Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) nâng cấp lễ hội truyền thống làng bình đà (những đa dạng biểu hiện quyền của chủ thể văn hóa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----***------

TRẦN VĂN HIẾU

NÂNG CẤP LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG LÀNG BÌNH ĐÀ
(Những đa dạng biểu hiện quyền của chủ thể văn hóa)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Nhân học

Hà Nội-2016

TIEU LUAN MOI download :


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----***------

TRẦN VĂN HIẾU

NÂNG CẤP LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG LÀNG BÌNH ĐÀ
(Những đa dạng biểu hiện quyền của chủ thể văn hóa)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Nhân học
Mã số: 60.31.03.02

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Lƣơng Hồng Quang



Hà Nội - 2016

TIEU LUAN MOI download :


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản luận văn thạc sỹ

NÂNG CẤP LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG LÀNG BÌNH ĐÀ
(Những đa dạng biểu hiện quyền của chủ thể văn hóa)
là do tôi viết và chƣa công bố.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

TIEU LUAN MOI download :


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... 2
DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................ 3
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN .................................... 11
1.1. Cơ sở lý thuyết ..................................................................................... 11
1.2. Tổng quan về làng Bình Đà ................................................................. 19
Tiểu kết chƣơng 1........................................................................................ 24
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG NÂNG CẤP LỄ HỘI ......................................... 25
2.1. Lễ hội truyền thống .............................................................................. 25
2.2. Quá trình nâng cấp lễ hội ..................................................................... 31
2.3. So sánh lễ hội truyền thống và lễ hội đƣơng đại .................................. 34
2.4. Các đánh giá của ngƣời ngoài cuộc ..................................................... 37

Tiểu kết chƣơng 2........................................................................................ 43
Chƣơng 3: NHỮNG ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH ............................................ 44
3.1. Phƣơng thức tổ chức lễ hội .................................................................. 44
3.2. Sự tham gia của ngƣời dân vào nâng cấp lễ hội .................................. 54
3.3. Tiếng nói của ngƣời dân về các yếu tố mới ......................................... 58
3.4. Các câu chuyện xung quanh nâng cấp lễ hội ....................................... 67
3.5. Quyền của chủ thể văn hóa: các đánh giá ............................................ 72
Tiểu kết chƣơng 3........................................................................................ 80
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 84
PHỤ LỤC……………………………………………………………………91

1

TIEU LUAN MOI download :


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1.

BQL

: Ban quản lý

2.

BVHTTDL

: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch


3.

ĐHQG

: Đại học quốc gia

4.

GS

: Giáo sƣ

5.

KHXH

: Khoa học xã hội

6.

KHXH&NV

: Khoa học xã hội và Nhân văn

7.

Nxb

: Nhà xuất bản


8.

PGS.TS

: Phó giáo sƣ.Tiến sỹ

9.



: Quyết định

10. QL

: Quốc lộ

11. Tr

: Trang

12. TP.HCM

: Thành phố Hồ Chí Minh

13. UBND

: Ủy ban nhân dân

14. VHTT


: Văn hóa thơng tin

2

TIEU LUAN MOI download :


DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 1.1: Nâng cấp lễ hội

13

Bảng 2.1: So sánh lễ hội truyền thống và lễ hội đƣơng đại

35

3

TIEU LUAN MOI download :


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lễ hội truyền thống là một hình thái văn hóa biểu thị những giá trị tiêu
biểu của một cộng đồng, một dân tộc. Từ lâu, lễ hội truyền thống đã trở thành
đối tƣợng của nhiều ngành khoa học nhƣ lịch sử, văn hóa học, nghệ thuật
học,… đặc biệt là Nhân học. Nghiên cứu lễ hội truyền thống trong tƣơng quan

với đời sống văn hóa đƣơng đại cịn ít, đặc biệt cịn thiếu những nghiên cứu
có tính ứng dụng.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế, ngày càng
nhiều lễ hội đƣợc phục dựng nâng cấp, đáp ứng nhu văn hóa tinh thần chính
đáng của ngƣời dân… Tuy nhiên, những động thái trên đƣợc xã hội tiếp nhận
và phản hồi với nhiều tâm thức khác nhau. Chính từ những phản hồi khác
nhau từ giới lãnh đạo, truyền thông và các nhà khoa học đã xuất hiện những
cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề này. Quan điểm về bảo tồn nguyên gốc (giữ
y nguyên) và bảo tồn phát triển lễ hội trong xã hội đƣơng đại là hai khuynh
hƣớng cơ bản trong thời gian gần đây.
Khơng nằm ngồi quy luật trên, lễ hội Làng Bình Đà (xã Bình Minh,
huyện Thanh Oai, Hà Nội) thờ hai vị thần: Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân tại
đền Nội và Linh Lang đại vƣơng tại đình Ngoại. Hàng năm, từ ngày 3 đến 6-3
âm lịch, làng lại mở lễ hội tƣởng nhớ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân. Năm
2014, lễ hội thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân đã đƣợc Bộ Văn hóa Thể thao
và Du lịch cấp bằng Di sản phi vật thể quốc gia. Lễ hội đƣợc tổ chức quy mô
hơn và thêm nhiều yếu tố mới so với mọi năm. Theo các phƣơng tiện truyền
thơng thì đa số ngƣời dân tỏ ra đồng thuận và hào hứng về những thay đổi đó.
Tuy nhiên những phản hồi của ngƣời dân về phƣơng pháp tổ chức lễ hội hết

4

TIEU LUAN MOI download :


sức đa dạng, phản ứng của họ về các yếu tố mới tới đâu, đến mức độ nào và
nguyện vọng của cộng đồng thì chƣa đƣợc chú ý đến.
Sở dĩ có vấn đề nhƣ vậy là do chúng ta chƣa có những nghiên cứu khoa
học để thấy đƣợc những tiếng nói của ngƣời dân trong suốt q trình tổ chức
nâng cấp lễ hội. Vì vậy, chúng tơi lựa chọn đề tài: NÂNG CẤP LỄ HỘI

TRUYỀN THỐNG LÀNG BÌNH ĐÀ (Những đa dạng biểu hiện quyền của
chủ thể văn hóa) làm vấn đề nghiên cứu cho luận văn này.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Đánh giá quá trình nâng cấp lễ hội của ngƣời
dân với tƣ cách là chủ thể văn hóa. Ở đây chúng tơi tập trung vào những
ngƣời có ảnh hƣởng đến tiến trình tổ nâng cấp lễ hội và cộng đồng dân làng
Bình Đà. Bên cạnh đó, những ngƣời dân ngồi làng cũng thuộc diện nghiên
cứu của đề tài này.
- Phạm vi nghiên cứu:
Trong luận văn này chúng tôi nghiên cứu lễ hội Bình Đà từ tháng 3 năm
2014 đến nay. Chúng tơi chọn thời gian này nghiên cứu bởi vì từ năm 2014
diễn ra nâng cấp lễ hội Bình Đà.
+ Khơng gian nghiên cứu: Làng Bình Đà và các làng xung quanh Bình Đà.
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu về lễ hội không phải là một đề tài mới. Từ trƣớc tới nay, đã
có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này. Những nghiên cứu của họ có thể
tập hợp và phân loại theo các nhóm sau:
- Nhóm các cơng trình theo khuynh hướng miêu thuật từng lễ hội cụ thể:
khuynh hƣớng sƣu tầm nghiên cứu và miêu thuật từng lễ hội cụ thể là khuynh
hƣớng trội nhất và có số lƣợng các cơng trình nhiều nhất nhƣ các cơng trình
của các tác giả Thạch Phƣơng – Lê Trung Vũ [18], Nguyễn Chí Bền (trƣởng
ban tuyển chọn) [2], Trƣơng Thìn (chủ biên) [24] …. Theo nhóm các tác giả

5

TIEU LUAN MOI download :


tuyển chọn, 212 lễ hội truyền thống đã đƣợc miêu thuật [42]. Điều đáng quan
tâm, các cơng trình trên chủ yếu dừng ở việc miêu thuật và giải nghĩa các lễ

hội chứ chƣa nhấn mạnh vào những phân tích về mối liên hệ của các lễ hội
truyền thống với xã hội đƣơng đại.
- Nhóm cơng trình theo khuynh hướng nghiên cứu sự biến đổi của lễ hội
chủ yếu nhìn nhận theo phƣơng pháp định tính. Một trong những tác giả tiêu
biểu cho khuynh hƣớng này là Đoàn Minh Châu với Cấu trúc lễ hội đương
đại [4], đã khái quát, so sánh về cấu trúc-chức năng giữa lễ hội đƣơng đại và
lễ hội truyền thống; Vũ Ngọc Khánh trong Lễ hội cổ truyền trong q trình
thích nghi với đời sống xã hội hiện đại [37] đã phân tích những biến đổi của
lễ hội truyền thống thích ứng với đời sống mới nhƣ thế nào; Đáng lƣu ý là
năm 1993, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (nay là Viện Khoa học
Xã hội Việt Nam) tổ chức một hội thảo khoa học quốc tế về Lễ hội truyền
thống trong đời sống xã hội hiện đại [12]. Các tác giả tham gia hội thảo này
đã đóng góp nhiều ý kiến về vai trò của lễ hội truyền thống trong xã hội
đƣơng đại, trong đó tác giả Vũ Ngọc Khánh cho rằng lễ hội khơng phải là
một hiện tƣợng văn hóa bất biến mà nó có sự biến chuyển qua thời gian. Sự
thay đổi và tiếp tục của các lễ hội chính là sự hài hồ hố của nó đối với
khơng gian và thời gian nhất định. Năm 2010, hội thảo quốc tế Bảo tồn và
phát huy lễ hội cổ truyền trong xã hội Việt Nam đương đại (trường hợp hội
Gióng), các tham luận tập trung cách thức bảo tồn và phát huy giá trị di sản
trong xã hội đƣơng đại, kinh nghiệm một số nƣớc trên thế giới về vấn đề này.
Đáng chú ý, tác giả Lƣơng Hồng Quang [40] nêu ra các thách thức cho bảo
tồn và phát huy di sản khi thêm các yếu tố mới vào lễ hội truyền thống.
Đánh giá về vai trò của lễ hội đối với sự phát triển của xã hội, về những
giá trị của lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội đƣơng đại, tác giả Ngô
Đức Thịnh trong bài viết Những giá trị văn hoá của lễ hội cổ truyền và nhu

6

TIEU LUAN MOI download :



cầu của xã hội hiện đại [53] cho rằng, trong xã hội đƣơng đại, lễ hội truyền
thống còn giữ năm giá trị cơ bản là 1/ giá trị cộng đồng, trong đó, lễ hội chính
là “sự biểu dƣơng sức mạnh của cộng đồng” và là chất kết dính tạo nên “sự cố
kết cộng đồng”. Lễ hội là mơi trƣờng góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng
mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng [53, tr.7]; 2/ giá trị hướng về
nguồn, đó là nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc cộng đồng, và chính vì vậy, lễ
hội thƣờng gắn với hành hƣơng - du lịch[53, tr.7]; 3/ giá trị cân bằng đời
sống tâm linh, theo đó lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời sống tâm
linh của con ngƣời; 4/ giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa , trong đó, các lễ
hội do nhân dân tự tổ chức, làm tái hiện các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, và
cũng chính bản thân họ là những ngƣời hƣởng thụ các sinh hoạt văn hóa đó
[53, tr.8]; và 5/ giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Lễ hội truyền thống là một bảo tàng sống về văn hóa dân tộc, nhờ đó, nền văn
hóa ấy đƣợc hồi sinh, tái tạo và truyền giao qua các thế hệ.
- Nhóm các cơng trình nghiên cứu về Bình Đà: Nổi bật có tác giả
Nguyễn Dỗn Trƣờng với Miền đất cố Bình Đà [28] với lịch sử hình thành và
phát triển của vùng đất này. Đồng thời tác giả cũng nêu bật đất và con ngƣời
vùng quê có truyền thống làm pháo nổi tiếng trong lịch sử. Hội làng Bình Đà
của Lê Trung Vũ miêu tả chi tiết về lễ hội làng Bình Đà truyền thống [56,
tr.741-745] . Lễ hội lịch sử ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ của Lê Hồng Lý
(chủ biên) [16] đã trình bày nội dung và ý nghĩa của lễ hội lịch sử. Giới thiệu
một số lễ hội lịch sử ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ trong đó có Lễ hội thờ
Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đỗ Thị Hoa Thủy với Thử nghiệm tiếp cận nhân
loại học văn hóa trong nghiên cứu lễ hội thơng qua lăng kính chủ thể: Trường
hợp lễ hội làng Bình Đà 2003 [55] và Nguyễn Tiến Dục với Biến đổi cơ cấu
kinh tế xó hội ở làng Bình Đà – Hà Tây trong thời kỳ 1994 – 1998 [33] là hai
nghiên cứu với những khái quát tình hình cơ cấu kinh tế xã hội tại địa phƣơng

7


TIEU LUAN MOI download :


và mô tả ban đầu về lễ hội tại đây. Đáng chú ý là khóa luận tốt nghiệp khoa
Lịch Sử (ĐH KHXH&NV Hà Nội) của Đỗ Văn Cƣờng [32] với “Về việc tu
sửa quần thể di tích đền Nội Bình Đà” là nghiên cứu độc lập về quá trình
trùng tu quần thể Đình Nội ở làng Bình Đà. Việc tu sửa quần thể di tích đền
Nội Bình Đà là một việc làm có tầm quan trọng và ảnh hƣởng rất lớn tới đời
sống văn hóa của nhân dân nơi đây. Cùng với sự phát triển chung của đất
nƣớc, việc tu tạo các di tích lịch sử - văn hóa khi đã bị xuống cấp là rất cần
thiết. Tuy nhiên, việc tu tạo ấy cần phải đƣợc nghiên cứu tỉ mỉ, dù sửa sang lại
mà vẫn giữ đƣợc những nét truyền thống vốn có của nó là thách thức với
nhiều phía tại đây. Gần đây UBND huyện Thanh Oai cho phát hành cuốn sách
Đền Thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân di tích và lễ hội [30] đã giới thiệu tổng thể
về lịch sử và quần thể di tích đền thờ Lạc Long Qn ở bình đà. Bên cạnh đó
cuốn sách cũng giới thiệu lễ hội truyền thống làng Bình Đà là một lễ hội đặc
sắc ở Bắc Bộ. Nhìn chung chƣa có cơng trình nghiên cứu nào nói về những
biến đổi lễ hội ở Bình Đà và các vấn đề liên quan. Các tác giả mới chỉ khái
lƣợc/giới thiệu về Bình Đà trong đó có lễ hội truyền thống-nét đẹp văn hóa
của q hƣơng Thanh Oai.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc tìm hiểu, nghiên cứu quá trình nâng cấp lễ hội và các câu
chuyện xung quanh, những đánh giá, tranh luận học thuật có liên quan. Từ đó,
luận văn phân tích, đánh giá nâng cấp lễ hội có ảnh hƣởng nhƣ thế nào đối với
quyền chủ thế văn hóa.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Quá trình nâng cấp lễ hội ở Bình Đà và ghi nhận những phản ứng/ý
kiến của ngƣời dân về quá trình này.


8

TIEU LUAN MOI download :


- Có những đánh giá dƣới góc nhìn quyền văn hóa và dựa trên ý kiến của
chủ thể văn hóa.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Tác giả luận văn cho rằng: trên một giai đoạn của tiến trình lịch sử, khảo
sát quá trình nâng lễ hội lễ hội truyền thống, quá trình biến đổi, tác động của
bối cảnh xã hội, chúng ta nhìn nhận biến đổi lễ hội thơng qua vai trị chủ thể
văn hóa và quyền văn hóa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Với phƣơng pháp nghiên cứu định tính, một số kỹ thuật của phƣơng
pháp này đƣợc sử dụng để đạt mục tiêu sau:
- Phƣơng pháp phỏng vấn cá nhân nhằm thu thập các phản hồi của ngƣời
dân về nâng cấp lễ hội so với lễ hội truyền thống của họ.
- Phƣơng pháp thống kê: thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu liên quan
đến kinh tế xã hội, văn hóa, lễ hội ở Bình Đà phục vụ cho q trình phân tích
các luận điểm đƣợc trình bày trong luận văn.
- Phƣơng pháp chuyên gia: tham khảo xin ý kiến chuyên gia về các vấn đề có
liên quan đến nâng cấp lễ hội bao gồm chuyên gia của địa phƣơng và trung ƣơng.
- Phân tích tổng hợp: Phƣơng pháp này phải dùng nhiều kiến thức khác
nhau thuộc nhiều lĩnh vực để tập hợp các thông tin tài liệu đã thu thập đƣợc,
xây dựng các vấn đề có liên quan đến lý luận và thực tiễn về lễ hội, nâng cấp
lễ hội và đƣa ra các đánh giá chung trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị
lễ hội.


9

TIEU LUAN MOI download :


6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu (7 trang), Kết luận (02 trang), Tài liệu tham khảo (7
trang), Luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về làng Bình Đà (15 trang)
Chƣơng 2: Thực trạng nâng cấp lễ hội Bình Đà (19 trang)
Chƣơng 3: Những đánh giá quá trình nâng cấp lễ hội Bình Đà (38 trang)

10

TIEU LUAN MOI download :


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN
1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Khái niệm Cộng đồng
Khái niệm cộng đồng xuất hiện vào những năm 1940 tại các nƣớc thuộc
địa của Anh. Đến năm 1950, Liên hiệp quốc công nhận khái niệm phát triển
cộng đồng nhƣ một công cụ để thực hiện các chƣơng trình dự án phát triển
của quốc gia. Về sau này các tổ chức phi chính phủ triển khai nhiều dự án
phát triển kinh tế, xã hội ở các địa phƣơng cần có sự tham gia gia đóng góp
của cộng đồng địa phƣơng thì khái niệm cộng đồng trở nên phổ biến hơn.
Theo Keith và Ary 1998 thì “Cộng đồng là một nhóm người, thường sinh
sống trên cùng một khu vực địa lý, tự xác định mình thuộc về cùng một nhóm.
Những người trong cùng một cộng đồng thường có quan hệ huyết thống hay
hơn nhân, và có thể thuộc cùng một nhóm tơn giáo, một tầng lớp chính

trị”[55, tr.14]. Khái niệm này nhấn mạnh đến các yếu tố con ngƣời, cùng có
một số đặc điểm trong trong mối quan hệ về cƣ trú, địa lý, dân tộc, huyết
thống, văn hóa, tơn giáo,v.v...
Cộng đồng là một trong những khái niệm xã hội học mang nhiều ý nghĩa
khác nhau, đƣợc sử dụng một cách rộng rãi. Theo nghĩa rộng, khái niệm này
dùng để chỉ cộng đồng các quốc gia theo lãnh thổ nhƣ cộng đồng châu Âu,
châu Á... Theo nghĩa hẹp, khái niệm này đƣợc dùng để chỉ một dạng xã hội,
căn cứ vào những đặc điểm tƣơng đối nhƣ sắc tộc, văn hóa, tơn giáo có các
cộng đồng Hồi giáo, cộng đồng ngƣời da đen...và nhỏ hơn nữa nó đƣợc dùng
để chỉ những đơn vị xã hội cơ bản nhƣ làng, xã, gia đình có những đặc điểm
chung về địa lý, văn hóa, lứa tuổi, nghề nghiệp...
Theo giáo sƣ Tô Duy Hợp“Cộng đồng là một thực thể xã hội có cơ cấu
tổ chức, là một nhóm người cùng chia sẻ và cùng chịu sự ràng buộc bởi các

11

TIEU LUAN MOI download :


đặc điểm và lợi ích chung được thiết lập thơng qua tương tác và trao đổi giữa
các thành viên” [7, tr.10].
Để hiểu rõ hơn khái niệm cộng đồng cần phải chỉ ra đƣợc các thành tố
tạo nên cộng đồng. Theo tác giả Tô Duy Hợp và Lƣơng Hồng Quang trong
cuốn “Phát triển cộng đồng: lý thuyết và vận dụng” (2000), đã chỉ ra các yếu
tố cấu thành nên cộng đồng bao gồm1:
- Địa vực: Theo tác giả, địa vực là yếu tố đầu tiên và quan trọng bậc nhất
đƣợc coi là cơ sở để ta xác định ranh giới của cộng đồng để phân biệt cộng
đồng này với cộng đồng khác.
- Yếu tố kinh tế: Yếu tố kinh tế không chỉ đơn thuần là các hoạt động
kinh tế mà mà nó là yếu tố quan trọng về mặt vật chất để duy trì sự tồn tại của

cộng đồng. Đồng thời kinh tế còn là thƣớc đo, là đòn bẩy đánh giá sự phát
triển.
- Yếu tố văn hóa: Đây là yếu tố rất quan trọng để nhận biết cộng đồng,
trong đó đặc biệt chú ý đến các khía cạnh truyền thống, lịch sử, tộc ngƣời, tơn
giáo – tín ngƣỡng, phong tục tập quán, hệ thống giá trị chuẩn mực...
Ở Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm phát triển cộng đồng đƣợc giới thiệu
trong lĩnh vực giáo dục ở các tỉnh phía Nam. Tuy nhiên, hiện nay khái niệm
cộng đồng đang gây nhiều tranh cãi. Bởi nội hàm của từ này trong thực tế
cũng cần đƣợc xem xét cẩn trọng.
Đối với lễ hội hiện nay, cộng đồng/chủ thể văn hóa của lễ hội cần xem
xét lại ở đây là ai? Quan niệm thƣờng thấy về cộng đồng là ngƣời dân trong
làng hoặc địa vực văn hóa diễn ra lễ hội. Tuy nhiên, ở một chừng mực nào đó,
cộng đồng có thể chỉ là 1 cá nhân trong cộng đồng nhiều ngƣời. Ở đây chúng
ta nhìn nhận vai trị cá nhân lớn tới mức ảnh hƣởng đến cả quyết định của
ngƣời dân trong làng và địa vực nơi có lễ hội. Với vị thế nhƣ vậy, khái niệm

12

TIEU LUAN MOI download :


cộng đồng cần đƣợc hiểu và phân tích thấu đáo ở từng trƣờng hợp và hoàn
cảnh khác nhau.
1.1.2. Nâng cấp lễ hội
Những năm gần đây, cụm từ nâng cấp lễ hội đƣợc các phƣơng tiện
truyền thông và các nhà khoa học thƣờng nhắc đến. Các phƣơng tiện truyền
thông cho rằng nâng cấp lễ hội là một quá trình đƣa lễ hội từ nhỏ đến lớn, từ
bình thƣờng trở thành hồnh tráng hóa, với sự tham gia của nhiều thành phần
trong đó có các sự kiện để thu hút khán giả. Quan điểm của một số nhà khoa
học cho rằng nâng cấp lễ hội nhƣ tổ chức một sự kiện [66] hay cho Lễ hội "nâng" đến "cấp" nào? [57] nhƣng trong nhiều trƣờng hợp, việc bổ sung

những yếu tố mới khi tổ chức lễ hội là điều không thể né tránh. Nhƣng điều
quan trọng là phải tìm đƣợc sự dung hịa, tiếp nối với truyền thống. Bên cạnh
đó dù nâng cấp lễ hội với mục đích gì hay với cách làm nhƣ thế nào thì vai trị
của cộng đồng vẫn đƣợc coi trọng, trung tâm của lễ hội. Bên cạnh đó, dù có
thêm các hoạt động các yếu tố của nghệ thuật hiện đại trong lễ hội nhằm thu
hút sự quan tâm của ngƣời dân nhƣng tinh thần, các giá trị của lễ hội phải
đƣợc gìn giữ và phát huy mới đƣợc coi là nâng cấp lễ hội.
Theo quan điểm của TS Đoàn Minh Châu trong Cấu trúc lễ hội đương
đại [4, tr.119-132], chúng tơi sơ đồ hóa cấu trúc lễ hội truyền thống và nâng
cấp lễ hội nhƣ sau:
Bảng 1.1: Nâng cấp lễ hội
Stt
1
2
3

Lễ hội truyền thống

Lễ hội hiện đại (nâng cấp)

Tế lễ: Nghiêm trang, thành kính

Lễ Khai mạc

Đám rƣớc và diễn xƣớng: Náo

Diễu binh, diễu hành

nhiệt, hoành tráng


Sân khấu hóa, diễn xƣớng hiện đại

Vui chơi và ăn uống: Xả hơi

Vui chơi và ăn uống

13

TIEU LUAN MOI download :


Nhìn vào sơ đồ trên có thể thấy q trình nâng cấp lễ hội hiện nay không
thay đổi nhiều về các bƣớc. Sự thay đổi nằm ở hình thức của lễ hội. Về cơ
bản, lễ hội vẫn giữ đƣợc các nghi thức của diễn xƣớng truyền thống. Tuy
nhiên, khi nâng cấp lễ hội, ngƣời ta thƣờng thêm các phần, các tiết mục, các
tích trị nhằm thu hút ngƣời dân vào các hoạt động của lễ hội. Bên cạnh đó, có
thể nhận thấy, xu hƣớng hành chính hóa lễ hội cũng đƣợc xem nhƣ biểu hiện
của nâng cấp lễ hội hiện nay.
Nâng cấp lễ hội hiện nay thƣờng đƣợc hiểu ở phạm vi quy mô của lễ hội
và các hoạt động liên quan đến lễ hội. Ở phạm vi quy mô lễ hội: Một xu
hƣớng phổ biến hiện là nâng cấp từ lễ hội của làng lên thành lễ hội của huyện
của cả vùng. Mục đích của nâng cấp lễ hội này là thu hút sự tham gia của
ngƣời dân trong làng và ngồi làng. Nói cách khác, là nâng cấp lễ hội từ lễ hội
của một cộng đồng nhỏ thành lễ hội của cộng đồng lớn hơn, đông đảo hơn.
Một xu hƣớng nâng cấp nữa của nâng cấp lễ hội hiện nay là thêm các
hoạt động liên quan. Đối với các lễ hội truyền thống có hoạt động đơn điệu thì
nay thêm vào các hoạt động mới nhƣ: đá gà, kéo co, bắt vịt hay lễ tam sinh
(đồ dâng cúng),...làm cho lễ hội ngày càng phong phú hơn nữa và thu hút
nhiều đối tƣợng tham dự vào lễ hội. Thêm vào đó, một xu hƣớng nữa là phục
dựng lại các nghi lễ, các tích trị đã bị mai một của cộng đồng. Đây cũng là

một biểu hiện của nâng cấp lễ hội hiện nay.
Tất cả các xu hƣớng nâng cấp lễ hội này phải có sự chấp nhận của cộng
đồng. Bởi vì họ là ngƣời gìn giữ và tổ chức những hoạt động này trong lai.
Nhƣ vậy, theo chúng tôi, nâng cấp lễ hội là biến đổi quy mô và các hoạt
động liên quan đến lễ hội mà không mất đi bản chất vốn có của lễ hội truyền
thống.
Đối với lễ hội Bình Đà năm 2014, cụm từ nâng cấp lễ hội đƣợc sử dụng
khi lễ hội có thêm nhiều yếu tố mới (chúng tơi xin trình bày cụ thể ở chƣơng

14

TIEU LUAN MOI download :


2). Chẳng hạn nhƣ thêm nghệ thuật đƣơng đại: tiệc ánh sáng 3D, nghệ thuật
thƣ pháp tại sân đình làng Bình Đà. Chính vì vậy nâng cấp lễ hội, việc bổ
sung những yếu tố mới khi tổ chức lễ hội là điều không thể né tránh. Nhƣng
điều quan trọng là phải tìm đƣợc sự dung hịa, tiếp nối với truyền thống. Điều
đó đƣợc thể hiện ở lễ hội Bình Đà năm 2014 khi thêm các yếu tố mới vào
phần hội, không can thiệp vào phần lễ truyền thống của dân làng.
1.1.3. Các quan điểm lý thuyết về bảo tồn di sản
Ở nƣớc ta hiện nay, nhiều nhà quản lý và nhiều học giả có thẩm quyền
trong lĩnh vực di sản ở nƣớc ta vẫn đang bảo vệ và cổ súy cho những quan
điểm bảo thủ đối với bảo tồn di sản và vì thế, những mơ hình bảo tồn di sản
khác với quan điểm trên thƣờng chƣa đƣợc họ chấp nhận nhƣ là một trong
những mơ hình bảo tồn di sản.
Thực ra, những tri thức mới về các mơ hình bảo tồn di sản đã đƣợc phổ
biến trong giới nghiên cứu văn hố ở Việt Nam: Đã có hẳn một luận văn tiến
sỹ trình bày về những vấn đề lý luận này [22].
Ashworth [31]- một học giả có uy tín hiện nay - đã tổng kết từ thực tế

bảo tồn di sản ở nhiều nƣớc trên thế giới thành ba quan điểm và tƣơng ứng
với nó là ba mơ hình bảo tồn di sản:
Bảo tồn y nguyên
Đây là quan điểm dựa trên quan điểm bảo tồn văn hoá vật thể của các
nhà bảo tàng học. Quan điểm này cho rằng, các sản phẩm của quá khứ cần
đƣợc bảo tồn nguyên dạng nhƣ nó vốn có. Quan điểm này phát triển từ năm
1850 và thịnh hành một thời gian dài. Các nhà bảo tàng học nƣớc ta cũng chịu
ảnh hƣởng khá mạnh bởi quan điểm này.
Đối với lễ hội truyền thống - một loại hình văn hố phi vật thể - thì việc
xác định đâu là các yếu tố nguyên gốc sẽ gặp phải những khó khăn. Một mặt,
những thay đổi lịch sử tác động đến sự biến đổi về chức năng của các lễ hội

15

TIEU LUAN MOI download :


dẫn đến biến đổi cấu trúc lễ hội, mặt khác, bất cứ một lễ hội nào cũng tự tích
hợp những yếu tố văn hoá của thời đại hoặc ngoại lai (dù vơ tình hay hữu ý)
để thích nghi với từng thời đại.
Điều quan trọng hơn là: bản chất của truyền thống nói chung và lễ hội
nói riêng là sự lựa chọn và sáng tạo của từng cộng đồng. Các nhà bảo tồn hãy
thử hình dung: Nhiều cộng đồng làng mà lễ hội của họ xƣa kia không đƣợc
đầy đủ lệ bộ, khơng có quy mơ lớn... đã học hỏi những nghi thức, diễn xƣớng
ở những lễ hội khác để làm cho lễ hội làng mình "hồnh tráng" hơn, thu hút
khách thập phƣơng hơn? Chẳng lẽ điều đó là sai? Là không nguyên gốc và
nhƣ thế là di sản nhƣ vậy khơng có giá trị ƣ?
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa
Quan điểm này thừa nhận sự biến đổi của di sản, nhƣng lại cực đoan:
Quan điểm này cho rằng mỗi di sản văn hố có nhiệm vụ lịch sử ở những

khơng gian và thời gian cụ thể, những mặt tích cực của chúng phải đƣợc phát
huy cho phù hợp với nhu cầu thời đại, ngƣợc lại những mặt tiêu cực phải bị
loại bỏ.
Di sản, nhất là di sản văn hoá phi vật thể luôn là một thực thể hữu cơ
không thể chia cắt thành những yếu tố tích cực/tiêu cực; tiến bộ/lạc hậu;
tốt/xấu... Vì thế khi chúng bị chia cắt một cách siêu hình thì lập tức bị biến
dạng và tiêu vong. Thực tiễn ở Việt Nam đã cho thấy, với quan điểm bảo tồn
này nhiều lễ hội chỉ còn lại phần "hội", nhiều hình thái văn hố gắn với tín
ngƣỡng cổ xƣa, nhiều diễn xƣớng dân gian có giá trị bị coi là dị đoan và bị
cấm thực hành. Rõ ràng bảo tồn di sản theo quan điểm này sẽ dẫn đến một hệ
quả tất yếu là nhiều hình thái văn hoá cổ truyền mà dƣới con mắt của ngƣời
đƣơng thời là không phù hợp sẽ bị gỡ bỏ và di sản sẽ khơng cịn tồn vẹn nữa.
Bảo tồn - phát triển

16

TIEU LUAN MOI download :


Chúng tôi lấy quan điểm này làm cơ sở nghiên cứu cho luận văn. Đây là
quan điểm hiện nay đang chiếm vị trí chủ đạo trong giới học thuật cũng nhƣ
giới quản lý văn hoá ở nhiều nƣớc phát triển trên thế giới.
Quan điểm này không bận tâm với việc tranh cãi nên bảo tồn y nguyên
nhƣ thế nào, nên kế thừa cái gì từ quá khứ mà đặt trọng tâm vào việc làm thế
nào để di sản sống và phát huy đƣợc tác dụng trong đời sống đƣơng đại.
Hạt nhân của quan điểm lý thuyết này là khái niệm "tính xác thực" (hay
“tính chân thực”) của di sản (Authenticity of Heritage): Nếu nhƣ các quan
điểm truyền thống cho rằng độ chân thực là cốt lõi của di sản thì ngày nay
ngƣời ta lại đánh giá thấp vai trò của tính chân thực này: Chân thực hay
khơng khơng phải là một giá trị khách quan mà nó đƣợc đo bằng trải nghiệm.

1.1.4. Lý thuyết về Quyền văn hóa
Quyền văn hóa thƣờng đƣợc coi nhƣ kém phát triển trong các vấn đề về
nhân quyền. Thuật ngữ này đã đƣợc chọn làm tiêu đề của cuộc Hội thảo đƣợc
tổ chức vào năm 1991 tại Đại học Fribourg và sau đó nó đã đƣợc chấp nhận
rộng rãi. Nó cho thấy rằng, so với các thể loại khác về quyền con ngƣời: dân
sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa quyền là kém phát triển nhất nhƣ phạm
vi, nội dung quy phạm pháp luật và các biện pháp thực thi có liên quan. Một
cách hiểu đơn giản về Quyền văn hóa thể hiện ở 3 nội dung sau[23]:
Thứ nhất, quyền văn hoá bao gồm quyền được hưởng thụ văn hố hay
nói một cách ngắn gọn, người dân và cộng đồng có quyền địi hỏi được
hưởng thụ các sinh hoạt văn hoá. Văn hoá là sáng tạo và thành tựu của con
người trong quá trình lịch sử và chung sống. Những sáng tạo và thành tựu ấy
của con ngƣời cần đƣợc truyền bá cho mọi ngƣời. Đó là lý do tại sao, ngƣời ta
phải chiếu đi chiếu lại những bộ phim nổi tiếng, phải dịch những cuốn sách
hay ra nhiều thứ ngôn ngữ, phải đƣa các đồn văn hố - nghệ thuật đi lƣu diễn
ở nhiều nơi v.v. Mỗi cộng đồng, mỗi cá nhân đều có quyền đƣợc hƣớng thụ

17

TIEU LUAN MOI download :


văn hoá, và Nhà nƣớc, với tƣ cách là một chính thể, cần đáp ứng những nhu
cầu ấy của cộng đồng và ngƣời dân. Chính vì quyền văn hố này, các hàng
hố văn hố cần có những lơgíc đi riêng, khơng tn theo hồn tồn với các
lơgíc hàng hố thơng thƣờng khác.
Thứ hai, quyền văn hoá là quyền được thể hiện và thực hành văn hố
hay nói cách khác các cá nhân và cộng đồng có quyền được bày tỏ, thể hiện
những sáng tạo mang tính riêng, cá nhân của mình. Đây là một quyền đang
đƣợc rất nhiều quốc gia, tổ chức và các nhà nghiên cứu quan tâm đến, đặc biệt

trong bối cảnh thế giới đề cao tính đa dạng của văn hố lẫn sự lên ngơi của
học thuyết hậu hiện đại.
Trong một xã hội đa dạng, tiếng nói hay sự thể hiện của mỗi cá nhân và
các cộng đồng, dù quan trọng hay ít quan trọng, dù lớn hay nhỏ, cần đƣợc
lắng nghe và tôn trọng. Đây là một bài học mà thế giới đã phải trả giá rất
nhiều cho việc áp đặt những tƣ tƣởng, ý kiến của nhóm đa số, tầng lớp thống
trị xã hội cho những nhóm nhỏ hơn.
Quyền đƣợc thể hiện và thực hành văn hố giúp kích thích tính sáng tạo
của các cá nhân và cộng đồng. Ở trƣờng hợp làng Bình Đà, lễ hội truyền
thống thể hiện rất rõ tính sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng. Các cá nhân
và bản thân cộng đồng tự sáng tạo ra các hoạt động văn hố cho chính mình
(và bản thân họ cũng là ngƣời hƣởng thụ văn hoá ấy). Trong trƣờng hợp nhƣ
vậy, họ có quyền đƣợc thể hiện văn hố của mình, và Nhà nƣớc cần tạo điều
kiện cho họ thể hiện tính sáng tạo đó.
Thứ ba, quyền văn hố là quyền được tôn trọng và thừa nhận các phong
tục, tập quán, lịch sử, hay những sự khác biệt về văn hố.
Do văn hố đƣợc hình thành qua lịch sử và sự thích nghi của con ngƣời
nên nhiều ngƣời cho rằng khơng có văn hố cao và văn hố thấp. Sự tơn trọng
đối với văn hố của mỗi tộc ngƣời, nhóm ngƣời nói chung và mỗi cá nhân nói

18

TIEU LUAN MOI download :


riêng cũng là một phần của quyền văn hoá. Mỗi cá nhân có quyền theo hoặc
khơng theo tơn giáo nào, có quyền theo hoặc khơng theo một phong tục nào,
có quyền đƣợc thừa nhận về sở thích văn hố của mình một cách khơng bị
phân biệt đối xử.
Ở nghiên cứu này, chúng tơi sử dụng lý thuyết Quyền văn hóa nhằm mục

đích nghiên cứu tiếng nói/phản ứng đa chiều của ngƣời dân-chủ thể văn hóa lễ
hội Bình Đà về nâng cấp lễ hội năm 2014. Chúng tôi ý thức đƣợc rằng, ngồi
những giá trị của cộng đồng đƣợc tơn trọng và thừa nhận, ở đâu đó, vẫn tồn
tại cách nhìn nhận áp đặt, đánh giá thiếu khách quan, khơng có cơ sở khoa
học về nâng cấp lễ hội hiện nay.
Nghiên cứu này cố gắng cùng với ngƣời dân địa phƣơng đƣa ra đƣợc
những phản hồi trung thực nhất về lễ hội làng Bình Đà. Ở đây, chúng tơi quan
tâm đến hậu hiện đại luận đối với chủ thể văn hóa và hậu hiện đại luận có liên
quan đến quyền văn hóa của cộng đồng. Từ đó luận giải các vấn đề liên quan
đến ảnh hƣởng của nâng cấp lễ hội đối với cộng đồng và những quyền của họ.
Trong suốt q trình nghiên cứu tại Bình Đà có những hợp tác chặt chẽ
trong suốt quá trình khảo sát và phỏng vấn sâu các các nhân trong cộng đồng
nhằm thấy đƣợc những tiếng nói đồng thuận và mâu thuẫn trong suốt q
trình nâng cấp lễ hội.
May mắn cho chúng tơi khi tham gia nghiên cứu đề tài này là đƣợc
quan sát tham dự từ đầu đến cuối quá trình nâng cấp lễ hội tại làng Bình Đà.
Cùng với những diễn tiến của lễ hội trong suốt năm 2014, quá trình cùng
ngƣời dân tham dự và tất cả các hoạt động nghi lễ và phần hội, cũng nhƣ ý
thức đƣợc quyền tham gia và tiếng nói của ngƣời dân vào tất cả các việc của
làng họ. Từ đây chúng ta mới có đánh giá về mơ hình bảo tồn nào phù hợp
với lễ hội thông qua ý kiến của ngƣời dân/chủ thể lễ hội hiện nay.
1.2. Tổng quan về làng Bình Đà

19

TIEU LUAN MOI download :


Từ trung tâm Hà Nội xuôi chéo qua quận Hà Đông, theo quốc lộ 6
khoảng 3 km, tới Ba La, rẽ trái theo đƣờng 21B (trục đƣờng đi Vân Đình,

Chùa Hƣơng) chừng 7 km qua tổng Xốm là tới Bình Đà.
Làng Bình Đà hiện nay có 7 thơn, bao gồm thôn Thƣợng, thôn Chằm,
thôn Chợ, thôn Chua, thôn Quyếch, thôn Đìa (xóm Phƣợng Trì) và thơn Dộc.
Với diện tích gần 2 km2, Bình Đà phía bắc giáp làng Thanh Lƣơng và Kỷ
Thủy, phía nam giáp thị trấn Kim Bài, phía đơng giáp làng Khê Tang, phía tây
giáp các làng Ninh Dƣơng, Thƣợng Thanh và Đàn Viên. Xuyên giữa làng
Bình Đà là con sông Đỗ Động cổ xƣa, nay thành tử giang, vạch đôi làng thành
Tả ngạn và Hữu ngạn. Trải qua hàng nghìn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc cùng
đất Việt, Bình Đà đã nổi danh là vùng quê nằm giữa một quần thể di tích lịch
sử và văn hóa lâu đời, là cái nôi của những huyền thoại gắn với Quốc Tổ Lạc
Long Quân cùng nhiều vị Thánh hiển linh, đƣợc tôn thờ qua nhiều thế hệ, là
một vùng Địa linh cần đƣợc quan tâm khai thác, nghiên cứu và quảng bá, vinh
danh.
Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, Bình Đà xƣa thuộc địa phận đất
Cổ Nõi - bao gồm cả làng Thạch Bích và làng Bình Đà, sau này làng Thạch
Bích đƣợc tách ra mang tên Kẻ Nõi, cịn Bình Đà mang tên Kựu Đà rồi Bảo
Đà. Nơi đây từng đƣợc nhắc đến trong lịch sử là nơi đóng quân của sứ quân
Đỗ Cảnh Thạc, một vị tƣớng tâm phúc của Ngô Quyền và là nơi dựng thành
lũy của ông trong cuộc “loạn 12 sứ quân” (942 – 967).
Làng Bảo Đà sớm nhất phải có tên từ đầu thời Trần vì vào khoảng
năm 1310, triều Trần Anh Tơng. Nhà sƣ đạo sỹ Nguyễn Bình An (Đức
Thánh Bối) hƣng công tu bổ lại chùa Quảng Nghiêm (tục gọi là So Sở)
thuộc huyện Quốc Oai. Thần tích dẫn ra nhà sƣ có về quê thuộc làng Bối
Khê, Thanh Oai, để lấy cà (cà pháo hoặc cà na) cho thợ ăn cơm, khi đi qua
làng có địa danh là Bảo Đà, đánh rơi một quả xoáy thành giếng Âm, giếng

20

TIEU LUAN MOI download :



này rất tròn và sâu, nƣớc trong (hiện giếng này trƣớc cửa chùa Âm nay đã
xây bao làm thắng cảnh di tích). Chuyện này mang màu sắc Pháp thuật của
Đạo Phật, nhƣng về mặt thời gian thì địa danh Bảo Đà đã có trƣớc thời
Trần Anh Tơng (1293 – 1341) [28, tr. 12-13].
Từ năm 1821, vào đầu triều Minh Mệnh, Bảo Đà mới mang tên Bình Đà.
Tên Bình Đà vừa là tổng, vừa là xã, vừa là làng nhƣng cũng chỉ đƣợc dùng trong
các giấy tờ hành chính, cịn trong dân gian, ngƣời dân vẫn gọi là Bảo Đà. Việc
này do tác động của các giáo sỹ phƣơng Tây khi đến truyền đạo tại đây đã không
thể áp đặt đƣợc Thiên Chúa giáo vào vùng này vì trƣớc đó nơi đây vốn đã sùng
bái đạo Phật, có tới năm chùa thờ Phật trong cùng một làng, đó là các chùa mà
tên Nôm các chùa ấy là: chùa Cả, chùa Gã, chùa Âm, chùa Chợ và chùa Bụt
Mọc. Điều đó cho thấy sức mạnh của đạo Phật đã cắm rễ ở đây không thể lay
chuyển đƣợc, cho nên họ đã dùng áp lực tác động gián tiếp tới vua Minh Mạng
đổi tên Bảo Đà (Bảo vệ đạo Phật, bảo vệ Đức Phật Di-đà) thành Bình Đà để
giảm bớt tính “bảo thủ” của vùng đất Phật này với ý đồ “bình định” đƣợc Bảo
Đà sẽ thuận lợi lớn có tầm quan trọng cho việc truyền đạo Thiên Chúa mà không
vấp phải sự chống đối của ngƣời dân [28, tr.15-16].
Làng Bình Đà gồm 7 xóm (27 giáp). Tên nơm các xóm là xóm Chợ, xóm
Chằm, xóm Thƣợng, xóm Quyếch, xóm Chùa (xóm Chua), xóm Đìa và xóm
Dộc. Làng có nhiều đình chùa: đình Ngoại, đình Nội, chùa Cả (ngày nay chùa
khơng cịn) chỉ còn giếng chùa Cả (còn gọi là giếng Rƣớc Bánh Thủy), chùa
Gã, chùa Âu, chùa Bụt Mọc, đền Quán Ông.… Trong đó, Đức Quốc tổ Lạc
Long Quân đƣợc thờ ở đền Nội. Triều Lý đã có sắc phong ghi rõ: “Lý triều
hiến sắc Thánh tổ tiên vương, nhất bào bách noãn, sinh hậu bách thần, hộ
quốc cứu dân, vạn dân an lạc” [16, tr. 39]. Nghĩa là: “Triều Lý dâng sắc lên
Đức Thánh tổ tiên vƣơng (sinh ra) một bọc trăm trứng, sau đó nở ra trăm
thần, giữ nƣớc cứu dân, trăm họ yên vui”. Đình Ngoại Bình Đà thờ thành

21


TIEU LUAN MOI download :


hoàng làng là Linh Lang Đại Vƣơng – một thủy thần, tƣơng truyền ông là con
trai vua Lý Thái Tông tên là Hoằng Chân, sau khi dẹp giặc Tống, một thời
gian sau ơng bị bệnh qua đời. Ơng đƣợc thờ chính tại đền Voi Phục (một
trong Tứ trấn của Thăng Long – Hà Nội) phía Tây thành Thăng Long cũ, nay
thuộc phƣờng Ngọc Khánh (Ba Đình – Hà Nội). Trong thần phả tại đền Nội
có ghi: “Thần Linh Lang Đại Vƣơng là thủy thần theo tích Lạc Long Quân.
Ngài là con trƣởng thuộc Bộ Hải Âu (thủy phủ) 50 ngƣời con theo Lạc Long
Quân về thủy phủ, sau đó phân đi các nơi đến các miền đồng bằng và hải đảo
chăm lo và khai hóa cho dân (Phân trị) Ngài ở hạ lƣu Hồng Giang vì sự hiển
linh nên qn dân cảm kỳ, lập đền thờ hiệu là LINH LANG ĐẠI VƢƠNG.
Những khi cầu đảo đều có sự giúp sức. Đến đời Lý Thái Tông, đêm nằm
mộng thấy LINH LANG, có đem đơn bái yết xin làm con. Sau đó vua đƣợc
biết trong cung sinh đƣợc đứa con trai tuấn tú thông tuệ, lúc 8 tuổi bị bệnh
đậu mùa và chết hóa thành con Giải vƣợt sơng nƣớc vào Tơ Lịch hóa thân.
Vua rất thƣơng tiếc cho lập đền thờ tại làng Già Kiều. Vua lại phong nguyên
hiệu là LINH LANG ĐẠI VƢƠNG. Từ sự linh ứng của thần, nên có nhiều
gia tặng. Đến đời vua Lê Nhân Tơng vào hai năm Kỷ Tỵ và Canh Ngọ do hạn
hán cầu đảo Ngài có sự linh ứng, nên sắc tặng: “ĐẢO VŨ ANH LINH”; Ngài
còn giúp việc hoạn trừ tai, nên đƣợc tôn là “Nam quốc chi linh thần” Sắc cho
các nơi thờ cúng, tùy thấy sự hiển linh thần trong bốn tối linh. Hƣơng lửa ức
ngàn năm đến nay vẫn gia tặng DIỆU HĨA HIỆP LINH TRỢ THUẬN HỮU
CHÍNH HIỂN PHU HẤP THƢỢNG ĐẲNG TƠN THẦN…”[28, tr. 30-34].
Trƣớc khi đình Ngoại trở thành nơi thờ thành hoàng Linh Lang Đại Vƣơng,
“nơi đây đã từng là đền thờ Thái sƣ Nguyễn Nỏ tức là Lý Long Cảnh hay Lý
Lang Công, em thứ 3 của Đế Minh, chú của Kinh Dƣơng Vƣơng.
Tại đình Ngoại trong văn tế có đoạn: “Lý triều truy phong Đại vƣơng

Linh Lang, húy Hoằng chân Hùng Uyên Hoằng Hiệp” cùng một bức Hoành

22

TIEU LUAN MOI download :


×