Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

DẠY HỌC BÀI 6 CÔNG DÂN VỚI CÁC QUYỀN TỰ DO CƠ BẢN (TIẾT 2) MÔN GDCD LỚP 12 BẰNG HÌNH THỨC SỬ DỤNG PHIÊN TOÀ GIẢ ĐỊNH ở TRƯỜNG THPT DTNT TỈNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.79 MB, 53 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI
DẠY HỌC BÀI 6: CÔNG DÂN VỚI CÁC QUYỀN TỰ DO
CƠ BẢN (TIẾT 2) MÔN GDCD LỚP 12 BẰNG HÌNH THỨC
SỬ DỤNG PHIÊN TỒ GIẢ ĐỊNH Ở TRƯỜNG THPT DTNT TỈNH

Thuộc lĩnh vực: Phương pháp dạy học bộ môn GDCD

Nghệ An, tháng 04 năm 2022

1


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT DTNT TỈNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI
DẠY HỌC BÀI 6: CÔNG DÂN VỚI CÁC QUYỀN TỰ DO
CƠ BẢN (TIẾT 2) MÔN GDCD LỚP 12 BẰNG HÌNH THỨC
SỬ DỤNG PHIÊN TỒ GIẢ ĐỊNH Ở TRƯỜNG THPT DTNT TỈNH
Thuộc lĩnh vực: Phương pháp dạy học bộ môn GDCD

Người thực hiện: Đinh Thị Mừng
Tổ:
Khoa học xã hội
Điện thoại:
0982.037.680

Nghệ An, tháng 04 năm 2022


1


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT……………………………………………………3
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..4
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………………..4
2. Phạm vi và đối tượng nghiên……………………………………………………5
3.Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………...5
4. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………………5
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài………………………………………...5
PHẦN NỘI DUNG..………………………………………………………………7
1. Cơ sở lý luận...………………………………………………………………......7
1.1. Một số hiểu biết về phiên tòa giả định và đặc điểm của phiên tòa giả định?....7
1.1.1 Một số hiểu biết về phiên tòa giả định………………………………………7
1.1.2. Phiên tòa giả định có những đặc điểm sau:………………………………. ..9
1.1.3. Tầm quan trọng của phiên tòa giả định………………………………….….9
1.2. Sự cần thiết phải giáo dục kiến thức pháp luật cho học sinh THPT………….10
1.3. Nội dung kiến thức pháp luật cần giáo dục cho học sinh THPT……………..11
1.4. Đặc điểm tâm lý học sinh THPT……………………………………………..12
1.4.1. Đặc điểm tâm lý học sinh THPT nói chung……………………………......12
1.4.2. Đặc điểm tâm lý học sinh trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh ……………..13
2. THỰC TRẠNG VỀ KIẾN THƯC PHÁP LUẬT CỦA HỌC SINH TRƯỜNG
THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH ……………………………………………...14
2.1 Vài nét về trường THPT DTNT tỉnh ………………………………………...14
2.2. Thực trạng về giảng dạy mơn GDCD nói chung và kiến thức pháp luật nói
riêng cho học sinh trường THPT DTNT Tỉnh hiện nay ………………….............14
2.2.1. Thực trạng về giảng dạy mơn GDCD nói chung. ………………………….14
2.2.2. Thực trạng kiến thức pháp luật của học sinh trường THPT DTNT Tỉnh hiện
nay………………………………………………………………………………...16

2.3. Các yếu tố hạn chế ảnh hưởng đến giảng dạy Bài 6: Công dân với các quyền
tự do cơ bản (tiết 2) môn GDCD lớp 12 bằng hình thức sử dụng phiên tịa giả định
ở trường THPT DTNT Tỉnh.”…………………………………………………….17
2.4. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng đề tài đặt ra………………………18

Trang 1


3. KINH NGHIỆM DẠY BÀI 6 (TIẾT 2) MÔN GDCD LỚP 12 BẰNG HÌNH
THỨC SỬ DỤNG PHIÊN TỊA GIẢ ĐỊNH Ở TRƯỜNG THPT DTNT
TỈNH………………………………………………………………………………20
3.1.Giáo viên là người xác định mục tiêu và định hướng tổ chức học sinh thực hiện
các biện pháp xây dựng nội dung bài học………………………………………...20
3.2. Giáo viên phối hợp, đồng hành cùng học sinh thực hiện nội dung bài học......21
4. THỰC NGHIỆM …………………………………………………………........23
4.1. Mục đích và giả thuyết thực nghiêm…………………………………………23
4.2. Kế hoạch thực nghiệm và điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp…………23
4.3. Nội dung thực nghiệm………………………………………………………..24
4.4. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của đề tài nghiên cứu……………….38
4.5. Kết quả đạt được của đề tài…………………………………………………..44
5. BÀI HỌC KINH NGHIỆM…………………………………………………….47
5.1 Giáo viên cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể, phù hợp với điều kiện, tình hình
thực tế của nhà trường, lớp học trước khi thực hiện ………………......................47
5.2. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học luôn lấy học sinh làm trung tâm…48
5.3. Các biện pháp giáo viên sử dụng phải luôn hướng vào thay đổi hành vi học
sinh theo hướng tích cực……………………………………………………….....48
5.4. Giáo viên cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức trong nhà trường để tuyên
truyền phổ biến pháp luật cho học sinh đạt hiệu quả cao…………………………49
5.5. Giáo viên luôn phải thấu hiểu học sinh để tạo nên tiết lớp học sinh động, và
hứng thú…………………………………………………………………………..59

6. Hướng phát triển của đề tài………………………………………………….....59
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………………………50
1. Kết luận………………………………………………………………………...50
2. Kiến nghị……………………………………………………………………… 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………..51

Trang 2


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

- THPT: Trung học phổ thông
- THCS: Trung học cơ sở
- DTNT: Dân tộc nội trú
- HS: Học sinh
- GDCD: Giáo dục công dân
- GD & ĐT: Giáo dục và Đào tạo
- PTDTNT: Phổ thông dân tộc nội trú
- GV: Giáo viên
- BGH: Ban giám hiệu
- SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm.

Trang 3


PHẦN MỞ ĐẦU.
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Pháp luật là thành tựu của trí tuệ và là nét đẹp văn hóa trong đời sống xã hội.
Đó là biểu hiện của văn minh thông qua cách ứng xử của con người với nhau, ứng
xử với tự nhiên và xã hội. Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trị đặc biệt quan

trọng. Nó là phương tiện khơng thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình
thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là
một công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà cịn tạo mơi trường thuận lợi cho sự
phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hố đời sống xã hội và góp phần bồi
đắp nên những giá trị đạo đức mới. Pháp luật thiết lập trật tự, sự công bằng và dân
chủ, mang đến cho mọi công dân sự tự do và niềm hạnh phúc. Chính vì vậy, pháp
luật là một phần khơng thể thiếu của đời sống con người.
Thế nhưng, cùng với sự phát triển của xã hội, mỗi chúng ta được sống trong
mơi trường văn minh, hiện đại hơn, kéo theo đó là nhiều vấn đề nảy sinh. Một
trong những vấn đề đáng lo ngại hiện nay, đó là tình trạng vi phạm pháp luật của
một bộ phận không nhỏ học sinh THCS, THPT đang diễn ra khá phổ biến hiện
nay.... dẫn đến tình trạng bạo lực học đường, hiếp dâm, nói xấu nhau trên mạng
xã hội, vi phạm giao thông, nghiện ngập hay những vụ án nghiêm trọng đang diễn
ra trong thanh thiếu niên. Đặc biệt là tình trạng bạo lực học đường liên tục xảy ra
đã trở thành nỗi bức xúc của toàn xã hội và trở thành nỗi lo lắng không chỉ cho
các bậc phụ huynh, thầy cô mà còn là nỗi lo của tất cả những người quan tâm đến
sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Để góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật, nâng cao kiến thức và ý thức cho học sinh hiện nay trong thực hiện và chấp
hành pháp luật thì nhà trường và ngành giáo dục đóng vai trị hết sức quan trọng
trong việc trang bị kiến thức và kỹ năng sống, kỹ năng ứng phó, làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật. Các em học sinh lớp 12, những chủ nhân tương lai của đất
nước có được hành trang pháp luật vững chắc bước vào cuộc sống mới sẽ trở thành
những công dân có ích cho xã hội, chung tay xây dựng và phát triển đất nước, chủ
động hội nhập thế giới.
Môn GDCD ở trường THPT đã được khẳng định là môn học có vị trí hàng
đầu trong việc định hướng phát triển nhân cách của học sinh thông qua việc cung
cấp hệ thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức - nhân văn, đường lối chính sách lớn
của Đảng, Nhà nước và pháp luật, kế thừa các truyền thống đạo đức, bản sắc dân
tộc Việt Nam, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa, tiếp

thu những giá trị tốt đẹp của nhân loại và thời đại. Đây cũng là mơn học đóng vai
trị chủ đạo trong việc tuyên truyền pháp luật cho các em học sinh THPT hiện nay.
Nhận thức được vai trò đó nên trước mỗi bài học tơi ln trăn trở làm thế nào
để giáo dục ý thức pháp luật qua môn GDCD? Nội dung pháp luật nào phù hợp với
kiến thức bài học? Đổi mới phương pháp dạy học như thế nào để khơi dậy tính tích
Trang 4


cực, chủ động, sáng tạo giúp học sinh tìm hiểu các kiến thức pháp luật và tăng
cường kỹ năng thực hành, ở học sinh... Đó là lý do thơi thúc tơi tìm đến đề tài
“Dạy học Bài 6: Cơng dân với các quyền tự do cơ bản (tiết 2) môn GDCD lớp 12
bằng hình thức sử dụng phiên tịa giả định ở trường THPT DTNT Tỉnh.”
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: Là học sinh lớp 12 và Bài 6 (tiết 2) môn GDCD lớp 12
năm học 2020 -:- 2021 và tập trung vào việc giáo dục một số kiến thức, hành vi
pháp luật cơ bản cho học sinh trong giai đoạn hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu:
+Học sinh lớp 12 trường THPT DTNT Tỉnh, Bài 6 (tiết 2), sách giáo khoa
GDCD 12.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu lý luận về dạy học bằng
phiên tòa giả định. Đồng thời nghiên cứu nội dung sách giáo khoa Bài 6 (tiết 2),
đọc nhiều tài liệu tham khảo, chương trình “Tịa tuyên án” trên VTV6, tài liệu
chuyên sâu liên quan đến nội dung bài học và những tình huống pháp luật mà học
sinh dễ vào vai.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Thông qua dự giờ của đồng nghiệp, trao
đổi với giáo viên chủ nhiệm, học sinh để xây dựng kịch bản, luyện tập, công diễn
trước lớp và rút kinh nghiêm.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm giảng dạy
GDCD Bài 6 (tiết 2) theo hướng đi sâu làm sáng tỏ nội dung kiến thức pháp luật

cần thiết để giáo dục cho học sinh.
- Phương pháp thống kê toán học: Xử lý các số liệu (điểm số) bằng xác suất
thống kê tốn học và tính độ lệch chuẩn của học sinh.
4. Mục đích nghiên cứu:
- Góp phần làm cho giờ dạy sinh động hứng thú, đạt hiệu quả như mong
muốn và xứng tầm với giá trị môn GDCD.
- Tạo điều kiện cho các em thực hành các kỹ năng và thể hiện sự sáng tạo
trong xử lý tình huống cũng như định hướng nghề nghiệp.
- Tạo sân chơi tạo điều kiện cho học sinh tham gia tìm hiểu pháp luật, tuyên
truyền pháp luật, rèn luyện các kỹ năng về giao tiếp, ứng xử, làm việc theo nhóm...
- Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho học sinh
trong giai đoạn hiện nay và học sinh tại trường THPT DTNT Tỉnh.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài.

Trang 5


Đề tài là phiên tòa giả định và vai trò của phiên tịa giả định trong việc dạy
học mơn GDCD, nhằm gây được sự chú ý, thích thú của học sinh đồng thời kích
thích khả năng nắm bắt, liên hệ vấn đề của học sinh và chỉ ra tính cấp thiết cần
giáo dục kiến thức pháp luật cho thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh trường THPT
DTNT Tỉnh nói riêng và học sinh THPT hiện nay nói chung.

Trang 6


PHẦN NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1.1. Một số hiểu biết về phiên tòa giả định và đặc điểm của phiên tòa giả định?
1.1.1. Một số hiểu biết về phiên tịa giả định

- Giả định coi điều nào đó như là có thật để lấy đó làm căn cứ
Phiên tịa là hình thức hoạt động xét xử của Tịa án. Tùy theo tính chất của thủ
tục xét xử mà có phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Thuật ngữ “Phiên tòa giả định” (“Moot Court” hay “Mooting”) được sử dụng
phổ biến tại các trường luật trên thế giới như một hình thức hoạt động nghiên cứu
và thực hành pháp lý của sinh viên các trường luật, trong đó các sinh viên đóng vai
luật sư của các bên trong một vụ việc giả định, tranh luận về nội dung của vụ việc
đó trước các thẩm phán của tòa giả định.
Phiên tòa giả định (Moot Court ) là phương pháp giảng dạy mô phỏng, một
khái niệm khá mới đối với các em học sinh ở Việt Nam nhưng với những sinh viên
luật nói riêng và sinh viên đại học nói chung ở các nước trên thế giới, tổ chức và
tham gia một phiên tòa giả định lại vốn rất quen thuộc. Phiên tịa giả định chính là
nơi các em được tham gia vào chính các phiên tịa thử nghiệm để cùng tìm hiểu và
tranh luận với nhau về một vụ án cụ thể. Tại phiên tòa giả định, học sinh, sinh viên
khơng phải chỉ hiểu và trình bày các quy định pháp luật, nguyên tắc và học thuyết
pháp lý, mà còn phải biết cách diễn giải và thuyết phục thẩm phán về các lập luận
của mình.
Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện, sinh viên được thực hành, rèn luyện
các kỹ năng chuyên ngành như: quy trình mở tòa, kỹ năng tranh tụng, kỹ năng điều
hành phiên tòa, kỹ năng hành nghề luật sư,… đồng thời, củng cố và nâng cao kiến
thức chuyên môn, phương pháp vận dụng các điều khoản pháp luật vào tình huống
cụ thể của mỗi nhân vật. "Phiên tịa giả định" là hình thức tái diễn lại tồn bộ hoặc
một số tình tiết của vụ án mà nội dung được xây dựng dựa theo những tư liệu trong
thực tiễn xét xử thực tế tại địa phương. Mơ hình này vừa có thể phát huy những
yếu tố tích cực giống như phiên tịa lưu động; mặt khác, vì là "giả định" nên linh
hoạt hơn trong cách vận dụng vào yêu cầu nhiệm vụ của công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, đặc biệt là cho thanh thiếu niên. Việc kể lại vụ án thông qua "Phiên
tịa giả định" trước hết có vẻ như là để thỏa mãn nhu cầu tâm lý tò mò của người
nghe, người xem, nhưng xét ở góc độ tun truyền thì "Phiên tịa giả định" chính là
những thơng điệp có ý nghĩa giáo dục pháp luật, xây dựng nhận thức pháp luật

đúng đắn cho mọi người.
Phiên tịa giả định mang tính trực quan không chỉ phản ánh những hành vi
phạm tội, các quy định pháp luật nghiêm cấm, mức án được áp dụng, mà còn giúp
người dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên hiểu rõ hơn hoạt động của những người
cầm cân nẩy mực, giúp người xem biết được ranh giới giữa cái đúng và cái sai,
Trang 7


tính nghiêm minh của pháp luật hình sự nước ta đối với những người phạm tội
thông qua mức án được tuyên xử.

Bạo lực học đường

Xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác trên mạng xã hội

Vi phạm luật giao thông đường bộ
Trang 8


Đến với phiên tòa giả định bạn sẽ mãn nhãn với sự tái hiện kịch tính về một
vụ án thực sự, các kiến thức về pháp luật, kỹ năng ứng xử đối đáp trên tòa, kỹ năng
hùng biện, tranh biện và sử dụng luật.
Xuất phát từ giá trị phổ biến của pháp luật, việc giáo dục pháp luật nhằm đưa
pháp luật đến với mọi người, qua đó hiện thực hóa quyền được thông tin và đảm
bảo quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trở thành hoạt động tự thân của
nền giáo dục.
1.1.2. Phiên tịa giả định có những đặc điểm sau:
-" Phiên tịa giả định" là hình thức tun truyền có tính phối hợp liên kết cao
giữa các cơ quan, đơn vị, tổ chức xã hội... do đó thu hút được nhiều lực lượng tham
gia. Tác động trực tiếp đến đối tượng tuyên truyền nhờ yếu tố "người thật, việc

thật".
-" Thơng điệp" từ phiên tịa mang tính cảnh báo, răn đe cao làm cho những
đối tượng có ý đồ bất chính phải tự điều chỉnh hành vi của mình để chung sống với
cộng đồng.
- Giản lược một số trình tự, thủ tục về tố tụng, nhấn mạnh yếu tố tuyên truyền
phổ biến và giáo dục pháp luật.
- Mô hình "Phiên tịa giả định" có nhiều điểm linh hoạt khi vận dụng công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là cho thanh thiếu niên.
Tuy nhiên, để tổ chức được một "Phiên tòa giả định" đòi hỏi phải có sự liên
kết phối hợp của nhiều cơ quan, đơn vị để thực hiện nhiều công việc khác nhau
như đã trình bày ở phần trên, do đó địi hỏi phải có sự quan tâm tạo điều kiện, phối
hợp chỉ đạo tích cực của Thủ trường các cơ quan, đơn vị liên quan mới thực hiện
thành công được. Do trong quá trình chuẩn bị có sự tốn kém nhiều về thời gian,
cơng sức và kinh phí nhưng sản phẩm sau khi hoàn thành thường sử dụng chỉ một
vài lần, làm cho hình thức "Phiên tịa giả định" chưa được nhiều nơi chú trọng.
Đây là vấn đề cần được quan tâm để có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị
vận dụng nhiều hơn nữa mơ hình "Phiên tịa giả định" vào công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật cho thanh thiếu niên.
1.1.3. Tầm quan trọng của phiên tòa giả định
- Thực tế triển khai các phiên tòa giả định ở tại các trường THPT trên địa bàn
toàn tỉnh cho thấy, mơ hình này là hoạt động sáng tạo, có nhiều ý nghĩa trong việc
tuyên truyền pháp luật, được dư luận địa phương quan tâm, đánh giá cao. Qua đó
đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong cộng
động, đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu niên và nâng cao hiệu quả phong trào “Toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” trên địa bàn tồn tỉnh, góp phần cùng các ngành, các
cấp làm tốt công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật đối với đồn viên thanh niên.
- “ Phiên tịa giả định” Tuyên truyền pháp luật cho học sinh THPT, với các
chuyên đề: Phòng chống hành vi sai phạm về pháo; Phòng chống bạo lực học
Trang 9



đường; Xâm hại sức khỏe vị thành niên; Vi phạm quy định về Luật an tồn giao
thơng; Phịng chống tệ nạn ma túy...là một trong những hình thức tuyên truyền
pháp luật hiệu quả, tạo ấn tượng mạnh mẽ cho các đồn viên thanh niên tham dự
chương trình bởi tình huống thực tế, sát hợp với đời sống của giới trẻ.
Quá trình diễn ra phiên tịa giả định, các tình tiết trong vụ án sẽ thực sự lôi
cuốn đối với các em học sinh, giáo viên và mọi người tham dự. Các “vai diễn”,
nhất là vai “bị cáo” được lựa chọn đảm bảo phù hợp với tâm lý, sự hiểu biết pháp
luật của đoàn viên thanh niên tham dự tại phiên tịa. Bên cạnh đó, phát biểu luận
tội của đại diện Viện kiểm sát, các ý kiến của Hội đồng xét xử đã giúp các em học
sinh cùng những người tham dự phiên tòa nhận thức rõ, hành vi sai phạm của bản
thân ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội.
Trên cơ sở những kết quả đã thu được từ mơ hình “Phiên tòa giả định”, thời
gian tới, học sinh trường THPT DTNT Tỉnh sẽ tăng cường phối hợp tiếp tục thực
hiện mơ hình này; xây dựng kế hoạch và tổ chức nhiều phiên tịa giả định gắn với
các vụ việc, tình huống pháp lý cụ thể nhằm góp phần đa dạng hóa mơn học và sự
hứng thú của học sinh đối với mơn GDCD.
Thơng qua việc tổ chức “Phiên tịa giả định” góp phần định hướng đến tầng
lớp thanh - thiếu niên trong trường học cần phải cố gắng học tập, rèn luyện đạo đức
và trau dồi kỹ năng sống. Với tình huống giả định sát với thực tế, nội dung thể hiện
sinh động phù hợp với giới trẻ, đã giúp các em cũng như bà con nhân dân hiểu biết
hơn về luật pháp, ý thức chấp hành pháp luật và nhận thức được những hành động
của mình để tránh những điều đáng tiếc có thể xảy ra, đồng thời cịn là bài học cho
các bậc phụ huynh cần phải quan tâm hơn trong việc quản lý và giáo dục con cái.
1.2. Sự cần thiết phải giáo dục kiến thức pháp luật cho học sinh THPT.
Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện vừa là mục tiêu vừa là
động lực phát triển của nền giáo dục ở giai đoạn mới. Trong xã hội hiện đại, giáo
dục không chỉ chú trọng phát triển về trí lực và thể lực mà còn quan tâm đến giáo
dục nhân cách, đạo đức, trong đó nhấn mạnh ý thức tơn trọng pháp luật của thế hệ
trẻ. Để thực hiện mục tiêu trên giáo dục pháp luật cho học sinh THPT được đặc

biệt chú trọng. Giáo dục pháp luật cho học sinh trong trường THPT có những đặc
thù về đối tượng, chủ thể, nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục. Vì vậy,
việc nghiên cứu lý luận, tìm hiểu thực trạng, qua đó xây dựng các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho học sinh trong trường THPT là hoạt động
có ý nghĩa quan trọng.
THPT là nấc thang cuối cùng của giáo dục phổ thông, là giai đoạn quan trọng
trong q trình hình thành, phát triển và tiến tới hồn thiện nhân cách của học sinh.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua các hoạt động
giáo dục pháp luật ở các cơ sở giáo dục đã được triển khai song song với tiến trình
đổi mới nền giáo dục. Giáo dục pháp luật trong trường học bước đầu mang lại
những tín hiệu tích cực và trở thành nội dung giáo dục văn hóa khơng thể thiếu
Trang 10


trong quá trình giáo dục, đào tạo con người mới phát triển toàn diện. Tuy vậy, giáo
dục pháp luật cho học sinh trong trường THPT vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế dẫn
đến hiệu quả giáo dục còn thấp, thể hiện ở sự thiếu hiểu biết về pháp luật của học
sinh; sự thờ ơ, thiếu niềm tin vào pháp luật vẫn phổ biến và tình trạng vi phạm
pháp luật ở lứa tuổi THPT đang gia tăng về số lượng và mức độ nguy hiểm. Chính
vì vậy, việc tìm ra giải pháp giáo dục pháp luật cho học sinh trong các trường có
hiệu quả là yêu cầu cấp thiết nhằm bổ sung nguyên lý giáo dục, góp phần xây
dựng lý luận, định hướng hoạt động thực tiễn và nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục pháp luật cho học sinh trong nhà trường.
So với hình thức giáo dục pháp luật nói chung và hình thức giáo dục pháp luật
cho các đối tượng cụ thể khác như cán bộ, công chức, phụ nữ, nơng dân... nói riêng
thì hình thức giáo dục pháp luật cho học sinh THPT phong phú, sâu sắc, đặc biệt
giáo dục pháp luật qua dạy học môn GDCD là hình thức mang tính đặc thù, chỉ có
thể được thực hiện trong trường học.
Phương pháp dạy học môn GDCD chủ yếu là phương pháp thuyết trình,
phương pháp đàm thoại, phương pháp trực quan, phương pháp nêu vấn đề, phương

pháp thảo luận nhóm, phương pháp động não, phương pháp đóng vai, phương pháp
dự án. Đặc điểm chung về phương pháp giáo dục pháp luật cho học sinh trong
trường trung học phổ thông so với phương pháp giáo dục pháp luật cho các đối
tượng ở các cấp học khác là sự phóng khoáng, nhấn mạnh tư duy phản biện và tăng
cường năng lực hoạt động thực tiễn cho học sinh. Giáo dục pháp luật cho học sinh
trong trường THPT có vai trị đặc biệt quan trọng. Trước hết, thông qua việc cung
cấp hệ thống tri thức pháp luật giáo dục pháp luật hình thành, phát triển nhân cách
học sinh THPT. Giáo dục pháp luật giúp các em hiểu được điều hay lẽ phải, nhận
biết được những chuẩn mực tốt đẹp về lòng nhân ái, sự cơng bằng, bình đẳng, dân
chủ, lịng khoan dung, biết yêu cái đẹp, cái chân chính, biết đấu tranh với cái xấu
và trong những tình huống cụ thể các em biết nên và cần ứng xử như thế nào cho
phù hợp với đạo lý làm người. Đồng thời giáo dục pháp luật cịn góp phần phịng,
chống hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm trong nhà trường và ngoài xã hội.
Bằng việc trang bị kiến thức, giáo dục kỹ năng xử lý tình huống pháp luật, giáo
dục pháp luật cho học sinh THPT giúp học sinh biết và hiểu được ý nghĩa tích cực
của hành vi pháp luật từ đó tự giác thực hiện nghiêm minh pháp luật, đồng thời xây
dựng tình cảm pháp luật đúng đắn và bồi đắp ý thức trách nhiệm của các em trong
việc đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật trong nhà trường và xã hội.
Đặc biệt, giáo dục pháp luật góp phần bảo tồn, sáng tạo và phát triển văn hóa
và văn hóa pháp lý. Giáo dục pháp luật giáo dục học sinh cách thức sàng lọc, lựa
chọn các giá trị văn hóa tiến bộ, phù hợp với các chuẩn mực pháp luật, loại bỏ
những hành vi sai trái, đi ngược với những giá trị pháp luật, qua đó phát triển văn
hóa pháp lý trong nhà trường.
1.3. Nội dung kiến thức pháp luật cần giáo dục cho học sinh THPT.
Trang 11


Nội dung giáo dục pháp luật cho học sinh trong trường THPT bao gồm:
Một là, giáo dục pháp luật cung cấp những kiến thức mang tính lý luận về nhà
nước và pháp luật.

Hai là, giáo dục những chuẩn mực cơ bản của pháp luật như dân chủ, cơng
bằng, bình đẳng, công lý, tự do...
Ba là, những kiến thức pháp luật cơ sở thuộc những lĩnh vực quan trọng trong
đời sống xã hội liên quan trực tiếp đến đời sống vật chất và tinh thần, lao động và
học tập của học sinh.
Bốn là, những kỹ năng xử lý tình huống cũng như thực hiện các quy tắc xử sự
của pháp luật.
1.4. Đặc điểm tâm lý học sinh THPT
1.4.1. Đặc điểm tâm lý học sinh THPT nói chung
Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ.
Do cơ thể các em đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh tạo
điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ. Học sinh THPT thuộc độ tuổi từ 16
-:- 18 tuổi với những biến đổi mạnh mẽ về tâm sinh lý, thể chất.
Theo tâm lý học phát triển học sinh THPT thuộc độ tuổi đầu thanh niên (Lứa
tuổi thanh niên là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước
vào tuổi người lớn, thời kỳ từ 15 -:- 25. Tuổi được chia làm 2 giai đoạn 15 -:-18
tuổi và 18 -:- 25 tuổi).
Tuổi học sinh THPT là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Tuy
nhiên tính dễ bị kích thích ở tuổi thanh niên vẫn cịn nhưng khơng phải chỉ do
ngun nhân sinh lý như lứa tuổi thiếu niên mà còn do cách sống của cá nhân ở độ
tuổi này như (hút thuốc lá, không giữ điều độ trong học tập, lao động, vui chơi…)
Trong gia đình, lứa tuổi THPT đã có nhiều quyền lợi và trách nhiệm như
người lớn. Cha mẹ bắt đầu trao đổi với con cái ở lứa tuổi này về vài vấn đề quan
trọng như: sự thay đổi của cơ thể, nề nếp, lối sống, sinh hoạt và điều kiện kinh tế
của gia đình.
Ở nhà trường, học tập vẫn là chủ đạo nhưng tính chất và mức độ thì cao hơn
lứa tuổi thiếu niên. Lứa tuổi này địi hỏi tính tự giác và độc lập hơn.
Học tập vẫn là hoạt động chủ đạo của hoc sinh THPT. Với những yêu cầu cao
hơn về tính tích cực và độc lập trí tuệ. Muốn lĩnh hội được sâu sắc mơn học phải
có trình độ tư duy. Địi hỏi phải có chức năng động và độc lập ở lứa tuổi này. Thái

độ tự ý thức về việc học tập cho tương lai được nâng cao.
Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học
sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này. Bởi ý
thức của học sinh được biểu hiện ở nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc
điểm tâm lý của mình theo các chuẩn mực đạo đức của xã hội, theo quan điểm về
Trang 12


mục đích cuộc sống. Điều này khiến học sinh quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý,
những phẩm chất nhân cách và năng lực riêng, cũng như tự đánh giá khả năng của
mình.
Giai đoạn này, học sinh khơng chỉ tự ý thức về cái tơi của mình mà cịn nhận
thức vị trí của mình trong tương lai. Học sinh THPT có nguyện vọng thể hiện cá
tính của mình trước mọi người một cách độc đáo, tìm cách để người khác quan tâm
đến mình hay làm điều gì đó nổi bật.
Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý thanh niên vì họ đang
có nhu cầu khám phá, tìm hiểu về thế giới. Học sinh THPT đã có ý thức xây dựng
lý tưởng sống cho mình, biết xây dựng hình ảnh con người lý tưởng gần với thực tế
sinh hoạt hàng ngày.
Học sinh THPT đã xuất hiện nhu cầu lựa chọn vị trí xã hội trong tương lai cho
bản thân và phương thức đạt tới vị trí xã hội ấy. Càng cuối cấp thì xu hướng nghề
nghiệp càng được thể hiện rõ và mang tính ổn định hơn. Tuy nhiên, sự hiểu biết về
yêu cầu nghề nghiệp của của học sinh còn phiến diện, chưa đầy đủ, vì vậy cơng tác
hướng nghiệp cho học sinh có ý nghĩa rất quan trọng.
Chính vì vậy việc giáo dục pháp luật cho học sinh thơng qua phiên tịa giả
định là một việc làm cầu quan trọng, đó là kiến thức cơ bản để các em bảo vệ mình
trước các tệ nan xã hội hiện nay.
1.4.2. Đặc điểm tâm lý học sinh trường THPT Dân tộc nội trú Tỉnh
Nghệ An là một tỉnh nằm ở vùng Bắc Trung Bộ nơi có gió lào cát trắng, nắng
chói chang, nhưng ẩn trong đó bao thăng trầm, với nhiều biến cố khắc nghiệt và

đầy hào hùng trong quá trình vươn lên tồn tại và phát triển.
Hàng năm số học sinh được tuyển vào trường dân tộc nội trú có sự chênh lệch
về trình độ kiến thức, do một số em ở những vùng khó khăn vùng sâu, vùng biên
giới về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ giáo viên thiếu thốn, thậm chí nhiều
nơi khơng có giáo viên, nên vốn kiến thức ở cấp trung học cơ sở của các em bị
hổng rất nhiều. Hơn nữa các em những học sinh ở các huyện miền núi lần đầu tiên
được xuống thành phố học tập và sống xa nhà về tâm sinh lý có nhiều thay đổi.
Khả năng giao tiếp, tiếp nhận thơng tin, kiến thức, xử lý tình huống cịn nhiều
hạn chế, chậm chạp.
Chưa biết cách vận dụng, lựa chọn phương pháp học tập một cách đúng đắn
hợp lý, phương hướng và kế hoạch học tập các mơn học cịn nhiều bất cập.
Học sinh trường DTNT sống xa gia đình nên địi hỏi các em phải có tính tự
lập cao, nhiều em khơng có đủ tự tin để đối mặt với những khó khăn gặp phải
trong cuộc sống. Bởi vậy đối diện với khó khăn đã khó, ứng phó với khó khăn lại
càng khó hơn. Khơng tự tin vào bản thân của mình, kỹ năng sống cịn ít nên đa số
học sinh nội trú mục tiêu còn rất mờ nhạt ngại tham gia hoạt động xã hội, nên rất
dễ rơi vào các tệ nạn, cám dỗ của xã hội. Vì vậy thơng qua phiên tịa giả định các
Trang 13


em học sinh hào hứng đón nhận, góp phần: “Nâng cao ý thức pháp luật và hình
thành thói quen thực tốt kỷ luật kỷ cương, kỹ năng thực hiện hành vi đúng với quy
định của pháp luật, tiến đến xây dựng mơi trường học đường an tồn, lành mạnh,
thân thiện”, cho học sinh DTNT nói riêng và học THPT nói chung.
2. THỰC TRẠNG VỀ KIẾN THỨC PHÁP LUẬT CỦA HỌC SINH
TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH
2.1 Vài nét về trường THPT DTNT Tỉnh
Cùng với sự đổi mới của đất nước, Tỉnh Nghệ An nói chung các huyện miền
núi nói riêng đã có nhiều đổi mới trong mọi lĩnh vực như: Tư duy - kinh tế - văn
hóa - giáo dục... Đặc biệt để giúp người dân các huyện miền núi thốt khỏi cảnh

nghèo nàn lạc hậu, khơng cịn cách nào khác ngoài việc đầu tư vào giáo dục, nhằm
nâng cao dân trí, bồi dưỡng đào tạo nhân tài, đào tạo con em đồng bào dân tôc của
các huyện trên địa bàn của tỉnh trở thành cán bộ ưu tú. Để thực hiện điều đó vào
ngày 15/10/1984 được sự cho phép của các cấp lãnh đạo, trên địa bàn Thành Phố
Vinh, nằm cạnh quốc lộ 1A một ngôi trường dành cho học sinh các dân tộc miền
núi ra đời, ngôi trường mang tên “Trường thanh thiếu niên dân tộc vùng cao Nghệ
Tĩnh”, từ ngày 09/9/1991 được đổi tên thành Trường THPT DTNT Tỉnh.
Mục tiêu của trường là đào tạo nguồn cán bộ và nguồn nhân lực cho các
huyện miền núi trong tương lai. Trường THPT DTNT Tỉnh là một trường học đặc
biệt ở đây các thầy cô phải thực hiện đồng thời hai chức năng: nuôi và dạy. Thầy
cô giáo không chỉ làm nhiệm vụ truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn là người
cha, người mẹ hướng dẫn, chăm sóc, giúp đỡ các em từ chuyện ăn, ở, sinh hoạt nội
trú lẫn nề nếp học tập hàng ngày. Nét đặc biệt của mái trường này còn ở sự đa dạng
thành phần dân tộc của học sinh: Thái, Thổ, Thanh, Mơng, Khơ Mú, Ơ Đu…đều
có cả. Mỗi em, mỗi miền quê mà chỉ nghe thôi cũng thấy trắc trở, xa xơi: từ
Mường Ải, Mường Típ, đến Mỹ Lý, Keng Đu, Khe Khặng, Thạch Ngàn, Mơn Sơn,
Bình Chuẩn, Mai Sơn… Từ những đặc thù của trường nội trú, việc dạy và học ở
trường THPT DTNT Tỉnh khó khăn hơn rất nhiều so với các trường THPT khác.
Nhưng các thế hệ thầy và trò ở đây đã cùng nhau phấn đấu để nhà trường thắm mãi
những mùa hoa. Gần 40 năm xây dựng và trưởng thành, trường THPT DTNT Tỉnh
vinh dự được nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động Nhất, Nhì, Ba; đươc
cơng nhận đạt chuẩn quốc gia; nhiều tập thể và cá nhân được Thủ tướng Chính
phủ, Bộ GD&ĐT, UBND tỉnh tặng bằng khen, hiện nay trường là một trong năm
trường trọng điểm của tỉnh. Trường THPT Dân tộc nội trú Tỉnh xứng đáng là con
chim đầu đàn trong hệ thống các trường DTNT của tỉnh, nằm trong tốp đầu về chất
lượng đào tạo của hệ thống các trường THPT DTNT cả nước.
2.2. Thực trạng về giảng dạy môn GDCD nói chung và kiến thức pháp luật nói
riêng cho học sinh trường THPT DTNT Tỉnh hiện nay.
2.2.1. Thực trạng về giảng dạy mơn GDCD nói chung.
Trang 14



Mơn GDCD trong chương trình giáo dục phổ thơng đóng vai trò to lớn trong
việc giáo dục đạo đức, học sinh về ý thức và hành vi, góp phần trang bị cho học
sinh kỹ năng sống, rèn luyện ý thức sống của người cơng dân, góp phần hình thành
và phát triển ở các em những phẩm chất và năng lực cần thiết của công dân trong
một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là việc làm vừa mang tính cấp bách,
có tính lâu dài và cũng khơng hề đơn giản trước những làn sóng văn hóa của thời
kỳ hội nhập và phát triển kinh tế thị trường. Đặc biệt là khi chúng ta đang quyết
tâm triển khai thực hiện có hiệu quả việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục,
đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học, chuyển
mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển con người
tồn diện thì hơn bao giờ hết, bộ mơn GDCD giữ vị trí vơ cùng quan trọng, là môn
học cần thiết, không chỉ trang bị cho người học những tri thức đạo đức mà điều
quan trọng là rèn luyện cho học sinh thói quen, kỹ năng và thực hiện hành vi quan
hệ giao tiếp, ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Tuy nhiên
theo kết quả đánh giá sơ bộ về tình hình giảng dạy bộ mơn giáo dục cơng dân, giáo
dục đạo đức cho học sinh tại các trường THPT trên địa bàn tỉnh, bên cạnh những
kết quả đạt được như các trường đã có nhiều bước đột phá, đổi mới để nâng cao
chất lượng giảng dạy bộ môn GDCD và giáo dục đạo đức học sinh, từng bước
hoàn thiện cách dạy và cách học của bộ môn GDCD. Thông qua môn học đã trang
bị cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản về các giá trị đạo đức, pháp
luật, lối sống, đồng thời hình thành và phát triển ở học sinh những tình cảm, niềm
tin, những hành vi và thói quen phù hợp với những giá trị và chuẩn mực đạo đức
truyền thống của dân tộc. Trong thực tế thực trạng giảng dạy bộ mơn GDCD nói
riêng và giáo dục đạo đức cho học sinh tại các trường học trong hệ thống giáo dục
quốc dân trên địa bàn tỉnh cũng còn tồn tại những bất cập nhất định.
Mặc dù trong nhứng năm qua môn GDCD đã được đưa vào là môn thi tốt
nghiệp THPT và đã được sở giáo dục, ban giám hiệu nhà trường nhận thức, xác
định vị trí, tầm quan trọng của bộ mơn GDCD trong giáo dục, rèn luyện đạo đức

cho học sinh, song đến thời điểm hiện nay, trong tâm niệm của đa số phụ huynh và
học sinh có con học khối tự nhiên họ vẫn cịn lối suy nghĩ bộ mơn GDCD là bộ
môn phụ trong nhà trường, là môn học không có trong các kỳ thi quan trọng như
thi tốt nghiệp hay thi đại học nên học sinh thường học chỉ để có đủ điểm, bỏ qua
vấn đề suy ngẫm, tìm hiểu thêm kiến thức đằng sau mỗi bài học, thậm chí là học
qua loa, học cho xong.
Dù các trường đã có nhiều nỗ lực và cố gắng trong đổi mới phương pháp
giảng dạy áp dụng phát triển năng lực số vào giảng dạy, nhưng các tiết học cịn “bó
khung” trong khn khổ của lớp học, giờ dạy nặng tính lý thuyết, thiếu những tư
liệu, trích đoạn “người thật việc thật”, những tình huống “thật”… cho nên sức
thuyết phục, độ cảm xúc của bài dạy chưa cao. Hơn nữa thời lượng dành cho mơn
GDCD chỉ có 1 tiết/tuần mà lượng kiến thức thì khá nhiều, khơng chỉ riêng nội
dung chính thức mà nhiều nội dung giáo dục khác nhau cũng "bị giao" cho môn
Trang 15


GDCD để “tích hợp” nên việc dạy học mang nặng tính khái qt, giáo viên khơng
có nhiều thời gian giảng dạy cặn kẽ cho học sinh những nội dung, vấn đề nào đó
mà học sinh có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn.
Công tác phối hợp giữa cấp uỷ, Ban Giám hiệu với tổ chức Cơng đồn, Đồn
Thanh niên, Hội Phụ huynh, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn đã được thực
hiện trong việc giáo dục học sinh về đạo đức, ý thức pháp luật, tuy nhiên kết quả
vẫn chưa phát huy hết nội lực, mối tương quan trách nhiệm giữa nhà trường, gia
đình và xã hội trong việc giáo dục đạo đức, pháp luật cho các em chưa được thể
hiện rõ nét. Từ đó, phần lớn tại các trường vẫn cịn tình trạng một bộ phận nhỏ học
sinh chấp hành chưa nghiêm túc nội quy nhà trường, động cơ, ý thức thái độ học
tập yếu, thiếu lễ phép với người lớn, tình trạng bạo lưc học đường, xúc phạm nhâm
phẩm danh dự, nói xấu và phốt nhau lên trang mạng xã hội…
2.2.2.Thực trạng kiến thức pháp luật của học sinh trường THPT DTNT Tỉnh
hiện nay.

Thiết nghĩ, trước thực trạng trên, trong giảng dạy bộ môn giáo dục công dân,
giáo dục đạo đức cho học sinh hiện nay, thì vấn đề giáo dục kiến thức pháp luật
cho học sinh đang được tồn xã hội quan tâm.
Để đánh giá chính xác thực trạng của học sinh về kiến thức pháp luật tôi đã sử
dụng các câu hỏi ở các mức độ khác nhau.
Với câu hỏi: Theo thầy/cô kiến thức pháp luật và ý thức pháp luật của học
sinh trường Dân tộc nội trú ở mức độ nào?
Kết quả thu được như sau:
Câu hỏi

Theo thầy/cô kiến thức pháp luật và ý thức pháp luật
của học sinh trường Dân tộc nội trú ở mức độ nào?

Đáp án

Tốt

Bình thường

Cịn hạn chế

Tỉ lệ

5,26%

43,68%

51,06%

Qua ý kiến của các thầy cô giáo ở hai trường THPT DTNT dạy các bộ môn

khác nhau cho ta thấy các mức độ về kiến thức pháp luật của học sinh trường dân
tộc nội trú như sau: Tốt chiếm 5,26%, bình thường chiếm 43,68%, cịn hạn chế
chiếm 51,06%. Điều đó cho thấy thực trạng hiểu biết về kiến thức pháp luật của
học sinh các trường DTNT đang ở mức nghiêm trọng.
Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách và pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển toàn diện của trẻ em và người
chưa thành niên. Chính phủ, các bộ, ban, ngành và chính quyền các cấp đặc biệt
nghành giáo dục luôn đã đề ra nhiều chương trình, kế hoạch tuyên truyền phổ biến,
cũng như áp dụng nhiều biện pháp để tăng cường bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã
hội, đấu tranh phịng và chống vi phạm pháp luật nói chung trong đó có vi phạm
Trang 16


pháp luật của người chưa thành niên nói riêng. Tuy nhiên, tình hình học sinh, vi
phạm pháp luật và phạm tội ở nước ta hiện nay vẫn có xu hướng gia tăng và diễn
biến phức tạp. Đặc biệt có một bộ phận thanh thiếu niên đã tham gia vào các băng
nhóm tội phạm có tổ chức, phạm tội có sử dụng bạo lực với tính chất cơn đồ hung
hãn; thực hiện các hành vi giết người, cướp của, chống người thi hành công vụ, bảo
kê/ đâm thuê, chém mướn gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng.
Theo thống kê của cô giáo Nguyễn Thị Tuất trong chuyên đề phổ biến pháp
luật (ngày 27/10/2021) số người chưa thành niên có nguy cơ vi phạm pháp luật là
71.581 người. Về cơ cấu tội phạm, theo thống kê mới nhất của Viện Kiểm sát nhân
dân Tối cao và Cục Cảnh sát Điều tra Tội phạm về trật tự xã hội, thì hành vi vi
phạm pháp luật hình sự của người chưa thành niên tập trung nhiều nhất vào các
nhóm tội xâm phạm sở hữu; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh
dự con người, một số tội xâm phạm an toàn cơng cộng, trật tự cơng cộng. Trong đó
tội danh trộm cắp tài sản chiếm 38%, cố ý gây thương tích chiếm 11%, đặc biệt là
giết người chiếm 1,4% trong tổng số tội phạm do người chưa thành niên phạm tội.
Từ thực trạng nêu trên, chúng ta có thể thấy vấn đề giáo dục kiến thức pháp
luật là rất cần thiết giúp cho các em biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều

chỉnh giao tiếp sao cho hiệu quả và phù hợp nhất. Điều này giúp học sinh có mối
quan hệ tích cực với bạn bè, với các thành viên trong gia đình, thầy cơ, có cách ứng
xử phù hợp trong mọi hoàn cảnh sẽ hạn chế tối đa các hành vi vi phạm pháp luật.
Với câu hỏi: Em cảm thấy kiến thức pháp luật trong chương trình lớp 12 có
quan trong đối với các học sinh trường Dân tộc nội trú hay không?
Kết quả như sau:
Câu hỏi
Đáp án
Tỉ lệ

Em cảm thấy kiến thức pháp luật trong chương trình lớp 12 có
quan trong đối với các học sinh trường Dân tộc nội trú hay khơng?
Quan trọng

Khơng quan trọng

Bình thường

8,77%

37,58%

53,65%

Từ khảo sát trên ta thấy học sinh học còn rất hạn chế về kiến thức pháp luật
và chưa thấy được tầm quan trọng của pháp luật trong cuộc sống. Chính vì vậy mà
khi các em giao tiếp với bên ngoài dễ dàng sa vào các tệ nạn xã hội cũng như vi
phạm pháp luật bởi sự thiếu hiểu biết.
2.3. Các yếu tố hạn chế ảnh hưởng đến giảng dạy Bài 6: Công dân với các
quyền tự do cơ bản (tiết 2) mơn GDCD lớp 12 bằng hình thức sử dụng phiên

tịa giả định ở trường THPT DTNT Tỉnh.”
Trường THPT dân tộc nội trú Tỉnh là loại hình trường chuyên biệt 100% học
sinh là con em người dân tộc thiểu số ở miền núi cao, vùng sâu, vùng biên giới khó
khăn, do điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị học tập, môi trường giáo dục...
Trang 17


thiếu thốn khó khăn nên ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng và hiệu quả giáo dục,
điều đó được thể hiện.
Hàng năm số học sinh được tuyển vào trường dân tộc nội trú có sự chênh lệch
về trình độ kiến thức, do một số em ở những vùng khó khăn vùng sâu, vùng biên
giới về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ giáo viên thiếu thốn, thậm chí nhiều
nơi khơng có giáo viên, nên vốn kiến thức ở cấp trung học cơ sở của các em bị
hổng rất nhiều. Hơn nữa các em những học sinh ở các huyện miền núi lần đầu tiên
được xuống thành phố học tập và sống xa nhà về tâm sinh lý có nhiều thay đổi.
+ Khả năng giao tiếp, tiếp nhận thơng tin, kiến thức, xử lý tình huống cịn
nhiều hạn chế, chậm chạp.
+ Chưa biết cách vận dụng, lựa chọn phương pháp học tập một cách đúng đắn
hợp lý, phương hướng và kế hoạch học tập các mơn học cịn nhiều bất cập.
+ Khả năng phát hiện, phân tích giải quyết mâu thuẫn trong quá trình học tập,
tiếp thu nội dung kiến thức bài học đạt kết quả chưa cao.
+ Thời lượng dành cho mơn học nói chung cũng như kiến thức Bài 6 nói riêng
là q ít, nội dung cần chuyển tải khơng chỉ của GDCD mà cịn thực hiện nhiệm vụ
lồng ghép một số kiến thức của các mơn khác nên việc đa dạng hóa các hình thức
giáo dục pháp luật qua môn GDCD là không hề đơn giản.
+ Hầu hết các em học sinh trong nhà học theo học các mơn khoa học tự nhiên
nên khơng có kiến thức chuyên sâu về các môn khoa học xã hội; kiến thức pháp
luật thì mang tính hàn lâm, khơ khan, cứng nhắc; Tài liệu phục vụ cho công tác
giảng dạy hầu như khơng có; Việc tổ chức cho học sinh tham gia một phiên tòa xét
xử lưu động chưa được triển khai nên dạy học bằng phiên tòa giả định phụ thuộc

vào khả năng và nhiệt huyết của giáo viên bộ môn.
+ Bài học với dung lượng kiến thức khá dài, trong một giờ nội khóa, phải làm
sao để giải quyết tốt một bên là lượng kiến thức cơ bản cần truyền đạt với một bên
là phải làm sáng tỏ nhiệm vụ của đề tài. Đây là một khó khăn rất lớn đối với giáo
viên.
+ Bản thân tham gia nhiều hoạt động và phong trào khác của nhà trường nên
cũng ảnh hưởng tới thời gian nghiên cứu.
+ Cơ sở vật chất của nhà trường chưa đủ để tổ chức các hoạt động trải
nghiệm, minh họa, thực hành, tâp làm... mang tính sáng tạo của học sinh.
+ Nhiều khía cạnh, nội dung kiến thức, tình huống pháp luật nhằm giáo dục
cho học sinh vẫn chưa được thể hiện một cách sâu sắc.
2.4. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng đề tài đặt ra.
Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định “giáo dục là
quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị
Trang 18


kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi
với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội”.
Trọng tâm là “... đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đạo tạo phát triển
nguồn nhân lực, phấn đấu trong những năm tới, tạo ra chuyển biến căn bản, mạnh
mẽ chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo làm cho giáo dục đào tạo thật sự là quốc
sách hàng đầu, đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc và
nhu cầu học tập của nhân dân, là yêu cầu bức thiết của toàn xã hội, yêu cầu của hội
nhập quốc tế trong kỷ ngun tồn cầu hóa”.
Nâng cao chất lượng đào tạo là một nhu cầu bức thiết của xã hội ngày nay đối
với các cơ sở đào tạo, là sự sống cịn có tác động mạnh mẽ đến chất lượng đào tạo
nguồn lực cho sự phát triển xã hội. Trong rất nhiều các giải pháp nhằm nâng cao

chất lượng đào tạo thì giải pháp đổi mới phương pháp dạy học được xem là khâu
vô cùng quan trọng hiện nay ở tất cả các cơ sở giáo dục. Thực trạng phương pháp
dạy học ngày nay vẫn là phương pháp thuyết trình. Phương pháp thuyết trình lấy
cơng nghệ dạy học gắn với quan điểm: “Lấy người dạy làm trung tâm” khơng cịn
phù hợp với phương pháp dạy học mới ngày nay.
Phương pháp “học qua hành” tập trung vào việc khuyến khích và động viên
người học tự giác tìm kiếm, học bằng cách đọc, tự mình tổ chức và xử lý thơng tin
thay vì lệ thuộc vào bài giảng của người thầy. Người học phải có ý thức, thái độ
“tích cực” cho việc học của họ, đọc tài liệu trước khi lên lớp và tập trung vào các
hoạt động như trao đổi, tranh luận, phân tích và ứng dụng thực tế ngay trên lớp
nhằm tích lũy thêm tri thức, đó là kỹ năng cần thiết để nâng cao năng lực giải
quyết các vấn đề.
Sử dụng phương pháp học tập tích cực, người dạy đóng vai trò là “người
hướng dẫn” giúp người hộc thu được kết luận đúng thơng qua sự chỉ dẫn, khuyến
khích cũng như thách thức họ đạt được mục đích học tập. Trực tiếp ứng dụng
những kiến thức học được trong các cơ sở đào tạo vào thực tế sẽ giúp cho người
học tiếp thu tài liệu tốt hơn và dần dần hình thành, phát triển thái độ, ý thức học tập
cả đời.
GDCD là mơn học có tầm quan trọng đặc biệt trong việc giáo dục nhân cách,
rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh góp phần đổi mới căn bản tồn diện giáo dục
theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW. Vì vậy,việc đổi mới dạy học mơn GDCD
theo hướng tích cực phải đảm bảo các yêu cầu:
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS
- Dạy học GDCD thông qua các hoạt động của học sinh.
- Đổi mới PPDH GDCD theo quan điểm hợp tác.
- Dạy học GDCD phải gắn với thực tiễn cuộc sống của học sinh.
Trang 19


- Dạy học GDCD phải kết hợp giữa PPDH và phương pháp giáo dục đạo đức,

giữa các PPDH hiện đại và PPDH truyền thống
- Dạy học GDCD phải chú trọng sử dụng có hiệu quả các thiết bị dạy học
- Dạy học GDCD cần phải phối, kết hợp các lực lượng giáo dục trong và
ngồi nhà trường.
Vì vậy khi dạy kiến thức Bài 6 (tiết 2) GDCD lớp 12 theo hình thức phiên tịa
giả định thì lớp học trở thành phiên tịa thu nhỏ, ở đó học sinh trong vai thẩm phán,
thư ký, luật sư, kiểm sát viên, bị cáo, bị hại….với những câu chuyện tái hiện lại đời
sống xã hội, được tranh biện rất trình tự. Để dựng lên những phiên tịa thu nhỏ
ngay trong lớp học, ngồi kiến thức sách vở, các em cịn phải tìm hiểu thêm kiến
thức về việc xây dựng một phiên tòa, các thành phần của phiên tịa, tiến trình thực
hiện một phiên tịa dựa trên hình thức của “Tịa tun án”. Nội dung phiên tịa tái
hiện lại những câu chuyện có thật trong đời sống với các tình huống về tội giết
người, tội xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác, tội trộm cắp tài sản. Ngồi
kiến thức bài học, các em cịn thể hiện sự duyên dáng, hài hước nhưng không kém
những thơng điệp, triết lý nhân văn.
Chỉ là một phiên tồ giả định nhưng cách thức tổ chức thực hiện thật sự trang
trọng, tôn nghiêm thể hiện đúng tinh thần của một phiên toà xét xử. Sau khi toà
tuyên án, khắc sâu hơn kiến thức về luật pháp cho học sinh.
Với hình thức này, các phiên tịa giả định ln lơi cuốn học sinh, đến mức khi
chủ tọa nói tịa tun án thì đồng loạt cả lớp đều đứng dậy. Tình tiết, tranh biện…
gay cấn như dự một phiên tòa thực sự,
Xây dựng bài học GDCD bằng phiên tòa giả định là phương pháp được một
số trường đưa vào thực hiện nhiều năm nay. Bằng cách này kiến thức về đời sống
pháp luật sẽ gần gũi, thực tế với học sinh hơn. Ngồi độ sâu về kiến thức thì những
tình tiết, sự việc được tái hiện chính là hành trang sống để các em bước vào đời
một cách có hiểu biết và thượng tơn pháp luật.
Có thể nói khơng chỉ Bài 6 (tiết 2) mà một số bài khác của môn GDCD lớp 12
như Bài 4, bài 2...cũng có thể sử dụng hình thức dạy học bằng phiên tịa giả định
góp một thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay. Nếu được
nhân rộng phương pháp dạy học này ở các trường THPT, tôi tin tưởng rằng việc

sống và làm việc theo pháp luật sẽ trở thành một thói quen tốt có sức lan toả lớn
trong học sinh cũng như cộng đồng xã hội.
3. KINH NGHIỆM DẠY BÀI 6 ( TIẾT 2) MƠN GDCD LỚP 12 BẰNG HÌNH
THỨC SỬ DỤNG PHIÊN TÒA GIẢ ĐỊNH Ở TRƯỜNG THPT DTNT TỈNH.
3.1.Giáo viên là người xác định mục tiêu và định hướng tổ chức học sinh thực
hiện.
* Về mặt kiến thức.
Trang 20


Giúp HS hiểu được thế nào là quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức
khỏe, nhân phấm và danh dự của công dân; Nội dụng và ý nghĩa của quyền được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân phấm và danh dự của công dân.
* Về thái độ, tư tưởng.
- Có ý thức bảo vệ các quyền tự do cơ bản của mình và tơn trọng các quyền
tự do cơ bản của người khác.
- Biết phê phán các hành vi xâm phạm tới quyền tự do cơ bản của cơng dân.
- Có ý thức sống đẹp, thượng tơn pháp luật và sống có trách nhiệm với mọi
người xung quanh.
- Giáo dục niềm tin, lý tưởng sống và tình yêu quê hương, đất nước và sẵn
sàng đấu tranh để bảo vệ Tổ quốc.
* Về mặt kỹ năng: Thông qua bài học rèn luyện cho HS các kỹ năng:
- Kỹ năng tư duy: nhận biết, tái hiện, giải thích, tổng hợp, so sánh,vận dụng.
- Kỹ năng thực hành: Làm thử, quan sát, hợp tác, thuyết trình, tự đọc, tự
nghiên cứu, vận dụng bài học vào giải quyết tình huống thực tiễn và kỹ năng tìm
kiếm thơng tin trên mạng.
*Về năng lực hình thành: Thơng qua bài học hình thành cho HS các năng lực:
- Năng lực thực hành bộ mơn: Khai thác và sử dụng kênh hình có liên quan
đến bài học.
- Năng lực tổng hợp, liên hệ, xâu chuỗi các yếu tố liên quan đến vấn đề, tình

huống đặt ra, so sánh, đối chiếu.
- Năng lực đóng vai, liên hệ kiến thức pháp luật cần xử lý đúng với tình
huống đặt ra, cập nhật văn bản pháp luật hiện hành phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
3.2. Giáo viên phối hợp, đồng hành cùng học sinh thực hiện nội dung bài học
Thứ nhất: Xác định nội dung, tình huống pháp luật liên quan đến nội dung bài
học.
Thứ hai: Tìm ra những biện pháp để khắc sâu kiến thức từ đó các em tự mình rút
ra những bài học hết sức thiết thực và bổ ích trong cuộc sống của mình. Đó là bao
gồm những biện pháp chung như sau:
- Khai thác tranh ảnh, chương trình “Tịa tun án” và các phiên tòa xét xử
lưu động ở địa phương.
- Sử dụng kỹ thuật động não nhận diện tình huống, xây dựng kịch bản tình
huống, kịch bản hay, “diễn viên” giỏi. (Cần phối hợp với các cơ quan như ngành
Tư pháp, ngành Tòa án, Viện Kiểm sát, tổ chức Đồn thanh niên... Trong đó phía
Tịa án lựa chọn vụ án, cung cấp bản án và "cố vấn" nội dung hoạt động "xét xử",
"tuyên án"). Bên cạnh xây dựng kịch bản tình huống thì kịch bản phiên tịa là khâu
Trang 21


then chốt, phải bảo đảm sao cho các bước diễn biến của "Phiên tịa" khi "cơng
diễn" được thể hiện lại gần giống với vụ án thật, mặc dù đã lược bỏ bớt một số chi
tiết, thủ tục của phiên tòa thật. Do đó "kịch bản" vừa phải hàm súc, hồn chỉnh
phản ánh tương đối đầy đủ các tình tiết của vụ án đã diễn ra. Nội dung phần đối
đáp giữa các nhân vật trong các vai thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên,
bị cáo, bị hại...; phần phát biểu quan điểm của vị đại diện Viện Kiểm sát, phần
tuyên án của Hội đồng xét xử tại "Phiên tòa" phải được các cố vấn chun mơn của
ngành Tịa án giúp đỡ biên tập sao cho trong phần lớn các lời thoại đều có chứa nội
dung pháp luật cần tuyên truyền hoặc chứa những thơng điệp có ý nghĩa giáo dục
nhận thức về pháp luật sâu sắc.
Cần chú ý: Tùy theo tình huống của từng câu chuyện, có thể lồng ghép đưa

thêm một số quy định pháp luật liên quan vào "Phiên tòa", như vấn đề trách nhiệm
liên đới giữa các bị cáo về bồi thường thiệt hại; trách nhiệm của cha mẹ, người
giám hộ đối với người chưa thành niên trong một số trường hợp được pháp luật
quy định...; trách nhiệm của nhà trường, gia đình và xã hội.
- Sử dụng phương pháp hợp tác, thảo luận.
- Sử dụng phương pháp liên hệ thực tiễn.
- Sử dụng phương pháp tự học, tự tìm hiểu.
Thứ ba: Tổ chức diễn:
- Bài trí phiên tịa, việc bố trí khơng gian phiên tịa thực hiện theo Thơng tư
01/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Tịa án Nhân dân tối cao;
Chuẩn bị trang phục/người diễn
Tuy là một phiên tịa giả định nhưng các yếu tố chun mơn của ngành Tòa
án cũng phải được chú ý sử dụng đúng mức mới phát huy được hiệu quả, thu hút
được sự quan tâm của học sinh.
Trang phục của người đóng vai: Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm, Luật sư,
Kiểm sát viên, Cơng an…cần đúng chuẩn để bảo đảm tính nghiêm túc chất lượng
chun mơn của hoạt động.
Chọn người đóng vai, quan trọng nhất là khả năng diễn xuất, song cũng cần
chú ý đến tư cách cá nhân, ngoại hình, chất giọng, …
Chuẩn bị nội dung tuyên truyền pháp luật tại "Phiên tịa giả định"
Mục đích "Phiên tịa giả định" là để tuyên truyền pháp luật. Do đó bộ phận
nội dung phải chuẩn bị chu đáo các câu hỏi/câu trả lời liên quan đến phiên tịa. Có
hai thời điểm phù hợp cho việc tuyên truyền pháp luật tại "Phiên tòa giả định":
Trước khi khai mạc phiên tòa. Trong khoảng thời gian này, báo cáo viên
thông tin những quy định pháp luật, bộ luật mới ban hành mà nghe đang có nhu
cầu tiếp cận tìm hiểu. Cũng có thể là những thơng tin về tình hình tội phạm, vi
Trang 22


phạm pháp luật đang diễn biến phức tạp tại địa phương; những khuyến cáo của

chính quyền đối với người dân về cách phòng tránh các loại tệ nạn xã hội.
Trong quá trình nghị án. Đây là khoảng thời gian cần có mang tính thủ tục
làm cho "Phiên tịa giả định" giống như phiên tịa thật.
Người dẫn chương trình của sự kiện nên sử dụng khoảng thời gian cho báo
cáo viên làm rõ hơn một số nội dung pháp luật mà "Phiên tòa giả định" đã đề cập;
đặt ra các câu hỏi như:
+ Vụ án được hội đồng xét xử xem xét trên cơ sở của luật nào?
+ Sẽ được tuyên vơ tội/ có tội?
+ Sẽ được lượng hình như thế nào/ căn cứ Điều nào/Khoản nào/mục nào?
+ Vì sao dẫn đến phạm tội? Học sinh phạm tội có thể bị đuổi học không?
+ Làm thế nào để tránh xa việc vi phạm pháp luật, việc phạm tội như các
đương sự trong vụ án trên?
Sau đó, người dẫn chương trình hoặc người đóng vai chủ tọa phiên tịa nên có
những lời khuyên, nhắc nhở đối với người xem, là đối tượng thanh thiếu niên về
nâng cao nhận thức về cũng như ý thức chấp hành pháp luật…
Kết thúc hoạt động.
- Cần đánh giá, rút kinh nghiệm về công tác chuẩn bị, về chất lượng thể hiện,
về tính chun mơn, sáng tạo về trang phục, về hiệu quả thực tế.
Thứ tư: Những biện pháp cụ thể sẽ được thể hiện cụ thể hơn trong nội dung giáo
án thực nghiệm được thể hiện ở mục 4.
4. THỰC NGHIỆM
4.1. Mục đích và giả thuyết thực nghiêm.
Nhằm khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả của đề tài
Nếu việc thực nghiệm “Dạy học Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản
(tiết 2) mơn GDCD lớp 12 bằng hình thức sử dụng phiên tòa giả định ở trường
THPT DTNT Tỉnh.”cho học sinh trường THPT DTNT Tỉnh trong dạy học môn
GDCD lớp 12, đạt kết quả cao hơn so với việc không thực hiện hình thức sử dụng
phiên tịa giả định. Chúng tơi tiến hành thực nghiệm để chứng minh cho giả thiết
đó. Nếu tiến hành thành cơng thì có thể tiến hành vận dụng vào q trình dạy học
mơn GDCD trong tồn Tỉnh và có thể vận dụng vào dạy học mơn GDCD cho HS

các trường THPT DTNT trong cả nước.
4.2. Kế hoạch thực nghiệm và điều kiện thực hiện
*Kế hoạch thực nghiệm
- Địa bàn thực nghiệm.
Trang 23


×