Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

SKKN một số BIỆN PHÁP rèn LUYỆN TÍNH tự lập CHO TRẺ 24 36 THÁNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 24 trang )

Đề tài:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN
TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ 24-36 THÁNG”

(LĨNH VỰC: PHÁT TRIỂN TC – KN – XH - TM)

Năm học 2021 – 2022
1


SỞ GD & ĐT NGHỆ AN
TRƯỜNG MẦM NON HOA SEN
--------------- --------------

Đề tài:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN
TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ 24-36 THÁNG”

(LĨNH VỰC: PHÁT TRIỂN TC – KN – XH - TM)

Tên tác giả
Trình độ
Số điện thoại

:
:
:

Trần Thị Thúy
Đại học
0944599595



Năm học 2021 – 2022
2


MỤC LỤC
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................... 1
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU............................................................... 2
1. Cơ sở khoa học: ............................................................................................... 2
1.1.Cơ sở lí luận của việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ: ..................................... 2
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ: ................................ 2
2. Điều tra khảo sát thực trạng. ........................................................................... 4
II. Một số biện pháp để rèn luyện tính tự lập cho trẻ em 24-36 tháng................ 7
1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch hình thành kĩ năng cho trẻ phù hợp với độ
tuổi theo từng tháng............................................................................................. 7
2. Biện pháp 2. Tạo môi trường gần gũi, an tồn để trẻ phát huy tính tự lập của
bản thân ............................................................................................................... 7
3. Biện pháp 3: Khuyến khích, nêu gương trẻ trong q trình rèn luyện tính tự
lập. ....................................................................................................................... 6
4. Biện pháp 4: Phối kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục tính tự lập cho trẻ. 9
5. Biện pháp 5: Giáo dục tính tự lập cho trẻ thông qua chế độ sinh hoạt hàng
ngày ..................................................................................................................... 11
6. Biện pháp 6: Lựa chọn hình thức tổ chức. ...................................................... 17
IV. Kết quả đạt được: .......................................................................................... 20
1.1. Đối với trẻ: .................................................................................................. 20
1.2. Đối với phụ huynh:...................................................................................... 20
1.3. Đối với giáo viên .......................................................................................... 20
PHẦN III. KẾT LUẬN ....................................................................................... 21
I. Những kết luận trong quá trình nghiên cứu, triển khai SKKN. ................. 21
II. Những kiến nghị, đề xuất ............................................................................... 21


3


PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong cuộc sống, chúng ta luôn cần sự giúp đỡ, quan tâm, chia sẻ của mọi
người: Tuổi ấu thơ có sự chăm sóc của ơng bà, cha mẹ; tuổi đến trường có thầy cơ
dìu dắt và sự chia sẻ của bạn bè; lúc trưởng thành có đồng nghiệp, đồng mơn giúp
đỡ. Nhưng khơng phải vì thế mà ta qn đi khơng rèn luyện đức tính tự lập.
Vậy tự lập là gì? Tự lập nghĩa là sống và làm việc dựa vào chính khả năng,
sức lực của bản thân mình mà khơng cần phải trơng đợi, dựa dẫm vào người khác.
Trên cơ sở đã học hỏi kiến thức, rèn dũa các kĩ năng, mỗi cá nhân phải tự tách
mình ra khỏi người thân, người giúp đỡ để tự khẳng định mình theo các tiêu chuẩn
của đạo đức và thiết chế xã hội. Nhưng tự lập không có nghĩa là biệt lập, khơng có
nghĩa là chỉ biết đến mình, khơng nhờ vả ai. Quan trọng là mọi sự giúp đỡ, góp ý
đều có giá trị nhưng kết quả chính vẫn phải do mình tạo ra.
Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống con người ngày càng
được nâng lên, nhiều bậc phụ huynh nghĩ rằng yêu thương con là dành cho con
những điều kiện vật chất tốt nhất. Chẳng hạn: Quần áo đẹp, những món ăn ngon,
những đồ dùng, đồ chơi đắt tiền..v.v.. Đặc biệt là các bậc cha mẹ làm tất cả mọi
việc thay con vì sợ con sẽ bị mệt, con sẽ vất vả. Cịn ở trường mầm non có một số
cơ giáo luôn làm hộ những công việc mà lẽ ra là của các bé. Nhưng sự quan tâm,
nuông chiều một cách thái quá ấy đã khiến những đứa trẻ này không thể trưởng
thành, hình thành nhân cách và ln ln trong vịng tay của người lớn. Và khơng
phải người lớn nào cũng ý thức được rằng, mình đang làm hại con chứ không phải
thương con.
Là một giáo viên dạy trẻ ở độ tuổi 24-36 tháng, tôi thấy rất lo lắng cho
những học trị của mình. Vì các cháu được bố mẹ bảo bọc, nâng niu chiều chuộng
nên mặc dù đã lên 3 tuổi nhưng vẫn chưa làm được những việc đơn giản nhất như
đi vệ sinh, chưa biết tự thay dép, khơng biết tự rót nước uống khi khát..v.v.. Qua

thực tế và nghiên cứu tơi thấy việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ là rất quan trọng.
Nhất là đối với trẻ 24-36 tháng, việc rèn những kỹ năng tự lập ban đầu lại càng
quan trọng hơn. Vì đây là giai đoạn trẻ đã dần nhận thức được mọi thứ xung
quanh, thích bắt chước người lớn, thích được làm người lớn. Đây là cơ hội tốt để
rèn cho trẻ tính tự lập. Nếu chúng ta bỏ qua cơ hội này thì việc rèn tính tự lập cho
trẻ sau này sẽ vơ cùng khó khăn và mang lại hiệu quả kém. Nhận thức được tầm
quan trọng của việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ, tôi xin mạnh dạn đưa ra: “Một số
biện pháp rèn luyện tính tự lập cho trẻ 24-36 tháng”

1


PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở khoa học:
1.1.Cơ sở lí luận của việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ:
Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non là một trong những mặt
quan trọng của việc giáo dục con người mới phát triển toàn diện, có ảnh hưởng sâu
sắc đến sự hình thành nhân cách trẻ. Tự lập giúp cho con người nói chung, trẻ em
nói riêng nhận ra được khả năng của mình và ý nghĩa của cuộc sống. Vì vậy, luật
giáo dục (năm 2005) đã đưa ra những yêu cầu về phương pháp giáo dục là “Phải
phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học. Điều
đó nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển của xã hội. Để trẻ nhanh chóng
thích nghi với sự phát triển của xã hội, hòa nhập với cuộc sống mới thì việc hình
thành tính tự lập cho trẻ ở những năm đầu tiên của cuộc đời trẻ là rất cần thiết.
Những năm đầu đờí chính là thời điểm vàng để trẻ học tập và phát triển những kĩ
năng quan trọng. Vì vậy chúng ta cần tận dụng thật tốt cơ hội này để dạy trẻ tự lập.
Việc dạy trẻ tự lập từ nhỏ và khuyến khích tính tự lập ở trẻ đồng nghĩa với việc tạo
một tiền đề thật vững chắc để trẻ có sức bật tốt hơn khi bước đến các cột mốc phát
triển sau này.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ:

Tơi thấy nhiều trẻ lớp tơi cịn nhút nhát, ỉ lại, lười vận động, kỹ năng tự lập
của các cháu rất kém. Được sự nâng niu chiều chuộng của mọi người thân trong
gia đình nên kể cả những kỹ năng đơn giản nhất tự phục vụ mình trẻ cũng chưa
làm được. Từ quan sát và đối thoại với phụ huynh, những kĩ năng mà trẻ chưa làm
được rơi vào các nhóm sau đây:
- Kĩ năng vệ sinh cá nhân: Biết nêu yêu cầu đi vệ sinh, tự đi dép…
- Kĩ năng đáp ứng nhu cầu của bản thân: Biết báo hiệu về việc đói hoặc no,
biết xúc cơm, biết rót và uống nước.
- Kĩ năng quan sát và biểu đạt mong muốn trong hoạt động nhóm: Biết lấy
/cất đồ chơi, phối hợp chơi trong nhóm, tính hịa đồng trong trị chơi.
- Kĩ năng xử lí tình huống: Khóc khi không thấy người thân, rụt rè lo sợ đám
đông, đáp ứng yêu cầu của giáo viên..v.v..
Những việc chưa thể làm được của trẻ em, nếu không được chỉ dẫn thuộc các
nhóm trên rất phổ biến. Tình trạng khơng thể tự lập của trẻ em sẽ càng nặng nề do
các nguyên nhân căn bản sau đây:
+ Phụ huynh quá cưng chiều, nâng niu con, làm thay con tất cả mọi việc, kể
cả khi trẻ đã được giáo viên chỉ dẫn các kĩ năng phù hợp với lứa tuổi.
+ Phụ huynh q bận bịu với cơng việc, khốn cho giáo viên tại lớp, khi về
nhà không kiên nhẫn hướng dẫn con rèn luyện tính tự lập.
+ Một số phụ huynh thì lại không tin vào khả năng của trẻ, trẻ muốn làm
nhưng thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu nên người lớn thường
2


„sốt ruột‟ và làm thay trẻ, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh dần dần tạo ra sự ỉ lại,
lười biếng mất tự tin ở trẻ.
+ Tốc độ đô thị hóa xã hội diễn ra quá nhanh chóng dẫn đến nhiều nguy cơ khiến
phụ huynh lo lắng về sự an tồn của trẻ em nên vẫn có tâm lí và hành vi bao bọc.
+ Khí chất, tính cách của mỗi trẻ em là khác nhau nên giáo viên không sâu sát
để theo dõi và có phương án rèn luyện tính tự lập cho mỗi bé.

+ Hình thức thưởng và phạt trong việc rèn luyện các kĩ năng tự lập chưa phát
huy đầy đủ.
+ Phương pháp nêu gương về tính tự lập chưa thực sự hiệu quả từ gia đình
đến xã hội.
Từ thực trạng trên đây, rõ ràng, tính tự lập ở trẻ em đang trở thành một vấn
đề đáng báo động. Từ các tài liệu tổng kết và trên các trang mạng xã hội, ngày
càng nhiều phụ huynh trăn trở về con em mình chưa biết làm việc nhà, chưa biết tự
chăm sóc bản thân, vẫn phải cần sự giúp đỡ của người thân hầu hết mọi công việc.
Đây là một thực trạng đáng báo động và ngày càng nhiều trẻ em đủ tuổi công dân
vẫn “ngơ ngác” khi bắt đầu sống tự lập. Vì vậy, đề tài rèn luyện tính tự lập cho trẻ
độ tuổi 24-36 tháng mà tơi thực hiện là hồn tồn cần thiết và có tính thời sự.
a. Thuận lợi
- Trường Mầm non nơi tơi dạy là một ngơi trường khang trang sạch đẹp, có
khn viên rộng rãi, môi trường gần gũi, thân thiện với trẻ. Có đầy đủ các phịng
học chức năng. Các lớp học được bố trí thống mát về mùa hè, ấm áp về mùa
đơng, đảm bảo diện tích cho trẻ hoạt động.
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao về chuyên môn cũng như sự quan tâm
tạo điều kiện về cơ sở vật chất của nhà trường nên lớp có đầy đủ đồ dùng đồ chơi,
trang thiết bị phục vụ các hoạt động chăm sóc giáo dục cũng như hoạt động vui
chơi của trẻ tạo cho trẻ có mơi trường tốt hứng thú hơn mỗi khi trẻ đến lớp.
- Nhà trường luôn bổ sung đồ dùng đồ chơi cho lớp kịp thời, đầy đủ. Lớp
học được trang trí khoa học, đẹp mắt, đúng chủ đề, chủ điểm. Các cô luôn sáng tạo,
làm thêm nhiều đồ chơi mới tạo sự hấp dẫn đối với trẻ.
- Bản thân tôi cũng là một giáo viên có nhiều năm cơng tác, đầy lịng nhiệt
tình, u nghề mến trẻ, ln cố gắng trong q trình chăm sóc trẻ nhất là q trình
dạy trẻ kỹ năng tự lập .
- Hai giáo viên trong lớp có đồng quan điểm trong cơng tác chăm sóc giáo
dục trẻ nhất là việc rèn cho trẻ tính tự lập. Nhờ sự đồng thuận về quan điểm và sự
phối hợp ăn ý của 2 cơ nên trong q trình dạy trẻ và áp dụng những phương pháp
mới tuy gặp một số khó khăn nhưng đã thu được kết quả khá cao.

b. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi bản thân còn gặp một số khó khăn trong q trình
rèn cho trẻ kỹ năng tự lập:
3


*Về phía trẻ: Ở độ tuổi này ngơn ngữ và nhận thức của trẻ phát triển khơng
đồng đều. Có nhiều trẻ nói trọn vẹn câu nhưng cũng có nhiều trẻ cịn chưa nói rõ vì
thế trẻ khơng diễn đạt được mong muốn của mình cho cơ giáo hiểu. Vốn từ của trẻ
cịn rất ít, cơ quan phát âm chưa hồn thiện, trẻ cịn nói ngọng nhiều nên rất khó
khăn trong việc giao tiếp và tổ chức các hoạt động cho trẻ. Khi ở nhà trẻ đang là
trung tâm chú ý của rất nhiều người, trẻ được sống trong môi trường q bao bọc
khiến trẻ quen dựa dẫm, khơng có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với mơi trường
xung quanh.
Một số trẻ trong lớp tôi lần đầu tiên rời xa vịng tay bao bọc chiều chuộng
của bố mẹ ơng bà nên trong q trình chúng tơi áp dụng các biện pháp để rèn tính
tự lập cho trẻ rất khó khăn.
Trẻ ở độ tuổi này rất bướng bỉnh, có khi rất ngoan ngỗn và làm theo hướng dẫn
của cơ nhưng lại có lúc khơng chịu hợp tác khiến cơ giáo mất rất nhiều thời gian.
*Về phía giáo viên: Giáo viên nhận thức được việc phải giáo dục, rèn luyện
cho trẻ kỹ năng tự lập, tự phục vụ nhưng kết quả chưa cao. Sự đầu tư về thời gian
còn hạn chế, sợ trẻ làm sẽ hỏng, đổ vỡ nên tư tưởng “Làm ln cho nhanh” vẫn
cịn. Chưa mạnh dạn tự tin, chưa nhiệt tình trong việc giáo dục kỹ năng cho trẻ. Cơ
cịn e ngại muốn rèn cho trẻ nhưng sợ phụ huynh nghĩ rằng giáo viên lười biếng và
bắt trẻ phải làm thay cho cơ.
*Về phía các bậc cha mẹ: Ngày nay mỗi gia đình chỉ có 1- 2 con cho nên
việc chăm sóc con quá đầy đủ đồng thời lại chiều chuộng con cái, làm thay con
mọi vịêc nên khiến trẻ khơng có đức tính tự lập. Phụ huynh chưa nhận thức được
việc dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ ở độ tuổi này là rất quan trọng, còn xem trẻ là quá
nhỏ chưa cần phải học nên nuông chiều trẻ thái quá.

2. Điều tra khảo sát thực trạng.
Trước khi thực hiện sáng kiến tôi đã tiến hành điều tra khảo sát thực trạng
năm học 2020 - 2021 kết quả thu được thể hiện qua bảng sau:
Lĩnh vực khảo sát
1. Kỹ năng tự xúc cơm ăn, tự lấy
nước uống
2. Kỹ năng tự đi vệ sinh đại tiểu
tiện khi có nhu cầu.
3. Kỹ năng cất dọn đồ dùng đồ chơi
sau khi chơi xong
4. Kỹ năng tự cất đồ dùng cá nhân
(cất ba lô, cất dép)
5. Kỹ năng lấy ghế, bê ghế ngồi vào
bàn và cất ghế đúng nơi quy định.

Trước khi thực hiện

Tổng số trẻ
trong lớp

Đạt

Tỷ lệ
%

Chưa
đạt

Tỷ lệ
%


31

8

32,2

17

67,8

31

12

38,7

19

61,3

31

7

23

24

77


31

5

16,1

26

83,9

31

9

29

22

71

4


II. Một số biện pháp để rèn luyện tính tự lập cho trẻ em 24-36 tháng
1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch hình thành kĩ năng cho trẻ phù hợp với độ
tuổi theo từng tháng
Sự phát triển của trẻ sẽ chia ra nhiều bước, mà thành thục bước này rồi sẽ là
tiền đề cho trẻ tiến đến bước cao hơn. Việc rèn luyện thói quen tự phục vụ, khả
năng tự lập cho trẻ nhỏ cũng vậy, cần kiên trì và rèn luyện cho trẻ từ những việc

nhỏ, đơn giản, cho trẻ thực hành nhiều lần và nâng dần yêu cầu phù hợp với khả
năng và sự phát triển của trẻ. Chính vì vậy mà từ đầu năm học ngay sau khi nắm
bắt được tâm sinh lý và đã có kết quả khảo sát trẻ tại lớp mình việc tiếp theo mà tôi
thực hiện là xác định những kĩ năng cần dạy cho trẻ tại lớp và lập kế hoạch cụ thể
cho từng tháng từ kỹ năng dễ đến kỹ năng khó cụ thể như sau:
Tháng 9 + 10: Do trẻ mới đi học nên tôi đã lựa chọn những kĩ năng đơn giản
để thực hiện và cũng là nhu cầu tất yếu của trẻ để đưa vào hình thành và rèn luyện
tạo cho trẻ thói quen dần dần hình thành kĩ năng để trẻ tự phục vụ không cần sự
giúp đỡ của người lớn như là kĩ năng đi vệ sinh đúng nơi quy định, cách đi dép, cởi
dép, cất lên giá, bê ghế ngồi vào bàn, cách cầm thìa…đồng thời khi đưa ra các nội
dung thì cũng cần có các biện pháp để dạy trẻ thực hiện các nội dung đó cho phù
hợp với kĩ năng của từng trẻ.
Sang tháng 11+ tháng 12: Do trẻ đã làm quen với mơi trường ở trường mầm
non, trẻ bắt đầu hịa đồng với các bạn và cơ giáo, trẻ đã tích cực hơn với các hoạt
động ở trường nên kĩ năng tôi đưa vào kế hoạch là kĩ năng: Tự cất, lấy ba lô; kĩ
năng cất và lấy đồ dùng đúng nơi quy định, rèn trẻ biết tự lấy cốc uống nước, tự
lấy, cất gối khi đi ngủ…
Tháng 1+ tháng 2: Dạy trẻ biết cách cầm thìa xúc hạt, rèn kĩ năng cởi, mặc
quần áo, đi tất, đi giày. Tiếp tục rèn kĩ năng tự xúc ăn cho trẻ
Tháng 3 + tháng 4 + Tháng 5: Lúc này trẻ đã có một số kĩ năng tự phục vụ
những việc đơn giản, để chuẩn bị cho trẻ chuyển sang lớp lớn hơn tơi đã lựa chọn
các kĩ năng khó hơn để dạy trẻ: Dạy trẻ biết cách cài khuy áo, tập nói với người
lớn khi có nhu cầu ăn, ngủ, vệ sinh…
Hình thành tính tự lập cho trẻ khơng những giúp trẻ nắm vững một vài kĩ
năng hay sự tự tin trong cuộc sống, đấy cũng là một tiền đề hình thành nhân cách
con người trẻ sau này.
2. Biện pháp 2. Tạo mơi trường gần gũi, an tồn để trẻ phát huy tính tự lập của
bản thân
Một trong những bí quyết dạy trẻ kỹ năng tự lập chính là tạo mơi trường
gần gũi, an tồn giúp trẻ phát huy tính tự lập của bản thân. Bởi bất cứ đứa trẻ nào

cũng có năng lực tự lập, chỉ cần người lớn khuyến khích và cho trẻ cơ hội được
thực hiện những điều con có thể. Và việc tạo mơi trường gần gũi, an tồn cho trẻ
chính là một trong những điều kiện giúp trẻ phát huy tính tự lập của mình.
* Mơi trường tinh thần:
Việc đầu tiên muốn trẻ thoải mái trong mọi hoạt động trong ngày thì cơ giáo
phải tạo cho trẻ niềm tin, sự vui tươi, bầu khơng khí tràn đầy yêu thương giúp trẻ
5


cảm thấy đến lớp cũng như ở nhà. Cơ trị chuyện, hướng dẫn trẻ một cách khơng
gị ép, xem trẻ như người bạn, khơng bắt trẻ làm những gì mà trẻ khơng muốn bởi
vì nếu cứ ép trẻ một việc mà trẻ khơng thích thì kết quả sẽ khơng đạt được thậm
chí có khi tác dụng lại ngược lại với điều cô mong muốn.
* Môi trường vật chất:
Tôi luôn chú ý tạo cảnh quan sư phạm trong lớp học, đồ dung đồ chơi được
sắp xếp ngăn nắp, dễ thực hiện để khuyến khích trẻ tự làm trong các hoạt động,
mặt khác để giúp trẻ dễ dàng tự thực hiện được mong muốn, nhu cầu tự hoạt động
của mình. Chẳng hạn, muốn trẻ lao động tự phục vụ như tự cất, lấy đồ dùng đúng
nơi qui định, tự đi giày dép, tự mặc quần áo... thì tủ đựng đồ đùng cá nhân, giá treo
mũ, giá để giày dép có chiều cao phù hợp với trẻ để trẻ tự cất, tự lấy…

Ảnh: Đồ dùng đồ chơi sắp xếp gọn gàng, vừa tầm tay của trẻ
- Sắp xếp, bố trí các phương tiện để đồ dùng cá nhân, đồ dùng trong sinh hoạt
thuận tiện để trẻ tự lấy, cất, di chuyển, thay đổi..., tạo cơ hội để trẻ chủ động lựa
chọn phương tiện phục vụ cho hoạt động của mình, thỏa mãn nhu cầu, sở thích
trong hoạt động hàng ngày của trẻ.
Tơi xây dựng thêm góc thiên nhiên trồng nhiều cây cảnh để tạo cho trẻ một
không gian xanh, để mỗi ngày trẻ có thể tự chăm sóc cây, giáo dục trẻ biết yêu cái
đẹp. Qua hoạt động này kích thích trẻ biết u lao động, hình thành thói quen lao
động ở trẻ và tạo tình cảm của trẻ với thế giới thiên nhiên, gần gũi với thiên nhiên,

với cây cối xung quanh mình.
3. Biện pháp 3: Khuyến khích, nêu gương trẻ trong q trình rèn luyện tính tự lập.
Trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng đã nhận thức được lời khen, chê mà người khác
dành cho mình. Nếu làm một việc gì đó mà nhìn thấy thái độ của người lớn khơng
bằng lịng là trẻ sẽ thể hiện thái độ thông qua nét mặt hành động của mình. Trẻ rất
6


vui và thích thú khi được mọi người xung quanh khen thưởng. Chính vì vậy, tơi
ln theo dõi q trình thực hiện của trẻ trong các hoạt động hàng ngày, thơng qua
những nhiệm vụ được giao, thơng qua những tình huống cụ thể để kịp thời nắm bắt
được mức độ biểu hiện tự lập của trẻ và khích lệ trẻ kịp thời, nêu gương trẻ trước
cả lớp cho các ban học tập dù chỉ là những thành tích nhỏ. Từ đó giúp trẻ cảm thấy
thêm hứng khởi và ln cố gắng phấn đấu để được cơ khen, tính tự lập của trẻ từ
đó cũng ngày càng phát triển tốt hơn. Khơng những thế cịn giúp khích lệ tinh thần
của các bạn khác cố gắng tự lập để được cô giáo và các bạn khen.
Ví dụ: Trong giờ ăn cơm bạn Lam Giang ăn cơm xong trước được tôi khen:
Bạn Lam Giang giỏi quá bạn tự xúc ăn hết suất rồi, cuối tuần cô sẽ thưởng bé
ngoan cho bạn Lam Giang nhé. Vậy là các bạn khác trong lớp cũng cố gắng tự xúc
ăn nhanh hết suất để được cô giáo khen giống bạn.

Ảnh: Cơ động viên, khích lệ trẻ ăn xong trước
Ví dụ: Vào giờ nêu gương cuối ngày tơi đã nêu gương cháu: “Các con biết
không hôm nay Bạn Khánh Nguyên rất là giỏi nhé! Bạn đã biết tự đi dép rồi đấy!”
Được nêu gương cháu trước lớp, các bạn có vẻ rất ngưỡng mộ cịn cháu thì tỏ vẻ
rất hãnh diện. Vì điều đó nên cháu ln cố gắng làm tốt mọi việc để cô giáo và bạn
bè khen ngợi.
7



Ảnh: Trẻ được cơ khen trước lớp
Nói như vậy khơng có nghĩa là lúc nào cũng khen trẻ mặc cho trẻ làm đúng
hay làm sai. Nếu trẻ làm chưa đúng thì chúng ta phải động viên trẻ biết tự lập là
giỏi rồi nhưng trẻ sẽ giỏi hơn nữa nếu trẻ làm đúng sau đó nhẹ nhàng hướng dẫn
cho trẻ cách làm đúng.

.Ảnh: Cơ động viên, khuyến khích trẻ tự đi dép

8


4. Biện pháp 4: Phối kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục tính tự lập cho trẻ
Có thể thấy phối hợp với phụ huynh là biện pháp không thể thiếu trong q
trình chăm sóc ni dưỡng giáo dục trẻ nói chung và kỹ năng tự lập cho trẻ nói
riêng. Bởi vì thực tế là thời gian trẻ đến trường nhiều hơn rất nhiều so với thời gian
trẻ ở nhà. Những bài học trẻ được học ở trường giúp trẻ phát triển đúng yêu cầu ở
độ tuổi. Tuy nhiên để cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường đạt kết quả tốt nhất,
tránh trường hợp cô giáo ở lớp thì giáo dục trẻ tính tự lập, cịn về nhà cha mẹ lại
ln làm giúp trẻ mọi việc thì ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đã thông
qua chương trình giáo dục trẻ nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng
tới phụ huynh giúp phụ huynh nắm bắt và góp ý để thống nhất về nội dung và triển
khai các hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ.
Vào những giờ đón trẻ, trả trẻ tơi ln trị chuyện cởi mở với phụ huynh về
tình hình của các cháu. Và nêu lên vai trị quan trọng của tính tự lập đối với cuộc
sống hiện tại và cuộc sống tương lai của các cháu. Không nên đáp ứng mọi yêu cầu
của trẻ. Không làm thay cơng việc của trẻ, khuyến khích trẻ tự làm cơng việc vừa
sức mặc dù có thể trẻ sẽ làm đổ vỡ vì chưa quen, nhưng những lần sau trẻ sẽ rút
kinh nghiệm thêm vào đó là sự bày dạy hướng dẫn của bố mẹ giúp trẻ có được các
kỹ năng sử dụng các đồ vật thành thạo hơn.


Ảnh: Cô trao đổi với phụ huynh qua giờ đón, trả trẻ
9


- Tạo các trang liên kết giữa giáo viên với các bậc phụ huynh qua Zalo,
Facebook. Theo từng chủ đề, ngồi việc tun truyền nội dung giáo dục thơng qua
các góc trao đổi, tơi tạo các nhóm liên kết qua Zalo, Facebook để phụ huynh nắm
bắt thông tin về giáo dục trẻ ở nhà trường và lớp. Hàng ngày, tôi ghi hình về việc trẻ
tham gia trong các hoạt động ở lớp, ở trường đưa lên các trang liên kết để trẻ có dịp
xem lại, phụ huynh kịp thời nắm bắt và ủng hộ việc làm của cô, kết hợp hỗ trợ giáo
dục trẻ tại gia đình. Đối với gia đình, tơi khuyến khích phụ huynh ghi lại những việc
trẻ làm được và đăng trên nhóm để trẻ, phụ huynh trong lớp được biết, khuyến khích
tính thi đua trong trẻ, sự đồng bộ trong phụ huynh. Cuối chủ đề, tôi tạo thành những
video về những hoạt động tự lập của trẻ ở nhà cũng như ở trường theo mức độ tự lập
của trẻ trong tất cả các hoạt động trong ngày và mở cho cả lớp cùng xem, liên kết
với các gia đình qua các trang Zalo, Facebook để khích lệ tinh thần trẻ. Đồng thời,
tạo sân chơi lôi cuốn sự tham gia của các bậc phụ huynh trong lớp để cùng kết hợp
trong giáo dục trẻ nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng.

Ảnh: Trẻ tự xúc ăn khi ở nhà được bố mẹ đăng lên zalo của lớp
10


Đối với những trẻ biểu hiện tự lập chưa tốt, tôi trao đổi trực tiếp với phụ
huynh để họ nắm bắt về khả năng của trẻ. Đồng thời, nắm bắt được quan điểm giáo
dục con của họ để có biện pháp trao đổi phù hợp và cùng thống nhất về việc giáo
dục tính tự lập cho trẻ. Sau mỗi chủ đề, tôi đánh giá trẻ, rút kinh nghiệm từ bản
thân, tổng hợp ý kiến từ phụ huynh và rút kinh nghiệm cho chủ đề sau trong quá
trình sử dụng biện pháp tác động tới trẻ.
Ví dụ: Tơi nghe mẹ cháu Thùy Dương tâm sự: "Về nhà chỉ toàn mẹ đút cho

cháu ăn thôi chứ cháu chẳng bao giờ tự xúc ăn. Mà cháu chưa biết xúc đâu cô ạ.
Xúc ăn chỉ làm đổ lung tung thôi". Tôi đã khuyên mẹ cháu phải tập cho cháu xúc.
Thời gian đầu cháu xúc chưa quen nên có thể làm đổ mẹ đừng la mắng cháu. Mẹ
phải chịu khó nhẫn nại. Có thể cháu sẽ khơng ăn hết suất của mình nhưng mẹ đừng
ép cháu ăn thêm. Trẻ con rất nhạy cảm, Nếu chúng biết người lớn lo lắng chúng sẽ
càng nũng nịu mà thơi. Sau đó có thể cho trẻ ăn thêm bữa phụ. Chú ý phải ln
động viên khuyến khích để cổ vũ tinh thần cho cháu. Có làm như thế cháu mới
thấy phấn khởi để tiếp tục cố gắng. Chỉ trong vịng 2 tuần cháu đã có tiến bộ trơng
thấy. Mẹ cháu khoe với cơ: Tới nay cháu đã có thể tự xúc ăn hết khẩu phần mà
không cần mẹ phải đút nữa. Sự rèn luyện nào cũng cần có thời gian và sự kiên trì
nhẫn nại. Nhưng sau thời gian vất vả đó mà gặt hái được kết quả như ý muốn thì
thật là tuyệt vời. Bây giờ các bậc phụ huynh nhìn con họ trưởng thành hơn tơi thấy
khn mặt của họ mỗi khi gặp chúng tôi đều rạng ngời. Đó là niềm vui khơng gì
bằng với những cơ giáo mầm non như tơi. Được nhìn các cháu khơn lớn trưởng
thành trong vịng tay của tơi, được nhìn những ánh mắt yên tâm và cám ơn của các
bậc phụ huynh đối với cơ giáo mà tơi thấy lịng mình ngập tràn hạnh phúc.

5. Biện pháp 5: Giáo dục tính tự lập cho trẻ thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày
Giúp trẻ hình thành và có được kỹ năng tự lập là một việc khó nhưng để duy
trì và rèn luyện những kỹ năng đó thì càng khó hơn nhiều. Nếu những kỹ năng tốt
đẹp đó khơng được luyện tập thì chẳng mấy chốc sẽ bị mất đi. Chính vì vậy, tơi
ln tận dụng mọi lúc mọi nơi, mọi thời điểm trong ngày để duy trì thói quen và
rèn luyện tính tự lập cho trẻ.
3.1.Thơng qua giờ đón trả trẻ:
Tôi nhận thấy một thực tế là thời gian đầu khi đón trả trẻ hầu hết phụ huynh
đều làm thay trẻ tất cả các việc như: đi, cởi dép; cất, lấy đồ dùng cá nhân, cất, lấy
ghế, cất đồ chơi.... qua q trình theo dõi tơi nắm bắt được phụ huynh làm việc
thay con vì lý do gì: cho nhanh để mẹ đi làm cho kịp hay không muốn cho con làm
để từ đó tơi có biện pháp phù hợp.
Ví dụ: Đối với những phụ huynh sợ chậm giờ làm thì tơi cho trẻ làm sau khi

bố mẹ đi làm và khi ra về, còn đối với những phụ huynh khơng muốn cho con làm
vì nghĩ con đang cịn nhỏ chưa cần thiết phải làm thì vào giờ trả trẻ tơi cho cháu tự
làm để bố mẹ xem và nói cho bố mẹ thấy rằng con rất phấn khởi khi làm được
những việc giống các bạn.
11


Có một nghịch lý rằng phụ huynh thường khơng muốn cho con mình tự lập
nhưng khi thấy con mình làm được việc như các bạn khác thì vui mừng, phấn khởi.
Chính vì nắm bắt được điều đó nên khi trả trẻ tơi thường cho trẻ làm những việc đó
trước mắt bố mẹ để bố mẹ biết được con mình cũng đã khơn lớn như các bạn khác
chứ khơng cịn nhỏ như trong suy nghĩ của bố mẹ.

Ảnh: Trẻ tự cất cặp vào tủ khi đến lớp
3.2. Thông qua hoạt động chơi- tập:
Để rèn tính tự lập cho trẻ trong các giờ hoạt động học trên lớp, tôi để đồ
dùng ở các góc và cho trẻ tự đi tìm lấy và cất đồ dùng cho mình.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động với đồ vật, tôi đã chuẩn bị rổ, hôt hạt, khối gỗ…
để đồ dùng ở những vị trí khác nhau như trên bàn, đằng sau trẻ, trên giá…Đồ dùng
đồ chơi tơi thường chia thành từng nhóm nhỏ, đặt vị trí cách nhau, đảm bảo trẻ dễ
12


nhìn thấy, dễ lấy, dễ cầm, tránh việc xơ đẩy, tranh giành, chen lấn nhau khi lấy.
Sau đó mời trẻ tự lên lấy đồ dùng về chỗ thực hiện. Sau khi hoạt động xong tôi
cũng cho trẻ cất đồ dùng về vị trí mà cơ u cầu.

Ảnh: Trẻ tự đi lấy đồ dùng để hoạt động
Một số trẻ còn chậm thời gian đầu không chịu đi lấy như các bạn thì tơi
động viên trẻ hỏi trẻ: “Con đã có đồ dùng chưa? Có nhiều đồ dùng đẹp lắm con

mau lấy để chơi cùng các bạn nhé!” Sau khi trẻ lấy được thì tơi khen ngợi trẻ kịp
thời. Bằng những lời động viên khích lệ trẻ để trẻ tự lấy đồ dùng dần dần tạo cho
trẻ một thói quen tốt mỗi khi đên giờ hoạt động. Điều tơi muốn nói là với sự kiên
trì, lời nói nhẹ nhàng và khen ngợi động viên trẻ kịp thời sẽ là liều thuốc bổ ích
giúp trẻ thấy được niềm vui khi tự mình phụ vụ bản thân không cần nhờ sự giúp đỡ
của người lớn một cách vui vẻ, thoải mái không bị ép buộc.
3.3.Thông qua hoạt động vui chơi
Đối với trẻ Mầm non hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo. Trong vui
chơi trẻ được làm người lớn, được bày tỏ nhu cầu mong muốn của mình thể hiện
qua vai chơi. Khi chơi trẻ được học hỏi cách ứng xử, giao tiếp, trẻ yêu các bạn, yêu
thiên nhiên và thế giới đồ vật xung quanh mình, góp phận hình thành kỹ năng tự
lập cho trẻ ngay những ngày đầu tiên và qua đó phát triển một cách tồn diện nhân
cách trẻ.
13


Ví dụ: Khi trẻ đang chơi trị chơi xếp hàng rào tơi đóng vai chơi cùng với trẻ
khi thiếu đồ dùng tơi hướng dẫn trẻ đến góc để đồ dùng và động viên trẻ lấy thêm
để về xây tiếp. Sau khi chơi tôi nhắc nhở từng trẻ thu dọn dồ chơi cất về đúng nơi
quy định một cách gọn gàng, ngăn nắp.
Thời gian đầu tôi liên tục nhắc nhở trẻ để tạo thành thói quen sau đó chỉ cần
chơi xong nghe cô hát bài “Cất đồ chơi” là cả lớp biết cách cất đồ chơi của mình
đang chơi đúng quy định.

Ảnh: Trẻ tự cất đồ chơi sau khi chơi xong
3.4. Thơng qua giờ ăn
Để trẻ 24 – 36 tháng có các kỹ năng tự lập trong giờ ăn thì trước khi ăn, tôi
thường kê bàn và nhắc trẻ tự lấy ghế ngồi vào bàn ăn, mời cô trước khi ăn, ăn xong
biết cất bát, thìa, xếp ghế đúng chỗ quy định. Đối với trẻ độ tuổi này cô giáo dục
cho trẻ biết cách tự cầm thìa xúc ăn là cả một q trình từ dễ đến khó. Hầu hết trẻ

đang được gia đình đút cho ăn chứ khơng tự mình cầm thìa được hoặc có cầm thì
cũng lóng ngóng xúc không gọn gàng đưa thức ăn vào miệng cứ đổ ra ngồi nhiều.
Để giáo dục trẻ kỹ năng cầm thìa gọn gàng tự xúc cơm cho mình thì tơi đã cho trẻ
tiếp xúc dần từng bước một. Đầu tiên tôi cho trẻ xem video các bạn đang trong giờ
ăn và tự xúc ăn, vừa xem vừa hỏi trẻ: Các bạn đang làm gì, cầm thìa bằng tay nào?
Sau đó thơng qua các hoạt động như giờ chơi tôi gợi ý cho những trẻ chưa biết cầm
thìa chơi ở góc phân vai, tơi đóng vai chơi cùng trẻ để hướng dẫn trẻ cách cầm
14


thìa. Và cuối cùng khi vào giờ ăn tơi sẽ xếp trẻ nhành nhóm: Nhóm biết tự xúc ăn,
nhóm cầm thìa chia đúng và nhóm chưa hề biết xúc để bố trí giáo viên kềm tập cho
trẻ. Dần dần sẽ cho trẻ ngồi chung những bạn đã xúc thành thạo ngồi cạnh những
bạn mới tập xúc để trẻ học hỏi từ bạn. Dần dần trẻ lớp tôi đã quen với cách cầm
thìa khơng cịn phụ thuộc vào cơ nữa.

Ảnh: Trẻ tự xúc cơm ăn

Ảnh: Trẻ tự cất bát thìa sau khi ăn xong
15


3.5. Thông qua giờ ngủ
Giờ ngủ trưa tôi dạy trẻ biết tự lấy gối, để nằm, ngủ dậy biết cất gối đúng chỗ
quy định, giúp cô quấn chiếu. Những kỹ năng tự lập này tưởng như đơn giản,
nhưng nếu cô giáo khơng rèn cho trẻ thì trẻ sẽ khơng thực hiện được mà ỷ lại và
trông chờ vào cô giáo. Để trẻ biết làm được những việc đó thì thời gian đầu tôi
hướng dẫn cho một số bạn nhanh nhẹn và ham thích làm cùng cơ rải gối ra phản,
sau đó cho bạn yếu hơn cùng làm với bạn đã thành thạo, trẻ học qua bạn sẽ nhanh
hơn vì muốn mình được cơ khen như bạn. Sau khi ngủ dậy tơi cho trẻ ngồi tại chỗ

nằm của mình hướng dẫn trẻ cách cầm gối ngay ngắn đưa lại cho cô. Mỗi lần nhận
gối từ trẻ tôi lại khen ngợi, động viên trẻ “Con giỏi quá” trẻ rất thích thú khi được
khen vì vậy trẻ ham thích làm việc giúp cơ. Đã có những lần vì trẻ dậy chưa kịp cất
gối thì bạn khác đã cất hộ làm trẻ khóc, những lúc như vậy tơi nhẹ nhàng khun
trẻ nín và nhắc bạn đưa gối lại cho trẻ tự cất.

Ảnh: Trẻ rải gối ra phản

Ảnh Trẻ tự cất gối sau khi ngủ dậy

3.6. Thông qua hoạt động chiều
Ở hoạt động rèn các kỹ năng buổi chiều tôi cho trẻ được thực hành các kỹ
năng như: Tự đi dày dép, tự đội mũ, đi tất…Đặc biệt là kỹ năng biết tự đi vệ sinh
khi có nhu cầu…Cho trẻ xem các, tranh ảnh, video về rèn kỹ năng tự phục vụ bản
thân, tự lập được trong một số hoạt động mà không cần sự giúp đỡ của người lớn.
Ngoài ra mỗi tháng vào chiều thứ 6 của tuần cuối cùng tôi thường tổ chức cho các
cháu lớp tơi “Chương trình”: “Lớn khơn cùng lớp 2B” Qua “Chương trình” này tơi
giúp trẻ ơn lại những kỹ năng tự lập mà tôi đã dạy cho trẻ. Tùy theo khả năng cuả
trẻ và thời gian của năm học mà tơi lựa chọn những nội dung “Chương trình” phù
hợp. Những “Chương trình” ban đầu tơi thường cho trẻ thực hành những kỹ năng
đơn giản như: Cầm bát, cầm thìa làm động tác xúc cơm ăn, cầm cốc rót nước uống,
những “Chương trình” sau tơi đặt ra những u cầu khó hơn như kỹ năng cởi và
16


mặc quần áo...Những “Chương trình” càng về cuối năm thì mức độ càng khó dần
lên. Tơi thấy chương trình này thu được rất nhiều kết quả. Nó vừa kích thích, là
động lực để trẻ thực hành những kỹ năng tự lập cho bản thân vừa là bài tập để tôi
kiểm tra mức độ kỹ năng tự lập của các cháu. Cho tới nay các cháu lớp tôi đã biết
tự lập làm một số công việc đơn giản như: Tự xúc ăn, tự rót nước uống, tự đi vệ

sinh, thay dép, cất đồ dùng cá nhân, cất dọn đồ chơi sau khi chơi xong, tự cởi và
mặc quần áo khi cần thiết…

Ảnh: Rèn kĩ năng tự đội mũ trong giờ hoạt động chiều
Giáo dục cho trẻ kỹ năng tự lập thông qua các hoạt động trong ngày vơ cùng
quan trọng địi hỏi giáo viên phải linh hoạt sáng tạo. Mỗi một hoạt động lại giúp trẻ
tiếp thu, lĩnh hội những kỹ năng khác nhau nhưng mục đích của nó khơng hề thay
đổi là giúp trẻ có thói quen tự lập ngay từ những ngày đầu tiên đến trường đặt nền
móng cho tương lai sau này. Điều quan trọng là trong quá trình trẻ thực hiện cơ
giáo khơng nên mất kiên nhẫn mà phải ln kiên nhẫn khuyến khích con trong suốt
q trình rèn luyện tính tự lập
6. Biện pháp 6: Lựa chọn hình thức tổ chức.
Để đạt được kết quả cao trong giáo dục trẻ kỹ năng tự lập cho trẻ tơi đã dùng
những hình thức sau:
17


3.1. Hình thức hướng dẫn, làm mẫu:
Trẻ ở độ tuổi này rất thích bắt chước những gì người lớn làm và học rất
nhanh chính vì vậy hình thức làm mẫu hướng dẫn cho trẻ rất quan trọng.
Ví dụ: Cơ hướng dẫn cho trẻ cách kéo quần sau khi đi vệ sinh hoặc sau khi
thay quần áo. Cô chuẩn bị một chiếc quần ngồi, cho trẻ ngồi thành hình chữ U.
Cơ giới thiệu cho trẻ tên kỹ năng “kéo quần sau khi đi vệ sinh”. Vì ở độ tuổi này
những ngày đầu đến lớp trẻ đi vệ sinh không kéo được quần lên mà thường hay để
vậy rồi vào nhờ cô giúp đỡ. Cơ giải thích cho trẻ hiểu là sau khi đi vệ sinh các con
phải tự mình kéo quần lên không nên nhờ người khác.
Cô làm mẫu lần 1 khơng phân tích.
Làm mẫu lần 2 kết hợp giải thích bằng lời nói: Muốn kéo được quần thì các
con dùng cả hai tay cầm lấy lưng quần phía trước và phía sau cùng lúc kéo lên, sau
cầm hai bên hơng kéo lên lần nữa cứ như vậy kéo đến lúc ngay ngắn.

Ví dụ: Cháu Minh Khang mới vào lớp tơi học được 2 tháng mặc dù đã biết
tự xúc cơm ăn nhưng ăn xong cháu lại để bát thìa đó, ghế không cất, giờ ăn tôi bảo
cháu lấy ghế ngồi vào bàn cháu không biết phải bê ghế như thế nào, tôi hướng dẫn
cháu cách bê ghế cầm ghế bằng 2 tay, 1 tay cầm thành ghế, 1 tay cầm mặt ghế, để
vừa tầm với người không giơ cao lên quá đầu và ăn xong biết cất ghế đúng chỗ quy
định chứ không được để như thế. Bằng cách dùng lời nói, nhắc nhở, làm mẫu và
động viên khen ngợi cháu Minh Khang đã biết tự lấy ghế ngồi vào bàn, bê ghế
đúng cách, và xếp ghế đúng chỗ quy định, gọn gàng.
Cơ có thể hướng dẫn cả lớp, chia nhóm nhỏ, hoặc đối với những trẻ kỹ năng cịn
yếu cơ phải trực tiếp hướng dẫn cho trẻ đó. Cơ hướng dẫn cho trẻ vào các thời
điểm như: hoạt động chơi – tập, hoạt động vui chơi, khi trẻ đi vệ sinh…. Nhằm
giúp trẻ nắm bắt kỹ năng nhanh hơn.
3.2 Hình thức trải nghiệm, thực hành:
Việc cho trẻ thực hành trải nghiệm là hình thành kỹ năng tự học, tự tìm hiểu
và khám phá. Trẻ tự xây dựng hiểu biết cho mình giúp trẻ hiểu sâu sắc bản chất
của sự vật hiện tượng và ghi nhớ lâu bền những điều thu nhận được góp phần
khơng nhỏ để trẻ hồn thiện dần những kỹ năng thực hiện công việc và sự khéo léo
của đôi bàn tay, sự phối hợp nhịp nhàng giữa tay và mắt. Trẻ có khả năng tập trung
thực hiện và hồn thành đến cùng cơng việc mà khơng thấy mệt mỏi nhờ những
trải nghiệm thú vị. Trẻ học được cách hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau, sự phân cơng
cơng việc làm cho trẻ có sự chủ động cá nhân trong khi vẫn bảo đảm công việc
chung của nhóm. Trẻ học được trình tự cơng việc: từ khâu chuẩn bị, thực hiện đến
kết thúc cơng việc.
Khi trẻ có nguyện vọng tự lập, mong muốn được làm việc, những lúc đó, trẻ có thể
trở nên bướng bỉnh, do đó cô giáo cần phải biết nắm bắt tâm tư nguyện vọng của
trẻ, phải cảm thông và tạo điều kiện cho trẻ tự làm, tự trải nghiệm với công việc.
18


Ảnh: Trẻ tự cất ghế đúng nơi quy định


Ảnh: Trẻ tự cầm cốc uống sữa chua

3.3. Hình thức sử dụng công nghệ thông tin:
Dạy trẻ biết tự phục vụ qua ti vi, máy chiếu bằng các video, hình ảnh minh
họa cụ thể từng nội dung.
Ví dụ: Tơi quay hoặc chụp ảnh lại tất cả các hoạt động của lớp trước như:
các bạn đang tự bê ghế ngồi vào hàng, tự lấy cốc uống nước khi có nhu cầu, tự
19


giúp cô xếp cất gối, chiếu trước và sau khi ngủ…. rồi lưu vào máy tính và cho trẻ
xem. Vừa xem tơi vừa hỏi trẻ: Các bạn đang làm gì? Các con thấy các bạn có giỏi
khơng? Các con có muốn giỏi như các bạn khơng? Nếu trẻ thích làm thì tơi cho trẻ
thực hành ln.
IV. Kết quả đạt được:
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu kinh nghiệm của bản thân, động viên
quan tâm của ban giám hiệu nhà trường và sự ủng hộ tích cực của các bậc phụ
huynh đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ về tính tự lập ở độ
tuổi 24-36 tháng như sau:
1.1. Đối với trẻ:
Lĩnh vực khảo
sát
1. Kỹ năng tự
xúc cơm ăn, tự
lấy nước uống
2. Kỹ năng tự đi
vệ sinh đại tiểu
tiện khi có nhu
cầu.

3. Kỹ năng cất
dọn đồ dùng đồ
chơi sau khi
chơi xong
4. Kỹ năng tự
cất đồ dùng cá
nhân (cất ba lô,
cất dép)

Tổng
số trẻ
trong
lớp

Trước khi thực hiện
Đạt

Sau khi thực hiện

TL
(%)

Chưa
đạt

TL
(%)

Đạt


TL
(%)

Chưa
đạt

TL
(%)

31

8

32,2

17

67,8

38

88

5

12

31

12


38,7

19

61,3

31

100

0

0

31

7

23

24

77

31

100

0


0

31

5

16,1

26

83,9

37

86

6

6

1.2. Đối với phụ huynh:
- Sau khi áp những phương pháp của tôi phụ huynh đã ghi nhận sự tiến bộ rõ rệt
của con họ. Phụ huynh rất phấn khởi và sàng khi tơi có vấn đề về trẻ cần hợp tác.
- Phụ huynh đã hiểu được vai trị của tự lập đối với sự phát triển tồn diện của
trẻ nên họ đã tự giác rèn luyện tính tự lập cho con khi ở nhà. Đây là điều kiện
thuận lợi để tơi rèn tính tự lập cho cháu ở trên lớp.
1.3. Đối với giáo viên
Sau khi áp dụng những biện pháp này tôi thấy các cháu lớp tôi đã có tính tự
lập. Đây là điều làm tơi thấy rất hạnh phúc. Đây thực sự là những phương pháp có

hiệu quả. Tuy nhiên tơi sẽ cịn cố gắng nghiên cứu và tìm tịi ra nhiều phương pháp
hơn nữa để giúp cho các cháu tự lập hơn nữa.

20


PHẦN III. KẾT LUẬN

I. Những kết luận trong quá trình nghiên cứu, triển khai SKKN.
Qua việc nghiên cứu và áp dụng các phương pháp để rèn tính tự lập cho trẻ
24-36 tháng tôi thấy khi thực hiên các biện pháp rèn tính tự lập cho trẻ cần lưu ý
những vấn đề sau:
- Khi lựa chọn kỹ năng để rèn tính tự lập cho trẻ cần lựa chọn những kỹ
năng phù hợp với trẻ, phù hợp với đặc điểm tâm lý và khả năng của trẻ.
- Cô luôn gần gũi, cởi mở trao đổi nhẹ nhàng với trẻ.
- Phải gần gũi với phụ huynh giải thích cho họ hiểu vấn đề mà mình muốn
họ hợp tác và tầm quan trọng của vấn đề đó.
- Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương,
tôn trọng, đối xử cơng bằng với trẻ và đảm bảo an tồn cho trẻ. Ở trường cơ giáo
nên rèn tính tự lập cho trẻ thông qua các hoạt động để giúp trẻ nắm được, hiểu
được những việc làm đơn giản, lao động tự phục vụ vừa sức.
- Thường xuyên lồng ghép các nội dung rèn tính tự lập vào các hoạt động
học có chủ định, giáo viên nên lồng ghép tích hợp nội dung rèn tín tự lập một cách
nhẹ nhàng vào tiết học.
- Để hình thành và phát triển ở trẻ những thói quen tự lập trong ăn uống cần
thiết khơng chỉ có sự tập luyện mà cịn cần sự thống nhất những cách thức và
phương thức giữa gia đình và trường, lớp mầm non. Chỉ có sự kiên trì, nhẫn nại, sự
đồng cảm, sự quan tâm, chú ý và sự giúp đỡ quý báu của người lớn mới giúp trẻ
vượt qua những khó khăn, trở ngại, mới tạo được một bầu khơng khí thân ái, đầm
ấm cần thiết trong bữa ăn.

- Ở trường mầm non phải coi việc rèn tính tự lập cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi,
trong mọi hoạt động để khai thác mọi nội dung, khía cạnh của chủ đề- chủ điểm để
đem lại hiệu quả có tác dụng cao nhất. Giáo viên cần có kế hoạch phối hợp với phụ
huynh trong việc chăm sóc - giáo dục trẻ.
- Qua đây tôi muốn nhắn gửi tới tất cả các bậc cha mẹ các cô giáo mầm non
hãy vì sự phát triển tồn diên của con em chúng ta mà tạo mọi điều kiện cho trẻ
được phát triển và rèn luyện mình.
II. Những kiến nghị, đề xuất
Để làm tốt hơn việc rèn tính tự lập cho trẻ trong trường mầm non tôi mong
muốn lãnh đạo cấp trên cung cấp thêm tài liệu để chúng tôi tham khảo, đồng thời
tổ chức hội thảo về rèn tính tự lập cho trẻ ở lứa tuổi mầm non để chúng tôi được
trao đổi học hỏi lẫn nhau.
Tôi muốn nhà trường tổ chức nhiều cuộc thi để qua đó để rèn tính tự lập cho
các cháu.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tơi đã đúc rút được trong
q trình cơng tác, kính mong Hội đồng khoa học các cấp góp ý và đánh giá./.
Vinh ngày 15 tháng 4 năm 2022
Người viết

21



×