Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) tư tưởng của trần trọng kim về luân lý, đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 100 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ
TƢỞNG CỦA TRẦN TRỌNG KIM........................................................... 11
1.1. Điều kiện chính trị, xã hội Việt Nam và thế giới đầu thế kỷ XX ....... 11
1.1.1. Tình hình chính trị, xã hội thế giới đầu thế kỷ XX ........................ 11
1.1.2. Tình hình chính trị, xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX ..................... 15
1.2. Tiền đề cho sự hình thành tƣ tƣởng của Trần Trọng Kim.................................. 25
1.2.1 Giá trị truyền thống dân tộc ................................................................................... 25
1.2.2. Tư tưởng phương Đông................................................................. 30
1.2.3. Tư tưởng phương Tây ................................................................... 35
1.3. Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Trọng Kim ....................................... 38
1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Trọng Kim ................................ 38
1.3.2. Tác phẩm của Trần Trọng Kim..................................................... 40
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ NỘI DUNG TRONG TƢ TƢỞNG CỦA TRẦN
TRỌNG KIM VỀ LUÂN LÝ, ĐẠO ĐỨC .................................................. 45
2.1. Một số khái niệm .................................................................................... 45
2.1.1. Khái niệm Đạo đức ....................................................................... 45
2.1.2. Khái niệm Luân lý ......................................................................... 50
2.2. Tƣ tƣởng của Trần Trọng Kim về Luân lý ......................................... 51
2.2.1. Quan niệm về bổn phận đối với gia tộc ........................................ 51
2.2.2. Quan niệm về Bổn phận đối với học đường.................................. 61
2.2.3. Quan niệm về bổn phận đối với xã hội ......................................... 67
2.3. Tƣ tƣởng của Trần Trọng Kim về đạo đức ......................................... 75
2.3.1. Quan niệm về lòng nhân ái ........................................................... 76
2.3.2. Quan niệm về thiện – ác................................................................ 79
2.3.3. Quan niệm về nghĩa vụ đạo đức ................................................... 82

1

TIEU LUAN MOI download :




2.4. Một số giá trị và hạn chế của tƣ tƣởng luân lý, đạo đức của Trần
Trọng Kim...................................................................................................... 85
2.4.1. Về mặt giá trị............................................................................... 85
2.4.2. Về mặt hạn chế ............................................................................ 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93

2

TIEU LUAN MOI download :


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Luân lý, đạo đức là thước đo giá trị của con người trong xã hội loài
người mọi thời đại.
Lịch sử Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Quá trình đó đã rèn luyện và hun đúc nên những thế hệ con người Việt Nam
giàu lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân để cứu nước, thương yêu con người,
thương yêu đồng loại, có tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn.....Những
đức tính đó đã trở thành truyền thống mà hàng ngàn đời nay, những thế hệ
con người Việt Nam đã nâng niu, giữ gìn đó là những giá trị tinh thần, tư
tưởng, tâm lý như lịng u nước, tính cần cù, sáng tạo, hài hước, trọng nhân
nghĩa, kính thầy, ham học...những giá trị đó có tác dụng củng cố, phát triển
quan hệ xã hội và hoàn thiện nhân cách con người. Đó là những giá trị luân
lý, đạo đức truyền thống đáng tự hào của người Việt Nam từ xa xưa.
Nước ta hiện nay đang đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước cùng với đó là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa. Kinh tế trị trường là một bước tiến, là thành tựu văn minh của
nhân loại. Nước ta mở cửa giao lưu với thế giới, tiếp thu những thành tựu
khoa học, cơng nghệ và tiếp xúc với văn hóa, lối sống hiện đại của thế giới.
Chính vì vậy mà trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất
nước ta có những bước phát triển vượt bậc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, song song với sự phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực,
những mặt trái của cơ chế thị trường cũng có ảnh hưởng khơng nhỏ đến tư
tưởng, đạo đức, lối sống của con người Việt Nam hiện đại bao gồm nhiều
thành phần như: học sinh, sinh viên, thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai đất nước,
trong đó có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên.

3

TIEU LUAN MOI download :


Nhìn chung, các giá trị luân lý, đạo đức Việt Nam đang có sự biến đổi
nhanh chóng, đảo lộn, phức tạp có cả biến đổi tích cực, lẫn tiêu cực như hiện
tượng chủ nghĩa cá nhân lấn áp chủ nghĩa tập thể, khuynh hướng coi trọng lợi
ích, giá trị vật chất hơn giá trị tinh thần, tình cảm; trọng danh lợi hơn trọng
danh tình nghĩa, coi thường giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực
dụng, vì đồng tiền mà chà đạp lên tất cả, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên quan liêu, cửa quyền, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái mất
đoàn kết nghiêm trọng...Trước những biến thể đó, việc xem xét, đánh giá lại
những tư tưởng luân lý, đạo đức của các nhà tư tưởng, học giả từ xưa cho đến
nay là hết sức cần thiết.
Trong dòng chảy lịch sử tư tưởng Việt Nam, đầu thế kỷ XX Trần Trọng
Kim được coi là một trong những học giả danh tiếng, một nhà giáo dục, một
nhà biên khảo văn học và sử học Việt Nam, ơng đã có những đóng góp nhất

định trong các lĩnh vực tư tưởng. Đặc biệt phải kể đến tư tưởng giáo dục nói
chung và tư tưởng giáo dục luân lý, đạo đức nói riêng. Cho đến ngày nay nó
vẫn con những giá trị nhất định trong đời sống của mỗi con người.
Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Tư tưởng của Trần Trọng Kim
về Luân lý, Đạo đức” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những đóng góp cũng như cống hiến của Trần Trọng Kim được rất
nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu. Có rất nhiều các cơng trình, bài viết khoa
học của các chun gia, các học giả từ trước tới nay đã ngày càng đánh giá
xác đáng vị trí, vai trị, giá trị của những tư tưởng đó.
Hướng thứ nhất, các cơng trình, các cuốn sách, luận văn, luận án nghiên
cứu về luân lý, đạo đức.
Cuốn “Giáo trình Đạo đức học” của Nguyễn Ngọc Long và Nguyễn
Thế Kiệt đã định nghĩa một cách khái quát: Đạo đức là một hình thái ý thức

4

TIEU LUAN MOI download :


xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều
chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan
hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và
sức mạnh của dư luận xã hội. Đặc trưng cơ bản của đạo đức là ý thức, hành
vi, năng lực, sự tự nguyện, tự giác của con người đối với con người và đối với
xã hội.
Cuốn sách “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc, các
tác giả đã chỉ rõ mặt tích cực của nền kinh tế thị trường là đã tạo ra những
điều kiện tối ưu cho sự phát triển, song mặt khác kinh tế thị trường đã có

những tác động tiêu cực nhất định tới các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là
lĩnh vực đạo đức.
Cuốn sách “Tập bài giảng đạo đức học” của tác giả Phạm Văn Chung
đã góp phần làm sáng tỏ và cụ thể hơn về lịch sử, lý luận và thực tiễn những
vấn đề, nội dung đạo đức cơ bản vốn được nêu lên và giải đáp trong lịch sử và
lý luận đạo đức như: bản chất, tính chất, nguồn gốc, cơ sở của đạo đức, các
phạm trù thiện, ác, hạnh phúc, lương tâm, nghĩa vụ, lẽ sống. Tác giả đã xem
xét mối liên hệ bên trong giữa các phạm trù, quan niệm đạo đức học theo một
trình tự nhất định trong hệ thống của chúng và cuối mỗi bài thường có sự
nhận định về vị trí, ý nghĩa của mỗi phạm trù, quan niệm sau này.
Cuốn sách “Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam” của tác giả
Trần Văn Giàu, đã phân tích sâu sắc về các giá trị tinh thần truyền thống dân
tộc và sự vận động của quần chúng qua những giai đoạn lịch sử Việt Nam.
Theo tác giả, mục đích tìm hiểu giá trị tinh thần truyền thống khơng chỉ là tìm
hiểu thêm về lịch sử dân tộc, mà cịn nhằm mục đích thiết thực là góp phần
xây dựng con người trong giai đoạn lịch sử cách mạng hiện nay, phục vụ cuộc
đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

5

TIEU LUAN MOI download :


Cuốn sách “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách
mạng tháng tám” của tác giả Trần Văn Giàu. Đây là một bộ sách gồm 3 tập.
Tập I Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch
sử. Trong tập này tác giả tập trung bàn về tư tưởng và đấu tranh tư tưởng ở
nước ta trong thể kỷ XIX, nhìn chung hệ ý thức phong kiến như là: “bao
sân”: nó là chính, nó là thống trị tất cả. Tình hình bao sân đó khơng cịn nữa
khi lịch sử đi sâu vào thể kỷ XX. Vào thế kỷ XX, về phía người Việt Nam,

thấy lưu hành hệ ý thức tư sản và hệ ý thức vô sản, hai hệ ý thức đó tuy xuất
hiện khơng đồng thời, tuy phát triển không đồng đều nhưng cả hai đều hoạt
động trong điều kiện lịch sử giống nhau, ít nhiều ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy
vậy trong Tập II Hệ ý thức tư sản và sự vất lực của nó trước các nhiệm vụ
lịch sử, tác giả không bàn một lượt đến cả hai hệ ý thức tư sản và vô sản mà
chỉ chuyên bàn về một hệ ý thức tư sản, các dạng của nó, các biểu hiện của
nó, sự chuyển biến của nó trong ngót nửa thế kỷ, tất cả đều được soi rọi dưới
ánh sáng của tiêu chuẩn giải phóng dân tộc. Chính vì vậy mà khi nói đến tư
tưởng dân tộc cải lương và tư tưởng dân tộc Cách mạng Việt Nam vào những
năm 20 mà chúng ta không nhấn mạnh vào sự nghiệp tư tưởng, lý luận của cụ
Nguyễn Ái Quốc, ấy là vấn đề rất quan trọng đó sẽ được trình bày trong Tập
III viết về thành công của chủ nghĩa Mác – LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh
ở Việt Nam.
Luận án Tiến sĩ triết học “Vai trị của đạo đức đối với sự hình thành
nhân cách con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay” của tác giả
Lê Thị Thủy, đã đề cập đến mối liên hệ giữa đạo đức với sự hình thành và
phát triển nhân cách; sự phát triển và nhân cách con người Việt Nam hiện nay
dưới sự tác động của đạo đức. Từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao vai trò của đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
con người Việt Nam hiện nay.

6

TIEU LUAN MOI download :


Luận án Tiến sĩ triết học “Tồn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá
trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay” của tác
giả Mai Thị Quý đã phân tích rõ thực chất, đặc trung và tính hai mặt của tồn
cầu hóa trong giai đoạn hiện nay, phân tích những biến động của các giá trị

truyền thống dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hóa, luận chứng về vai trị, ý
nghĩa và sự cần thiết của việc kế thừa một số giá trị truyền thống tiêu biểu của
dân tộc Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa và nêu rõ những nội dung cơ
bản của sự kế thừa đó như: giá trị truyền thống yêu nước, giá trị truyền thống
gia đình, giá trị truyền thống nhân văn, đoàn kết, hiếu học, cần cù tiết kiệm
của nhân dân ta.
Bài viết “Quan hệ giữa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây
dựng đạo đức” của tác giả Lê Thị Lan, từ chỗ cho rằng, thực tiễn dân tộc nào
dung hòa được các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại thì dân tộc đó
sẽ phát triển. Hay nói cách khác, tìm được phương thức biểu hiện mới của giá
trị truyền thống trong thời hiện đại thì sẽ phát triển. Các giá trị truyền thống
dân tộc cần phải được biến đổi cho phù hợp với thời đại mới. Tuy nhiên,
trong quá trình biến đổi đó cần phải có sự gạn lọc, kế thừa phát triển những
giá trị truyền thống, kết hợp với những giá trị mới mang tinh thần của thời
đại. Tác giả đi đến khẳng định: “Việc giải quyết mối quan hệ giữa các giá trị
truyền thống và hiện đại không thể dựa trên ý muốn chủ quan của các nhà lý
luận, mà phải dựa trên cơ sở thực tiễn, dựa vào nền tảng kinh tế xã hội mà các
giá trị mới hoặc cũ được thừa nhận, phát triển hay loại bỏ. Trong đó tác giả đã
khẳng định tinh thần yêu nước là một đặc trưng cản bản nhất của giá trị truyền
thống Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự biến đổi hệ giá trị của dân tộc
Việt Nam.
Bài viết “Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên trong của sự
phát triển đất nước, dân tộc” của tác giả Nguyễn Văn Huyên, đã khẳng định

7

TIEU LUAN MOI download :


tính bền vững, trường tồn của các giá trị truyền thống, trong đó có giá trị đạo

đức, cũng như vai trị, sự cần thiết phải bảo vệ, giữ gìn, kế thừa và phát huy
chúng trong quá trình xây dựng xã hội mới.
Bài viết “Giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, giao lưu văn hóa và hội nhập quốc tế”
của tác giả Đặng Hữu Tồn đã phân tích chỉ ra sự tác động tích cực, tiêu cực
của nền kinh tế thị trường đến đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta làm cho
nhiều giá trị đạo đức truyền thống và nếp sống văn hóa vận động, biến đổi
khơng ngừng. Điều đó, đặt ra việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống trở nên cấp bách và cần thiết.
Bài viết “Về luân lý xã hội ở nước ta (trích Đạo đức và luân lý Đông
Tây)” của Phan Châu Trinh. Trong bài viết luân lý xã hội mà tác giả muốn đề
cập đến trong đoạn trích này có nội dung gắn liền với lợi ích chung, là tinh
thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong đồn thể về sự tiến bộ xã hội. Theo ơng,
muốn có ln lý xã hội thì phải biết gây dựng đồn thể để tự do bảo vệ quyền
lợi của mình và hỗ trợ nhau trong cuộc sống. Phải bỏ thói dựa dẫm vào quyền
thế, chấm dứt nạn mua danh bán tước hịng có được vị trí ngồi trên, ăn trước.
Phải đánh đổ chế độ vua quan thối nát làm bại hoại luân lý xã hội, khiến tư
tưởng cách mạng không thể nảy nở và nước ta khơng có được tự do, độc lập.
Điều tác giả đề nghị trong hoàn cảnh xã hội lúc đó có ý nghĩa rất quan trọng
và cấp thiết.
Có thể nói, giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị
tinh thần của mỗi dân tộc, là tồn bộ những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói
quen đạo đức tốt đẹp có tác động tích cực tới cộng đồng, được truyền từ thế
hệ này nối tiếp thế hệ khác mang tính tự nguyện.
Hướng thứ hai, các cơng trình nghiên cứu chung về Trần Trọng Kim

8

TIEU LUAN MOI download :



Với các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố về cuộc cách mạng Tháng
Tám và về lịch sử Việt Nam giai đoạn 1940 – 1945, các tác giả đều có đề cập
đến lịch sử và hoạt động của Nội các Trần Trọng Kim dưới những góc nhìn
khác nhau, nhưng nhìn chung mới chỉ dừng lại ở mức đơn giản. Trước tình
hình đó, PGS.TS Phạm Hồng Tung đã cho ra đời tác phẩm: “Nội các Trần
Trọng Kim”.
“Cuốn sách trình bày một cách toàn diện, sâu sắc và cụ thể về hoàn
cảnh, nguyên nhân ra đời, các chủ trương, chính sách và hoạt động của Nội
các Trần Trọng Kim từ khi nó được Hồng đế Bảo Đại chính thức phê chuẩn
thành lập ngày 17/4/1945 cho đến phiên họp cuối cùng ngày 23/8/1945 và đề
xuất cách tiếp cận, đánh giá mới về bản chất, vai trị và vị trí lịch sử của Nội
các này. Cuốn sách nêu rõ: Nội các Trần Trọng Kim và tồn bộ hệ thống
chính quyền bản xứ do nó đứng đầu là một bộ phận hợp thành cuộc đảo chính
ngày 9/3/1945. Vì vậy, lực lượng u nước và cách mạng do Đảng Cộng sản
Đông Dương và Mặt trận Việt Minh lãnh đạo đã khôn khéo và dũng cảm,
thông qua cuộc ngoại giao đầy sáng tạo mà trung lập hóa được gần 100 nghìn
qn Nhật, đồng thời lật đổ hồn tồn hệ thống chính quyền do Nội các Trần
Trọng Kim đứng đầu chính là phương thức mà nhân dân ta vùng lên “đem sức
ta mà giải phóng cho ta”, “lấy lại nước Việt Nam tư tay Nhật” một cách nhanh
gọn và ít đổ máu – như Hồ Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong bản
“Tun ngơn độc lập lịch sử” .
Phạm Hồng Tung (2009), Hoàng Xuân Hãn với nội các Trần Trọng Kim.
Bài viết này được đăng lên tạp chí Xưa và Nay, số 328 (2009). Trong bài viết
này tác giả đã giới thiệu Hoàng Xuân Hãn là một trí thức Tây học mà như ơng
từng nhận xét: “Có đủ tài cán để chun nghề, nhiều lịng muốn phục vụ Tổ
quốc”. Giống như nhiều trí thức thuộc thế hệ của ơng, Hồng Xn Hãn có cách

9


TIEU LUAN MOI download :


yêu nước và phụng sự dân tộc riêng của mình. Trong bài viết, tác giả cũng đưa
ra những lý do mà Hoàng Xuân Hãn tham gia vào nội các Trần Trọng Kim.
Ngơ Tất Tố (1940), Phê bình nho giáo Trần Trọng Kim. Trong bài viết
Ngô Tất Tố nghiêm khắc phê bình Trần Trọng Kim mà ơng cho rằng có nhiều
chố chưa thấu đáo tính yếu tính của Khổng giáo nhưng Ngô Tất Tố cũng dành
nhiều lời khen ngợi cho Trần Trọng Kim đã có một tác phẩm xứng tầm. Ơng
cũng đưa ra lời nhận xét: “Nho giáo tuy có nhiều chỗ sai lầm, nhưng mà cái
sai lầm ấy phần nhiều ở cuốn thứ nhất. Từ cuốn thứ hai trở đi hầu hết dịch
theo sách Tàu, không bị sai lầm mấy lỗi. Nếu đem cộng mà trừ với tội, thì nó
vẫn là có cơng với nền văn học nước nhà. Có lẽ thứ sách học thuật tư tưởng
đời cổ của mình, ngồi bộ này cũng khó mà có bộ thứ hai”.
Một số bài viết về Trần Trọng Kim trên các tạp chí:
Trong bài viết “Trần Trọng Kim với “Việt Nam sử lược” (Tạp chí Xưa
và Nay, số 346, tháng 12, 2009, tác giả Mai Khắc Ứng trong khi tập trung phê
phán tệ nạn viết sử giáo điều, thiếu tôn trọng sự thật đã đưa ra nhiều lý do để
biện hộ cho Trần Trọng Kim về các mặt, rồi đi đến kết luận dứt khốt:
“Với tơi, Trần Trọng Kim qua Việt Nam sử lược là một người yêu nước
thành tâm, một nhà sử học chân chính, trung thực, một người cầm bút có nhân
cách, một học giả xuất sắc đã cống hiến phần trí tuệ, chi ít cho các thế hệ nửa
đầu thế kỉ XX và chính phủ Trần Trọng Kim là sản phẩm của tình thế với hồi
bão của lớp nhân sĩ trí thức cũ biết lường trước họa binh đao nên tha thiết
nhân nhượng, dung hòa”.
Tư tưởng giáo dục của ông được bàn khá lẻ tẻ trong một số bài viết như:
Trần Văn Chánh (2013), Học giả Trần Trọng Kim, Tạp chí Nghiên cứu và
phát triển, số 6-7, tr104-105.
Vũ Ngọc Khánh (2009), Bàn thêm về Trần Trọng Kim


10

TIEU LUAN MOI download :


Trong các cơng trình kể trên các tác giả mới dừng lại ở việc nghiên cứu
Trần Trọng Kim trên khía cạnh chính trị, nhà sử học, nhà nghiên cứu. Nghiên
cứu Trần Trọng Kim với tư cách học giả, nhà giáo dục, là nhà tư tưởng thì
chưa từng có một cơng trình nghiên cứu cơng phu nào.Vì vậy, việc nghiên
cứu tư tưởng luân lý, đạo đức của ông là hết sức cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Luận văn phân tích nội dung những quan niệm cơ bản luân lý, đạo đức
của Trần Trọng Kim, từ đó chỉ ra một số giá trị và hạn chế trong tư tưởng của ông.
3.2 Nhiệm vụ
Làm rõ những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành tư tưởng của
Trần Trọng Kim.
Hệ thống và phân tích nội dung những quan niệm cơ bản luân lý, đạo
đức của Trần Trọng Kim.
Đánh giá những giá trị và hạn chế tư tưởng luân lý, đạo đức của
Trần Trọng Kim.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nội dung giá trị tư tưởng luân lý, đạo đức của
Trần Trọng Kim.
Phạm vi nghiên cứu: qua một số tác phẩm của Trần Trọng Kim bàn về
luân lý, đạo đức.

11

TIEU LUAN MOI download :



5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý,
quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng
sản Việt Nam về vấn đề luân lý, đạo đức.
Phương pháp luận: dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận văn đã sử dụng các phương pháp: logic – lịch sử, phân tích - tổng
hợp, so sánh, hệ thống hóa...
6. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của luận văn
Góp phần tìm hiểu, hệ thống hóa, làm sâu sắc hơn tư tưởng luân lý, đạo
đức của Trần Trọng Kim.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng
dạy trong lĩnh vực giáo dục luân lý, đạo đức.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 2 chương, 7 tiết.

12

TIEU LUAN MOI download :


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH
TƢ TƢỞNG CỦA TRẦN TRỌNG KIM
1. 1 Điều kiện chính trị, xã hội Việt Nam và thế giới đầu thế kỷ XX
1.1.1 Tình hình chính trị, xã hội thế giới đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai

đoạn chủ nghĩa đế quốc. Từ giữa thế kỷ XIX, các nước phương Tây đã tăng
cường xâm chiếm thuộc địa để đáp ứng những yêu cầu phát triển của các
nước đế quốc. Đến đầu thế kỷ XX “ miếng bánh ngon” thuộc địa đã được các
nước đế quốc phân chia rõ ràng. Sự xâm lược và thống trị của các nước đế
quốc đối với các nước thuộc địa đã tạo ra mâu thuẫn dân tộc. Cuộc chiến
tranh thứ nhất (1914 -1918) về thực chất chỉ là một cuộc chiến tranh phân chia
thế lực, khu vực ảnh hưởng và các thuộc địa giữa các cường quốc đế quốc.
Ngày 18 – 1 – 1919, đại diện của các nước thắng trận và bại trận trong
hai phe Đồng minh và Hiệp ước đã tổ chức họp tại Vecxai gần thủ đô nước
Pháp để phân chia quả thực chiến tranh. Nước Anh, rồi đến Pháp giành được
nhiều quyền lợi nhất. Cịn những nước bại trận, điển hình là Đức vừa mất các
thuộc địa, vừa phải bồi thường các chi phí chiến tranh.
Từ đầu những năm 20 trở đi, các nước tư bản bước vào thời kỳ khôi
phục và phát triển kinh tế. Đây là thời kỳ ổn định cục bộ và tạm thời của chủ
nghĩa tư bản thế giới. Chiến tranh thế giới đã làm thay đổi vị trí và tương
quan lực lượng giữa các nước đế quốc, đồng thời cịn đưa đến một hệ quả
ngồi ý muốn của tất cả các nước tư bản. Đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi dẫn đến sự ra đời của Nhà nước vô sản đầu
tiên trên thế giới.

13

TIEU LUAN MOI download :


Về ý nghĩa, cuộc cách mạng tháng Mười Nga đã mở đầu một thời đại
mới, thời đại cách mạng giải phóng thuộc địa, các nước bị áp bức trên thế giới liên
minh với giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản làm cách mạng..
Do ảnh hưởng trực tiếp của Cách mạng tháng Mười Nga và cuộc chiến
tranh thế giới thứ nhất, phong trào đấu tranh chống đế quốc ở các tư bản

phương Tây đã dâng lên mạnh mẽ. Do sự phát triển mạnh mẽ của phong trào
cách mạng, từ năm 1918 trở đi, tại nhiều nước ở Châu Âu, các đảng Cộng sản
đã lần lượt được thành lập.
Ở châu Á, tháng 3 – 1919, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Triều Tiên
chống Nhật bùng nổ. Sang tháng 5 – 1919, phong trào Ngũ Tứ ở Trung Quốc
nổ ra và lan rộng khắp Trung Quốc, thu hút hàng triệu người tham gia. Tại Ấn
Độ, phong trào bất hợp tác chống ách thống trị của thực dân Anh cũng đã
nhận được sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân trong nhiều năm.
Tuy nhiên, từ những năm 1924 – 1925 trở đi, phong trào cách mạng thế
giới tạm thời lắng xuống. Đối với các nước đế quốc, đây là thời kỳ vừa ra sức
khôi phục, phát triển kinh tế, vừa tìm cách bao vây, phá hoại Liên Xơ – thành
trì của cách mạng thế giới.
Từ giữa những năm 30 cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 –
1933) đã kết thúc, nhưng hậu quả của nó vẫn cịn tác động nặng nề đến nhiều
nước trên tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn trong lòng mỗi nước tư bản và mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc ngày càng gay gắt.
Trong bối cảnh đó, giới cầm quyền một số nước tư bản đã đối phó bằng
cách đưa đất nước vào con đường phát xít hóa. Chúng chuyển tồn bộ nền
kinh tế sang phục vụ cho guồng máy chiến tranh, thi hành những chính sách
mị dân, lừa phỉnh, kết hợp với sử dụng bạo lực đàn áp lực lượng tiến bộ trong
nước và những người chống đối, gieo rắc tư tưởng sôvanh, phân biệt chủng

14

TIEU LUAN MOI download :


tộc. Chúng chuẩn bị chiến tranh để nô dịch, cướp bóc các dân tộc khác. Thế
lực phát xít ngày càng bành trướng.
Chủ nghĩa phát xít hình thành đầu tiên ở Italia từ sau Chiến tranh thế

giới thứ nhất (cuối năm 1922. Chủ nghĩa phát xít Đức ra đời ở Châu Âu sau
củng khủng hoảng kinh tế thế giới vào năm 1933. Với sự kiện Adolf Hitler
(1889 – 1945), thủ lĩnh Đảng Quốc xã Đức (đảng phát xít) lên nắm chính
quyền tại nước Đức vào ngày 30 – 1 – 1933 được ghi nhận như một mốc lịch
sử quan trọng, mở đầu cho sự hình thành của đế chế phát xít, lò lửa chiến
tranh lớn nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. Ngay sau khi lên nắm chính
quyền, Hitler đã lập tức thủ tiêu chế độ đại nghị ở nước Đức, thiết lập chế độ
thống trị quân phiệt, độc tài và sử dụng vũ lực tối đa để tiêu diệt bất cứ lực
lượng đối lập nào.
Chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản hình thành năm 1932. Năm 1937, Nhật
Bản tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược ba tỉnh Đông Bắc Trung Quốc. Giới
qn phiệt Nhật tích cực chuẩn bị chiếm tồn bộ Trung Quốc, tranh giành
quyền lợi của Anh, Pháp, Mĩ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Các thế lực phát xít trên thế giới liên kết kí với nhau thành một khối.
Ngày 25 – 11 – 1936, Nhật Bản và Đức kí kết “Hiệp ước chống Quốc tế Cộng
sản”. Tháng 11 – 1937, Italia cũng tham gia kí Hiệp ước này. Trục phát xít
Béclin – Tơk – Roma hình thành.
Chủ nghĩa phát xít cịn xuất hiện ở nhiều nước khác như Ba Lan,
Bungari, Nam Phi, Hunggari, Rumani...bành trướng sang cả Tây Ban Nha,
Pháp, Mĩ, Anh. Họa phát xít và nguy cơ chiến tranh đe dọa loài người.
Ngày 3 – 9 – 1939 Anh và Pháp cùng tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế
giới thứ hai chính thức bùng nổ. Ngày 10 – 6 – 1940, quân Đức ào ạt tấn công nước
Pháp. Ngày 14 – 6 – 1940, Pari được tuyên bố là “thành phố bỏ ngỏ”, quân Đức
chiếm được thủ đô nước Pháp tương đối dễ dàng. Ngày 22 – 6 – 1940, Hiệp định
15

TIEU LUAN MOI download :


đình chiến được ký kết. Ba phần năm lãnh thổ nước Pháp bị qn Đức chiếm đóng.

Phần cịn lại thuộc quyền quản lý của Chính phủ Pháp do Petain đứng đầu với thủ
phủ đóng ở Vichy.
Việc nước Pháp bị đánh bại, phải đầu hàng phát xít Đức và bị quân Đức
chiếm đóng là một biến cố đặc biệt quan trọng trong lịch sử nước Pháp, có tác
động trực tiếp mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử Việt Nam nằm trong liên bang
Đông Dương.
Trong thế kỷ này, cũng cần phải nhắc tới sự phát triển của khoa học –
kĩ thuật cùng với những thành tựu của nó. Cùng với nó là sự phát triển của tư
văn hóa, tư tưởng của các nước phương Tây tuy đóng góp cho văn minh nhân
loại nhưng vẫn không giấu được những ý đồ, ham muốn cho bản chất bóc lột
và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc: sự phát minh các vũ khí chiến tranh ngày
càng tinh vi, hiện đại với sự hủy diệt hàng loạt, sức chiến đấu cao...
Đối với các nước phương Đông, các nước tư bản bắt đầu trực tiếp đe
dọa, thực hiện xâm lược. Thời kỳ này, nền kinh tế của các nước phương Đông
chủ yếu vẫn dựa trên nền nông nghiệp lúa nước theo phương thức tổ chức sản
xuất dựa trên sự kết hợp hài hòa giữa kinh tế hộ gia đình và đơn vị kinh tế
cộng đồng cơng xã nông thôn.
Thủ công nghiệp và thương nghiệp ra đời sớm nhưng dù có phát triển
thì cũng khơng tạo ra một bước ngoặt đáng kể nào, nó cịn bị cản trở bởi các
chính sách nhà nước phong kiến như: “trọng nơng, ức thương”, “dĩ nông vi
bản”, “bế quan tỏa cảng”.
Cơ cấu xã hội điển hình của các nước phương Đơng gồm các giai cấp,
tầng lớp điển hình: vua chúa, quý tộc, quan lại, nơng dân, thợ thủ cơng,
thương nhân, trí thức chủ yếu là các nho sĩ, cao tăng.

16

TIEU LUAN MOI download :



Sự xâm lược của các đế quốc phương Tây đã tàn phá xã hội truyền
thống của các nước Phương Đông đồng thời nó cũng tạo ra trong xã hội
phương Đơng mầm mống của một cơ cấu xã hội mới, kiến trúc thượng tầng mới.
1.1.2 Tình hình chính trị, xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX
* Bối cảnh chính trị
Nửa cuối thế kỷ XIX, nước Pháp tiến nhanh vào giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc, thành cơng trong việc hình thành một hệ thống thuộc địa lớn thứ hai
sau nước Anh. Đối với Việt Nam, thực dân Pháp đã mất một thời gian dài từ
1858 đến 1883 để hoàn thành sự xâm lược Việt Nam. Từ cuối thế kỷ XIX,
phong trào khởi nghĩa vũ trang từ Nam chí Bắc với cuộc khởi nghĩa cuối cùng
của nơng dân n Thế do Hồng Hoa Thám lãnh đạo bị trong tình thế bao
vây, o ép nên đến tháng 12-1897 buộc phải đình chiến lần thứ hai với kẻ thù.
Thực dân Pháp cố tranh thủ thời gian này chuẩn bị mọi điều kiện triệt hạ pháo
đài cuối cùng của phong trào khởi nghĩa của nhân dân ta.
Thực dân Pháp đã hoàn thành về căn bản cơng cuộc bình định Việt Nam
về mặt qn sự, và trong bối cảnh đó có thể bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt
Nam nói riêng cũng như Đơng Dương nói chung một cách quy mơ.
Để phục vụ kịp thời và đắc lực cho cơng cuộc khai thác và bóc lột kinh tế,
thực dân Pháp chú ý tới hai yếu tố chính trị “chia để trị” và “dùng người Việt
trị người Việt”.
Thực dân Pháp thành lập liên bang Đông Dương bao gồm có: Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ và Campuchia trực thuộc Bộ hải quân và thuộc địa. Việt
Nam bị chia cắt làm 3 kì: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kỳ. Trong đó Bắc Kỳ và
Trung Kỳ là hai xứ bảo hộ vẫn cịn giữ lại chính quyền phong kiến về hình
thức; Nam Kỳ là đất thuộc địa hồn tồn do Pháp nắm chính quyền cùng Lào
và Campuchia.

17

TIEU LUAN MOI download :



Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ ở Châu Âu, rồi nhanh chóng lan
nhanh ra khắp thế giới, lơi cuốn vào vòng chiến hầu hết các nước đế quốc và
thuộc địa. Nước Pháp tham chiến, vì vậy phải huy động tối đa sức người, sức
của trong nước và các nước thuộc địa để cung cấp cho nhu cầu chiến tranh.
Thuộc địa Việt Nam chịu chung số phận đó.
Chiến tranh bùng nổ, các nhà cầm quyền Pháp ở Việt Nam một mặt ra
sức củng cố và mở rộng chỗ dựa xã hội, mặt khác tăng cường hơn nữa mọi
hoạt động đề phịng và đàn áp những cuộc cách mạng có thể xảy ra trong khi
chúng đang bận tham chiến, để trên cơ sở đó có điều kiện mọi thủ đoạn bắt
người, vét ném vào lò lửa chiến tranh Pháp.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, đời sống kinh tế và xã hội Việt
Nam có nhiều biến đổi. Một số ngành kinh tế mới như ngân hàng, công
nghiệp chế biến, cơ khí đã hình thành. Các đơ thị được mở mang, các lực
lượng xã hội mới như công nhân, tư sản, tiểu tư sản cũng ra đời và ngày càng
phát triển.
Về đối ngoại, thời gian cuối chiến tranh, chính quyền thực dân Pháp ở
Đơng Dương chủ trương địi nới rộng thêm quyền hạn cho Toàn quyền về nội
trị và ngoại giao (được tự do giao dịch với các nước khác trên thế giới, nhất là
với các nước láng giềng châu Á, không cần thông qua các bộ Thuộc địa như
trước). Chính quyền Đơng Dương tăng cường hoạt động ngoại giao với các
nước trong khu vực: mở các cuộc thương thuyết với chính phủ Trung Hoa để
phối hợp đàn áp, tiêu diệt các tổ chức cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở
Trung Quốc.
Tóm lại, những cải cách chính trị của chính quyền thực dân ở Việt Nam
trong những năm chiến tranh nhằm ổn định thuộc địa, huy động tiềm năng
thuộc địa phục vụ cuộc chiến tranh ở nước Pháp. Để thực hiện được việc đó,
chính quyền thuộc địa đã thực hiện một, số chính sách mua chuộc tầng lớp


18

TIEU LUAN MOI download :


thượng lưu, quan lại bản xứ, xây dựng cơ sở xã hội vững chắc ở Việt Nam.
Đồng thời họ cũng cấu kết với các thế lực phản động trong khu vực, đàn áp,
cô lập phong trào cách mạng Việt Nam.
* Sự thay đổi về cơ cấu xã hội
Thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác trên quy mô lớn từ đầu thế kỷ XX
đã làm cho cơ cấu kinh tế Việt Nam có những biến chuyển quan trọng.
Phương thức bóc lột mới theo lối tư bản chủ nghĩa đã được du nhập vào Việt
Nam, bắt đầu xâm nhập các khu vực kinh tế nơng, cơng thương nghiệp. Đồng
thời, phương thức bóc lột cũ theo lối phong kiến cổ truyền cũng được thực
dân Pháp cố tình duy trì để mang lại lợi ích cho chúng. Sự kết hợp giữa hai
phương thức bóc lột đó đã dẫn tới sự hình thành phương thức bóc lột thuộc
địa bảo đảm siêu lợi nhuận tối cao cho thực dân Pháp và phong kiến tay sai.
Trong bối cảnh đó, xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX cũng bắt đầu thay
đổi khá nhanh. Nhân dân lao động bị bần cùng hóa, xã hội phân hóa ngày
càng sâu sắc, nơng thơn và thành thị đều có những biến chuyển rõ rệt.
Đối với người Việt Nam, kết cấu xã hội theo tứ dân: sĩ, cơng, nơng,
thương dần bị xóa bỏ thay vào đó sự phân chia theo giai cấp dựa vào quyền
lợi kinh tế và quan hệ dựa trên kiến trúc thượng tầng phương Tây:
Giai cấp địa chủ: Được thực dân Pháp nâng đỡ, ưu thế kinh tế và
chính trị của địa chủ Việt Nam tăng lên. Một số người kinh doanh công
thương nghiệp xuất thân từ địa chủ vẫn giữ lấy một phần ruộng đất để phát
canh thu tơ. Một số ít khác, đề phịng cơng việc kinh doanh bấp bênh, cũng
mua một ít ruộng đất cho phát canh thu tơ. Như vậy, ngồi địa chủ Pháp, địa
chủ nhà thờ, địa chủ quan lại, địa chủ thường còn có địa chủ kiêm cơng thương.
Tuy nhiên, giai cấp địa chủ thời kỳ này cũng có sự phân hóa sâu sắc,

một bộ phận địa chủ trở thành chỗ dựa vững chắc cho thực dân ngoại bang, ra
sức đàn áp, bóc lột nơng dân. Thực dân Pháp muốn tạo cho mình một hậu

19

TIEU LUAN MOI download :


thuẫn chắc chắn nên có các chính sách ưu đãi đối với địa chủ và phong kiến
quan liêu. Các quan lại, hào, lý là lớp người thừa hành mẫn cán giúp thực dân
Pháp can thiệp một cách có hiệu quả vào các tổ chức làng, xã vốn xa lạ với
thực dân người Pháp. Tầng lớp này đã giúp chính quyền thực dân cai trị chặt
chẽ xã hội mà lại tránh tiếp xúc trực tiếp với dân chúng, vốn căm thù thực dân
đế quốc. Thực dân Pháp tiến hành cải lương hương chính nhằm từng bước
đưa giai cấp địa chủ mới, sản phẩm của chế độ giáo dục thực dân lên thay thế
lớp địa chủ cũ .
Giai cấp nông dân: chiếm tới 90 % dân số, họ bắt đầu tác động bởi nền
kinh tế nửa thực dân, nửa phong kiến. Tư bản và địa chủ tay sai cướp trắng
trợn ruộng đất của nông dân trong các làng, xã. Ruộng đất bị tập trung làm
đồn điền nông nghiệp (trồng lúa) vẫn áp dụng chế độ bóc lột phong kiến cũ,
phát canh thu tô với các tá điền, giống hệt như các địa chủ người Việt vì
chúng nhận thấy đó là cách làm ăn ít tốn kém, chắc ăn và nhiều lời nhất.
Thêm vào đó, nạn sưu cao, thuế ngày một nặng, nạn cho vay lãi và cầm cố
vẫn duy trì làm cho nơng dân xơ xác, cuối cùng cịn mảnh đất, mảnh vườn
nào cũng bị tước đoạt. Thực dân Pháp lại không chú ý đến việc đắp đê, nạn đê
vỡ, lụt lội xảy ra liên miên, trong hồn cảnh đó đời sống nông dân càng thêm
điêu đứng.
Những cuộc đấu tranh của nông dân ở nhiều vùng đã nổ ra dữ dội,
quyết liệt nhưng khơng có tổ chức nên đều thất bại; song tinh thần đấu tranh
chống đế quốc, phong kiến thì khơng bao giờ ngừng.

Công nhân: là giai cấp mới xuất hiện với lực lượng mới rất mỏng.
Công, thương nghiệp phát triển đã dẫn đến sự nảy sinh lớp người làm thuê ăn
lương, trong đó có một số đã trở thành những người vô sản công nghiệp hiện
đại. Khác với phương Tây, công nhân Việt Nam chủ yếu xuất thân từ những
nông dân cịn gắn bó nhiều với ruộng đất. Họ trở thành công nhân bằng nhiều

20

TIEU LUAN MOI download :


con đường khác nhau. Một số bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất phải tự đến
hầm mỏ, xí nghiệp kiếm công việc làm, hoặc thông qua cai thầu mộ phu mới
có việc làm. Một số khác là “cơng nhân theo mùa”. Họ tranh thủ tháng ba
ngày tám ra hầm mỏ làm thuê kiếm ít đồng lương để bổ sung cho thu hoạch
nông nghiệp vốn rất thấp kém. Số khác là những “phu” hay công nhân bị
cưỡng bức, số người này thực dân câu kết với phong kiến bắt các làng xã phải
giao đủ theo quy định để làm đường sắt, đường bộ, công sở.
Với số lượng phát triển khá cao, với chất lượng biểu hiện rõ ở tính tập
trung (lao động trong guồng máy tư bản chủ nghĩa với kĩ thuật hiện đại), có
tinh thần đồn kết đấu tranh chống kẻ thù chung, cơng nhân Việt Nam đã có
các điều kiện cần và đủ để hình thành một giai cấp. Tuy vậy, vì chưa có lý
luận tiên tiến soi đường, họ chưa quan niệm được mình là một giai cấp riêng,
có quyền lợi và nguyện vọng riêng, chưa nhận thức được rõ vị trí và vai trị
của mình trong lịch sử xã hội, giai cấp công nhân tuy đã ra đời, nhưng mới ở
giai đoạn “tự phát”.
Sự ra đời giai cấp công nhân Việt Nam trước giai cấp tư sản dân tộc là
một đặc điểm lịch sử quy định những nét đặc thù của sự phát triển sau này của
cách mạng Việt Nam.
Tầng lớp tiểu tư sản: Cuối thế kỷ XIX, đô thị Việt Nam nằm trong

guồng máy của phương thức khai thác, bóc lột tư bản chủ nghĩa nên đã phát
triển theo kiểu đô thị công, thương nghiệp; khơng cịn mang nặng tính chất
hành chính văn hóa như trước nữa. Cùng với sự phát triển này, tầng lớp tư sản
đầu tiên đã xuất hiện, tuy chưa đông về số lượng và có nguồn gốc xuất thân
khác nhau. Xuất hiện sớm nhất là một số tư sản mại bản đứng ra bao thầu các
bộ phận kinh doanh của Pháp như thầu làm cầu đường, trại lính, đồn bốt, phà,
một đoạn đường xe lửa, nhận cung cấp, tiếp tê lương thực, nguyên liệu cho
Pháp hay làm đại lý phân phối hàng hóa của chúng trong nhân dân.

21

TIEU LUAN MOI download :


Một số xuất thân từ địa chủ giàu có cũng chuyển một phần vốn sang
kinh doanh công thương nghiệp với ý thức chống lại độc quyền của thực dân
Pháp. Một số quan lại cáo quan về kinh doanh công thương nghiệp với ý thức
phát triển kinh tế dân tộc. Cũng có những người hoạt động yêu nước chuyển
sang kinh doanh thương nghiệp để hỗ trợ cho cơng tác chính trị.
Vì bị thực dân Pháp chèn ép nặng nề, tư sản Việt Nam phát triển chậm
về mọi mặt, chưa đủ điều kiện để hình thành một giai cấp. Nhưng sự phát
triển kinh tế tư bản chủ nghĩa dân tộc nói chung là cơ sở thuận lợi để tiếp thu
các trào lưu tư tưởng từ ngồi vào.
Trước kia, tại các đơ thị lớn, những nhà buôn nhỏ và những thợ thủ
công cũng tập hợp khá đơng thành từng phịng, từng hội. Khi Pháp sang,
chúng độc chiếm thị trường, hàng hóa của chúng tràn ngập khắp nơi nên các
ngành nghề thủ công, nghề phụ của nhân dân ta đều bị phá sản.
Lớp tiểu thương khá đông đảo đã đứng làm trung gian giữa những
người sản xuất và những người tiêu thụ. Lớp công chức, trí thức và những
người làm các dịch vụ cũng ngày càng tăng. Tuy đời sống vật chất của các

người này so với các tầng lớp khác có phần khá hơn đôi chút nhưng họ cũng
bị chèn ép rất nhiều về mặt chun mơn lẫn chính trị, thấm sâu nỗi nhục của
người dân mất nước.
Tầng lớp trí thức: bắt đầu có sự phân hóa về mặt tư tưởng và hành động
giữa bộ phận trí thức theo Nho học thủ cựu và trí thức Nho học theo xu hướng
duy tân. Trí thức Tây học là những người trưởng thành từ học trò trở thành
thầy giáo, bác sỹ, kỹ sư, luật sư, kiến trúc sư, nhà văn... được đào tạo theo
khoa học kỹ thuật phương Tây, đôi ngũ ngày càng đông đảo. Đây là bộ phận
nhạy cảm trong quá trình hội nhập văn hóa tư tưởng Đơng – Tây thế kỷ XX.

22

TIEU LUAN MOI download :


Bên cạnh đó cịn có một bộ phận trí thức bảo thủ, trì trệ, cam phận làm
tay sai cho triều đình và chính quyền thực dân. Một bộ phận khác chọn
phương thức “lánh đời, ở ẩn”, “mũ ni che tai” trước vận mệnh của dân tộc.
Trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các tầng lớp
xã hội, quan hệ xã hội ở Việt Nam biến động khơng ngừng cả về quy mơ lẫn
tính chất, phá vỡ kết cấu xã hội cũ, tạo kết cấu xã hội mới. Từ đó dẫn tới mâu
thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa công nhân với tư bản, nông dân với địa chủ,
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược ngày càng trở
nên sâu sắc, quyết liệt hơn dẫn đến cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp ngày
càng mạnh mẽ.
* Tình hình về văn hóa, giáo dục
Văn hóa có ít nhiều biến đổi và phát triển chủ yếu ở đơ thị. Ở nơng
thơn, “văn hóa làng” vẫn tồn tại trong chính sách “bần cùng hóa” và “ngu dân
hóa”. Những thói hư tật xấu vẫn được dung dưỡng. Nạn cờ bạc khơng được
cấm mà cịn được khuyến khích bằng cách cho mở sịng bạc mà thu thuế. Tệ

nạn uống rượu không bị hạn chế mà dân ta cịn bị bắt uống một loại rượu có
độ cồn nặng do Hãng rượu độc quyền Phongten sản suất trên khắp cả nước.
Thực dân Pháp còn mở các quán thu mua các ti bán thuốc phiện để lập quỹ
cho Phủ toàn quyền.
Ở nông thôn, hủ tục ma chay cưới hỏi, nạn thù hằn giữa các phe phái
vẫn tồn tại, thêm vào đó nạn bói tốn, lên đồng, mê tín dị đoan ngày càng
nặng nề. Nhân dân bị thất học lên đến 95%.
Hệ thống giáo dục Pháp – Việt mở rộng hơn trước; tầng lớp học sinh,
sinh viên, cơng chức và trí thức ngày càng thêm đông đảo. Cơ sở in ấn và xuất
bản và xuất bản đã xuất hiện ở khắp ba kì, với hàng chục tờ báo, tạp chí Pháp
và chữ Quốc ngữ.

23

TIEU LUAN MOI download :


Trong bối cảnh đó, các trào lưu tư tưởng mới, các thành tựu khoa học
và kĩ thuật, văn hóa nghệ thuật từ phương Tây thơng qua sách báo nước ngồi
đã ồ ạt tràn vào trong nước, thúc đẩy và tăng cường mối quan hệ tiếp xúc giữa
hai nền văn hóa Á – Âu và Đông – Tây ở Việt Nam. Việc in ấn, xuất bản và
giới thiệu các cơng trình khoa học tự nhiên, về triết học, luật học của các học
giả phương Tây đã góp phần làm thay đổi phương pháp tư duy, nghiên cứu
trong một số trí thức tân học, hình thành phương pháp tư duy duy lý tồn tại
bên cạnh lối tư duy duy cảm của người Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, dường như có sự giao thoa, đan xen và tồn tại đồng
thời giữa những yếu tố văn hóa truyền thống và văn hóa ngoại lai, giữa nền
văn hóa nơ dịch của các nhà tư bản thực dân và một nền văn hóa mới đang
nảy sinh và dần dần phát triển trong lòng xã hội thuộc địa Việt Nam.
Trong thời gian này, thực dân Pháp ra sức sử dụng vũ khí văn hóa phục

vụ cho mục đích khai thác thuộc địa, tuyên truyền chính sách hợp tác Pháp –
Việt. Chính quyền Pháp ưu tiên xuất bản các sách báo phổ biến Âu Châu. Sau
chiến tranh thế giới thứ nhất nhiều thể loại như: văn học mới, tiểu thuyết,
tuồng, kịch nói....đều có bước phát triển hơn. Nội dung của các thể loại này
đều hướng vào mục đích phê phán tình trạng thối nát của xã hội đương thời,
nêu lên những xung đột giữa các quan điểm phong kiến và tư tưởng tư sản
vừa mới nảy sinh, đã kích những trưởng giả học địi làm sang, phơi bày
những cảnh lầm than, khốn khó của quần chúng lao động bị bọn thực dân, địa
chủ, quan lại ức hiếp, bóc lột; đồng thời nói lên tình cảm u nước thương nòi
và sự bất lực, chán trường của tầng lớp tiểu tư sản thành thị trước thời cuộc.
Vào những năm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, cùng với sự biến đổi
trong kinh tế và cơ cấu giai cấp xã hội, tình hình giáo dục ở Việt Nam cũng có
nhiều biến đổi. Thực dân Pháp xâm chiếm nước ta đã mang theo cùng với
những chính sách bình định, cai trị của chúng, là cả một âm mưu xảo quyệt

24

TIEU LUAN MOI download :


trong giáo dục. Về cả hai mặt nội dung và chính sách giáo dục thực dân là
một chính sách thâm hiểm rất tinh vi, khôn khéo.
Ngay từ cuối năm 1917, sau khi được bổ nhiệm làm Tồn quyền Đơng
Dương, Albert Sarraut đã ra nghị định ban hành “học chính tổng quy” để cải
cách hệ thống giáo dục. [45, tr.221]. Đây là cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai
tiếp tục sau cuộc cải cách Tồn quyền Bơ (Paul Beau) vào năm 1906.
Sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp chủ trương nhanh chóng xóa bỏ
nền giáo dục Nho học, đồng thời tiếp tục mở rộng hệ thống giáo dục Pháp –
Việt. Nền giáo dục bao gồm hai bộ phận: các trường Pháp chuyên dạy học
sinh người Pháp theo chương trình “Chính quốc” và các trường theo chương

trình Pháp – Việt chun dạy người Việt theo chương trình “bản xứ”.
Tồn bộ hệ thống giáo dục được chia thành 3 cấp: tiểu học, trung học,
cao đẳng và đại học.
Thời gian theo học các cấp của trẻ em được cụ thể hóa như sau: Cấp
tiểu học 5 năm, sau khi hoàn thành chương trình tiểu học thi đỗ, học sinh
được nhận bằng tốt nghiệp tiểu học và được thi vào trường trung học. Ở bậc
trung học, học sinh sẽ học trong 4 năm.
Để củng cố và hoàn chỉnh một bước giáo dục trung học, thực dân Pháp
ra nghị định đặt thêm bằng Tú tài bản xứ, tức bằng Trung học đệ nhị cấp.
Bằng tú tài bản xứ được coi tương đương với bằng tú tài thời đó quen gọi là
Tú tài Tây học theo đúng chương trình dạy bên Pháp. Những người có bằng
Tú tài bản xứ có thể thi vào các trường Cao đẳng, Đại học ở Đông Dương và
cả ở Pháp. “Tiếng Việt Nam ngay từ bậc sơ học đã bị gạt sang phần thứ yếu.
Và từ bậc tiểu học trở đi thì chỉ được coi là một thứ sinh ngữ hàng nhì, hàng
ba. Ở các lớp dưới, mơn học lịch sử Việt Nam được dạy với tinh thần xuyên
tạc: mạt sát những phong trào quần chúng, những người yêu nước, ca ngợi bè
lũ Việt gian và biện hộ cho những hành động xâm lược của thực dân”. [19, tr.165].

25

TIEU LUAN MOI download :


×