Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cán bộ và vận dụng tư tưởng đó vào xây dựng đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.74 KB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=========================

ĐINH THỊ NGỌC LAN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ
VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ VÀO XÂY DỰNG
ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=========================

ĐINH THỊ NGỌC LAN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ
VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ VÀO XÂY DỰNG
ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01



Người hướng dẫn khoa học: TS. Lương Thùy Liên

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn Thạc sỹ với đề tài “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cán bộ và vận dụng tư tưởng đó vào xây dựng đạo
đức cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” được hoàn thành
dưới sự hướng dẫn của TS. Lương Thùy Liên là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi. Nếu sai tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 26 tháng 5 năm 2014
Học viên
Đinh Thị Ngọc Lan


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Triết học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
giảng dạy, trang bị cho tôi những kiến thức trong những năm học qua, giúp
tôi nắm vững những vấn đề lý luận và phương pháp luận để hoàn thành luận
văn này.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn TS. Lương Thùy Liên đã nhiệt
tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong thời gian hồn thành đề tài.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 5 năm 2014
Học viên
Đinh Thị Ngọc Lan



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 3
NỘI DUNG ......................................................................................................... 12
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ........................................................................ 12
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về người cán bộ và đạo đức là gốc của người
cán bộ .................................................................................................................................... 12
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về người cán bộ ............................................. 12
1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức là gốc của người cán bộ ........... 14
1.2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản mà người cán bộ cần phải có ................ 18
1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân ......................................................................... 18
1.2.2. Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư ...................................................... 24
1.2.3. Nhân, nghĩa, trí, dũng ..................................................................................... 30
1.2.4. Tinh thần yêu lao động, nỗ lực học tập, cầu tiến bộ .................................... 31
1.2.5. Tinh thần quốc tế trong sáng .......................................................................... 34
1.3. Những căn bệnh thường mắc phải của người cán bộ ......................................... 38
1.3.1. Bệnh tham lam ................................................................................................. 38
1.3.2. Bệnh lười biếng ................................................................................................ 39
1.3.3. Bệnh kiêu ngạo................................................................................................. 40
1.3.4. Bệnh quan liêu ................................................................................................. 41
1.3.5. Bệnh hẹp hòi, địa phương chủ nghĩa ............................................................. 43
1.3.6. Bệnh tự cho mình là lãnh tụ............................................................................ 44
1.4. Phương pháp xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho người
cán bộ ................................................................................................... 47
1.4.1. Tu dưỡng bền bỉ, thường xun...................................................................... 47
1.4.2. Nói đi đơi với làm ............................................................................................ 49
1.4.3. Nêu gương đạo đức ......................................................................................... 51
1.4.4. Tự phê bình và phê bình.................................................................................. 53
1.4.5. Xây dựng đạo đức mới, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân ..................... 55

1


CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG ĐẠO
ĐỨC CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................... 59
2.1. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý và những yêu cầu đạo đức đối với người cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay ......................................................... 59
2.1.1. Khái niệm, vai trò và đặc điểm của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
hiện nay ....................................................................................................................... 59
2.1.2. Những yêu cầu đạo đức đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
hiện nay ....................................................................................................................... 65
2.2. Thực trạng đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay ............. 70
2.2.1. Những biểu hiện tích cực của đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam hiện nay .............................................................................................................. 70
2.2.2. Những biểu hiện tiêu cực của đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam hiện nay ................................................................................................................... 74
2.3. Những vấn đề đang đặt ra về đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam hiện nay ...................................................................................................................... 86
2.4. Một số giải pháp chủ yếu xây dựng đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh................................................................... 90
2.4.1. Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức và phát huy tính tự giác, tự
rèn luyện đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ...................................... 90
2.4.2. Đổi mới công tác cán bộ, chú trọng vấn đề đạo đức cán bộ .......................... 95
2.4.3. Phải thực hiện nghiêm túc chế độ phê bình và tự phê bình, nêu cao tính
tiền phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý ........................................... 97
2.4.4. Phải tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng
viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý ............................................................. 99
2.4.5. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, xử lý kịp thời và nghiêm
minh những cán bộ, đảng viên thối hóa biến chất, vi phạm pháp luật ......... 100
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 104

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 106

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vơ giá của Đảng và dân tộc ta,
là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ
có giá trị trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc mà cịn có giá trị bền vững
đối với sự phát triển của đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú.
Trong đó, vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề được Người quan tâm hàng
đầu. Sinh thời Người đã từng nhấn mạnh, xây dựng, chăm lo và bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ là một công việc trọng yếu của Đảng. Hơn ai hết, Người hiểu rõ rằng,
cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là cái dây chuyền của bộ máy, muôn việc
thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém. Vì thế, Đảng phải nuôi dạy
cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, điều mà Người nhấn mạnh trước tiên ở
người cán bộ cách mạng đó là vấn đề đạo đức, coi đạo đức là cái gốc của cán bộ.
Theo Người, đạo đức của người cán bộ cũng như gốc của cây, ngọn nguồn của
sơng suối, khơng có gốc thì cây héo, khơng có nguồn thì sơng cạn. Người cách
mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân. Lời dạy của Người về tầm quan trọng của việc trau dồi đạo đức,
phẩm chất của người cán bộ cho đến nay vẫn còn ngun giá trị.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập và phát triển nền kinh tế thị trường,
nước ta đang có bước chuyển mình quan trọng. Chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn về kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng
bước được cải thiện, vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Có được
những thành tựu trên phải kể đến sự đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý. Tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, 2012), Đảng nhận định
rõ, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ
về nhiều mặt, đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất

3


chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng
và đội ngũ này đã đóng góp to lớn vào thành tựu 25 năm đổi mới vừa qua.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý,
Đảng và Nhà nước ta đã mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp
vụ, về lý luận cho đội ngũ này. Chính vì vậy, những năm qua, việc nhận thức và
vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn ngày càng có hiệu quả
hơn. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp thích nghi hơn với cơ chế thị
trường và tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm, việc hoạch định chính sách, khả
năng cụ thể hóa đường lối, chủ trương được nâng lên rõ rệt. Tính chủ động, sáng
tạo được phát huy. Bệnh kinh nghiệm, giáo điều, tính ỷ lại, thụ động từng bước
được khắc phục.
Bên cạnh những thành tích đó, chúng ta cũng đang phải đối mặt với một
thực trạng đáng lo ngại về mặt đạo đức xã hội. Sự xuống cấp về đạo đức khơng
chỉ trong nhân dân mà cịn ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đảng ta
thẳng thắn chỉ ra rằng, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có
những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về
sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy
theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ
ngun tắc. Đặc biệt, trong những năm gần đây, tình trạng tham nhũng, lãng phí
ở bộ phận cán bộ có chức, có quyền đang trở thành vấn nạn, thành nỗi bức xúc
của tồn xã hội. Điều đó làm giảm uy tín của Đảng, làm xói mịn lịng tin của
nhân dân vào chế độ, đe dọa sự ổn định và phát triển của đất nước. Chính vì vậy,

vấn đề ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống trong cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và xây dựng đạo
đức cán bộ lãnh đạo, quản lý trở thành vấn đề cơ bản, cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay. Tuy nhiên, để giải quyết được vấn đề này đòi hỏi phải thực hiện
đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cán bộ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
4


Từ việc nhận thức tầm quan trọng của vấn đề đạo đức cán bộ theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, cũng như từ thực trạng và yêu cầu xây dựng đạo đức cán bộ
lãnh đạo, quản lý hiện nay, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức cán bộ và vận dụng tư tưởng đó vào xây dựng đạo đức cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận bao gồm nhiều lĩnh vực
rộng lớn và phong phú. Trong đó tư tưởng của Người về đạo đức, đạo đức cán bộ
là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều học giả. Cho đến nay đã có nhiều sách
báo, cơng trình nghiên cứu về tư tưởng này. Đặc biệt là từ sau Đại hội đại biểu
lần thứ X của Đảng và cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” thì đề tài này tiếp tục nhận được sự quan tâm sâu sắc của các nhà
nghiên cứu với mục đích chỉ ra những giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức, cũng
như tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đẩy lùi sự suy thối tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Qua nghiên cứu, chúng tơi nhóm những cơng trình liên quan mật thiết tới
đề tài này thành ba nhóm như sau:
Thứ nhất, nhóm những nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
và đạo đức cán bộ:
- Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”
(Nxb. Chính trị quốc gia, 2003) do Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên) đã

trình bày một cách hệ thống những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong đó, các tác giả dành riêng một chương để nói về tư tưởng nhân văn, đạo
đức Hồ Chí Minh. Các tác giả khẳng định, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một
nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, nó hình thành từ u cầu
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Nghiên cứu tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, các tác giả nhấn mạnh đến tư tưởng coi đạo đức
cách mạng là cái gốc, là nền tảng của người cán bộ; nhấn mạnh đến điểm đặc biệt
của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đó là, bên cạnh việc đưa ra những chuẩn mực
5


đạo đức chung có ý nghĩa cơ bản, có tính phổ cập đối với mọi người, mọi tầng
lớp thì Người còn đề ra những chuẩn mực cụ thể đối với từng lớp người phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ và trách nhiệm của lớp người đó.
- Tác phẩm “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” (Nxb. Giáo dục, 2006)
do Đinh Xn Dũng (chủ biên). Đây là cơng trình tập hợp nhiều bài viết của
nhiều tác giả từng là lãnh đạo Đảng, Nhà nước – những người có cơ hội sống và
làm việc cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các bài viết đã minh chứng cho sự thống
nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa nói đạo đức và thực hành đạo đức trong
con người Hồ Chí Minh. Đồng thời, những luận điểm lớn của Hồ Chí Minh về
đạo đức, đạo đức cách mạng đã được các tác giả đề cập và phân tích như: đạo
đức là gốc của người cách mạng, cần – kiệm – liêm - chính – chí cơng vơ tư,
trung với nước, hiếu với dân.
- Cuốn sách “Rèn luyện đạo đức cách mạng theo Bác Hồ” (Nxb. Quân
đội nhân dân, 2006) giới thiệu một số bài viết của các tác giả về nhân cách, đạo
đức, về chuẩn mực đạo đức trung với nước, hiếu với dân của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong giai đoạn mới, về nguồn gốc, hoàn cảnh phát sinh, những biểu hiện
của chủ nghĩa cá nhân và phương hướng khắc phục chủ nghĩa cá nhân.
- Cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” (Nxb. Chính trị quốc gia,
1996) do Thành Duy (chủ biên) đã chỉ ra nguồn gốc, đặc điểm của tư tưởng đạo

đức Hồ Chí Minh và khẳng định tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp đổi mới hiện nay của nước
ta.
- Tác giả Phạm Quốc Thành với “Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên” (Nxb Giáo dục,
2006) đã nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, những chuẩn mực đạo đức
cơ bản của người cán bộ, đảng viên, những căn bệnh mà người cán bộ, đảng viên
thường mắc phải và những phương pháp phấn đấu, rèn luyện để trở thành người
cán bộ, đảng viên tốt.

6


Thứ hai, nhóm những nghiên cứu về thực trạng đạo đức của cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay. Những năm gần đây, khi mà biểu hiện suy
thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống ngày càng rõ nét, nạn tham ô, tham nhũng
ngày càng trở thành vấn đề gây nhức nhối trong xã hội, thì mảng đề tài về đạo
đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý càng thu hút sự quan tâm của các học giả. Có
thể kể đến một số cơng trình như:
- “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với
việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” (Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1999) do Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên). Các tác giả cho rằng,
trong điều kiện kinh tế thị trường các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cần
được phát triển trong điều kiện mới như: lịng u nước, lịng nhân ái, đồn kết
cộng đồng, vị tha, trung thực, tinh thần ham học hỏi, khiêm tốn. Có những giá trị
mới được bổ sung như: sáng tạo, tự lập, tự chủ. Vì vậy, giáo dục đạo đức cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cần giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và từ
đạo đức Hồ Chí Minh định hướng giá trị đạo đức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý
hiện nay.
- “Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo, quản lý của

Việt Nam hiện nay” (Nxb. Chính trị quốc gia, 2001), Nguyễn Thế Kiệt (chủ
biên). Các tác giả đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm của đạo đức phong kiến, ảnh
hưởng của đạo đức phong kiến đến cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay
và đề ra một số phương pháp ngăn ngừa và từng bước khắc phục ảnh hưởng của
nó.
- “Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay – Thực trạng và giải
pháp” (Nxb. Chính trị quốc gia, 2005), Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên). Cơng trình
đã chỉ ra vai trị, nội dung, yêu cầu về đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính
trị, trên cơ sở đó xác định phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
phẩm chất đạo đức cho cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam hiện nay.
- Tác giả Trần Văn Phòng với bài “Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ
lãnh đạo chính trị hiện nay” (Tạp chí Lý luận chính trị số 5, 2003). Tác giả cho
7


rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, cán bộ lãnh đạo phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, gương mẫu về đạo đức, lối sống, có kiến thức khoa học về lãnh
đạo, quản lý. Do đó, về đạo đức cán bộ lãnh đạo chính trị phải có tính tích cực chính
trị, lối sống lành mạnh trong sáng, phong cách công tác dân chủ.
- Luận án tiến sĩ triết học “Vấn đề đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay” của Mai Xuân Hợi đã phân tích thực trạng đạo đức của cán bộ lãnh đạo,
quản lý dưới tác động của kinh tế thị trường, chỉ ra những nguyên nhân về sự suy
thoái đạo đức và đưa ra một số giải pháp khắc phục sự suy thoái đạo đức của cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, nhóm những nghiên cứu về việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh để xây dựng đạo đức cán bộ và cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay:
- Cuốn sách “Giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên theo đạo đức, phong
cách, tư duy khoa học của Hồ Chí Minh” (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005),
các tác giả đều có quan điểm rằng, để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên trong

tình hình hiện nay thì giải pháp quan trọng trước hết là đẩy mạnh giáo dục về tấm
gương đạo đức và tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Quang Phát (chủ biên) với cuốn “Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh
về đức – tài trong xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội” (Nxb Quân đội nhân dân, 2006)
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài, mối quan hệ giữa đức và tài của
người cán bộ cách mạng và việc nâng cao đạo đức, phát triển tài năng của đội ngũ cán
bộ quân đội theo tư tưởng của Người.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ” (Nxb Lao động
xã hội, 2006) của tác giả Bùi Đình Phong. Trên cơ sở chỉ ra những yêu cầu của
Hồ Chí Minh đối với cán bộ, tác giả đã vận dụng và đưa ra quan điểm về tiêu
chuẩn cán bộ trong tình hình mới. Trong đó, tác giả đặt tiêu chuẩn về đạo đức
cách mạng lên hàng đầu, yêu cầu người cán bộ phải có tinh thần yêu nước sâu
sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, có lối sống
giản dị, đời tư trong sáng.
8


- “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng phong cách làm việc
của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay” (Nxb Chính trị quốc gia,
2010), Nguyễn Thế Thắng (Chủ biên), đã chỉ ra thực trạng phong cách làm việc
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta và giải pháp xây dựng phong cách
làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Ngoài ra, một số tác giả cũng đề cập đến một số mặt như: “Vấn đề nâng
cao đạo đức cách mạng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng” (Tạp chí cộng sản, số 2
– 1/2000) của Thành Duy, “Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển
kinh tế thị trường” (Tạp chí triết học số 4 năm 2002) của Đỗ Lan Hiền, “Nâng
cao phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế” (Tạp chí cộng sản, số 18 - 2003) của Nguyễn Trọng Điều, “Một
số giải pháp xây dựng nhân cách đạo đức hiện nay” (Tạp chí triết học, số 4,
1999) của Nguyễn Văn Phúc, “Đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên” (Tạp chí cộng sản, số 832, tháng 2 năm
2012) của Nhị Lê…
Như vậy, vấn đề nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức,
đạo đức cán bộ và vấn đề đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có nhiều nhà khoa
học nghiên cứu. Tuy nhiên, các cơng trình chủ yếu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức cán bộ trong tổng thể nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Người, chưa có
một cơng trình nào nghiên cứu tư tưởng đạo đức cán bộ một cách hệ thống và khái
qt. Cịn các cơng trình nghiên cứu về đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý thì chưa
nhấn mạnh đế tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng đạo đức cán bộ của Hồ Chí
Minh vào xây dựng đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay. Trên cơ sở kế thừa và
tiếp thu kết quả của những người đi trước, chúng tôi khái quát những nội dung cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ, làm rõ yêu cầu, thực trạng đạo đức cán
bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay và tìm ra giải pháp xây dựng đạo đức cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

9


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài: làm rõ những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ, từ đó vận dụng vào xây dựng đạo đức cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ cụ thể
sau:
Một là, phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cán bộ.
Hai là, làm rõ thực trạng đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
hiện nay.
Ba là, đưa ra giải pháp xây dựng đạo đức cán bộ lãnh đạo quản lý theo tư
tưởng của Hồ Chí Minh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ và
thực trạng đạo đức cán bộ ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cán bộ thể hiện trong 15 tập Hồ Chí Minh tồn tập và nghiên cứu sự vận
dụng tư tưởng đó đối với việc xây dựng đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời
kỳ đổi mới, tức là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng đạo đức cán bộ.
- Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp biện chứng duy vật và các
phương pháp khác, tiêu biểu như, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương
pháp diễn dịch, quy nạp.

10


6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống hóa, khái qt hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cán bộ, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để xây dựng đạo
đức cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu
sâu hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ và giá trị thực tiễn của tư
tưởng đó đối với Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 2 chương và 8 tiết, không kể phần mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.


11


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về người cán bộ và đạo đức là gốc
của người cán bộ
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về người cán bộ
Trong sự nghiệp cách mạng, việc xây dựng tư tưởng, lý luận, vạch ra
đường lối chiến lược là những vấn đề quyết định hàng đầu. Cùng với đó, việc xây
dựng tổ chức và lực lượng, trước hết là xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng cũng là một vấn đề then chốt. Hồ Chí Minh là
một lãnh tụ đã quan tâm đúng mức đến cả hai vấn đề cơ bản có ý nghĩa quyết
định đó.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức được vị trí, vai trị của người cán
bộ. Do đó, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người rất mực
quan tâm đến vấn đề cán bộ.
Cán bộ mà chúng ta bàn tới ở đây theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là những người làm trong các cơ quan, đồn thể, cơng sở, lực lượng vũ
trang. Họ có thể giữ chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo, quản lý hoặc làm công
tác nghiệp vụ, chuyên môn đơn thuần, trực tiếp hoặc gián tiếp đóng góp vào sự
nghiệp cách mạng của dân tộc. Họ có thể là những đảng viên cộng sản hoặc chưa
phải, không phải đảng viên cộng sản. Đặc biệt, trong các bài viết, tác phẩm, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh nhiều đến đối tượng cán bộ, đảng viên có chức, có quyền,
những người chịu trách nhiệm trực tiếp và to lớn trước nhân dân và toàn dân tộc.
Những người cán bộ đó, do vậy theo Hồ Chí Minh phải là những người có tinh thần
cách mạng, sẵn sàng hy sinh cho độc lập tự do của dân tộc và hạnh phúc của nhân
dân.


12


Cán bộ cách mạng có vị trí, vai trị quan trọng, quyết định thành bại của sự
nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy”
[35, tr.68]. Trong cỗ máy công nghiệp, dây chuyền liên quan đến nhiều bộ phận,
chuyển tải sức điện từ động cơ đến các bộ phận. Nếu dây chuyền khơng tốt,
khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Trong đời sống
kinh tế - xã hội, sự chuyển động của xã hội được coi như một “cỗ máy” khổng lồ.
Trong “cỗ máy” đó, cán bộ là “dây chuyền”, “cầu nối” giữa Đảng, Chính phủ với
nhân dân. Đây là một “dây chuyền” đặc biệt. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, cán bộ là
người xây dựng nên đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước sao
cho phản ánh đúng lợi ích của các tầng lớp nhân dân, là người thực thi pháp luật
của Nhà nước. Thực tế là mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Chính phủ đều
do cán bộ nghiên cứu đề xuất, đồng thời cũng do cán bộ tổ chức, hướng dẫn nhân
dân thực hiện. Đường lối của Đảng đúng hay sai, tổ chức thực hiện thành hay
không đều phụ thuộc vào cán bộ. Động lực của mọi cuộc cách mạng là quần chúng
nhân dân, mà hạt nhân chủ yếu của nó là lực lượng cán bộ.
Nói đến cán bộ, Người cịn ví cán bộ như là “tiền vốn của Đồn thể”. Có
vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành
cơng, tức là có lãi. Khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn.
Hồ Chí Minh đưa ra một triết lý sâu sắc “cán bộ là cái gốc của công việc”,
cán bộ là nhân tố quan trọng góp phần quyết định sự thành bại của cách mạng,
gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước. Vì vậy, trong mọi việc mà khơng
có cán bộ thì khơng thể hồn thành. Nhưng vấn đề khơng phải chỉ dừng lại ở chỗ
có hay khơng có cán bộ mà ở chỗ cán bộ phải là người như thế nào mới đưa cách
mạng đến thắng lợi? Trong bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương
năm 1952, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ quyết định mọi việc. Các đồng chí đều
là cán bộ cao cấp, đều giữ những trách nhiệm quan trọng. Công việc thành hay là
bại một phần lớn là do nơi tư tưởng đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của các

đồng chí” [37, tr.415].

13


Như vậy, khi bàn đến vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh khơng đề cập đến
cán bộ một cách chung chung, mà Người chỉ rõ là “cán bộ tốt” hay “cán bộ
kém”, “cán bộ dở”. Vì “mn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém” [35, tr.313]. Nói cụ thể, có cán bộ tốt thì mọi việc mới thành công.
Vậy thế nào là cán bộ tốt? Theo Hồ Chí Minh, cán bộ tốt là người có cả
đức và tài, trong đó đức là gốc.
1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức là gốc của người cán bộ
Hồ Chí Minh quan niệm, một người cán bộ tốt tức là ở người cán bộ đó có
sự thống nhất giữa đức và tài, trong đó Người đặc biệt đề cao đạo đức, coi “đức
là gốc” của người cán bộ.
Bàn về vai trò của đạo đức đối với cán bộ, Hồ Chí Minh viết: “Cũng như
sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc,
khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho
dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có
đạo đức, khơng có căn bản, tự mình hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì?”[35,
tr.292-293]. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đạo đức là thước đo lịng cao
thượng của con người, tiêu chí để kiểm tra chất “người”, tính “người” của một
con người. Đạo đức cần cho mọi người, đó là đạo đức công dân. Nhưng đạo đức
đặc biệt cần cho cán bộ, cho người cách mạng. Tại sao như vậy?
Hồ Chí Minh cho rằng: “làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội
mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề,
một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [41, tr.601]. Đồng thời,

người cán bộ cách mạng nếu được vũ trang bằng đạo đức cách mạng thì khi gặp
khó khăn, gian khổ, thất bại cũng khơng sợ sệt, rụt rè, lùi bước và khi gặp thuận
lợi, thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, chứ
khơng kiêu ngạo, hủ hóa.

14


Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao yếu tố đạo đức ở người cán bộ. Nhưng đạo
đức đó phải là đạo đức mới, đạo đức cách mạng chứ không phải đạo đức cũ,
đạo đức thủ cựu thời phong kiến. Bởi lẽ, con đường cách mạng theo Hồ Chí
Minh là con đường cách mạng vơ sản. Đó khơng những là một cuộc cách mạng
chính trị mà cịn là một cuộc cách mạng đạo đức. Đi theo con đường cách mạng
vô sản, Hồ Chí Minh thực sự đã tiến hành một cuộc đảo lộn trong quan niệm đạo
đức. Sự đảo lộn đó trước hết thể hiện trong những quan niệm đúng đắn về đạo
đức cũ và đạo đức mới.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức mới tức là đạo đức cách mạng. Đạo đức cách
mạng khác về chất so với đạo đức cũ. Trong Bài nói chuyện tại trường Chính trị trung
cấp qn đội, Hồ Chủ tịch đã phân biệt đạo đức cũ và đạo đức mới, Người nói: “Có
người cho đạo đức cũ và đạo đức mới khơng có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to.
Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều.
Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức
mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời. Bọn
phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng khơng bao giờ làm mà
lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề
ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để
lợi cho nước cho dân” [37, tr.220].
Đạo đức cũ – loại hình đạo đức tương ứng với bản chất của chế độ phong
kiến, một chế độ dựa trên nguyên tắc phục tùng thứ bậc, được phản ánh trong ý
thức đạo đức dưới hình thức thân phận của mỗi con người. Ở đâu, giai cấp phong

kiến cũng coi khinh lao động và quần chúng lao động, đòi hỏi họ phải "giữ
phận", chung thuỷ và trung thành vô điều kiện với bề trên. Quan niệm đạo đức
của giai cấp thống trị vừa ảnh hưởng, vừa đối lập với quan niệm đạo đức của
nơng nơ và nơng dân. Nhưng vì chính sách ngu dân của phong kiến, vì địa vị xã
hội hèn mọn của nơng dân đã ni dưỡng ở họ tính n phận, nhẫn nhục, thói
quen phục tùng, thái độ tơi tớ đối với phong kiến. Thế còn đạo đức cách mạng thì
theo Hồ Chí Minh, đó khơng phải là đạo đức thủ cựu, nó là đạo đức mới, đạo đức
vĩ đại, nó khơng vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của
15


dân tộc, của lồi người. Đạo đức mà ở đó mỗi người tự ý thức được vị trí, trách
nhiệm của mình đối với dân tộc, hịa chung lợi ích bản thân với lợi ích dân tộc.
Đó là lịng u nước thương nòi, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, xả thân vì độc lập,
tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, sống có tình, có nghĩa, có đạo đức, có lý
tưởng, có ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết, nhân ái… Đạo đức cách
mạng đã trở thành bộ phận quan trọng trong nền tảng tinh thần của xã hội, là
động lực, là nguồn sức mạnh to lớn để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta vượt
qua mọi thử thách cam go vươn lên giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, xây dựng
chế độ xã hội mới, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh là: “Quyết tâm suốt đời đấu tranh
cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng, thực hiện tốt đường lối,
chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích
riêng của cá nhân mình. Hết lịng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà
đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, ln ln dùng tự phê bình và phê
bình để nâng cao tư tưởng cải tiến cơng tác của mình và cùng đồng chí mình tiến
bộ” [41, tr.603].

Cũng có lúc Người nói một cách ngắn gọn hơn: “Đạo đức cách mạng có
thể nói tóm tắt là:
Nhận rõ phải trái. Giữ vững lập trường.
Tận trung với nước. Tận hiếu với dân” [39, tr.354].
Quan điểm lấy đức làm “gốc” là quan điểm cổ xưa có từ trong thuyết
“Đức trị” của Nho giáo. Ở Hồ Chí Minh cũng có quan điểm tương đồng như thế
nhưng lại là một sự khác biệt căn bản, vì cái gốc của đạo đức Hồ Chí Minh là đạo
đức mới – đạo đức cách mạng mang bản chất chủ nghĩa cộng sản, có kế thừa phát
huy truyền thống đạo đức và tinh hoa đạo đức nhân loại; còn cái gốc của đạo đức

16


Nho giáo phong kiến là những giáo điều, những mệnh đề cực đoan trói buộc con
người vào chế độ đẳng cấp hà khắc, phản dân chủ.
Tuy nhiên cần phải thấy rằng, quan điểm lấy đức làm gốc của Hồ Chí
Minh khơng có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức là gốc nhưng
đức và tài phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, khơng thể chỉ có mặt
này mà thiếu mặt kia. Đức là nền tảng của tài, định hướng cho tài năng phát triển
và phát triển đúng hướng – tức phục vụ nhân dân và cách mạng. Ngược lại, tài
năng một mặt là biểu hiện đạo đức, mặt khác góp phần nâng cao uy tín, phẩm
chất đạo đức của người cán bộ. Người đã dặn dị: “Có tài mà khơng có đức ví
như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng
những khơng làm được gì ích lợi cho xã hội, mà cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu
có đức mà khơng có tài ví như ơng Bụt khơng làm hại gì, nhưng cũng khơng lợi
gì cho lồi người” [41, tr.399].
Qua tư tưởng Hồ Chí Minh có thể thấy, đạo đức cách mạng là cái “gốc”,
là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá cán bộ. Nếu khơng có đạo đức cách mạng
thì có tài mấy cũng vơ dụng. Đức là gốc vì nó có ý nghĩa quyết định thái độ, lập
trường tư tưởng chính trị của người cán bộ, đảng viên và quyết định mục tiêu, lý

tưởng mà họ phấn đấu. Đức là gốc cịn vì trong đức đã có tài, bởi khi người cán
bộ cách mạng có đức sẽ thường xuyên địi hỏi với chính bản thân việc học tập,
nâng cao trình độ, tài năng để có thể hồn thành tốt nhiệm vụ của mình. Bản chất
của đạo đức cách mạng đã tiềm ẩn một nội lực khiến cho con người phải vươn
lên khơng ngừng để thực hiện những hồi bão của mình. Khơng có ý chí, sự
quyết tâm, lịng dũng cảm, thái độ cần mẫn học tập thì khơng thể gọi là người có
đạo đức. Khơng hề có đạo đức cho những kẻ lười nhác. Phải có đức mới đi đến
cái trí, có cái trí mới đi đến tài năng. Chân lý hiển nhiên đó đã được chứng minh
một cách sống động bằng chính cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của
Hồ Chí Minh. Cái đức sâu thẳm và bao la ở Hồ Chí Minh là lịng nồng nàn u
nước, thương dân. Chính lịng u nước là nội lực thơi thúc Người ra đi tìm
đường cứu nước, cứu dân và sẵn sàng chịu đựng mọi gian lao, khổ ải nhằm giành
17


bằng được độc lập cho dân tộc, thống nhất cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho
đồng bào mình. Sau này, Người bộc bạch rằng, lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu
nước, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa Người đi theo Lênin, tin theo
quốc tế thứ ba.
Bằng cách diễn đạt bình dị của Người, chúng ta thấy đạo đức như gốc của
cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con người. Người cán bộ nếu chỉ
giác ngộ chính trị, tăng cường sức mạnh tổ chức thơi thì chưa đủ, phải thấm
nhuần đạo đức cách mạng, có như vậy mới tăng sức mạnh cho cách mạng lên bội
phần. Không phải ngẫu nhiên mà trong khi soạn bài giảng cho lớp thanh niên trí
thức ở Quảng Châu (Trung Quốc) trong những năm 1925 – 1927, Nguyễn Ái
Quốc lại đưa bài Tư cách một người cách mệnh lên hàng đầu. Đây là cuốn sách
viết về Đường cách mệnh nhằm mục đích nói cho đồng bào ta biết rõ: chúng ta
muốn sống thì phải cách mệnh và cách mệnh thì phải làm thế nào? Mục đích sách
khơng nói gì đến việc giáo dục đạo đức. Nhưng cách trình bày của sách cho thấy,
muốn làm cách mạng thì trước hết phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải coi

đạo đức cách mạng là gốc, là cái căn bản, nền tảng.
Vậy là trong tư duy và hành động, Hồ Chí Minh ln thể hiện sự nhất
quán: đạo đức cách mạng là gốc của người cán bộ. Đã là cán bộ cách mạng thì
phải có đạo đức cách mạng. Giữ được đạo đức cách mạng mới là người cán bộ
chân chính. Người địi hỏi mỗi cán bộ phải thấm nhuần và thực hành theo tinh
thần đó.
1.2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản mà người cán bộ cần phải có
1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Chúng ta biết rằng, lịch sử của dân tộc ta là lịch sử đấu tranh dựng nước
và giữ nước, xây đắp Tổ quốc Việt Nam thống nhất, giàu mạnh. Trong q trình
lịch sử đó, nhiều luồng văn hóa, đạo đức trên thế giới, nhất là học thuyết Nho
giáo của Khổng Tử, mà xương sống của nó là thuyết trung quân đã du nhập vào
nước ta nhằm mục đích đồng hóa văn hóa của ta. Nhưng chẳng những chúng ta
khơng bị đồng hóa mà trái lại, nhân dân ta, trước hết là các nhà Nho yêu nước đã
18


chủ động tiếp thu, chọn lọc, cải biến chúng cho thích hợp với cuộc đấu tranh
chống kẻ thù xâm lược, khơng ngừng làm phong phú nền văn hóa truyền thống
của mình.
Trung, hiếu là những khái niệm cơ bản, những phẩm chất hàng đầu trong
hệ thống phẩm chất đạo đức Nho giáo du nhập vào nước ta đã lâu, và được nhân
dân ta tiếp nhận, cải biến cho phù hợp với yêu cầu đạo đức truyền thống của dân
tộc; phản ánh và thể hiện những mối quan hệ rường cột, chủ yếu nhất của xã hội
phong kiến. Đồng thời, nó đã xác lập và phát huy vai trò to lớn trong việc duy trì
trật tự, kỷ cương xã hội, đặt nền tảng cho sự tồn vong của chế độ phong kiến
phương Đơng nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Theo đạo đức Nho giáo, trung là đạo thờ vua, muốn nhấn mạnh sự tồn
tâm, tồn ý, một lịng một dạ của thần dân đối với vua. Mà vua là biểu tượng của
chế độ phong kiến, nên trung cũng đồng thời là trung thành với chế độ phong

kiến, đến chết cũng không được thay đổi để bảo vệ quyền lợi của vua quan phong
kiến. Cịn hiếu là lịng kính u và biết ơn đối với cha mẹ - những người đã sinh
thành, dưỡng dục mình nên người; là bổn phận làm con, cháu phải phụng dưỡng
và hiếu thảo với bố mẹ, ông bà. Trung, hiếu có mối quan hệ hữu cơ với nhau,
hiếu là gốc của trung, trung lại là đầu mối, rường cột của cả hệ thống phẩm chất
đạo đức phong kiến. Tuy nhiên, phạm trù trung, hiếu của đạo đức phong kiến lại
mang tính thụ động, một chiều, chỉ có giá trị hạn hẹp trong phạm vi mối quan hệ
giữa cá nhân với cá nhân, chỉ địi hỏi bầy tơi, kẻ dưới phục vụ lợi ích bề trên, lợi
ích của thiểu số vua quan phong kiến.
Trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội các giá trị đạo đức phong kiến nói chung
và quan niệm trung, hiếu nói riêng, trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí
Minh đã kế thừa những yếu tố hợp lý, chắt lọc những tinh hoa và gạt bỏ đi những
hạn chế, bất cập, qua đó nâng lên tầm cao hơn. Chuẩn mực giá trị đạo đức
“Trung với nước, hiếu với dân” là một trong những chuẩn mực đạo đức quan
trọng nhất, bao trùm nhất của người cán bộ cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong bài báo “Người cán bộ cách mạng” đăng trên báo Nhân dân ngày 3
19


tháng 3 năm 1955, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, đối với người cách mạng, cụ thể là
cán bộ thì phải: “Tận trung với nước. Tận hiếu với dân” [39, tr.354].
Phạm trù trung, hiếu trong tư tưởng của Người đã chuyển từ sự phản ánh các
mối quan hệ xã hội có ý nghĩa hạn hẹp giữa cá nhân với cá nhân (vua - tôi, cha mẹ con cái), sang sự phản ánh mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, chứa đựng trong
đó giá trị nhân văn cao cả, ý nghĩa xã hội rộng lớn và nội dung chính trị - đạo
đức sâu sắc. Theo Người, trung ở đây là trung với nước, trung với Đảng, hiếu ở đây
là hiếu với dân, với đồng bào. Ở Hồ Chí Minh không chỉ dùng từ trung, hiếu với ý
nghĩa một trách nhiệm, bổn phận của con người mà với khái niệm mang tính truyền
thống lịch sử, Người đã đưa vào đó một nội dung mới, mang tính cách mạng, phản
ánh đạo đức cao rộng hơn. Người viết: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua,
hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới phải trung với nước. Phải hiếu với toàn

dân, với đồng bào” [34, tr.170].
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, trung thành với
Đảng cộng sản và nhân dân, thực hiện trách nhiệm của cá nhân với sự nghiệp
dựng nước và giữ nước. Để trung với nước, phải giáo dục cho cán bộ tinh thần
nồng nàn yêu nước, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mọi
suy nghĩ và việc làm đều hướng tới lợi ích của Tổ quốc. Người chỉ rõ rằng: “Phải
để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà” và “Việc gì dù lợi cho mình,
phải xét nó có lợi cho nước khơng? Nếu khơng có lợi, mà có hại cho nước thì
quyết khơng làm” [36, tr.131].
Trung với Đảng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng,
ln cố gắng hồn thành tốt nhất mọi nhiệm vụ mà Đảng giao cho, biết làm việc
có lợi, tránh việc có hại cho Đảng. Trung với nước, với Đảng khơng chỉ là dành
tình cảm cho Đảng, cho Tổ quốc mà còn bằng những hành động cách mạng cụ
thể như: ra sức đấu tranh bảo vệ đất nước, bảo vệ Đảng; thực hiện đầy đủ, hiệu
quả mọi chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, của Nhà nước; kiên quyết
chống mọi nguy cơ làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc, của Đảng. Người viết:
“Nói tóm tắt thì đạo đức cách mạng là:

20


Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ
chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt
đường lối” [41, tr.603].
Và: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên
cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích
của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi
ích của Đảng…” [41, tr.607].
Xuất phát từ truyền thống quý báu của dân tộc ta, những phẩm chất cao

quý của nhân dân ta và vai trò lãnh đạo của Đảng, Người ln nhắc nhở người
cán bộ phải có nhận thức đúng và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào trí tuệ tập thể và nhân dân. Chính vì vậy, Người u cầu cán bộ phải biết làm
việc có lợi cho Đảng, cho tập thể, cho nhân dân, phải đặt lợi ích của Đảng, của
tập thể lên trên hết. Người cán bộ cách mạng là người “trung thành, hăng hái,
xem lợi ích của Đảng và dân tộc q hơn tính mệnh của mình” [35, tr.299] và
trong mọi hồn cảnh đều “Lo, thì lo trước thiên hạ; hưởng, thì hưởng sau thiên
hạ” [39, tr.508].
Theo Hồ Chí Minh, "trung với nước" phải gắn liền "hiếu với dân". Theo
quan niệm của Bác, dân là tồn dân, tồn dân tộc, khơng phân biệt giai cấp, tầng
lớp, tôn giáo… cùng tham gia sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Vì nước là nước của dân, cịn dân lại là chủ nhân của nước; bao nhiêu
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, nên cán bộ
là đày tớ của dân chứ khơng phải là “quan cách mạng”. Trong bài nói chuyện tại
Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất ngày 25 tháng 6 năm 1952, Người căn
dặn: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ
máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là
phân công làm đầy tớ cho dân” và trong bài nói với cán bộ tỉnh Hà Tây ngày 10
tháng 2 năm 1967, Người nhắc lại: “Mỗi người đảng viên, người cán bộ phải

21


×