Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

ỨNG DỤNG CHUYỂN đổi SỐ để đa DẠNG HÓA HÌNH THỨC DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ TRONG CHƢƠNG TRÌNH địa LÍ LỚP 12 THEO ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN CÁC PHẨM CHẤT NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 48 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Khi đánh giá quá trình DẠY - HỌC, chúng ta đánh giá vào sản phẩm. Học
sinh chính là sản phẩm và cũng là chủ thể của quá trình. Để quá trình DẠY - HỌC
được thành cơng thì học sinh phải biết tự học. Nghĩa là học sinh phải tự nỗ lực để
chiếm lĩnh tri thức. Biết tự học thì tri thức xã hội mới biến thành sản phẩm của
chính mình. Sản phẩm chỉ được đánh giá một cách chính xác khi học sinh biết tự
học. Nếu sản phẩm không phải là do tự học mang lại thì thành tích chỉ để trang trí.
Nguồn tri thức thì vơ tận và đang bùng nổ nhanh chóng, bản thân giáo viên
cũng không thể nào biết hết được và cũng không thể nào đi theo suốt cuộc đời các
em học sinh mặc dù mình rất thương yêu chúng. Hôm nay, ta dạy học sinh biết tự
học; ngày mai, học sinh mới biết lao động và sáng tạo.
Giáo dục cho học sinh tính tự học là vấn đề rất thiết thực và mang tính thời
sự trong giáo dục hiện nay. Thực tế cho thấy các em đạt kết quả cao trong các kì thi
học sinh giỏi là những em dành rất nhiều thời gian cho việc tự học của mình.
Để việc tự học của học sinh đem lại hiệu quả thì vai trị của giáo viên trong
q trình này rất quan trọng:
“Người thầy dạy giỏi là người thầy biết giải thích;
Người thầy xuất sắc là người thầy biết minh họa;
Người thầy xuất chúng là người thầy biết truyền cảm hứng.”
Thầy cơ là người tạo mơi trường và tình huống để học sinh có thể rèn luyện
khả năng tự giải quyết vấn đề thông qua việc tổ chức hoạt động học và dạy cách
học. Để làm được điều đó, giáo viên phải nắm vững quá trình hình thành nhận
thức, thường xuyên cập nhật, thay đổi phương pháp, liên hệ chặt chẽ với phụ
huynh, hướng dẫn học sinh biết sử dụng và áp dụng công nghệ thông tin, năng lực
số vào trong quá trình tự học, liên hệ kiến thức với cuộc sống để hấp dẫn tạo hứng
thú tìm tịi của học sinh.
Như vậy việc giáo viên định hướng, tạo điều kiện học sinh biết tự học một
cách hiệu quả là một xu thế tất yếu, bởi vì quá trình giáo dục thực chất là quá trình
biến người học từ khách thể giáo dục thành chủ thể giáo dục (tự giáo dục). Tự học
giúp nâng cao kết quả học tập của học sinh và chất lượng giáo dục của nhà trường,


là biểu hiện cụ thể của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông.

1


Cùng với việc "Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập
suốt đời" cần "tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực…" (Nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013). Để đạt được mục tiêu và thực hiện tốt giải
pháp trên thì việc phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học của học sinh là
điều vô cùng cần thiết, cần thực hiện thường xuyên trong quá trình dạy học.
Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và hình thức dạy học để phù hợp với
những yêu cầu của công cuộc đổi mới giáo dục trong thời đại 4.0, phù hợp sự diễn
biến phức tạp của dịch bệnh trong những năm trở lại đây, nhằm đưa ra các giải
pháp nâng cao nhận thức về dạy học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực,
nâng cao năng lực tự học của học sinh, tôi đã mạnh dạn xây dựng đề tài “Một số
giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học của học sinh
trong chương trình Địa lí cấp trung học phổ thơng”
2. Mục đích nghiên cứu
Trước hết đề tài nhằm cung cấp một số cơ sở lí luận về đổi mới phương
pháp, kĩ thuật dạy học liên quan đến nội dung tự học trong mơn Địa lí, đồng thời
đánh giá được thực trạng tổ chức hoạt động dạy học nói chung và rèn luyện năng
lực tự học nói riêng trong chương trình Địa lí cấp THPT, từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học góp phần hình thành, phát
huy các phẩm chất, năng lực của HS, giúp các em thích nghi được với những thay
đổi của hồn cảnh sống, có kĩ năng để học tập suốt đời.
3. Điểm mới của đề tài.
Cụm từ “tự học” khơng cịn xa lạ đối với chúng ta, mặc dù đã có những tác
giả khai thác về nội dung này, nhưng tôi xin khẳng định những giải pháp mà tơi
nêu ra trong SKKN này hồn tồn là những kinh nghiệm, những tâm huyết mà bản

thân tôi đã đúc kết lại trong quá trình giảng dạy của mình và đã được kiểm định
qua thực tế. Đề tài đã góp phần nâng cao tính hứng thú, hấp dẫn và hiệu quả cho
các giờ học. Đồng thời phát huy tối đa khả năng chủ động, sáng tạo tiếp thu kiến
thức của học sinh. Đặc biệt các giải pháp mà tác giả nêu ra có tính hệ thống, kết
hợp các giải pháp truyền thống và hiện đại, phù hợp tâm sinh lý và lứa tuổi của
HS, có tính thực tiễn cao, dễ áp dụng, có tính khả thi.
Đề tài khơng chỉ áp dụng cho mơn địa lí mà cịn có thể áp dụng vào các mơn
học khác trong chương trình giáo dục phổ thơng. Thích ứng với u cầu mới của
nền giáo dục hiện đại, cũng như những thay đổi thất thường của Thế giới hiện nay
(thiên tai, dịch bệnh...).
PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận .
2


1.1. Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học.
Đổi mới chương trình giáo dục và cùng với nó là đổi mới PPDH và đổi mới
đánh giá là những phương diện thể hiện sự quyết tâm cách tân, đem lại
những thay đổi về chất lượng và hiệu quả giáo dục. Về phương pháp dạy học, tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc
phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học,
cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức
hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động tự học, ngoại khóa, nghiên cứu
khoa học. Bởi vậy một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức,
bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng
phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú
học tập cho người học. Về bản chất, đó là giờ học có sự kết hợp giữa học tập cá

thể (hình thức học cá nhân) với học tập hợp tác (hình thức học theo nhóm, theo
lớp); Chú trọng kết hợp học với hành, nâng cao tri thức với rèn luyện các kỹ
năng, gắn với thực tiễn cuộc sống; Phát huy thế mạnh của các phương pháp dạy
học tiên tiến, hiện đại; Các phương tiện, thiết bị dạy học và những ứng dụng của
công nghệ thông tin…; Chú trọng cả hoạt động đánh giá của giáo viên và tự đánh
giá của học sinh. Mặt khác đổi mới phương pháp dạy học cịn được cụ thể hóa
trong các văn bản chỉ đạo về việc thực hiện nhiệm vụ năm học hàng năm của Bộ
Giáo dục và Đào tạo; Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của Sở Giáo dục và
Đào tạo; Kế hoạch năm học của nhà trường, kế hoạch tổ, nhóm chun mơn và kế
hoạch giáo dục của mỗi giáo viên.
Chính vì lẽ đó trong những năm gần đây, nhiều giáo viên đã có sáng kiến
trong việc áp dụng kỹ thuật dạy học, đổi mới phương pháp dạy học đã góp phần
tăng hiệu quả giờ dạy.
1.2. Quan niệm, vị trí, vai trị về tự học và sự cần thiết phải nâng cao
năng lực tự học của học sinh.
1.2.1. Quan niệm về tự học và sự cần thiết phải nâng cao năng lực tự
học của học sinh.
Đến nay, cịn có nhiều quan niệm về tự học, chẳng hạn như:
Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình
động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp,…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức thuộc một
lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại,
biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học.
3


Tự học là quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện
kĩ năng thực hành khơng có sự hướng dẫn trực tiếp của GV và sự quản lí trực tiếp
của cơ sở giáo dục và đào tạo. Cụ thể hơn, tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ

bắp (khi phải sử dụng cơng cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình
cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan có ý chí tiến
thủ, khơng ngại khó, kiên trì nhẫn nại, lịng say mê khoa học) để chiếm lĩnh một
lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.
Theo quan điểm dạy học tích cực, bản chất của học là tự học, nghĩa là người
học luôn là chủ thể nhận thức, tác động vào nội dung học một cách tích cực, tự lực,
chủ động và sáng tạo để đạt được mục tiêu học tập. Hay nói cách khác, khơng ai
học giúp cho người học được, vì thế muốn học được phải tự học. Theo đó, q
trình hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ, chủ yếu là do HS tự thực hiện, cịn mơi
trường học chỉ đóng vai trị trợ giúp. Việc học chỉ có hiệu quả khi người học ý thức
được việc học (có nhu cầu học tập) từ đó có động cơ, ý chí và quyết tâm để vượt
qua những khó khăn, trở ngại trong học tập. Tự học là một quá trình chủ thể nhận
thức tác động một cách tích cực, tự lực, chủ động và sáng tạo vào đối tượng học
nhằm chuyển hoá chúng thành tài sản riêng, làm cho chủ thể thay đổi và phát triển.
Có thể nói là con người ai cũng phải tự học, do vậy trong cuộc đời của mỗi
người bao giờ cũng có hoạt động tự học, song vấn đề quan trọng là tự học ở mức
độ nào và tự học như thế nào, hướng tới học suốt đời.
Đặc điểm cơ bản quan trọng không thể thiếu của tự học là sự tự giác và kiên
trì cao, sự tích cực, độc lập và sáng tạo của HS tự mình thực hiện việc học. Như
vậy, tự học là sự tích cực, tự lực, chủ động của chủ thể nhận thức trong hoạt động
học, quá trình tự học do người học tự thực hiện (mang sắc thái cá nhân). Tuy nhiên,
cần chú ý rằng với HS phổ thông để việc tự học đạt hiệu quả thường cần phải có sự
hướng dẫn, trợ giúp của GV hay người trợ giúp. Theo đó, GV cần tạo ra môi
trường để HS phát huy nội lực của mình trong quá trình khám phá kiến thức.
Xét về có hay khơng có sự trợ giúp từ các yếu tố bên ngồi, tự học có hai
mức độ: tự học hồn tồn và tự học có hướng dẫn. Tự học có hướng dẫn là hình
thức tự học để chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng tương ứng với sự hướng
dẫn tổ chức chỉ đạo của GV hay người hướng dẫn, thông qua bài giảng hoặc tài
liệu hướng dẫn học. Tự học có hướng dẫn là việc học cá nhân và tự chủ, được sự
giúp đỡ và tăng cường của một số yếu tố như GV hay người hướng dẫn hay cơng

nghệ giáo dục hiện đại. Khi đó, người học là chủ thể, trung tâm, tự mình chiếm
lĩnh tri thức, chân lí bằng hành động của mình. Người thầy là tác nhân hướng dẫn,
tổ chức, đạo diễn cho trò tự học trong sự hợp tác với bạn, với thầy, với học liệu,…
Như vậy, tự học là tự mình thực hiện việc học. Tự học không thể thiếu trong
hoạt động học, trong đó HS phải biết huy động hết khả năng trí tuệ, tình cảm và ý
chí của mình để lĩnh hội một cách sáng tạo tri thức kĩ năng và hoàn thiện nhân cách
4


của mình dưới sự hướng dẫn của GV. Kết quả tự học cao hay thấp phụ thuộc vào kĩ
năng tự học của mỗi cá nhân và đặc biệt với HS THPT thì cịn phải phụ thuộc rất lớn
đến sự hướng dẫn của GV hay học liệu, phương tiện hỗ trợ,...
1.2.2. Vị trí, vai trị của tự học.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khoá XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có nêu lên mục tiêu cụ thể,
trong đó có đề cập tới việc “phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học
tập suốt đời”; trong các giải pháp có nêu “tập trung dạy cách học, cách nghĩ,
khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ
năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức
học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học.
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy và học”.
Tự học được xem là một mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học. Từ lâu các
nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong q trình
dạy học GV khơng chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những kiến thức có sẵn, yêu cầu
HS ghi nhớ,… mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho HS tự khám phá
ra những quy luật, thuộc tính mới của các kiến thức hay các vấn đề khoa học. Qua
đó, giúp HS khơng chỉ nắm bắt được kiến thức mà cịn biết cách tìm ra những kiến
thức ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học hiện đại cịn xác định rõ: càng ở
trình độ cao thì tự học càng cần được coi trọng. Nói tới phương pháp dạy học thì
cốt lõi là dạy tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu

khoa học. Vì thế, muốn thành cơng trên bước đường học tập và nghiên cứu thì
người học phải có khả năng tự phát hiện và tự giải quyết những vấn đề mà cuộc
sống hay khoa học đặt ra.
Rèn luyện kĩ năng tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực cho
HS trong quá trình học tập: Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá
nhân là tính tích cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Một trong những
nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là phải hình thành được phẩm chất đó cho người
học. Khi đó giáo dục mới có thể đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo,
thích ứng với thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính
tích cực (có nguồn gốc từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát
triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là
những biểu hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân trong q trình
nhận thức thơng qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho
mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú, người học mới có được sự tự giác, say
mê tìm tịi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích
cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp giữa hứng thú với tự
giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập.
Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để
khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng
5


với những biến đổi của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi
người sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh
với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách
thức to lớn từ môi trường, nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được
phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực
tiễn thì sẽ tạo cho họ lịng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được
nâng cao, tạo đà cho tự học trong cuộc sống hay trong thực tiễn.
1.2.3. Một số yêu cầu đối với giáo viên và học sinh trong vấn đề tự học

1.2.3.1. Yêu cầu đối với giáo viên
Để HS có thể tự học, tự nghiên cứu ở nhà được tốt thì đối với GV cũng cần
đặt ra cho mình một số yêu cầu như sau:
- Giáo viên cần phải có đề cương chi tiết cho học sinh trước khi bắt đầu vào giảng
dạy một nội dung nào đó. Trong đó có ghi rõ những phần học trên lớp, phần HS
nghiên cứu tự học.
- Trong những bài, phần yêu cầu người học tự học GV nên nêu rõ mục tiêu của nội
dung phần đó. Đặt ra các câu hỏi yêu cầu người học phải trả lời được sau khi học
xong chương, phần đó.
- Yêu cầu HS đọc sách nào, nghiên cứu tài liệu nào hay phần nào và trả lời câu hỏi
theo yêu cầu.
- Hướng dẫn HS kỹ năng đọc sách, nghiên cứu tài liệu, tóm tắt tài liệu đọc được,
cách lập dàn bài, đề cương, kỹ năng phân tích bảng số liệu, sơ đồ, bảng biểu...
- Kiểm tra tự học của HS bằng các câu hỏi trắc nghiệm hoặc tự luận trên
giảng đường hoặc qua các phần mềm tiện ích, phù hợp và lấy điểm làm điểm kiểm
tra thường xuyên hoặc định kì.
1.2.3.2. u cầu đối với học sinh
Để có thể rèn luyện được phương pháp tự học, tự nghiên cứu, người học cần
phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Học sinh phải cố gắng tự mình suy nghĩ, tìm tịi, nghiên cứu nâng cao khả năng
của mình. Điều đó đem lại lợi ích cho HS là tự động viên, nhắc nhở tinh thần cho
chính bản thân mình. Phải làm cho HS hiểu rằng bất cứ việc gì, người nào biết dựa
vào sức mình là chính, năng lực người đó mới nhanh chóng phát triển, sự thành
cơng mới vững chắc. Điều quan trọng bậc nhất, độc lập suy nghĩ, làm việc sẽ khiến
những kiến thức tiếp thu được sâu sắc, dễ vận dụng.
- Hiểu rõ mục đích học tập và xác định động cơ học tập đúng đắn. Khi hiểu rõ mục
đích học tập và xác định động cơ học tập đúng đắn cần phân biệt sự khác nhau
giữa phong cách học tập cũ và mới. Phong cách học tập mới là vừa học tập kiến
thức khoa học vừa thơng qua đó mà tự giác rèn luyện con người mình, nó chống lại
6



việc chỉ lo nhồi nhét kiến thức mà không lo rèn luyện con người mới. Học phải có
kế hoạch: người học phải lập kế hoạch cho việc tự học, tự nghiên cứu (Học lúc
nào? Học ở đâu? Học mơn gì, phần nào trước, mơn gì, phần nào sau?), tốt nhất là
rèn luyện được phương pháp học ở mọi nơi, mọi lúc.
- Khi bắt đầu tự học một môn hay một phần nào đó, HS phải xác định được nội dung
cần đọc, cần nghiên cứu thông qua các câu hỏi của giáo viên.
- Khi xem xét một vấn đề, HS phải xuất phát từ định nghĩa, khái niệm và đặt vấn đề
đó trong mối liên hệ với các vấn đề khác.
- Để tạo được hứng thú khi học thì HS nên bắt đầu từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp, từ xa đến gần, từ cụ thể đến khái quát, trừu tượng.
Bên cạnh đó HS phải rèn luyện kỹ năng đọc sách, kỹ năng nghiên cứu tài
liệu cụ thể như sau:
- Khi đọc sách cần phải ghi chép: lập dàn bài cho những phần cần nghiên
cứu, đầu tiên là dàn ý sơ lược, sau đó chi tiết hóa dần.
- Cố gắng nắm được cách bố trí, hệ thống của tài liệu, đọc những gì HS
hiểu rõ nhất để xác định độ khó. Đừng nản chí nếu khơng hiểu.
- Dùng bút đánh dấu những chỗ quan trọng hay chưa hiểu để có thể xem lại.
Trong khi đọc, thỉnh thoảng dừng đọc và đặt những câu hỏi kích thích và tự tìm
câu trả lời.
- Sau khi tóm tắt được phần cần đọc thì trả lời các câu hỏi của giáo viên yêu
cầu theo hiểu biết của mình dựa vào tài liệu đã được đọc.
Để tìm ra được phương pháp giải quyết vấn đề, HS cần phát huy tư duy biện
chứng, song trong quá trình giải quyết vấn đề thì lại cần vận dụng tới tư duy logic.
Để đi đến kết quả trọn vẹn, HS cần rèn luyện tư duy về lựa chọn, lựa chọn những
cách giải quyết giản dị, thấu đáo, trong sáng.
HS phải học cách hệ thống hóa các kiến thức đã học từ trên lớp kết hợp với
kiến thức đã học thông qua cách lập các sơ đồ về mối quan hệ giữa các kiến thức,
lập các bảng so sánh, các bảng tổng hợp các nội dung đã học.

Trong việc đẩy mạnh phương pháp tự học, cũng cần chú ý đến sự tương trợ,
giúp đỡ nhau trong học tập tức là vấn đề "học thầy không tày học bạn" như ơng
cha ta đã từng đúc kết. Do đó, HS có thể kết hợp với những bạn khác thành nhóm
học tập, trao đổi thông tin, học hỏi lẫn nhau để khắc sâu nội dung bài học.
Trao đổi với giáo viên về những phần kiến thức khó, kiến thức khơng hiểu
và những phần kiến thức người học muốn đi sâu tìm hiểu rõ hơn.
1.2.4. Một số phương pháp và hình thức hướng dẫn học sinh tự học.
Để HS tự học có hiệu quả, ngoài việc tạo động cơ, hứng thú cho các em,
cũng như hướng dẫn các em lập kế hoạch học tập hay tự kiểm tra đánh giá còn cần
7


sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật tự học thông dụng. Một vài phương pháp
và kĩ thuật tự học thông dụng được đề cập như phần dưới đây:
a) Nghe hiệu quả
Biết nghe giảng đúng cách hay nghe tích cực sẽ giúp HS rút ngắn thời gian
học tập, làm bài tập nhanh chóng và dễ dàng hơn, tự tin, hứng thú hơn và không
ngỡ ngàng khi gặp lại các nội dung học tập, nhất là trọng tâm bài học.
Để luyện kĩ thuật nghe tích cực HS cần:
- Tập trung theo dõi bài giảng hay hướng dẫn học ngay từ lúc bắt đầu của
tiết học, nhưng chưa nên nghĩ đến việc sẽ làm gì, vì điều đó có thể sẽ phá vỡ lơgic
của nội dung cũng như q trình nghe giảng.
- Tập trung nghe trọn vẹn nội dung chính, những điểm quan trọng nhất mà
GV thường nhấn mạnh qua ngữ điệu hay qua việc nhắc lại nhiều lần, để hiểu vấn
đề, rồi ghi chép ý chính theo cách hiểu của mình. Chú ý ghi theo dàn bài để nhìn
được khái quát cấu trúc chung của bài học, chú ý tới trọng tâm, mấu chốt của vấn
đề.
- Chú ý đến các bảng tóm tắt, các sơ đồ và các tài liệu trực quan khác đã giới
thiệu, vì ở thời điểm này người thầy (hay người hướng dẫn) so sánh, phân tích, hệ
thống hố kiến thức,... nhờ đó ta có thể nắm được trình tự, tiến dần đến kết luận và

rút ra cái mới.
- Nếu gặp chỗ nào khó, khơng hiểu, thì hãy tạm thời gác nó lại và sẽ cố gắng
tìm hiểu những điều đó sau, để q trình nghe giảng khơng bị gián đoạn.
- Trong hoặc cuối tiết học, có thể nêu câu hỏi với GV hay người hướng dẫn
để làm rõ những chỗ chưa hiểu, khắc sâu kiến thức,...
Lưu ý: Nên dành vài phút để đọc lướt qua tài liệu sẽ học trước khi nghe
giảng. Nhờ đó, biết được những vấn đề khó để nhắc mình chăm chú hơn khi nghe
giảng.
b) Ghi chép hiệu quả
Ghi chép khơng những có thể khiến tăng cường sự tập trung mà còn là một
công cụ hỗ trợ ghi nhớ. Khả năng ghi chép phụ thuộc vào từng người và được bắt
nguồn từ những kinh nghiệm có sẵn. Ghi chép cịn giúp chúng ta nguồn lưu trữ
thông tin để sau này dùng lại hay ôn lại nếu cần. Song để ghi chép được nhanh và
hiệu quả nên sử dụng các thủ thuật như: dùng từ viết tắt, dùng chữ bắt đầu của một
từ; dùng các kí hiệu hoặc tạo ra những từ viết tắt riêng cho mình; đặt tựa đề riêng
cho đề mục và ghi lùi sang phải từng chi tiết liên quan với đề mục; dùng những
chấm riêng cho từng dòng và xuống dòng cho mỗi chi tiết; chừa chỗ trống nhiều so
với lề trái, khoảng 1/3 chiều ngang tờ giấy; ... Không cần ghi lại mọi thứ mà hãy tư
duy, lắng nghe để hiểu và ghi được những điều quan trọng nhất.
8


c) Đọc hiệu quả
- Đọc hiệu quả là đọc một cách tập trung và kĩ lưỡng để hiểu được chính xác
những gì đọc được. Ta biết rằng một từ, một cụm từ hay một chữ, thường có hai phần là
âm và nghĩa. Đứng về mặt kĩ thuật, đọc là một quá trình kết hợp lướt mắt qua các con
chữ và nhập nghĩa của các con chữ đó vào đầu.
Khâu thứ nhất - xem như khâu nhận mặt chữ hay biết âm - chỉ bao gồm việc
nhận dạng kí tự, đọc thầm, phân tích ngữ pháp của câu để chuẩn bị cho việc hiểu nghĩa.
Khâu thứ hai - xem như khâu nhập nghĩa vào trong đầu - là quá trình chuyển các

kí tự đọc được thành nghĩa. Nó thường xảy ra theo hướng so sánh khái niệm hoặc ý
nghĩa vừa đọc với nhận thức cũ của mình. Khi đó, nếu có sự phù hợp hay quen thuộc,
thì việc hiểu này mang nghĩa củng cố kiến thức; cịn nếu nó xa lạ hay trái với những gì
mình đã biết thì việc nhập kiến thức sẽ mang nghĩa tiếp nhận, nạp cái mới.
d) Ghi nhớ thơng tin hiệu quả
Ghi nhớ là q trình tiếp nhận thông tin và lưu giữ thông tin ấy trong đầu, để
sau đó có thể nhắc lại, dùng lại được. Ghi nhớ đòi hỏi yêu cầu cao với người học.
Để có thể ghi nhớ thơng tin nhanh và lâu, cần lưu ý các bước sau:
- Đọc đi đọc lại: Đọc lại những gì đã ghi chép sau buổi học sẽ giúp nhớ bài
tốt hơn. Có thể đọc một tài liệu nhiều lần, mỗi lần với một mục tiêu khác nhau và
đọc theo đúng mục tiêu đó.
- Nắm ý chính: Nắm được ý chính trong mỗi đoạn văn và hiểu nó theo cách
của mình là điều cốt lõi của việc đọc có hiệu quả.
- Trích lược những chi tiết quan trọng: Mỗi ý chính trong một bài đều có
liên quan đến một chi tiết quan trọng, vì thế, nếu càng nhớ và dẫn được càng nhiều
chi tiết quan trọng hay các liên hệ giữa các chi tiết và các ý, hoặc giữa các ý với
nhau, thì càng liên hệ được các ý tưởng với kiến thức nền tảng. Nhờ đó, ta dễ dàng
huy động, sử dụng khi cần.
- Ghi thành dàn bài: bằng cách chia nội dung toàn bài thành các phần chính
(Ví dụ là A, B hay C,…). Trong mỗi phần lại có thể chia thành một số mục nhỏ,
bạn có thể sắp xếp các mục nhỏ ấy bằng những chữ số, như: 1, 2, 3,... và đặt những
tiêu đề riêng; có thể gạch dưới hoặc viết đậm các phần quan trọng để dễ nhớ.
- Nhẩm trong óc: Là cách hệ thống lại và ôn từng phần một của bài, chỗ nào
quên thì dừng lại và lật bài đã có ra xem. Tiếp đó nhẩm sang phần khác, chú ý các
phần quan trọng cần ghi nhớ. Sau đó, tìm những nội dung cịn sót để học lại cho
thuộc và đặt thành câu hỏi rồi tự giải quyết trong óc câu hỏi ấy.
- Ghi ra giấy: Có thể ghi riêng ra giấy những từ mới, cơng thức, những định
lí, tính chất,… sau đó đóng hay cất những tờ giấy này vào nơi dễ nhìn thấy, có thể
mở ra xem để ghi nhớ. Khi ghi chỉ nên tóm tắt phần quan trọng, chính yếu nhất,
tránh ghi rườm rà.

9


- Hỏi và tự trả lời: Tự đặt cho mình những câu hỏi và trả lời các câu hỏi để
ghi nhớ được các thơng tin cần tìm hiểu. Các loại câu hỏi như: Cái gì? Ở đâu? Khi
nào? Tại sao? Như thế nào? Ai?... Cách này vừa giúp ta nhớ kiến thức, vừa tăng
cường tính chủ động, tích cực trong học tập.
đ) Liên tưởng trong tự học
Liên tưởng giúp các em phát huy tính khám phá, tính sáng tạo bằng cách kết
nối một vấn đề đang học, một vấn đề đang gặp phải, cần được ghi nhớ, một vấn đề
chưa thật quen thuộc, chưa thật hiểu rõ với cái mà mình đã biết. Nhờ đó, ta sẽ dễ nhớ
và dễ truy cập, sử dụng một vấn đề nào đó khi cần.
g) Sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) trong tự học
Trong việc học và đặc biệt là khi ôn tập, hệ thống hoá kiến thức, HS đã được
làm quen với việc kẻ bảng, biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và thường HS có chung cách
“ghi chép” giống GV hay người trợ giúp, hoặc mẫu trong tài liệu, nên việc ghi nhớ
thường bị động, khó khăn, khó khắc sâu, khó nhớ.
Đến nay, BĐTD được xem là hình thức ghi chép hỗ trợ tìm tịi, đào sâu, mở
rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hoá một chủ
đề, một hệ thống bài tập hay một mạch kiến thức, các cách giải của một dạng bài
tập,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc,
chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, BĐTD cịn là một sơ đồ mở, khơng u
cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một
kiểu, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau. Do đó, việc lập
BĐTD cịn giúp phát huy khả năng sáng tạo của mỗi người.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng của việc hướng dẫn học sinh tự học nói chung và bộ
mơn Địa lí nói riêng của giáo viên trung học phổ thơng.
Có thể nói rằng hiện nay khâu tự học của HS trong các trường chưa được coi
trọng đúng mực. Thực ta tự học thì kiến thức sẽ sâu hơn, bền hơn và thực chất hơn.

Do nhiều nguyên nhân, học sinh hiện nay hầu như phụ thuộc và thậm chí cịn ỷ lại
thầy cơ giảng, khơng chịu tìm tịi, nghiên cứu. Chính vì vậy GV cần phải có những
phương pháp hướng dẫn, kích thích học sinh tự học nhiều hơn. Giúp HS nâng cao
kỹ năng tự học các mơn học để phát huy được tính chủ động, sáng tạo, độc lập của
học sinh.
Đối với bộ mơn Địa lí dựa vào những quy định của bộ mơn trong q trình
xây dựng kế hoạch giảng dạy mơn Địa lí thì thời lượng dạy trên lớp cho mỗi tiết
học là rất ngắn, mỗi tuần chỉ dạy 1 tiết đến 2 tiết/ kì, trong khi nội dung tri thức cần
truyền đạt ở một số bài của mơn Địa lí thì khó, cần nhiều thời gian tìm hiểu, nghiên
10


cứu. Do đó, việc HS phải tự học bài và chuẩn bị bài trước giờ lên lớp là điều tất
yếu. Có thể nói rằng thời gian tự học ở nhà là rất quan trọng, đây là lúc HS có
nhiều thời giờ suy ngẫm, đào sâu vấn đề, tiếp tục đề xuất những thắc mắc để thầy
giải đáp, suy nghĩ liên hệ hoặc vận dụng vào thực tế. Đây cũng là cách để tri thức
khắc sâu trong bộ óc, khó bị quên lãng và trở thành hữu ích, là cách học kết hợp
với hành mà Bác Hồ luôn luôn nhắc nhở. Việc học ở nhà còn phải làm tốt việc
chuẩn bị trước theo yêu cầu của từng bài giảng.
Tuy nhiên, để học sinh trở thành những người học có khả năng tự học, chủ
động sáng tạo không phải là một điều dễ dàng, do học sinh mới làm quen với cách
học mới nên tính thụ động cịn cao, phương pháp tự học, tự nghiên cứu cịn chưa
tốt do đó họ rất lúng túng trong việc tự học ở nhà. Mặt khác, giáo viên cũng gặp
phải nhiều khó khăn khi yêu cầu học sinh tự học ở nhà mơn Địa lí và quản lý cũng
như đánh giá khả năng tự học của học sinh.
2.2. Thực trạng của việc học sinh tự học nói chung và tự học mơn Địa lí
cấp trung học phổ thơng nói riêng hiện nay
Để khách quan tơi đã tiến hành khảo sát việc thực hiện quá trình tự học của
học sinh tại trường THPT Thái Hòa đem lại kết quả như sau:
* Kết quả khảo sát đối với học sinh khối 10 (số lượng học sinh khảo sát 80

em)
Câu 1: Em hiểu tự học là gì?
Nội dung
1. Tự học là tự nghiên cứu sách
2. Tự học là tự tìm kiếm kiến thức
3. Tự học là cá nhân tự giác học tập.

Số lượng
30
24
26

Tỷ lệ %
38
30
32

Câu 2: Sự cần thiết của việc tự học
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Rất cần thiết

45

56


2. Cần thiết

20

25

3. Bình thường

10

13

4. Khơng cần thiết

5

6

Câu 3: Lý do cần phải tự học
11


Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Giúp hiểu bài trên lớp sâu sắc hơn


35

44

2. Giúp nhớ bài học lâu hơn

25

31

3. Kích thích tính tích cực trong học tập

15

19

4. Rèn luyện khả năng cho bản thân

5

6

Câu 4: Khó khăn mà học sinh gặp phải khi tự học
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Chưa có phương pháp học tập hợp lí


55

69

2. Chưa có biện pháp để kiểm tra kiến thức mình tự
học

15

19

3. Thiếu sự hướng dẫn cụ thể cho việc tự học

10

12

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Chỉ học bài khi cần thiết

32

40

2. Học theo nội dung câu hỏi bài tập của giáo viên


30

38

3. Chỉ học phần quan trọng

18

22

Câu 5: Cách thức tự học của học sinh
Nội dung

Câu 6: Hình thức tự học:
Nội dung
1. Tự học một mình
2. Tự học theo nhóm
3. Tự học cùng người thân

Số lượng
60
15
5

Tỷ lệ %
75
18,8
6,2

Số lượng

20

Tỷ lệ %
25

Câu 7: Mức độ sự dụng kỹ năng tự học:
Nội dung
Sự dụng thành thạo các kỹ năng
12


Lúng túng khi sự dụng các kỹ năng
Chưa biết sự dụng các kỹ năng

50
10

63
12

Số lượng
39
25
16

Tỷ lệ %
49
31
20


Câu 8: Thời gian tự học của học sinh:
Nội dung
Mỗi ngày 1 đến 2 tiếng
Mỗi ngày 2 đến 3 tiếng
Mỗi ngày trên 3 tiếng

Câu 9: Suy nghĩ của học sinh về vấn đề tự học THPT
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Chỉ cần học trên lớp là đủ

50

63

2. Chủ yếu tự nghiên cứu bài tập

10

12

20

25

3. Cần tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên


Câu 10: Để chuẩn bị cho nội dung tự học một bài học Địa lí, em thường:
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Học bài cũ và nghiên cứu trước bài mới theo nội
dung hướng dẫn của giáo viên

45

56

2. Học thuộc lòng bài cũ

20

25

3. Khơng chuẩn bị gì cả

15

19

Câu 11: Thái độ của học sinh đối với việc tự học Địa lí
Nội dung


Số lượng

Tỷ lệ %

1. Rất nghiêm túc

20

25

2. Cịn mang tính chất đối phó

52

65

8

10

3. Bình thường
* Nhận xét:

Kết quả khảo sát cho thấy đa số học sinh đều hiểu và nhận thức đúng vai trị
của tự học đối với q trình học tập nói chung và mơn Địa lí nói riêng. Tuy nhiên
việc thực hiện tự học ở học sinh còn gặp phải nhiều khó khăn, lúng túng trong việc
sự dụng các kỹ năng tự học. Mức độ sử dụng thành thạo các kỹ năng tự học con
thấp. Thời gian tự học của học sinh cịn q ít, thái độ học tập cịn mang tính đối
13



phó cao, cịn phụ thuộc nhiều vào sự hướng dẫn của giáo viên. Nguyên nhân một
phần các em chưa có ý thức tự giác trong quá trình học tập, một phần khác do các
em chưa định hướng được một cách cụ thể trong hoạt động tự học của bản thân.
Chính vì vậy kết quả tự học của học sinh cịn chưa đạt hiệu quả cao. Bởi vậy, vai
trò của người giáo viên trong việc phát triển kỹ năng tự học của HS nhằm góp phần
nâng cao chất lượng tự học của học sinh nói chung và tự học mơn Địa lí nói riêng
ở trường phổ thơng là hết sức quan trọng.
2.3. Thực trạng của việc hướng dẫn nội dung tự học cho học sinh trong
các giờ học mơn Địa lí tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thị xã
Thái Hịa Và huyện Nghĩa Đàn.
Trong q trình thực hiện đề tài tôi cũng đã tiến hành khảo sát việc tự học
của học sinh nói chung và việc hướng dẫn nội dung tự học cho học sinh trong
việc dạy học mơn Địa lí ở các trường THPT trên địa bàn Huyện Nghĩa Đàn và
Thị xã Thái Hòa (bao gồm: Trường THPT Cờ Đỏ, Trường THPT 1/5, Trường
THPT Thái Hòa, Trường THPT Tây Hiếu, Trường THPT Đông Hiếu. Tổng 5
trường gồm 12 giáo viên) kết quả như sau:
*Kết quả khảo sát như sau (số lượng GV khảo sát: 12 người)
Câu 1: Cách thức hướng dẫn học sinh tự học
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Chỉ hướng dẫn một số bài cần thiết
- Có thực hiện
- Khơng thực hiện

10

2

83
17

2. Hướng dẫn theo nội dung kế hoạch giáo dục
- Hướng dẫn chi tiết, cụ thể
- Hướng dẫn chung chung

8
4

67
33

9
3

75
25

3. Nội dung hướng dẫn
- Chỉ hướng dẫn phần quan trọng
- Hướng dẫn các nội dung theo yêu cầu

Câu 2: Những khó khăn mà giáo viên gặp phải khi hướng dẫn học sinh tự học
Nội dung
1. Chưa có phương pháp hợp lí
14


Số lượng

Tỷ lệ %

4

33


2. Chưa có biện pháp để kiểm tra kiến thức học
sinh tự học
3. Thiếu sự hướng dẫn cụ thể cho việc tự học

5

41

3

26

Câu 3: Việc tiến hành hướng dẫn hoạt động tự học cho học sinh
Nội dung
1. Thực hiện hướng dẫn học sinh tự học
- Có
- Khơng

Số lượng

Tỷ lệ %


10
2

83
17

5
4
3

42
33
25

5
3
4

42
25
33

5
7
0

42
58
0


5
5
2

42
42
16

2. Cơ sở tiến hành hướng dẫn tự học
- Xuất phát từ nội dung
- Từ các nội dung liên quan đến bài học
- Từ nội dung liên quan đến tên bài học
3. Mục đích việc hướng dẫn tự học
- Kiểm tra và thống kê kiến thức của học sinh
- Tạo hứng thú cho học sinh
- Tạo tình huống có vấn đề để vào bài
4. Cách thức tiến hành hoạt động tự học
- Tổ chức thành hoạt động
- Dẫn dắt
- Khác
5. Mức độ thu hút và hiệu quả
- Cao
- TB
15


- Thấp
* Nhận xét:
Kết quả khảo sát cho thấy đa số các giáo viên Địa lí trên địa bàn Huyện

Nghĩa Đàn và Thị xã Thái Hịa đều đã có sự đổi mới đầu tư cải tiến phương pháp
giảng trong việc hướng dẫn học sinh tự học. Tuy nhiên vẫn còn một số ít giáo viên
có những hạn chế nhất định như: giáo viên vẫn chưa mạnh dạn vận dụng phương
pháp, kỹ thuật dạy học tích cực vào việc hướng dẫn học sinh tự học. Do đó đang
tạo cảm giác thụ động đối với học sinh trong việc tiếp nhận kiến thức. Một số giáo
viên tâm lí mơn mình là mơn phụ nên chưa chịu đầu tư trong việc soạn giáo án, tìm
hiểu những nội dung kiến thức mới thành ra bài dạy gây nhàm chán, không tạo
được sự hứng thú cho người học. Chính vì lẽ đó bản thân tơi nghĩ người giáo viên
dạy mơn Địa lí ln phải tìm tịi, đổi mới để tìm ra phương pháp phù hợp cho từng
bài đặc biệt phải biết cách hướng dẫn học sinh tự học để đem lại hiệu quả khi giảng
dạy. Bên cạnh đó nhiều bài học trong sách giáo khoa mơn Địa lí cịn khá trừu
tượng, khó hiểu đối với học sinh phổ thơng nên việc lựa chọn hình thức, phương
pháp như thế nào để hướng dẫn học sinh tự học quả là vấn đề không mấy dễ dàng
đối với mỗi giáo viên.Vì vậy, trong quá trình dạy, dù rất cố gắng, nhiều giáo viên
cũng không thể lôi kéo sự tập trung của học sinh, hiệu quả giờ học bị giảm sút.
Chính vì lẽ đó bản thân tơi trong q trình giảng dạy bộ mơn Địa lí bậc THPT tơi
ln ln trăn trở để tìm ra giải pháp hướng dẫn học sinh tự học một cách hiệu quả
nhằm tạo hứng thú cho các em khi học bộ môn này.
2.4. Nguyên nhân của thực trạng.
Thứ nhất: Ý thức học tập: Một số bạn học tập chủ yếu với tinh thần thi trước
nhất, sau đó mới hiểu thêm về kiến thức mình học, điều này đã phần nào hạn chế ý
thức tự học của các bạn. Theo kết quả khảo sát có đến 65,4 % các bạn chỉ thỉnh
thoảng mới học Địa Lí và các bạn chỉ học trước khi thi vài ngày; 22,8 % các bạn
học thường xuyên, số còn lại thì khơng biết học lúc nào.
Chỉ có 22,8 % các bạn được khảo sát là học thường xuyên, như vậy ta thấy ý
thức tự học của các bạn là chưa cao. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng
kiến thức thu được.
Thứ hai: Cách tự học
Các bạn chưa phát huy hết hiệu quả cách học, hầu như các bạn chưa kết
hợp được các cách học với nhau. Các bạn học thuộc khi thi có kết quả cao, nhưng

sau đó kiến thức cũng ra đi rất nhanh. Các bạn tự học riêng lẻ bằng bản đồ, hiểu và
nhớ, học nhóm lại có kết quả khơng cao lắm (đa số đạt điểm 5,6,7). Do các bạn
chưa hiểu hết bản đồ nên chưa khai thác triệt để kiến thức trên bản đồ, cịn các bạn
học hiểu và nhớ nhưng chưa có cách hệ thống lại bài, nhiều kiến thức buộc phải
16


nhớ chính xác thì khơng nhớ được nên làm bài lan man, thiếu trọng tâm. Kiến thức
giữ được thì độ chính xác khơng cao lắm.
Thứ 3: Cách truyền đạt của giáo viên cũng ảnh hưởng khá lớn đến kết quả học
tập, tiếp thu kiến thức của học sinh. Kiến thức giáo viên cung cấp nhiều quá thì
khiến cho học sinh lười suy nghĩ do một phần thì tiếp thu khơng kịp, một phần do
ngại đào sâu khai thác, khơng có thời gian tự khai thác, trao đổi, thảo luận với nhau
trên lớp nên kiến thức không được khắc sâu.
Tuy nhiên đối với mơn địa lý giáo viên đã có sự thay đổi về phương pháp
giảng dạy, điều này phù hợp với nguyện vọng của học sinh, giúp cho học sinh tự
đào sâu kiến thức hơn và không sợ kiến thức bị hổng, sai vì đã có giáo viên chuẩn
kiến thức lại.
Theo khảo sát cách truyền đạt này (hướng dẫn cho học sinh tự khai thác, sau
đó chuẩn lại kiến thức) được 59,1 % ý kiến đồng tình, cao hơn rất nhiều so với
cách truyền đạt cung cấp toàn bộ kiến thức (11,4% đồng ý) và học sinh tự khai thác
hoàn tồn, khơng có sự hướng dẫn, chỉ kiểm tra kết quả.
Cũng trong đợt khảo sát 75,8 % các bạn chưa hài lòng với cách học và kết quả
đạt được của bản thân. 21,2 % hài lòng và 3 % chưa hài lịng lắm. Và khi được hỏi
là nếu có một phương pháp tự học phù hợp các bạn có quyết tâm thực hiện khơng
thì có đến 90,6 % đồng ý áp dụng.
Như vậy ta thấy các bạn luôn mong muốn tìm ra một cách học phù hợp, đem
lại kết quả cao trong học tập. Giải pháp đó là gì?
3. Một số giải pháp để xây dựng, tổ chức dạy học nhằm phát huy tính
tích cực, nâng cao năng lực tự học của học sinh trong chương trình mơn Địa lí

cấp trung học phổ thông.
3.1. Giải pháp 1: Giúp học sinh nhận thức vai trò, ý nghĩa của tự học,
xây dựng kế hoạch và phương pháp học tập.
Bước 1: Giúp học sinh nhận thức vai trò, ý nghĩa của tự học
Đa số học sinh trường THPT Thái Hịa cịn có những hạn chế sau:
- Thói quen thụ động trong q trình học tập, quen nghe, ghi, chép, nhớ và
tái hiện lại những gì giáo viên nói.
- Do chưa hình thành kỹ năng, phương pháp tự học nên kiến thức của hầu
hết học sinh tỏ ra hẫng hụt ngay từ đầu năm học, không nắm được các kiến thức đã
học một cách hệ thống và khoa học và rất ít vận dụng được kiến thức.
17


- Giai đoạn chuẩn bị cho hoạt động tự học đa số học sinh không thực hiện
được.
Tôi đã làm khảo sát nhận thức về vai trò, ý nghĩa của tự học đối với nhóm
học sinh khối 10 trường THPT Thái Hòa và thu được kết quả như sau:

TT

Nhận thức về vai trò, ý nghĩa của tự học

Tỉ lệ

01 - Nắm chắc, hoàn thiện và hiểu sâu kiến thức.

65

02 - Nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ, phát huy trí thơng minh.


61

03 - Mở rộng vốn hiểu biết, tự bổ sung kiến thức và phát triển toàn
diện con người.

47

04 - Phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo, tự giác trong
học tập.

75

05 - Nâng cao khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát.

70

06 - Nâng cao khả năng vận dụng kiến thức vào bài tập, vào thực tế.

85

07 - Nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập và có kết quả cao trong
kiểm tra, thi cử.

70

08 - Hình thành tính kỷ luật tự giác và rèn luyện phong cách làm việc
khoa học.

58


09 - Chuẩn bị những khả năng để học tập suốt đời.

43

10 - Hình thành, biến đổi và phát triển nhân cách.

51

18


Qua khảo sát cho thấy vai trò tự học “Phát huy tính tích cực, chủ động, độc
lập, sáng tạo, tự giác trong học tập” được học sinh cho rằng quan trọng hàng đầu.
Các vai trò: Mở rộng vốn hiểu biết, tự bổ sung kiến thức và phát triển toàn diện
con người; chuẩn bị những khả năng để học tập suốt đời; hình thành, biến đổi và
phát triển nhân cách được đánh giá thấp cho thấy học sinh vẫn chưa hiểu rõ được
vai trò, ý nghĩa của tự học.
Như vậy muốn học sinh nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, vai trị của tự học,
giáo viên bộ mơn cùng với giáo viên chủ nhiệm cần phải thường xuyên nhắc nhở
học sinh trong các tiết học và có thể lồng ghép nội dung này vào các tiết hoạt động
ngoài giờ lên lớp.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch học tập.
Để tìm hiểu thực tế việc lập kế hoạch học tập của học sinh. Tơi đã tiến hành
điều tra, quan sát, trị chuyện, trao đổi, thống kê…với một số giáo viên và học sinh.
Kết quả như sau:
* Ý kiến tự đánh giá của học sinh: Chỉ có 40% học sinh tự nhận là có lập kế
hoạch tự học trong đó 71% học sinh tự làm kế hoạch cịn lại 29% học sinh có sự
giúp đỡ của giáo viên, cha mẹ, anh, chị.
* Ý kiến của giáo viên: Có 35% giáo viên cho rằng học sinh có lập kế hoạch
tự học. Trong (71% HS lập kế hoạch tự học) đó:

- HS lập kế hoạch tự học từng ngày: 64%
- HS lập kế hoạch tự học từng tuần: 3,5%
- HS lập kế hoạch tự học từng tháng: 2%
- HS lập kế hoạch tự học từng năm học: 1,5%
Để thuận lợi trong quá trình học sinh lập kế hoạch học tập, giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh cách xây dựng kế hoạch học tập, cung cấp đầy đủ kế
hoạch dạy và học của bộ môn cho các em. Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học,
giáo viên cần phải giới thiệu sơ lược về chương trình, nội dung và phương pháp
học một cách khái quát nhất để học sinh hiểu và từ đó, tự xây dựng cho mình kế
hoạch học tập phù hợp. Giáo viên làm cho học sinh hiểu rõ: kế hoạch phải được
xây dựng dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể, học sinh có thể phấn đấu
thực hiện được từng mục tiêu nếu có kế hoạch thời gian được xây dựng chi tiết.
Chẳng hạn, trong quá trình giảng dạy mỗi chương, giáo viên sẽ cung cấp nội dung
và thời gian học và kiểm tra để học sinh nắm rõ. Đồng thời, giáo viên có thể cho
học sinh đánh dấu vào trong sách bài nào học ngày nào, đến tiết nào sẽ kiểm tra.
19


Bước 3: Xây dựng phương pháp tự học.
Sử dụng phiếu hỏi và trao đổi trực tiếp với một số học sinh về các phương
pháp tự học đang sử dụng, chúng tôi thu được kết quả như sau:

TT

Mức độ sử dụng phương pháp

Thường
xuyên
(%)


Chưa
Thỉnh
bao giờ
thoảng (%)
(%)

01

Đọc tài liệu tham khảo và SGK

75,4

24,6

0

02

Học thuộc lòng bài giảng

86,3

13,7

0

03

Vận dụng kiến thức để giải bài tập


30,2

52,4

17,4

04

Hệ thống hóa và khái quát hóa kiến
thức

12

60,5

27,5

05

Làm đề cương và học theo đề cương

26,7

63,3

10

06

Tự kiểm tra đánh giá quá trình tự học


10

59,4

30,6

Qua bảng điều tra cho thấy hầu hết HS đều biết sử dụng phương pháp tự học
theo nhiều cách khác nhau. Trong đó phương pháp được sử dụng thường xuyên
nhất là học thuộc lòng bài giảng trước khi lên lớp chiếm đến 86,3% . Phương pháp
đọc tài liệu tham khảo và SGK thường xuyên chiếm tỉ lệ 75,4% và học sinh cho
rằng tất cả các môn học chứa đựng dung lượng kiến thức nhiều trong lúc thời
lượng của môn học trên lớp không tiếp thu đầy đủ được.
Kết quả điều tra còn cho thấy việc sử dụng các phương pháp vận dụng kiến
thức để giải bài tập, hệ thống hóa và khái quát hóa kiến thức, làm đề cương và học
theo đề cương, tự kiểm tra đánh giá q trình tự học chỉ sử dụng khơng thường
xun. Những phương pháp này chỉ được sử dụng khi kiểm tra 1 tiết, thi học kì.
Điều này cho thấy sự hứng thú trong học tập của một số đông học sinh chưa được
chú trọng, chưa chịu khó động não, tìm tịi trong q trình tự học, khơng phát huy
20


tính tích cực và chủ động trong học tập. Đặc biệt chưa biết phân tích, tổng hợp các
vấn đề của bài học.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả tự học của học sinh thì:
* Về phía GV:
- Chuẩn bị cho dạy học: Nghiên cứu tài liệu, soạn giáo án (Xác định mục
tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện..) gắn với đối tượng học sinh của trường,
chú trọng đến việc thiết kế bài giảng theo hướng giúp học sinh ngay trong giờ học
trên lớp. Thiết kế hệ thống các dạng bài tập nhận thức đảm bảo yêu cầu phù hợp

mục tiêu bài học nhằm giúp học sinh lĩnh hội tri thức mới, củng cố, mở rộng, đào
sâu kiến thức.
- Quy định về việc dạy học trên lớp: Kiểm tra kết quả tự học của học sinh, tổ
chức giờ dạy trên lớp theo phương pháp dạy - tự học để năng cao năng lực tự học
cho học sinh. Kết thúc mỗi tiết giáo viên giao nhiệm vụ tự học cho học sinh tùy
theo mức độ đối tượng học sinh và yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ tự học.

21


Chùm ảnh minh họa: Học sinh hăng hái thực hiện các nhiệm vụ tự học
- Về kiểm tra đánh giá: Tăng cường việc kiểm tra bài, kết quả tự học của học
sinh thơng qua các hình thức trực tiếp như (kiểm tra miệng, viết (15 phút) trước khi
vào bài mới, lồng ghép vào bài, củng cố) hoặc kiểm tra bằng hình thức gián tiếp
thơng qua các phần mềm. Nội dung kiểm tra bám sát vào những yêu cầu bài tập,
nhiệm vụ tự học giáo viên đã giao. Sau các bài kiểm tra một tiết, kiểm tra kết thúc
học kì, năm học cần bố trí tiết trả bài và giải quyết những vấn đề học sinh còn thắc
mắc.
- Động viên, khuyến khích, kích thích các hoạt động tự học của học sinh.
* Về phía học sinh:
- Cần biết xác định mục tiêu học tập, nội dung cần học, lên kế hoạch tự học.
- Xác định kiến thức, kĩ năng cơ bản thuộc mỗi nội dung hay chủ đề.
- Hệ thống hoá kiến thức.
- Học sinh cần biết tự thể hiện, tham gia quá trình thảo luận, biết tự đánh giá,
tự điều chỉnh bản thân và biết vận dụng kiến thức đã học vào các tình huống thực
tiễn.
- Nắm được phương pháp và kỹ thuật tự học thông dụng, bao gồm: kỹ thuật
nghe, ghi chép bài, đọc bài hiệu quả, cách ghi nhớ thông tin, sử dụng bản đồ tư duy
và ứng dụng công nghệ thông tin trong tự học.
- Biết lập kế hoạch học tập bộ mơn: (GV có thể trợ giúp cho học sinh)


KẾ HOẠCH HỌC TẬP BỘ MÔN: …………..
(Áp dụng cho từng bài, từng tuần hoặc cho cả học kì)
I. Mục tiêu:
Những kiến thức cơ bản phải đạt được:
-…………………………………….
-…………………………………………
22


II. Phương pháp

Kiến thức cơ bản đạt được
………………………….

Phương pháp
……………………………

III. Xác định thời gian dành cho bộ môn

Thứ
………………………….

Thời gian học
………………………….

IV. Rút kinh nghiệm
- Ưu điểm: …………………..
- Những vấn đề cần khắc phục:……………………….
Trong học kì I năm học 2021 - 2022, tơi đã chọn bốn lớp 10H, 10A, 10C,

10M có điểm đầu vào tương đương để khảo sát hiệu quả áp dụng giải pháp. Tơi
thấy rằng điểm trung bình mơn của học sinh ở các lớp Tn có sự tiến bộ rõ rệt so với
các lớp ĐC:
Số liệu khảo sát điểm trung bình mơn:
Kết quả

Lớp

Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu - Kém
10 H (ĐC)
3/43 (7,3%)
18/43 (43.9%) 18/43 (43,9%) 2/43 (4.9%)
10 A (Tn) 12/44 (27.27%) 24/43 (54.55%) 8/43 (18.8%)
0/43 (0%)
10 C (Tn) 19/45 (44.2%) 21/45 (46.7%)
5/45 (11.1%)
0/43 (0%)
10 M (ĐC) 5/45 (11.2%)
14/45 (31.1%) 20/45 (44.4%) 6/45 (13.3%)
(Kết quả này được thể hiện qua hệ thống vnedu.vn của trường THPT Thái Hịa)
3.2.

Giải pháp 2: Tìm hiểu, nắm bắt khả năng tự học của học sinh.

Bước 1: Giúp học sinh xây dựng được một môi trường học tập ở nhà
hiệu quả, hứng thú.
Thực tế cho thấy đa số học sinh trường THPT Thái Hịa cịn có những hạn

chế trong việc xây dựng môi trường học tập tự học ở nhà như:
23


+ Chưa chú trọng đến việc xây dựng môi trường học tập ở nhà.
+ Góc học tập cịn sơ sài, chưa ngăn nắp, khoa học.
+ Nhiều học sinh cịn có thói quen tiện đâu học đó.
Qua đó tơi đã làm khảo sát nhận thức về vai trò của việc xây dựng môi
trường học tập tự học đối với học sinh khối 11 trường THPT Thái Hòa và thu được
kết quả là tới 90% các em đều cho rằng việc xây dựng môi trường tự học ngăn nắp,
gọn gàng, khoa học giúp các em hứng thú, hưng phấn, thoải mái và tập trung hơn
đối với việc học tập.
Để giúp cho học sinh xây dựng được một môi trường học tập tự học hiệu
quả ở nhà tôi thông qua những tiết học cũng như các tiết sinh hoạt đã lồng ghép
việc hướng dẫn cho học sinh xây dựng một môi trường học tập hiệu quả, khoa học
như sau:
Việc có được một góc học tập, một không gian học tập riêng giúp học sinh
có được sự hứng thú, khả năng tư duy, sáng tạo, thoải mái để có thể tự học ở nhà
một cách tốt nhất. Để góc học tập sinh động, Học sinh có thể sắm cho mình một
vài vật dụng dễ thương, có một chiếc đèn bàn, vì ánh sáng đèn bàn giúp gia tăng
khả năng tập trung .Trên giá sách, nên đặt một lọ hoa nho nhỏ để có thêm chút tinh
thần khi ngồi xuống bàn học.

24


Ảnh: Góc học tập của một số học sinh trường THPT Thái Hịa.

Ngồi ra có thể dán thêm hai mục tiêu: gần (trong ngày hơm đó) và xa (đỗ
ĐH, danh hiệu Học sinh giỏi của trường…), các em sẽ thấy cần phải có trách

nhiệm hơn với việc học của bản thân. Góc học tập càng ngăn nắp bao nhiêu càng
thấy tâm lý thoải mái, đơn giản và dễ thuộc bài hơn bấy nhiêu. Có thể nói góc học
25


×