Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Giá trị lao động là gì? Giá trị ích lợi là gì? Phân tích quan điểm giá trị ích lợi của J.B.SAY với quan điểm giá trị ích lợi của K.Menger? So sánh sự khác nhau về nội dung lí luận của K.Menger và J.B.SAY?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.29 KB, 6 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
Đề bài: Giá trị lao động là gì? Giá trị ích lợi là gì? Phân tích quan điểm giá
trị ích lợi của J.B.SAY với quan điểm giá trị ích lợi của K.Menger? So sánh
sự khác nhau về nội dung lí luận của K.Menger và J.B.SAY?
Bài làm:
Học thuyết kinh tế cho rằng giá trị hàng hoá là do lao động sản xuất ra
hàng hoá quyết định. Người đặt nền móng đầu tiên cho học thuyết này là
Pety (W. Petty) và Boaghinbe (P. Boisguilbert), rồi đến Xmit (A. Smith) và
Ricacđô (V. Ricardo),Sismondi là những người đóng góp lớn vào học thuyết
giá trị lao động. Tuy vậy, phải qua nhiều thế kỉ trao đổi hàng hoá, con người
mới dần dần hiểu ra được thực thể của giá trị và nhận thức được quy luật giá
trị. Phải chờ đến Mac thì học thuyết giá trị lao động mới phát triển đầy đủ.
Nhờ phát hiện được tính hai mặt của lao động mới khẳng định được lao
động nào tạo ra giá trị hàng hoá. Mac đã phân tích nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, khám phá ra giá trị sức lao động được xem là hàng hoá, quy luật giá
trị thặng dư và hệ thống các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, qua đó
làm cho nhận thức về quy luật giá trị được đầy đủ hơn.
C. Mác chỉ ra rằng, những giá trị sử dụng của các loại hàng hoá là muôn
hình vạn trạng, không thể dùng số lượng để đo lường chúng là bao nhiêu.
Ông nói: "Nếu bóc tách riêng giá trị sử dụng của hàng hoá ra, hàng hoá chỉ
còn lại một thuộc tính, đó là thuộc tính sản phẩm lao động". Tức là, giá trị
của hàng hoá chính là lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó. Cho
nên, chúng ta thường nói rằng, lao động tạo ra giá trị. Trong chế độ tư bản
chủ nghĩa, để đạt được giá trị thặng dư, nhà tư bản bắt buộc phải tìm trên thị
trường loại hàng hoá mà bản thân giá trị sử dụng của nó có một thuộc tính
đặc biệt làm nguồn gốc cho giá trị, quá trình sử dụng nó đồng thời là quá
trình tạo ra giá trị. Loại hàng hoá đặc thù đó chính là sức lao động của con
người. Ðiều cần lưu ý "lao động" và "sức lao động" là hai khái niệm không
giống nhau. Sức lao động là năng lực tiến hành lao động của con người. Sử
dụng sức lao động mới là lao động, mà lao động tức là tạo ra giá trị. Giá trị
của bản thân sức lao động bị quyết định bởi thời gian lao động bắt buộc (tức


giá trị chi phí trang trải sinh hoạt mà công nhân và người nhà của họ cần
đến) trong xã hội có nhu cầu về sức lao động sản xuất. Nhà tư bản mua lại
sức lao động theo giá trị sức lao động trên thị trường, nghĩa là có quyền sử
dụng sức lao động đó trong sản xuất, và cưỡng bức người lao động phải làm
việc cả ngày. Ví dụ như để họ làm việc 12 tiếng, thì trong vòng 6 tiếng (thời
gian lao động "bắt buộc"), người lao động đã có thể tạo ra sản phẩm đủ bù
cho chi phí đời sống của họ, 6 tiếng còn lại (thời gian lao động "dư thừa") họ
tạo ra sản phẩm "dư thừa" mà nhà tư bản không phải trả thù lao nữa, tức là
giá trị thặng dư. Trong lịch sử loài người, do có lao động thặng dư mới sinh
ra khả năng bất bình đẳng, người bóc lột người. C.Mác chỉ rõ: lao động
thặng dư không phải xuất hiện từ khi có tư bản. Trong xã hội được tạo nên
bởi kẻ bóc lột và người bị bóc lột, giai cấp thống trị đều thu được lao động
thặng dư trên thân thể của số đông người lao động bị bóc lột ông nói: "Sự
phân biệt các kiểu hình thái kinh tế - xã hội khác nhau như xã hội nô lệ và xã
hội thuê mướn lao động, chỉ là các hình thức khác nhau của việc tước đoạt
lao động thặng dư trên thân thể người sản xuất, người lao động "
Cùng với sự tồn tại của quan điểm giá trị - lao động là quan điểm Giá trị
- ích lợi đan xen giữa các trường phái đã kể trên.
Chủ nghĩa trọng nông : ngay từ cuối thế kỷ XVII đã cho rằng giá trị là do
nhu cầu, nguyện vọng, là phương tiện của người đang trao đổi quyết định.
Giá trị chỉ là sự phối hợp của các nguyện vọng.
Giai đoạn hậu cổ điển: Xa rời lý luận giá trị - lao động của các nhà tư sản
cổ điển. J.B Say ủng hộ thuyết giá trị - ích lợi của chủ nghĩa trọng nông, đưa
ra “thuyết về tính hữu dụng”, theo đó giá trị có tính chủ quan, phụ thuộc vào
tính hữu dụng của nó.
Trường phái tân cổ điển:
Trường phái thành Viên (Áo) cũng theo quan điểm mang tính rất chủ quan
trên, và phát triển thêm, đó là việc chỉ rõ ích lợi ở đây là ích lợi giới hạn.
(Ích lợi của vật quyết định giá trị ở đây là “ích lợi giới hạn”).Muốn có nhiều
giá trị phải tạo ra sự khan hiếm.

Trường phái cổ điển mới đã tìm cách bác bỏ học thuyết Mác về giá trị, giá
trị thặng dư, tư bản và các kết luận của Mác về mâu thuẫn tư sản và công
nhân, về sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản, xây dựng trên cơ sở duy tâm chủ
quan.
Sau này các trường phái kinh tế hiện đại (Học thuyết kinh tế của
Keynes,trường phái chính hiện đại, trường phái tự do mới, trường phái thể
chế) vì vẫn đứng trên lập trường của giai cấp tư sản, nên họ chỉ nghiên cứu
khoa học kinh tế thuần túy,muốn chống lại những lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lenin.
KẾT LUẬN: Xét về tiến trình lịch sử, quan điểm về nguồn gốc của giá trị có
sự vận động, có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng quan điểm giá trị - lao
động là quan điểm đúng đắn, khoa học, khách quan.Nó được hoàn thiện nhất
bởi C.Mác.
Nội dung lí luận giá trị ích lợi:
Của j.b.say: Ông xa rời lý thuyết giá trị lao động và ủng hộ lý thuyết giá
trị ích lợi hay giá trị chủ quan. Trong tác phẩm “Giáo trình kinh tế chính trị”,
ông đưa ra quan niệm cho rằng các công dụng được tạo ra trong quá trình
sản xuất làm cho vật phẩm có giá trị. Như vậy, theo ông thì giá cả là thước
đo của giá trị, còn giá trị được đo bằng tính hữu ích của vật phẩm. Ích lợi
của vật phẩm càng nhiều, thì giá trị của nó càng cao. J.B.Say viết rằng “sản
xuất tạo ra tính hữu dụng và tính hữu dụng truyền giá trị cho vật phẩm”.
Theo ông, tham gia vào việc sản xuất giá trị là cả 3 yếu tố: lao động của
công nhân – tạo ra tiền lương, tư bản (tư liệu sản xuất) tạo nên lợi nhuận và
cuối cùng là tự nhiên (ruộng đất) – tạo nên địa tô.Mỗi nhân tố chỉ đưa lại
một lợi ích (giá trị) nhất định. Ông cho rằng nên đầu tư thêm tư bản vào sản
xuất sẽ làm tăng thêm sản phẩm phù hợp với phần tăng thêm về giá trị. Máy
móc tham gia vào quá trình sản xuất sẽ tham gia vào tăng giá trị 3 nhân tố
trên sẽ tạo ra cho các chủ sở hữu của nó những nguồn thu nhập riêng biệt,
lao động tạo ra tiền lương, đất đai tạo ra địa tô, tư bản tạo ra lợi tức. Theo
ông, ở đây không có quan hệ bóc lột. Nhà tư bản kinh doanh cũng như

những người lao động, thu nhập của họ cũng là tiền lương nhưng đó là loại
tiền lương đặc biệt, là phần thưởng đặc biệt cho năng lực kinh doanh và tinh
thần làm việc của anh ta. Công nhân làm việc đơn giản nên nhận được tiền
lương thấp, ông thừa nhận tiền lương chưa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho
công nhân nhưng ông cho rằng XH tư bản không chịu trách nhiệm về tình
hình này.
Ông khẳng định “không phải chỉ có lao động mới tạo ra giá trị, mà cả tư bản
và tự nhiên cũng tạo ra sự phục vụ cho nên cũng tham gia vào việc tạo ra giá
trị”. Từ đó ông đi đến kết luận: “Sản xuất không phải là cái gì khác, mà là
tạo ra sự phục vụ, và ngược lại tất cả những gì tạo ra sự phục vụ đều là sản
xuất”.
Như vậy, khác với trường phái tân cổ điểm, J.B.Say đã đồng nhất giá
trị với giá trị sử dụng và phủ nhận vai trò duy nhất của lao động trong việc
tạo ra giá trị của hàng hoá. Ông còn cho rằng, giá trị chỉ được xác định trên
thị trường – tức là chỉ được xác định trong trao đổi. Thước đo giá trị của một
vật phẩm chính là số lượng vật phẩm khác mà người khác đưa lại để đổi lấy
vật phẩm đó. Nói khác đi theo ông, giá trị được quyết định với quan hệ cung
– cầu. Rõ ràng ở đây, Say đã đồng nhất giá trị với giá cả thị trường.
Của K.Menger:- Lý luận “Ích lợi giới hạn”.
Ích lợi giới hạn là ích lợi của vật cuối cùng đưa ra thoả mãn nhu cầu.
Vật đó có ích lợi nhỏ nhất, ích lợi đó quyết định ích lợi của các vật phẩm
khác. Các nhà kinh tế tân cổ điển giải thích rằng: Số đơn vị sản phẩm càng ít
thì “Ích lợi giới hạn” càng lớn. Khi số lượng sản phẩm tăng lên thì tổng ích
lợi tăng lên, còn “Ích lợi giới hạn” thì giảm xuống. Nên sản phẩm cứ tăng
lên mãi thì “Ích lợi giới hạn” có thể bằng số không.
Ví dụ: 1 ngày dùng 4 thùng nước. Thùng thứ nhất để thoả mãn nhu
cầu bức thiết nhất là để nấu ăn, nên ích lợi lớn nhất, chẳng hạn là 9. Thùng
thứ 2, để uống, ít cấp thiết hơn, nên có ích lợi là 4. Thùng thứ 3 để tắm giặt,
có ích lợi là 2. Thùng thứ 4, để tưới hoa ích lợi ít nhất là 1. Như vậy, “Ích lợi
giới hạn” sẽ là ích lợi các thùng nước thứ 4, nó là 1. Và như vậy là ích lợi

chung của các thùng nước.
- Lý luận giá trị “Ích lợi giới hạn”.
Theo các nhà kinh tế tân cổ điển; giá trị hàng hoá không phải do ích
lợi của nó quyết định một cách giản đơn, mà giá trị hàng hoá là do sự ích lợi
có giới hạn của nó quyết định. Nghĩa là, do sự đánh giá chủ quan về ích lợi
của một đơn vị hàng hoá, tức là lợi ích đó do quan hệ của nó với nhu cầu của
người tiêu dùng quyết định (Ích lợi chủ quan). Như vậy, giá trị hàng hoá phụ
thuộc vào “Ích lợi chủ quan” và sự khan hiếm của sản phẩm.
Sự thực lý luận giá trị – ích lợi giới hạn chẳng được giải đáp gì. Thật
rõ ràng sự đánh giá chủ quan về 1 kg lương thực đối với người no đủ khác
cơ bản đối với người nghèo đói, nhưng cả 2 đều mua 1 kg lương thực và đều
phải trả tiền như nhau. Mà cơ sở của giá cả đó là giá trị, mà giá trị lớn hay
nhỏ không phụ thuộc vào sự đánh giá chủ quan quyết định.
Lý luận “ích lợi giới hạn” làm cho số lượng giá trị hàng hoá phụ thuộc
vào sự khan hiếm của hàng hoá. Thật ra sự hiếm có tương đối của hàng hoá
phụ thuộc vào giá trị cao của hàng hoá ấy, mà giá trị của hàng hoá là do hao
phí lao động xã hội cần thiết quyết định. Thông qua giá cả thị trường, giá trị
hàng hoá tác động đến qui mô sức mua và sự cung cấp hàng hoá cũng sẽ
thích ứng được với qui mô của nhu cầu.
So sánh nội dung lí luận của K.Menger và J.B.Say:
Giống nhau:
* Là học thuyết mang tính chất chủ quan:
Mục đích không phải để kế thừa và phát triển những tư tưởng khoa học của
nhân loại mà nhằm che đậy các mâu thuẫn và khuyết tật của chủ nghĩa tư
bản, từ đó ca ngợi và bảo vệ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, biện hộ cho
chủ nghĩa tư bản bằng mọi giá.
Khác nhau:
* Trong phương pháp luận:
Của J.B. say: + Xa rời phương pháp luận của trường phái cổ điển,
không đi sâu vào phân tích bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế,

chỉ chú ý xem xét các hiện tượng bên ngoài. Đặc biệt là áp dụng phương
pháp tâm lý chủ quan trong phân tích kinh tế, coi kinh tế chính trị là khoa
học nghiên cứu về đạo đức xã hội.
+ Sử dụng nhiều tài liệu, số liệu thiếu khoa học, phi lịch sử để nghiên cứu.

Của K.menger : -dựa vào tâm lí chủ quan để giải thích các hiện tượng
và quá trình kinh tế - xã hội , vận dụng đưa ra lí thuyết quan hệ sx và giá cả
hàng hóa trên thị trường do cung cầu quyết định
-áp dụng pp ptich vi mô: đi vào nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng, của
các xí nghiệp. Xem xét người tiêu dùng làm sao để với thu nhập như vậy sẽ
thu được hàng hóa nhiều nhất, còn các xí nghiệp kinh doanh làm thế nào để
thu được lợi nhuận nhiều nhất.
- vận dụng pp toán học như công thức , đồ thị, mô hình để đưa ra các phạm
trù KT
* Về nội dung
Của J.B.Say:
+ Xuất phát từ mục tiêu bảo vệ giai cấp tư sản, biện hộ cho chủ nghĩa tư bản
một cách có ý thức nên họ không thể tìm kiếm và xây dựng những phạm trù,
khái niệm và quy luật khoa học. j.b.say quan tâm xem xét phạm trù quy luật
có lợi hay không có lợi cho giai cấp tư sản. Đúng như C.Mác đã nhận xét:
“Sự nghiên cứu vô tư đã nhường chỗ cho những trận chiến đấu của bọ viết
văn thuê, những sự tìm tòi khoa học vô tư đã được thay thế bằng sự ca tụng
có tính chất thiên kiến và đê hèn”.
+ j.b.say không những không phát triển được lý luận của học thuyết kinh tế
tư sản cổ điển mà dần dần xa rời, sau đó đoạn tuyệt với những nội dung

×