác
vô cùng man rợ của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa ở
các nước châu Á, châu Phi trong đó có Việt Nam. Đó là bản cáo trạng đanh
thép, hùng hồn, kết tội, tuyên án chế độ thực dân tàn khốc, vơ nhân tính, kìm
hãm con đường phát triển của các dân tộc. Hồ Chí Minh đã khái quát những

nghiên cứu của mình thành các luận điểm sâu sắc, có giá trị phát hiện lý luận về
chủ nghĩa thực dân nói chung, về bản chất, phương pháp và những thủ đoạn bóc
lột kinh tế, tước đoạt man rợ, tàn bạo, đậm màu sắc trong thế kỷ của những kẻ
mệnh danh mình là người đi khai hóa, phát tán văn minh. Có thể xem đây là sự
bổ sung cho những trang viết của Mác về những thủ đoạn đẫm máu mà bọn tư
bản áp dụng để thực hiện tích lũy ban đầu này được diễn lại tàn bạo, tinh vi,
nham hiểm hơn ở cả thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Đối với Việt Nam, hậu quả trực tiếp mà chủ nghĩa thực dân Pháp đem lại
là “Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tuỷ, khiến cho dân ta nghèo nàn,
thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ,
nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và
dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng khơng cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột cơng
nhân ta một cách vơ cùng tàn nhẫn.”14.
14 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd. tập 4, tr 2.


Chính sách khai thác bóc lột của thực dân Pháp “để lại cho ta một nền
kinh tế rất nghèo nàn. Trong nơng nghiệp thì sản xuất nhỏ chiếm đại bộ phận,
kỹ thuật vơ cùng lạc hậu. Cơng nghiệp thì rất nhỏ bé và lẻ tẻ. Nông nghiệp và
công nghiệp lại bị tàn phá nặng nề trong mười lăm năm chiến tranh” 15. Trên
thực tế, thực dân Pháp đã phá hoại nền kinh tế đất nước, bần cùng hóa nhân dân
Việt Nam, tước đoạt mọi cơ hội và điều kiện kinh tế để dân tộc ta phát triển, tiến
kịp các nước tiên tiến.
Khảo sát chế độ thực dân, Hồ Chí Minh đã vạch rõ nguồn gốc sâu xa của
các mâu thuẫn đối kháng trong xã hội Việt Nam, chỉ rõ tiềm lực kinh tế tồn tại
và phát triển của chủ nghĩa đế quốc - đó là hệ thống thuộc địa giàu có và rộng
lớn. Chính từ phát hiện những mâu thuẫn về kinh tế, Hồ Chí Minh đã tìm ra

những mâu thuẫn giai cấp đan chéo, phức tạp trong lòng các nước thuộc địa, từ
đó xác định hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới ở các
nước thuộc địa là giải phóng dân tộc và người cày có ruộng. Cũng từ những
khảo sát về sự bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với lao động ở chính quốc và
thuộc địa, Hồ Chí Minh đã đi tới luận điểm nổi tiếng về chủ nghĩa đế quốc là
“con đỉa hai vòi”, về sự tất yếu phải kết hợp giữa cách mạng ở thuộc địa với
cách mạng ở chính quốc, đi tới chủ nghĩa quốc tế vơ sản, về tính chủ động và
khả năng thắng lợi trước của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa.
Xét về thực chất, các luận điểm lý luận vừa nêu là các kết luận tổng kết,
khái quát có ý nghĩa khai phá, mang tính chất chính trị, nhưng được rút ra từ
hàng loạt khảo sát và nghiên cứu kinh tế. Điều này càng chứng tỏ sự gắn kết
chặt chẽ hữu cơ giữa mặt kinh tế và mặt chính trị - xã hội trong tư tưởng kinh tế
Hồ Chí Minh. Và đây là một đặc trưng nổi bật trong tư tưởng kinh tế của Người.
1.2.1.3 Tính tất yếu kinh tế của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

15 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd. tập 10, tr 13


Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam là con
đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, là con
đường tiến từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội. Con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta bị chi phối, chế định bởi các điều kiện, nhân tố kinh
tế của đất nước và thời đại. Nói tổng quát, ở Việt Nam, phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa là một tất yếu kinh tế. Kết luận này của Hồ Chí Minh có
cơ sở lý luận, thực tiễn, được tiếp cận từ cái chung, phổ biến đến cái riêng, đặc
thù.
Vận dụng và quán triệt quan điểm duy vật về lịch sử của học thuyết mác
– xít, Hồ Chí Minh quan niệm lịch sử xã hội lồi người là một q trình tự nhiên

của sự thay thế lần lượt các phương thức sản xuất. Quy luật phổ quát, tiến hóa
chung này là một “tất yếu thép” được quyết định bởi sự vận động không ngừng
của lực lượng sản xuất xã hội. Tinh thần của học thuyết mác – xít về hình thái
kinh tế - xã hội được Hồ Chí Minh diễn giải một cách giản lược, hết sức dễ
hiểu. Theo Hồ Chí Minh “Cách sản xuất và sức sản xuất phát triển và biến đổi
mãi, do đó mà tư tưởng của người, chế độ xã hội, v.v., cũng phát triển và biến
đổi. Chúng ta đều biết từ đời xưa đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành
cây, búa đá phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ xã hội
cũng phát triển từ cộng sản nguyên thuỷ đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong
kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người đang tiến
lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa.
Sự phát triển và tiến bộ đó khơng ai ngăn cản được.”16.
Xã hội lồi người phát triển theo xu hướng đi lên, các xã hội trước tạo
tiền đề để bước lên một hình thái cao hơn về chất lượng. Nếu chủ nghĩa tư bản
tất yếu ra đời từ chế độ phong kiến thì chính chủ nghĩa tư bản cũng sẽ xác lập
các tiền đề khách quan để tự phủ định chính nó. Theo Hồ Chí Minh, lơgic phát
triển xã hội cho thấy đã đến lúc chủ nghĩa tư bản mở đường cho sự ra đời một
chế độ mới – chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là quy luật vận
16 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd. tập 9, tr 282


×