ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN HỮU ĐỊNH
NGHIÊN CỨU VĂN BẢN VÀ GIÁ TRỊ CỦA PHẦN “NHO
GIÁO” TRONG TÁC PHẨM “ĐẠO GIÁO NGUYÊN
LƯU” CỦA NHÀ SƯ AN THIỀN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số: 60 22 40
Người hướng dẫn: PGS. Trần Nghĩa
HÀ NỘI - 2008
TIEU LUAN MOI download :
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................
PHẦN NỘI DUNG ............................................... Error! Bookmark not defined.
Chương I: Nhà sư An Thiền và lý do ra đời của cuốn “Đạo giáo nguyên lưu”.
1.Tiểu sử An Thiền. .............................................. Error! Bookmark not defined.
1.1. Cuộc đời của nhà sư An Thiền. .................... Error! Bookmark not defined.
1.2. . Sự nghiệp của nhà sư An Thiền
Chương II: Nghiên cứu văn bản phần “Nho giáo” trong cuốn “Đạo giáo
nguyên lưu”. ......................................................... Error! Bookmark not defined.
1. Giới thiệu khái quát văn bản “Đạo giáo nguyên lưu”. .................................
2.Văn bản phần Nho giáo. .................................................................................
3. Bảng sắp xếp phân loại các đề mục trong phần Nho giáo.
4.Tiểu kết. ...........................................................................................................
Chương III: Nghiên cứu giá trị của phần “Nho Giáo” trong cuốn “Đạo giáo
nguyên lưu”. .......................................................................................................
1. Đây là cuốn sách “cơng cụ” xét về tính chất và giá trị sử dụng của nó. ......
2. Các chủ đề chính được trình bày trong phần “Nho giáo” của cuốn “Đạo
giáo nguyên lưu”. ...............................................................................................
3. Những hạn chế của cuốn “Đạo giáo nguyên lưu”. ........ Error! Bookmark not
defined.
4. Ý nghĩa của tác phẩm đối với ngày nay ........................................................
5. Tiểu kết. ..........................................................................................................
PHẦN TỔNG KẾT ............................................................................................
TIEU LUAN MOI download :
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với tinh thần “tơn trọng những ý kiến khác biệt” (Tổng bí thư Nông Đức
Mạnh tuyên bố ngày 24 tháng 01 năm 2006), ngày nay, chúng ta đặc biệt là thế
hệ trẻ cần mở rộng tầm hiểu biết của mình sang những lĩnh vực mà trước đây, vì
lý do này khác, chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu. Trong lĩnh vực Hán Nơm phải
chăng lớp người đương đại chúng ta đang cịn cảm thấy xa lạ đối với văn hoá
Nho, Phật, Lão đã có một bề dày lịch sử hàng mấy nghìn năm ở nhiều nước
phương đông, kể cả Việt Nam. Riêng ở Việt Nam, văn hoá Nho, Phật, Lão đã du
nhập từ rất sớm, dần dần được người nước ta tiếp nhận, đồng hố và phát triển
qua các thời kì lịch sử và biến chúng thành một bộ phận khăng khít trong truyền
thống văn hoá dân tộc. Đấy là lý do vì sao Bác Hồ, vị lãnh tụ tơn kính của chúng
ta lại nêu cao sự nghiệp của Thích Ca, Khổng Tử. Nhân dân ta luôn dành nhiều
thiện cảm cho ông bụt, ơng tiên trong các câu chuyện cổ xưa…Vậy thì, để hiểu
sâu truyền thống văn hố Việt Nam, ta khơng thể bỏ qua văn hoá Nho, Phật,
Lão. Đây cũng là lý do trước tiên thôi thúc chúng tôi đến với Đạo giáo nguyên
lưu của An Thiền.
Mặt khác, tôn giáo cũng là một văn hố, cần tìm hiểu nghiên cứu nó trước
hết như là một văn hoá. Quả thực do nhiều nguyên nhân, thế hệ chúng ta ngày
nay, trừ một số nhà chun mơn, cịn lại rất ít người hiểu về Nho, Phật, Lão,
trong khi đó cả ba giáo này đều nằm ngay trong lịng văn hố dân tộc, bên cạnh
các yếu tố khác như tinh thần yêu mến, coi trọng độc lập tự do… Đó là một thiệt
thịi lớn của thế hệ trẻ ngày nay, đặc biệt là trong thời buổi hội nhập toàn cầu
hiện nay.
Nhưng Đạo giáo nguyên lưu vốn dĩ là một bộ sách có dung lượng lớn
(558 trang) luận bàn về nhiều vấn đề có thể nói là rất cao siêu (thuộc các lĩnh
1
TIEU LUAN MOI download :
vực tư tưởng triết học), có tầm bao quát cực kì rộng (Nho, Phật, Lão), cho nên
chúng tơi, với khả năng cho phép, cũng như yêu cầu của một luận văn Cao học,
chỉ có thể chọn một phần trong đó làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp, ấy là
phần “Nho giáo” tức Quyển Trung trong tổng số gồm ba phần của tác phẩm,
nhưng trên thực tế “rút dây động rừng” phần “Nho giáo” này cũng đụng chạm
tới rất nhiều vấn đề của phần “Phật giáo” trong Quyển Thượng và phần “Đạo
giáo” trong Quyển Hạ.
Cịn một lý do nữa khích lệ tôi đến với đề tài này là nghiên cứu tốt văn
bản và giá trị của Đạo giáo nguyên lưu, tôi sẽ có dịp để nâng cao trình độ Hán
Nơm của mình, nhất là kĩ năng giải mã một văn bản Hán Nôm, chuẩn bị tốt hơn
nữa cho việc nghiên cứu Hán Nôm của tôi về lâu về dài.
2. Lịch sử vấn đề
Đạo giáo nguyên lưu không phải mà một bộ sách chuyên luận về Nho,
Phật, Lão, tác bàn về nguồn gốc và sự phát triển của ba giáo, cũng như mối quan
hệ giữa chúng với nhau, như đầu đề sách có thể đưa người ta đến một cách hiểu
như thế. Mà xét về thực chất, đây thuộc loại sách công cụ, nhằm giúp cho độc
giả học tập, tra cứu về các vấn đề cốt yếu của Nho, Phật, Lão, cùng sự đụng độ
và hỗn dung của chúng qua lịch sử (tức vừa đấu tranh vừa hợp tác).
Từ trước tới nay, có một số cơng trình nghiên cứu đề cập tới vấn đề này
nọ của Đạo giáo nguyên lưu, như: “Một số vấn đề quan hệ văn học Việt NamTrung Quốc dưới thời Trung Đại” của Phó giáo sư Trần Nghĩa, Lịch sử Phật
giáo Việt Nam…, nhưng quả thật chưa có ai nghiên cứu tác phẩm này như một
loại sách công cụ học tập và tra cứu về Nho, Phật, Lão.
Do vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi lần này có thể xem như là đầu
tiên.
3. Đối tượng nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luân văn là nghiên cứu văn bản và đánh giá giá
trị phần Nho giáo của cuốn “Đạo giáo nguyên lưu” của tác giả nhà sư An Thiền.
2
TIEU LUAN MOI download :
Để làm rõ vấn đề này chúng tôi sẽ tiến hành lập bảng thống kê đánh giá văn bản
và giá trị của phần Nho giáo trong tác phẩm “Đạo giáo nguyên lưu”.
b. Phạm vi nghiên cứu
Tư liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là cuốn „Đạo
giáo ngun lưu”, ngồi ra chúng tơi cũng có tham khảo một số sách như Tứ
thư, Ngũ kinh, “Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu”, “Lịch sử Phật giáo Việt
Nam giai đoạn thế kỉ XIX”, “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm”, các bài viết:
“Thử phân loại Nho học Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử” của Phó giáo sư
Trần Nghĩa, “Một số vấn đề quan hệ văn học Việt Nam-Trung Quốc dưới
thời Trung Đại” của Phó giáo sư Trần Nghĩa và một số bài viết liên quan
khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp liên nghành: Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng
kết hợp các phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như văn
bản học, sử học, văn học… Mỗi ngành khoa học có những phương pháp
riêng, mỗi phương pháp có những ưu điểm riêng, chúng hỗ trợ, bổ sung
cho nhau. Điều đó đã giúp chúng tơi tiến hành nghiên cứu được thuận lợi
hơn, linh hoạt hơn.
- Phương pháp khảo sát thống kê: Chúng tơi dùng phương pháp này trong
q trình khảo sát văn bản “Đạo giáo nguyên lưu” để từ đó đưa ra được
những nhận định cơ bản nhất về hiện trạng văn bản cho đến thời điểm
hiện tại.
- Phương pháp dịch chú: Trước khi đi vào tìm hiểu các vấn đề, chúng tơi
tiến hành dịch tồn bộ phần Nho giáo trong cuốn “Đạo giáo ngun lưu”.
Trong q trình đó chúng tôi cần phải dùng đến các thao tác văn bản
học như phiên âm Hán Việt, dịch nghĩa, chú thích…
- Phương pháp phân tích so sánh: Chúng tơi dùng phương pháp này để làm
rõ hơn các vấn đề trong “Đạo giáo nguyên lưu”.
5. Nhiệm vụ của luận văn
3
TIEU LUAN MOI download :
- Tìm hiểu những nét chính về con người và cuộc đời cũng như sự nghiệp
của nhà sư An Thiền.
- Xác định một số đặc điểm về mặt văn bản học của cuốn “Đạo giáo
nguyên lưu” như thời gian in ấn, người biên tập hiệu đính, người đề tựa,
sự giống và khác nhau giữa các bản in…
- Lập bảng thống kê có chia nhóm, phân loại các nội dung trong phần Nho
giáo của cuốn “Đạo giáo nguyên lưu”.
- Nghiên cứu giá trị của phần Nho giáo trong cuốn “Đạo giáo nguyên lưu”
theo các nhóm trên bảng thống kê.
6. Cấu trúc của luận văn.
A. Phần mở đầu.
1. Lý do, mục đích chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
3. Đối tượng, phạm vi tư liệu nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Nhiệm vụ của luận văn.
6. Cấu trúc của luận văn.
B. Phần nội dung.
Chương I: Nhà sư An Thiền và lý do ra đời của cuốn “Đạo giáo nguyên
lưu”.
1. Tiểu sử của nhà sư An Thiền.
Cuộc đời sự nghiệp của nhà sư An Thiền.
Sự nghiệp nghiên cứu, biên soạn, biên dịch… của nhà sư An Thiền.
2. Lý do biên soạn cuốn “Đạo giáo nguyên lưu”.
3. Tiểu kết.
Chương II: Nghiên cứu văn bản phần “Nho giáo” trong cuốn “Đạo giáo
nguyên lưu”.
1. Giới thiệu khái quát văn bản “Đạo giáo nguyên lưu”.
2. Văn bản phần “Nho giáo”.
3. Bảng sắp xếp, phân loại theo chủ đề các đề mục trong phần “Nho giáo”.
4
TIEU LUAN MOI download :
4. Tiểu kết.
Chương III: Nghiên cứu giá trị của phần “Nho giáo” trong bộ sách “Đạo
giáo nguyên lưu”.
1. Đây là loại sách “cơng cụ”, xét về mặt tính chất và giá trị sử dụng của nó.
2. Các chủ đề chính được trình bày trong phần “Nho giáo”.
Các đề mục liên quan tới “Nho giáo”.
Các đề mục liên quan tới “Nhân” trong tư tưởng của Nho giáo.
Các đề mục liên quan tới “Lễ” trong tư tưởng của Nho giáo.
Các đề mục liên quan tới “Hiếu” trong tư tưởng của Nho giáo.
Các đề mục liên quan tới “Đạo trị quốc” của Nho giáo.
Các đề mục liên quan tới Phật giáo.
Các đề mục liên quan tới Lão giáo.
Các đề mục liên quan tới mối quan hệ của ba giáo.
Sự đối thoại giữa Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo
Xu thế “tam giáo đồng nguyên”.
Các đề mục có nội dung khác.
3. Những hạn chế của tác phẩm.
4. Ý nghĩa của tác phẩm đối với ngày nay.
5. Tiểu kết.
C. Phần kết luận.
5
TIEU LUAN MOI download :
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Nhà sư An Thiền và lý do ra đời của cuốn “Đạo giáo
nguyên lưu”.
1.
Tiểu sử An Thiền.
1.1.
Cuộc đời của nhà sư An Thiền.
Hoà thượng An Thiền cịn gọi là Phúc Điền hồ thượng, lúc tại gia họ Võ,
người thôn Bạch Sam tổng Bạch Sam, huyện Sơn Minh phủ Ứng Hoà, Hà Nội.
Hoà thượng sinh vào tháng 7 năm 1784, mất ngày 16 tháng 11 năm 1863, hoà
thượng sống tu đạo suốt ba triều vua nhà Nguyễn: Minh Mệnh (1820-1840),
Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883).
Năm 12 tuổi, ông xuất gia tới chùa Đại Bi xã Thịnh Liệt, huyện Thanh
Trì, Hà Nội. Năm 20 tuổi, đến trụ trì tại chùa Pháp Vân, huyện Phù Ninh. Năm
Minh Mệnh thứ 21, được sự bảo trợ của tổng đốc Nguyễn Đăng Giai ơng tới trụ
trì chùa Đại Giác xã Bồ Sơn, huyện Quế Giang, tỉnh Bắc Ninh. Tại đây Hòa
thượng bắt đầu biên soạn và ấn tống kinh sách. Phần lớn những tác phẩm kinh
Phật do Hòa thượng biên soạn hoặc hiệu đính đều khắc in vào thời gian này.
Đáng tiếc ngơi chùa này hiện khơng cịn.
Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), ơng tới trụ trì chùa Phú Nhi, huyện Phúc
Thọ, Sơn Tây.
Năm Thiệu Trị thứ 6 (1848), được sự giúp đỡ của tổng đốc Hà Nội
Nguyễn Đăng Giai, Hòa thượng đứng ra kiến tạo chùa Liên Trì huyện Thọ
Xương, Hà Nội, qui mô chùa to lớn bậc nhất Hà Thành lúc bấy giờ. Đồng thời
Liên Trì cũng trở thành trung tâm in ấn kinh sách. Ngày nay ngơi chùa khơng
cịn nữa. Theo các nhà Hà Nội học cho biết, chùa Liên Trì nằm ở khu vực Bưu
6
TIEU LUAN MOI download :
điện Hà Nội. Hiện nay bên bờ hồ Hoàn Kiếm cịn lại ngơi tháp Hịa Phong, vốn
là di tích của chùa Liên Trì.
Năm Tự Đức thứ 7 (1854), Hồ thượng nhận lời mời của sư tổ Phổ Minh,
sang kế tục trụ trì chùa Liên Phái. Từ đó hồ thượng đứng ra tổ chức tôn tạo lại
chùa, khiến cho chùa được qui mô, khang trang lộng lẫy. Cho đến ngày nay, các
tọa điện thờ trong chùa Liên Phái dường như vẫn được bảo tồn ngun vẹn.
Đặc biệt trong chùa cịn bảo lưu được kho ván khắc in kinh lớn nhất hiện nay.
Năm 1996, số ván khắc này đã được đưa về nơi cất giữ ở kho sách Viện Nghiên
cứu Hán Nôm – Hà Nội.
Trong quá trình tu tập nghiên cứu của mình, hồ thượng cịn lui tới nhiều
chùa khác như chùa Báo Thiên, chùa Địa Linh (Tây Hồ), chùa Hàm Long (Hà
Nội), Chùa Hàm Long và chùa Thiên Phúc Bắc Ninh.
Trong thời Minh Mệnh (1820-1840), Hoà thượng Phúc Điền được triệu về
kinh đơ Huế tham dự kì hiểm hạch về ý nghĩa của kinh tạng, đã được triều đình
cấp cho giới đao và Độ điệp, cho phép chiêu tập đệ tử và hoằng dương Phật
pháp. Cũng nhờ có điều này mà Hồ thượng có điều kiện biên soạn sách vở diễn
giải kinh Phật và in ấn nhiều loại kinh sách.
Hiện đang có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh lý lịch của nhà sư
An Thiền hay còn gọi là Phúc Điền hoà thượng. Trong sách Viê ̣t Nam Phâ ̣t giáo
sử luâ ̣n , Nguyễn Lang đã tách rời Phú c Điề n và An Thiề n là hai thiề n sư khác
nhau và đề u không rõ lai lich
̣ , thâ ̣m chí trong sách Lich
̣ sử Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam
của Viện Triết học lại cho rằng An Thiền là đệ tử của Phúc Điền hoà thượng
:
“An Thiền (năm sinh và năm mất chưa rõ) là người họ Nguyễn, trụ trì chùa Đại
giác, làng Bồ Sơn tỉnh Bắc Ninh (Hà Bắc), ơng là học trị tin cậy của Phúc
Điền…” (Lịch sử Phật giáo Việt Nam - Viện triết học trang 404) Cũng từ đó
mơ ̣t sớ sách về lich
̣ sử Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam như Th
iề n sư Viê ̣t Nam của Thić h
Thanh Từ..., đều dẫn theo nhìn nhận lầm lẫn . Trước đây, học giả Trầ n Văn Giáp
trong sách Tim
̀ hiể u kho sách Hán Nôm cho biế t Phúc Điề n và Sa Môn An Thiề n
là một người : "nhà sư An Thiền ở chùa Đại Giá c đươ ̣c phong là Phúc Điề n Hoà
thươ ̣ng giải âm sách Khoá Hư ". Các thư tịch hay văn bia do hoà thượng soạn
7
TIEU LUAN MOI download :
hay các đê ̣ tử soa ̣n đề u ghi đủ pháp hiê ̣u cũng như sắ c phong Đao điê ̣p
, như bia
chùa Thày (Quố c Oai-Hà Tây) cho biế t "Nam mô Phổ Minh tháp tứ ấ t mùi khoa
Độ điệp Phúc Điền Hồ thượng Thích M ật Nhân hiệu An Thiền tổ sư " (Nam Mô
Phổ Minh tháp , tổ sư An Thiề n Thić h Mâ ̣t Nhân là Hoà thươ ̣ng Phúc Điề n đươ ̣c
ban Giới đao đô ̣ điê ̣p khoa thi năm ấ t Mùi -1835); Các bia chùa Đại Quang (Sơn
Tây-Hà Tây), bia chùa đa ̣i Giác (Quế Võ -Bắ c Ninh), bia chùa Thiên Quang (Phú
Thọ) đều khắc đầy đủ là An Thiền Phúc Điền Hoà thượng
. Lại theo chú thích
dưới bài kê ̣ ngài 70 t̉ i thì An Thiề n là h iê ̣u cũ , còn pháp hiệu của ngài là Mật
Nhân. Các thư tịch khác như sách và bia chí đều ghi hiệu An Thiền
, có lẽ pháp
hiê ̣u Mâ ̣t Nhân đươ ̣c đă ̣t về sau khi Hoà thươ ̣ng đã nhiề u tuổ i . Trong các thư tich
̣
và bi a chí do Hoà thượng soạn đều ghi rằng Giới đao độ điệp là Hoà thượng
Phúc Điền pháp hiệu là An Thiền thuộc thiền phái Lâm Tế
. Trong bài tiểu dẫn
của bộ sách “Đạo giáo nguyên lưu” có ghi: “Thiệu trị ngũ niên tuế thứ Ất tị Bồ
Sơn đại giác thiền tự lâm tế pháp phái độ điệp phúc điền hoà thượng sa môn An
Thiền tuyển.” Tạm dịch là: “Năm Thiệu Trị thứ năm (Ất tị), Bồ Sơn đại giác
thiền tự phái Lâm Tế Pháp, độ điệp Phúc Điền hoà thượng pháp hiệu An Thiền
tuyển chọn”. Lại trong bài đề tựa của Nguyễn Đại Phương có ghi rằng: “Bản
niên chung độ điệp Phúc Điền Hồ thượng, trụ trì Phúc Xá đại quang thiền tự
Nguyễn An Thiền trì sở tuyển Tam giáo quản khuy lục tam chiết, cái tự vu dư.”
Tạm dịch là: “Mùa đông năm nay, nhà sư Nguyễn An Thiền được ban độ điệp
pháp danh Phúc Điền Hồ thượng trụ trì chùa Phúc Xá Đại Quang Thiền Tự
cầm ba tập Tam giáo quản khuy do ông chọn chép thành, tới xin ta đề tựa.” Từ
những chứng cứ trên, chúng tôi nhận định, An Thiền và Phúc Điền là một người.
1.2. Sự nghiệp của nhà sư An Thiền
An Thiền là thiề n sư có ảnh hưởng rấ t lớn đố i với Phâ ̣t giáo nước ta từ
trước tới nay , An Thiền đã đào tạo ra nhiều cao tăng có tài đức đương thời ,
ngồi ra cịn dựng xây chùa chiền khắp miền Bắc và biên soạn san khắc các
chuyên đề về lic̣ h sử Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam cũng như các kinh sách nô ̣i điể n Tam
tạng.
8
TIEU LUAN MOI download :
Trải qua ba triều vua nhà Nguyễn với 80 năm t̉ i đời , Hồ thượng Phúc
Điề n đươ ̣c trơ ̣ duyên của tin
́ thí thâ ̣p phương
, đă ̣c biê ̣t là Tổ ng đố c Hà Ninh
Nguyễn Đăng Giai đã cho dựng nhiề u chùa chiề n ở khắ p nơi như chùa Bồ Sơn
Đa ̣i Giác (1840) ở Bắc Ninh , chùa Đại Quang (1843) ở Sơn Tây , chùa Liên Trì
Hải Hội (1847), chùa Liên Phái (1854) ở Hà Nội , chùa Thiên Quang ở Phú
Thọ,...Các chùa d ựng lên mời ngài trụ trì
và dẫn dắ t tăng tài , tạo điều kiện để
ngài biên soạn kinh sách và ấn tống . Qua mấ y mươi năm tu trì, Hồ thượng đã
dẫn dắ t nhiề u tăng đồ sau này thành tổ sư các chùa lớn
tiếp nối chỉ của thiền sư
làm cho thiền môn ngày càng phát triển. Các cao tăng được ngài dẫn dắt như
Thiề n sư Thông Huyề n ở chùa Hàm Long (Quế Võ -Bắ c Ninh) sau là tổ đời thứ 7
của chùa này ; Đa ̣i sư Chiêu Thố ng là tổ thứ
4 chùa Sùng Phúc Tam Huyền
(Thanh Trì -Hà Nội ); Đa ̣i sư Phổ Thiên (Phú Xuyên -Hà Tây ), sau tiế p nố i chí
thầ y mà san khắ c kinh kê ̣ , nay ở chùa Đa Bảo vẫn còn lưu ; Thiề n sư Lan Hương
chùa Thày (Quố c Oai-Hà Tây), ngài đã tu tạo chùa Thầy thêm đẹp , khắ c bia ghi
nhớ công thầ y hiê ̣n còn ở am Hiể n Thuy ̣ ,...
Lúc cịn sống, Hồ thượng chun tâm vào việc tìm hiểu nghiên cứu kinh
điển Phật giáo. Hiện nay, số tác phẩm do Hồ thượng biên soạn, biên dịch, hiệu
đính, khắc in có đến hàng chục bộ, có thể chia ra làm ba loại:
* Sách chữ Hán hiện còn:
- Tam bảo hoằng thơng.
- Đạo giáo ngun lưu (cịn gọi là Tam giáo quản khuy).
- Thiền uyển kế đăng lược lục.
- Tại gia tu trì Thích giáo ngun lưu.
- Phóng sinh giới sát văn.
- Hiệu đính Phật tổ thống kỷ.
* Biên dịch, tức là diễn ra Quốc âm:
- Sa di luật nghi giả âm.
- Tam giáo nhất nguyên giả âm.
9
TIEU LUAN MOI download :
- Hộ pháp luận diễn âm.
- Thái căn đàm diễn âm.
* In ấn các bộ:
- Kinh Hoa Nghiêm.
- Kim Cương Di Đà kệ chú chân kinh.
- Vô Lượng Thọ kinh.
- Đại phương tiện Phật giáo báo ân kinh chú nghĩa.
- Giải hoặc biên.
Phúc Điền Hoà thượng sống trải qua ba triều vua nhà Nguyễn , gắ n bó với
sự hưng thinh
̣ và suy vong của mô ̣t triề u đa ̣i . Hồ thượng là một Thiền sư , mơ ̣t
dịch giả, mô ̣t nhà nghiên cứu , mô ̣t tác gia văn ho ̣c , công quả của ngài có ý nghĩa
to lớn đớ i với thế hê ̣ tăng môn các đời và còn ảnh hưởng tới văn hoá đấ t Viê ̣t
ngày nay.
2. Lý do biên soạn tập sách “Đạo giáo nguyên lưu”.
Nhà Nguyễn Tây Sơn, trong một giai đoạn ngắn đã chấm dứt tình trạng
Nam, Bắc phân tranh và thống nhất sơn hà về một mối. Nhưng chẳng bao lâu,
Nguyễn Phúc Ánh diệt được Nguyễn Tây Sơn, thu hồi lại đất nước và mở đầu
cho triều Nguyễn, lấy niên hiệu là Gia Long.
Trong giai đoạn này, nước ta sống trong cảnh chiến tranh thường trực, ít ai
có thì giờ nghĩ đến chuyện chấn hưng đạo đức tôn giáo. Phong trào đấu tranh
của nhân dân chống lại giai cấp thống trị diễn ra suốt từ đầu nhà Nguyễn cho tới
những năm năm mươi của thế kỉ 19, theo tính tốn của các nhà nghiên cứu, dưới
thời Nguyễn có tới năm trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ.
Nho giáo dưới thời kì này trở nên suy yếu, đạo thống bị băng hoại. Nho
giáo thể hiện sự bất lực trước thời đại, khơng cịn là động lực phát triển của xã
hội. Từ giữa thế kỉ 18, tình hình giáo dục ngày càng sa sút, chúa Trịnh cho các
thí sinh kì thi Hương nộp ba quan, gọi là tiền thông kinh miễn khảo hạch, khiến
cho việc thi cử càng trở lên lộn xộn, người hiền tài mười phần không thi đỗ được
10
TIEU LUAN MOI download :
một hai. Dưới triều nhà Nguyễn có khơi phục lại được phần nào, nhưng nhìn
chung, Nho giáo khơng cịn giữ được vị trí như trước đây.
Đạo Phật trong thời kì đầu nhà Nguyễn dần được khôi phục, chùa chiền
được xây dựng lại, tuy nhiên đạo Phật trong lòng người dân ngày càng trở nên lu
mờ: "...Ðến đây, từ vua quan cho đến thứ dân, ai ai cũng cho rằng đạo Phật là
ở sự cúng cấp, cầu đảo, chứ không biết gì khác nữa. Và phần đơng họ chỉ trọng
ơng thầy ở chổ danh vọng, chức tước, mặc dù ông ấy thiếu học, thiếu tu. Bởi tệ
hại ấy, tăng đồ trong nước lần lấn vào con đường trụy lạc, cờ bạc, rượu chè
đắm trước thanh sắc…” (Việt Nam Phật giáo sử lược. Chương 9: Phật giáo
trong thời kì cận đại (triều Nguyễn). Tác giả Thích Mật Thể).
Trước sự xuống cấp về mặt học thuật cả về Nho giáo lẫn Phật giáo và Lão
giáo, người đời sau khơng cịn hiểu sâu về những sách vở của người đi trước,
đọc mà không thông hiểu ngữ nghĩa câu cú. Yêu cầu có một tập sách có thể giúp
người đời sau hiểu được những vấn đề cơ bản nhất của tam giáo, thông hiểu
được những vấn đề gặp phải trong quá trình đọc các sách khác.
Nhân lúc đọc các sách của Bách gia Chư tử, nhà sư An Thiền đã ghi chép
lại những kiến thức cơ bản, những vấn đề hay trong các sách đó biên tập thành
tập sách “Đạo giáo nguyên lưu”, với mục đích cung cấp cho các đệ tử và người
đời sau hiểu được các kiến thức cơ bản, tiện bề tra cứu và học tập. Trong “Tiểu
Dẫn” đầu tập sách có đoạn viết:
“…因 夏 安 居 時, 遊 釋 海 之 汪 洋, 玩 儒 林 之 浩 蕩, 會 歸 源 于 一
派 者 也. 先 覽 疏 經 造 論, 有 引 花 梵 名 義 者, 有 引 周 孔 老 莊 語 者, 同
異 而 敬 毁 者, 有 新 文 舊 法 者, 有 古 字 今 字 者, 有 善 惡 好 惡 者, 有 義
理 切 要 者, 有 文 字 國 音 者, 有 盤 桓 數 日 而 未 消 一 句 者, 因 而 搜 尋
諸 子 百 家, 采 其 要 約 一 二, 編 集 各 款 分 為 三 卷, 目 曰: 道 教 源 流, 以
便 觀 覽, (…) 初 祖 始 從 萬 法, 終 至 單 傳, 此 其 意 也, 吾 背 學 不 知 句
讀, 書 未 知 邊 旁, 為 僧 行 儀 一 無 所 曉, 曰: 一 心 為 本 萬 行 可 從 而 可
立 哉”
11
TIEU LUAN MOI download :
Phiên âm: “…Nhân hạ an cư thời, du thích hải chi uông dương, ngoạn
Nho lâm chi hạo đãng, hội quy nguyên vu nhất phái giả dã. Tiên lãm sơ kinh tạo
luận, hữu dẫn Hoa Phạn danh nghĩa giả, hữu dẫn Chu Khổng Lão Trang ngữ giả,
hữu đồng dị nhi kính huỷ giả, hữu tân văn cựu pháp giả, hữu cổ tự kim tự giả,
hữu thiện ác, hiếu ố giả, hữu nghĩa lý thiết yếu giả, hữu văn tự quốc âm giả, hữu
bàn hoàn sổ nhật nhi vị tiêu nhất cú giả, nhân nhi sưu tầm Chư tử bách gia, thái
kì yếu ước nhất nhị, biên tập các khoản, phân vi tam quyển, mục viết: Đạo giáo
nguyên lưu, dĩ tiện quan lãm, (…) Sơ tổ thuỷ tịng vạn pháp, chung chí đơn
truyền, thử kỳ ý dã, ngã bối học bất tri cú đậu, thư vị tri thiên bàng, vi tăng hành
nghi, nhất vô sở hiểu, viết: Nhất tâm vi bản vạn hành khả dĩ thứ chi. Ta hồ! Tâm
kí bất nhất, nhi vạn hành khả tòng nhi khả lập tai.
Dịch nghĩa: “…Nhân lúc mùa hạ an nhàn, ngao du biển Phật mênh
mông, chơi nơi rừng Nho bát ngát, hợp quy nguồn về một phái. Trước xem kinh
chú mà tạo ra lời luận bàn, có trích dẫn các tên và nghĩa Hoa, Phạn; Có trích
dẫn lời của Chu Khổng, Lão Trang; Có đồng dị mà kính h, có văn mới phép
xưa, có chữ xưa chữ nay, có thiện ác, có yêu ghét, có nghĩa lý thiết yếu, có văn
tự quốc âm, có câu suy ngẫm mấy ngày mà không thông nghĩa. Nhân đó mà sưu
tầm trong Bách gia chư tử, chọn lấy một hai điều căn bản, biên tập lại các
khoản và chia thành ba cuốn, đề tên là: Đạo giáo nguyên lưu, để tiện xem
đọc(…) Tổ xưa bắt đầu theo vạn pháp, cuối cùng tới đơn truyền ấy là do bởi
phường chúng ta học không biết chấm câu, viết chữ không biết bộ thủ, làm thầy
tăng thực hiện nghi lễ mà khơng hiểu gì cả, cứ bảo rằng lấy một cái “tâm” làm
gốc, cịn “vạn hạnh” có thể xếp vào hàng thứ hai. Than ơi! “Tâm” đã bất nhất
thì “vạn hạnh” sẽ dựa vào đâu mà tạo lập được.”
Đó cũng chính là điều mà nhà sư An Thiền trăn trở trước khi làm làm
cuốn “Đạo giáo nguyên lưu”, trong một thời kì dài suy thối, tăng ni trong các
chùa đều khơng biết chữ, ngữ nghĩa không thông hiểu, chỉ biết truyền lời của
người xưa mà không hiểu biết về ý nghĩa. Điều đó cho thấy, mục đích lớn nhất
để nhà sư An Thiền viết tập sách “Đạo giáo nguyên lưu” là giúp người đời sau
12
TIEU LUAN MOI download :
hiểu được tam giáo từ những vấn đề cơ bản nhất của nó.
Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo trong thời kì đầu tiếp xúc, thỉnh thoảng
có những cuộc đụng độ nhỏ trên các phương diện như tập tục, lễ nghi…mà chưa
có sự đụng độ về mặt tư tưởng, các thời kì tiếp theo bắt đầu xuất hiện sự pha
trộn, hỗn dung tư tưởng của nhau. Cuốn “理 或 論” (Lý Hoặc Luận) của Mâu
Tử tập trung phản ánh cái mà người dân thời đó quan tâm là làm thế nào để
dùng tư tưởng Nho giáo giải thích Phật giáo. Hay ở thế kỉ thứ V, trên đất Giao
Châu xẩy ra cuộc bút chiến giữa Nho giáo và Phật giáo, cuộc tranh luận này đã
cho thấy, thời kì này xu thế gắn kết tam giáo bắt đầu được mọi người chú ý tới.
Đó cũng là tín hiệu khởi đầu cho cuộc hội nhập, hỗn dung các luồng tư tưởng
của các giáo phái. Lấy lý lẽ, tư tưởng của giáo phải này để giải thích cho lý lẽ,
giáo lý của tư tưởng khác đã trở nên phổ biến hơn. Các tăng ni thường viện dẫn
tư tưởng của Nho giáo để giải thích cho tư tưởng của mình, cịn Đạo giáo lại
viện dẫn tư tưởng của Phật giáo để giải thích cho tư tưởng của mình. Tác giả
Hám Sơn Ðức Thanh người Trung Quốc đã chú thích các sách Trung dung Luận ngữ - Ðại học chủ trương dung hòa giữa Nho giáo và Phật giáo, Bộ “Quan
Lão Trang ảnh hưởng luận”(觀 老 庄 影 响 論), “Ðạo đức kinh giải” (道 德 經
解), “Tam kinh luận” (三 經 論) tác giả Hám Sơn Đức Thanh viết nhằm dung
hòa với Ðạo giáo, đồng thời bàn rõ sự dị đồng của tam giáo và đưa ba giáo phái
đến chỗ thống nhất. Tác Giả Hàn Dụ đã viết “Phúc tính thư”(复性书) lấy kinh
Phật để giải thích Nho giáo. Trong bài “tựa” cho “Thiền Tơng Chỉ Nam” Vua
Trần Thái Tông viết: “Các vị sáng lập ra Nho, Phật, Lão, xét cho cùng đều cùng
chung một mục tiêu: Cầu tìm đạo, việc chia tách thành “ba giáo” là cứng nhắc.
Nho Phật Lão là những người bạn đồng hành.” Trong bài “Tiểu dẫn” đầu tập
sách “Đạo giáo nguyên lưu”, An Thiền viết:
“原 夫. 成 住 壞 空之 四 會. 猶 春 夏 秋 冬 之 四 時. 終 而 復 始 無 窮
已 也. 固 世 界 初 成 依 舊 建 立. 聖 人 應 化 隨 機 而 設 教 之. 或 生 于 中
州 邊 地, 或 生 于 此 界 他 方, 或 生 于 前 後 遠 近, 而 門 庭 施 設 不 同. 蓋
13
TIEU LUAN MOI download :
理 勢 所 當 然 也. 或 教 以 出 生 死 路, 或 教 以 身 保 真, 或 教 以 刚 常 倫
理 齊 家 治 國. 有 教 以 士 農 工 商, 有 教 以 射 御 書 數, 有 教 以 堪 輿 風
鑑, 有 教 以 百 工 技 藝. 蓋 聖 人 隨 機 隨 力 隨 時 隨 世 而 設 教 之. 道 本
一 贯 何 有 三 教 而 可 言 哉. 無 對 者 為 一, 有 對 者 為 二…”
Phiên âm:
“Nguyên phù! Thành trụ hoại không chi tứ hội, do xuân hạ thu đông chi tứ
thời, chung nhi phục thuỷ vô cùng dĩ dã, cố thế giới sơ thành y cựu kiến lập,
thánh nhân ứng hoá tuỳ cơ nhi thiết giáo chi, hoặc sinh vu trung châu biên địa,
hoặc sinh vu thử giới tha phương, hoặc sinh vu tiền hậu viễn cận, nhi mơn đình
thi thiết bất đồng, cái lí thế sở đương nhiên dã, hoặc giáo dĩ xuất sinh tử lộ, hoặc
giáo dĩ tu thân bảo chân, hoặc giáo dĩ cương thường luân lý tề gia trị quốc, hữu
giáo dĩ sĩ nông công thương, hữu giáo dĩ xạ ngự thư số, hữu giáo dĩ kham dư
phong lãm, hữu giáo dĩ bách công kĩ nghệ, cái thánh nhân tuỳ cơ tuỳ phương tuỳ
thời tuỳ thế nhi thiết giáo chi. Đạo bản nhất quán hà hữu tam giáo nhi khả ngôn
tai, vô đối giả vi nhất, hữu đối giả vi nhị.”
Dịch nghĩa:
“Vốn ơi! Bốn thời kì Thành, Trụ, Hoại, Không là do bốn mùa xuân hạ thu
đông tạo nên, tới cuối đông rồi trở lại ban đầu cứ thế vô cùng vô tận, cho nên
thế giới mới thành lập xây dựng trên nền tảng của cái cũ, thánh nhân tuỳ cơ ứng
hoá mà lập nên giáo phái, hoặc thánh nhân sinh ở vùng đất Trung Châu, hoặc
sinh ở những nơi ngồi biên giới đó, hoặc sinh ở trước, sau, xa, gần, mà thiết
lập giáo phái khác nhau. Đại khái đó là điều đương nhiên của lý thế vậy. Hoặc
dạy người thoát khỏi con đường sinh tử, hoặc lấy việc tu thân bảo vệ cái chân
thực để truyền dạy, hoặc lấy đạo luân lý cương thường tề gia trị quốc để truyền
dạy. Có giáo phái lấy sĩ nơng cơng thương để truyền dạy, hoặc có giáo phái lấy
phong thuỷ để truyền dạy, hoặc lấy bách công kĩ nghệ để truyền dạy. Đại khái
thánh nhân tuỳ cơ, tuỳ lực, tuỳ thời, tuỳ thế mà bày ra cách giáo hoá. Đạo vốn
nhất qn chứ đâu có tam giáo mà nói vậy. Khơng so sánh đối chứng thì nói là
một, có so sánh đối chứng thì gọi là hai.”
14
TIEU LUAN MOI download :
Điều đó minh chứng cho thấy, một lý do nữa khiến nhà sư An Thiền viết
tập sách “Đạo giáo nguyên lưu” là nhằm nhấn mạnh mục đích cuối cùng của
Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo là phục vụ cho nhân sinh, cho con người. Các
giáo phái không nên bài xích lẫn nhau, cơng kích lẫn nhau như những gì đã diễn
ra trong lịch sử, mà cần có thái độ “cầu đồng tồn dị” để đến với nhau.
Từ thế kỉ 15, 16, tại Trung Quốc lẫn Việt Nam, Công giáo đã tràn vào gây
nên những xung đột lớn. Cả Nho giáo lẫn Đạo giáo, Phật giáo đều cảm nhận
được sự “lấn sân” của Cơng giáo. Trong thời kì này, giới sĩ phu nhất là các tăng
ni đã có những bài phê bình chỉ trích đạo Ki Tơ và các nhà truyền giáo. Cho tới
vụ án “Nam kinh giáo án” và đặc biệt sau sắc lệnh cấm Đạo của vua Ung Chính
nhà Thanh, thì sự xung đột đã đi đến tột đỉnh. Tại Việt Nam, nho gia sau Văn
thân như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, và ngay cả nhóm Tự Lực Văn Ðồn
cũng khơng có thiện cảm gì với Kitơ giáo.
Để chống lại sự xâm nhập của đạo KiTô, dường như cả Nho giáo, Đạo
giáo lẫn Phật giáo đều hiểu rằng, họ cần đoàn kết nhau lại để chống Ki Tô giáo.
Do vậy, tư tưởng tam giáo đồng nguyên đã trỗi dậy với hàng loạt các tác phẩm
chung cho cả ba giáo phái được ra, “Đạo giáo nguyên lưu” của nhà sư An Thiền
cũng nằm trong bối cảnh chung đó. Bỏ qua những sự khác biệt, đoàn kết với
nhau để đương đầu với sự tấn công của Kitô giáo từ phương Tây tràn tới. Đó
cũng chính là một lý do để An Thiền viết tập sách “Đạo giáo nguyên lưu”.
Một lý do khác khiến nhà sư An Thiền viết tập sách “Đạo giáo nguyên
lưu” là nhằm đề cao vai trò của Phật giáo trong xã hội. Trong bài “Tiểu Dẫn”
An Thiền đã nêu lên tính linh diệu của thuyết giáo của Phật:
“夫. 佛 超 出 三 界. 不 生 不 滅 無 去 無 來. 萬 德 周 圓. 五 眼 六 通
自 在. 可 以 生 死 幻 身. 與 佛 為 對 者 哉. 與 夫 天 帝 神 仙. 威 靈 莫 测 妙
化 難 量. 星 羅 碁 布 于 四 方. 雨 施 雲 行 于 八 極. 參 隨 三 寶 管 掌 諸 神.
而 天 堂 享 福.”
“Phù! Phật siêu xuất tam giới, bất sinh bất diệt vô khứ vô lai, vạn đức chu
viên, ngũ nhãn lục thông tự tại, khả dĩ sinh tử huyễn thân, dữ phật vi đối tai, dữ
15
TIEU LUAN MOI download :
phù thiên đế thần tiên, uy linh mạc trắc, diệu hố nan lượng, tinh la kì bố vu tứ
phương, vũ thi vân hành vu bát cực, tham tuỳ tam bảo quản chưởng chư thần,
nhi thiên đường hưởng phúc.”
Dịch nghĩa:
“Ôi! Phật siêu xuất tam giới, không sinh không diệt, vô khứ vơ lai, vạn
đức chu tồn, ngũ quan thơng suốt tự tại. Có thể lấy việc sinh tử khốc vào thân
mà đối chứng với Phật, cùng với thiên đế thần tiên, linh thiêng khó đốn, biến
hố khơn lường, tinh kì bố trí khắp bốn phương, hơ mưa gọi gió thi hành trong
bát cực, cùng theo tam bảo cai quản các thần, mà hưởng phúc nơi thiên
đường.”
Ơng nêu lên lợi ích của giáo hoá Phật giáo: “Phật ở trong nước khiến
người ta minh tâm kiến tính, khơng nên làm mọi điều ác, nên thực hành mọi điều
thiện, như thế thì có ích lớn cho đời. Do đó các vua nhà Nguỵ muốn diệt Phật
mà cuối cùng không thể diệt được. Không diệt được thì có thể dèm pha được
khơng?” (Quyển Thượng. tr 18-19), đề cao phật bằng các huyền thoại như Thích
Ca sinh ra từ hông mẹ, ngày Phật sinh ra mặt trời có hai vịng…Một lý do nữa
khiến An Thiền viết “Đạo giáo nguyên lưu” là chống lại các lời lẽ xuyên tạc các
vị Phật ở các thời đại trước, như phê phán các giai thoại về phù chú của Hồ tăng
có thể làm cho người chết, nhưng khơng thể làm cho Phó Dịch chết (Quyển
Trung, đề mục: Tăng chú truyền Dịch. Tờ 11b), về răng phật khơng cháy nhưng
bị rìu của Triệu Phượng đập tan (Quyển Trung, đề mục: Triệu Phượng Phủ. Tờ
11b)…An Thiền nói: “Những chuyện đó tuy nói về Phật nhưng là có tội với
Phật” (Quyển thượng tờ 19).
Tập sách “Đạo giáo nguyên lưu” do nhà sư An Thiền viết cung cấp
những tư liệu quý giá cung cấp cho các đệ tử của ông và người đời sau hiểu
được những điều căn bản nhất của tam giáo, để bù lấp vào những khoảng trống
về kiến thức tồn tại trong các nhà Nho lẫn các tăng ni trong thời kì đó. Từ đó
cho mọi người thấy Nho, Phật, Lão vốn là cùng một nguồn gốc “Đạo tuy là ba
nhưng mục đích chỉ là một” (Tiểu dẫn), đó là phục vụ cho nhân sinh, cho con
người. Bởi vậy các giáo phái khơng nên cơng kích lẫn nhau mà phải đồn kết
16
TIEU LUAN MOI download :
nhau lại để đương đầu với Kitô giáo du nhập từ phương Tây đang uy hiếp mạnh
mẽ tới vị thế của ba giáo. Tập sách cịn có mục đích hoằng dương Phật pháp, đề
cao Phật giáo, nâng cao vai trò của Phật giáo, sánh vai với Nho giáo đang chiếm
vị trí chủ đạo trong xã hội bấy giờ.
3. Tiểu kết
Nhà Nguyễn thống nhất đất nước , kinh tế chính tri ̣và văn hoá dầ n dầ n ổ n
đinh,
̣ sau mấ y mươi năm la ̣i rơi vào s ự bành trướng của thế lực p hương Tây nước Pháp . Trong giai đoa ̣n đấ t nước nhiề u biế n chuyể n
, đa ̣o Phâ ̣t ở nước ta
cũng dần đi vào suy thoái , lẻ tẻ những ngọn cờ Thiền lâm sáng lên rồi tắt đi
trong bóng đêm chế đô ̣ phong kiế
n. Trong không khí thời đa ̣i có nhiề u biế n
chuyể n , Phúc Điền Hồ thượng là ngọn cờ đầu cho cơng cuộc hoằng dương đạo
pháp, đào ta ̣o tăng tài kế truyề n ma ̣ch đa ̣o , mở rô ̣ng thiê ̣n pháp trong xã hô ̣i ở
mô ̣t thời gian khá dài mà rồ i sau đó các đê ̣ tử , bạn hữu của ông tiếp tục kế thừa
mạch nguồn đó .
Trải qua ba triều vua nhà Nguyễn với 80 năm t̉ i đời , Hồ thượng Phúc
Điề n đươ ̣c trơ ̣ duyên của tin
́ thí thâ ̣p phương đă ̣c biê ̣t là Tổ ng đố c Hà Ninh
Nguyễ n Đăng Giai đã cho dựng nhiề u chùa chiề n ở khắ p nơi
và biên soa ̣n san
khắ c các chuyên đề về lich
̣ sử Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam cũng như các kinh sách nô ̣i
điể n Tam ta ̣ng .
“Đạo giáo nguyên lưu” là một trong những tác phẩm do ông biên soạn
với mục đích cung cấp kiến thức về Nho, Phật, Lão cho người đọc, trên cơ sở đó
tìm sự đồng nhất giữa ba giáo, từ đó nêu lên sự cần thiết chấp nhận cả ba. Ngoài
ra cuốn sách cũng nhằm nâng cao vai trò của Phật giáo trong xã hội, chống lại
những lời lẽ xuyên tạc bài xích Phật giáo.
17
TIEU LUAN MOI download :
Chương II: Nghiên cứu văn bản phần “Nho giáo” trong cuốn “Đạo
giáo nguyên lưu”.
1. Giới thiệu khái quát văn bản “Đạo giáo ngun lưu”.
Đạo giáo ngun lưu cịn có tên gọi khác là Tam giáo quản khuy. Sách
gồm 3 tập, giới thiệu tóm tắt về lịch sử 3 loại tơn giáo lưu hành ở Việt Nam:
Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo. Đặc biệt, sách đã tập trung giải thích những thuật
ngữ chuyên dùng của Phật giáo. Trong thời kỳ chữ Hán cịn thơng dụng, sách
được dùng làm tài liệu giảng dạy trong các trường học của nhà chùa. Sách in
năm Thiệu Trị thứ 5 (1845).Tác giả là Phúc Điền Hoà thượng pháp danh An
Thiền. Người đề tựa sách là Nguyễn Đại Phương tức Nguyễn Đăng Giai làm
chức Binh bộ thượng thư kiêm Đô sát viện hữu ngự sử, tổng đốc Sơn Tây, Hưng
Hoá, Tuyên Quang đẳng xứ địa phương đề đốc quân vụ kiêm lý lương hưởng.
Theo bài tựa đầu cuốn sách thì “Đạo giáo nguyên lưu” là một phần đầu trong
một bộ sách gồm ba phần có tên chung là “Tam giáo quản khuy Lục”(三 教 管
窺 錄 ) (hai phần sau là: Thiền môn kinh chú 禪 門 經 咒, Thiền môn giới luật
uy nghi 禪 門 戒 律 威 儀).
Hiện trong kho sách Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nơm có hai bản
“Đạo giáo ngun lưu” kí hiệu A 2675 và A1825. Nhìn chung hai bản này có
cùng một ván khắc nên khơng có sự khác nhau về văn bản. Bản mang hiệu
A2675 có khổ rộng 33x22. Bản A1825 cũng có khổ rộng 33x22. Tuy nhiên bản
A 1825 được tách rời thành ba cuốn riêng rẽ là: A 1825/1 có nội dung ghi chép
về Phật giáo, A 1825/2 có nội dung ghi chép về Nho giáo, A 1825/3 có nội dung
ghi chép về Đạo giáo. Vì lý do đó, chúng tơi lấy bản A 2675 làm căn cứ để tiến
hành nghiên cứu làm luận văn.
Bản khắc ván “Đạo giáo nguyên lưu” có đóng khung, có đề tự, có in số
tờ, mỗi trang có 12 dịng, giữa các dịng khơng có kẻ ngăn cách, mỗi dịng có
khoảng 28 chữ, viết từ trên xuống dưới, từ phải sang trái. Phần đề tựa bên trái
trang giấy có bản tâm ghi “Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng” (hoặc quyển
18
TIEU LUAN MOI download :
trung, quyển hạ) phía dưới có đánh số tờ. Các đề mục được viết cao hơn phần
nội dung.
Sách in ván gỗ bản xơ (32x18), tổng cộng có 247 tờ, mỗi tờ hai trang, mỗi
trang 12 dòng, mỗi dòng 28 chữ. Đầu cuốn sách là “Tam Thánh Đồ”, Đức Phật
ngồi ở chính giữa và được xếp cao hơn hai vị thánh Khổng Tử và Lão Tử. Cuốn
sách Đạo giáo nguyên lưu có phần “Tựa” của Nguyễn Đại Phương tức Nguyễn
Đăng Giai, được in ngay sau bản vẽ “Tam Thánh Đồ” gồm bốn trang, mỗi trang
có mười hai dịng, mỗi dịng có khoảng 28 chữ, đầu đề có ghi: “Tân Tập Tam
giáo quản khuy lục tự”, cuối bài “Tựa” có ghi tên và chức vụ của người đề
“Tựa” và cũng là người quyên tiền để in ấn cuốn sách này: “Tư thiện đại phu
binh bộ thượng thư kiêm đô sát viện hữu đơ ngự sử tổng đốc Sơn Tây, Hưng
Hố, Tun Quang đẳng xứ địa phương đề đốc quân vụ kiêm lý lương hưởng tại
gia bồ tát Nguyễn Đại Phương cẩn tự ngưỡng chúc”. Sau phần đề “Tựa” của
Nguyễn Đăng Giai là bài “Tiểu Dẫn” của chính tác giả An Thiền. Phần “Tiểu
Dẫn” gồm hai trang, mỗi trang có khoảng 12 dịng, mỗi dịng 28 chữ, đầu đề có
ghi: “Đạo giáo ngun lưu Tiểu Dẫn”, cuối phần “Tiểu dẫn” có ghi tên và pháp
danh của tác giả: “Thiệu trị ngũ niên tuế thứ Ất tị Bồ Sơn đại giác thiền tự lâm tế
pháp phái độ điệp Phúc Điền hồ thượng sa mơn An Thiền tuyển”. Sau phần đề
“Tựa” và “Tiểu Dẫn” là ba quyển Thượng (Phật giáo), Trung (Nho giáo) và Hạ
(Đạo giáo). Quyển thượng có 162 trang, quyển trung có 186 trang, quyển hạ có
192 trang.
Trang đầu vẽ tam thánh đồ, giữa là hình Thích Ca Mâu Ni, được vẽ cao
hơn, bên trái là hình Khổng Tử, bên phải là Lão Tử, trên cùng có dịng chữ viết
từ phải sang trái: “Nho Thích Đạo Tam Thánh Đồ”, trên đầu mỗi vị thánh có
bốn câu thơ, tổng cộng là mười hai câu, mỗi câu có bảy chữ, nội dung tổng quát
về ba giáo, thứ tự từ trái sang phải là:
Kim đài ngọc cục nhiễu đan vân
Thượng hữu Chân nhân xưng Lão Quân
19
TIEU LUAN MOI download :
Bát thập nhất hố trường sinh quyết
Ngũ thiên dư ngơn bất hủ văn
Đà la môn khởi Chân như xuất
Viên giác hải trung quang Huệ nhật
Linh sơn hội thượng thuyết chân ngôn
Mãn thiệt liên hoa cổ văn Phật
Lục kinh san định cổ văn chương
Thù Tứ uyên thâm giáo trạch trường
Kế vãng khai lai tham tạo hố,
Đại thành chí thánh Văn Tun vương
Ngồi có đóng khung, bên trái có bản tâm ghi: “Đạo giáo nguyên lưu quyển
thượng” dưới có đề số tờ.
Từ tờ 1b đến 3a là bài “Tựa” của Nguyễn Đăng Giai tức Nguyễn Đại
Phương. Nội dung của bài “Tựa” khái quát toàn bộ nội dung của cuốn sách:
“Nho giáo chuyên chú vào kinh thế mà điểm quyết yếu là làm chính cái Tâm của
mình. Phật giáo chun chú về làm sáng cái Tâm, mà tác dụng của nó đủ để
kinh thế. Tuy có ba giáo mà cái lý chỉ là một” (bài Tựa tờ 2b). Bài “Tựa” đánh
giá rất đúng về nội dung cũng như lối hành văn của cuốn sách: “Tuy lời lẽ rời
rạc, lời văn không được diễm lệ, nhưng nó chọn khắp các sách, quy tập những ý
kiến của nhiều người để hợp thành một cuốn. Ghi chép các chuyện liên quan tới
Nhân quả, đủ để hai cửa thiền tịnh dùng nó làm yếu quyết vậy. Khơng ghi chép
thực về nguồn gốc và các dòng của ba giáo phái, mà chỉ để cho người theo đạo
Phật xem xét tu luyện.” (tờ 3b)
Phần “Tiểu Dẫn” của tác giả gồm hai trang (tờ 4a,4b). Đại khái nội dung
của bài “Tiểu Dẫn” chủ yếu nói về tư tưởng của ba giáo phái tuy câu chữ có
khác nhau nhưng nội dung cũng chỉ là một, thánh nhân tuy ở mỗi nơi khác nhau,
20
TIEU LUAN MOI download :
tuỳ thời tuỳ thế mà tạo nên các giáo phái khác nhau, đó là điều đương nhiên của
lý số vậy (tờ 4a).
Quyển Thượng của “Đạo giáo nguyên lưu” bắt đầu từ tờ 1 tới tờ 81, mỗi
tờ có hai trang, tổng cộng có 81 tờ 162 trang, khắc in về Phật giáo, mỗi trang có
mười hai dịng, mỗi dịng 28 chữ, chữ viết từ trên xuống dưới, từ phải sang trái.
Dòng đầu tiên (tờ 1a) viết: “Đạo giáo nguyên lưu Quyển Thượng”, dòng thứ
hai ghi tên tác giả: “Bồ Sơn Đại Giác Thiền Tự Độ Điệp Phúc Điền Hoà
Thượng Lâm Tế Phổ Sa Mơn An Thiền Biên Tập”, từ dịng thứ ba trở đi là nội
dung viết về Phật giáo. Tồn bộ các trang sách của “Quyển Thượng” đều được
đóng khung, khung ngoài to đậm, khung trong thanh nhỏ, bên trái mỗi trang
giấy đều có bản tâm ghi đầu đề của cuốn sách “Đạo giáo nguyên lưu Quyển
Thượng”, phía dưới có đánh số tờ thứ tự từ tờ 1 đến tờ 81.
Đầu quyển giới thiệu về nguồn gốc xuất xứ của Phật giáo, sau đó là mục
Phụng Chiếu Cầu Pháp (奉 詔 求 法 ) nói về Tính Tồn Trạm Cơng hồ thượng
vâng lệnh Lê Ý Tơng sang nhà Thanh xin kinh Phật, sau đó là chép tên các kinh
sách đã sưu tầm được, tổng cộng có 160 bộ, mỗi bộ chỉ ghi tên sách và số
quyển.
Sau bản mục lục là danh sách các sách của Trạm Công mang từ Trung
Quốc về, tiếp sau là tiểu mục Bản Quốc Thiền Môn Kinh Bản, chia ra các loại
kinh 86 bộ, luật số 26 bộ, luận số 6 bộ, lục số 62 bộ, tổng cộng là 180 bộ, ngồi
ra cịn có đề mục các sách của tác gia Việt Nam. Ở phần này, về mục kinh có:
Lĩnh Nam Chích Qi (嶺 南 摭 怪), Tam Giáo Chính Độ (三 教 正 度)…, mục
luật số có: Tì Ni Giới Luật (毘 尼 戒 律) của An Thiền. Về lục số có: Thiền
Uyển Tập Anh Lục (禪 苑 集 英 錄), Khoá Hư Lục (課 虛 錄), Trần Triều Tam
Tổ Lục (陳 朝 三 祖 錄), Trần Triều Thập Hội Lục (陳 朝 十 會 錄), Đạo giáo
nguyên lưu (道 教 源 流), Chuyết Công Lục (拙 公 錄), Kế Đăng Lục (繼 登
錄), Thánh Đăng Lục (聖 登 錄), Chư Kinh Mục Lục (諸 經 目 錄), Thượng Sĩ
21
TIEU LUAN MOI download :
Lục (上 士 錄), Cổ Châu Lục (古 珠 錄), Báo CựcTruyện (報 極 傳), Tâm Nang
(心 囊), Thiện Bản (善 本), Thuỷ Lục (水 錄).
Từ Tờ 9 đến tờ 18 nói về lịch sử Phật giáo ở Việt Nam, gồm các mục: Đại
Nam Thiền Học Sơ Khởi (大 南 禪 學 初 起), Hùng Vương Phạn Tăng (雄 王
梵 僧), Đại Nam Phật Tháp (大 南 佛 塔), Vô Ngơn Truyền Tháp (無 言 傳 法),
Danh Chấn Triều Đình (名 震 朝 廷), Lê Triều Danh Đức (黎 朝 名 德), Lý
Triều Danh Đức (李 朝 名 德), Trần Triều Danh Đức (陳 朝 名 德), Tì Ni Lưu
Chi Truyền Pháp (毘 尼 流 支 傳 法), Tuyết Đậu Truyền Pháp (雪 竇 傳 法).
Sau các mục trên có chép các sự việc thần thoại về Phật pháp ở Việt Nam, gồm
19 việc, như việc tịch cốc, túi đồng để đúc chng, đúc vạc, An Nam tứ khí….
Tiếp theo là ghi chép về Phật pháp trên đất các chúa Nguyễn và các vua Triều
Nguyễn, sau nữa là sự tin theo phật của Nguyễn Đăng Giai và gia đình.
Sau các mục kể trên, đến các điển tích có liên quan tới Phật giáo, trích
trong các kinh phật, các sử sách. Phần này được coi là tự điển các từ trong sách
phật. Tờ 41 nói về chú dịch kinh sách Đạo Tục Dịch Kinh (道 俗 譯 經), Tùng
Lâm Chức Sự (叢 林 職 事) nói về tổ chức trong một chùa lớn.
Quyển Trung của Đạo giáo nguyên lưu bắt đầu từ tờ 1 đến tờ 93, tổng
cộng có 93 tờ (186 trang). Văn bản phần này sẽ được giới thiệu kĩ ở mục hai tiếp
ngay bên dưới.
Quyển Hạ của Đạo giáo nguyên lưu bắt đầu từ tờ 1 tới tờ 96, tổng cộng
có 96 tờ (192 trang) khắc in về Đạo giáo, mỗi trang có mười hai dịng, mỗi dịng
28 chữ, chữ viết từ trên xuống dưới, từ phải sang trái. Dòng đầu tiên (tờ 1a) viết:
“Đạo giáo nguyên lưu Quyển Hạ”, dòng thứ hai ghi tên tác giả: “Bồ Sơn Đại
Giác Thiền Tự Độ Điệp Phúc Điền Hoà Thượng Lâm Tế Phổ Sa Mơn An
Thiền Biên Tập”, từ dịng thứ ba trở đi là nội dung viết về Đạo Giáo. Toàn bộ
các trang sách của “Quyển Hạ” đều được đóng khung, khung ngồi to đậm,
khung trong thanh nhỏ, bên trái mỗi trang giấy đều có bản tâm ghi đầu đề của
22
TIEU LUAN MOI download :
cuốn sách “Đạo giáo nguyên lưu Quyển Hạ”, phía dưới có đánh số tờ thứ tự từ
tờ 1 đến tờ 96.
Sau bài tổng luận ở tờ 1 là các sự việc điển tích có liên quan tới Đạo giáo
(tờ 2 đến tờ 9), tiếp tới là các sự việc chung cho cả ba giáo, như Tam giáo đàm
luận 三 教 談 論 (tờ 9), Tống Tông Bản thiền sư tác Sơn cư bách vịnh 宋 宗 本
禪 師 作 山 居 百 詠 (tờ 11-15a), Long vương cầu cứu 龍 王 求 救 (tờ 15b), sau
đó là các thiên do An Thiền dịch ra Quốc Âm và cả chữ Hán, chữ Nôm: Cảm
ứng thiên 感 應 偏 (tờ 15b-18), Vương thị cảnh thế lương ngôn王 氏 警 世 良
言 (tờ 18-19), Từ ân xuất gia châm 慈 恩 出 家箴 (tờ 19-20), Hàn Lâm bảng 寒
林 榜 (tờ 20), Bán điểm văn 半 點 文, Nhất đán văn 一 旦 文 (tờ 21), Phạn
Hoa danh nghĩa 梵 华 名 義, Thiền Phạn số 禪 梵 數(tờ 22-31), thích nghĩa 释
義 (32-42), tiếp theo là một số từ ngữ có dịch sang chữ Nơm (43-51) và một số
điển tích, sau cùng có in một số bộ sách có dịch chữ Nơm như: Tam thiên tự lịch
đại văn quốc âm 三 千 字 历 大 文 國 音 (70-75), thiên tự văn 千 字 文 (75-80),
Tam thiên tự toản yếu 三 千 字 纂 要 (81-95), tiếp theo là lời bổ trợ nói qua một
số kinh Phật in ở Việt Nam, sau cùng là ghi tên tác giả và năm khắc, nơi để ván
in, tên người đứng in, người cúng tiền.
Toàn bộ tập sách “Đạo giáo nguyên lưu” (bao gồm cả bài “Tựa” của
Nguyễn Đại Phương và bài “Tiểu Dẫn” của tác giả An Thiền) có 274 tờ 548
trang. Cuốn sách được khắc in một cách thống nhất, đầu mỗi quyển đều ghi Đạo
giáo nguyên lưu quyển thượng (trung, hạ), dòng tiếp theo là tên hiệu và thiền
phái của tác giả An Thiền, tiếp sau là nội dung. Sách có đóng khung, có bản
tâm, có khắc số tờ.
2. Văn bản phần Nho giáo.
Quyển Trung của Đạo giáo nguyên lưu bắt đầu từ tờ 1 tới tờ 93, tổng
cộng có 93 tờ 186 trang khắc in về Nho giáo, mỗi trang có mười hai dòng, mỗi
dòng 28 chữ, chữ viết từ trên xuống dưới, từ phải sang trái. Dòng đầu tiên (tờ
1a) viết: “Đạo giáo nguyên lưu Quyển Trung”, dòng thứ hai ghi tên tác giả:
23
TIEU LUAN MOI download :