Luận văn
Chứng khoán và Thị trường
chứng khoán tại Việt Nam
1
Lời mở đầu
Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của thế giới, sự vươn lên không
ngừng của các nước trong khu vực về tất cả các lĩnh vực mà đặc biệt là sự
phát triển như vũ bão về kinh tế, chính trị, xã hội. Điều đó đặt nước ta vào
một vị thế vô cùng quan trọng, bởi vì nước ta nằm ở vị trí cực kỳ nhạy cảm,
nhạy cảm cả về vị trí chiến lược quân sự cũng như kinh tế trong khu vực.
Chính vì thế mà Đảng và nhà nước đã nhận thấy rõ công việc của mình là
phải lãnh đạo, định hướng phát triển cho nền kinh tế đất nước sao cho thật
tốt, để tiến vào kỷ nguyên mới với thành công mới rực rỡ. Để đạt được điều
đó Đảng, nhà nước đã đưa ra nhiệm vụ và mục tiêu phải tiến hành "Công
nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước".
Để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công, tăng trưởng
kinh tế bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực
cần phải có nguồn vốn lớn. Mà để có nguồn vốn lớn cần phát triển thị
trường chứng khoán. Tuy nhiên, việc phát triển thị trường chứng khoán ở
Việt Nam gặp không ít khó khăn về kinh tế nhưng cũng chính nó lại có thể
trở thành vật cản cho nền kinh tế ấy.
Chính vì thế, mà hơn bao giờ hết chúng ta cần phải chuẩn bị một cách
kỹ càng cả về kiến thức cơ bản và các kinh nghiệm của các nước khác trên
thế giới về cơ cấu quản lý và kiểm soát hoạt động của thị trường chứng
khoán. Có như vậy thì thị trường chứng khoán mới không trở thành vật cản
của nền kinh tế.
Trong phạm vi bài tiểu luận này các vấn đề được đề cập đến gôm:
- Chứng khoán và Thị trường chứng khoán
- Thị trường chứng khoán tại Việt Nam
- Những giải pháp đẩy mạnh sự phát triển thị trường chứng khoán tại Việt
nam .
2
CHƯƠNG 1: CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN
I. CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm:
Chứng khoán là hàng hoá của thị trường chứng khoán. Đó là những tài
sản tài chính vì nó mang lại thu nhập và khi cần người chủ sở hữu có thể
bán nó đi để thu tiền về. Nói chung người ta phân chia chứng khoán thành
4 nhóm chính là cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ chuyển đổi và các công
cụ phái sinh.
Các chứng khoán do chính phủ, chính quyền địa phương và các công
ty phát hành với mức giá nhất định. Sau khi phát hành, các chứng khoán có
thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường chứng khoán theo các
mức giá khác nhau tuỳ thuộc vào cung và cầu trên thị trường.
2. Các loại chứng khoán:
2.1. Cổ phiếu:
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng
chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần.
- Cổ phiếu thường: là cổ phiếu xác định quyền sở hữu của cổ đông
trong công ty. Cổ phiếu thường được đặc trưng bởi quyền quản lí, kiểm
soát công ty. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được tham gia bầu hội đồng
quả trị, tham gia bỏ phiếu quyết định các vấn đề lớn của công ty. Cổ tức
của cổ phiếu thường được trả khi hội đồng quản trị công bố. Khi công ty
giải thể hoặc phá sản, cổ đông sở hữu cổ phiếu thường sẽ được chia số tiền
còn lại sau khi thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho cổ phiếu ưu đãi.
3
- Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu có cổ tức xác định được thể hiện bằng
số tiền xác định được in trên cổ phiếu hoặc theo tỉ lệ phần trăm cố định so
với mệnh giá cổ phiếu.Cổ phiếu ưu đãi thường được trả cổ tức trước các cổ
phiếu thường. Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bỏ
phiếu bầu ra hội đồng quản trị. Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ phiếu
ưu đãi được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu thường.
2.2. Trái phiếu:
Trái phiếu là chứng khoán nợ, người phát hành trái phiếu phải trả lãi
và hoàn trả gốc cho những người sở hữu trái phiếu vào lúc đáo hạn.
Trái phiếu có thể phân theo nhiều tiêu chí khác nhau:
- Căn cứ vào chủ thể phát hành, trái phiếu gồm hai loại chính là: trái
phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương (do chính phủ và chính
quyền địa phương phát hành) và trái phiếu công ty (do công ty phát hành).
- Căn cứ vào tính chất chuyển đổi, trái phiếu được chia thành loại có
khả năng chuyển đổi (chuyển đổi thành cổ phiếu) và loại không có khả
năng chuyển.
- Căn cứ vào cách thức trả lãi, trái phiếu được chia thành các loại sau:
+ Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu được thanh toán cố
định theo định kỳ.
+ Trái phiếu với lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà khoản lãi thu
được thay đổi theo sự biến động của lãi suất thị trường hoặc bị chi phối bởi
biểu giá, chẳng hạn như giá bán lẻ.
+ Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu không trả thưởng và được
bán theo nguyên tắc chiết khấu. Tiền thưởng cho việc sở hữu trái phiếu
nằm dưới dạng lợi nhuận do vốn đem lại hơn là tiền thu nhập (nó là phần
chênh lệch giữa giá trị danh nghĩan - mệnh giá trái phiếu và giá mua).
- Trái phiếu có bảo đảm và trái phiếu không có bảo đảm.
4
2.3. Chứng khoán có thể chuyển đổi
Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép
người nắm giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có
thể đổi nó lấy một chứng khoán khác.
Thông thường có cổ phiếu ưu đãi được chuyển thành cổ phiếu
thường và trái phiếu được chuyển thành cổ phiếu thường.
2.4. Các chứng khoán phái sinh.
- Quyền mua cổ phần: là quyền ưu tiền mua trước dành cho các cổ
đông hiện hữu của một công ty cổ phần.
- chứng quyền là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó
quyền được mua một số lượng xác định các chưng khoán khác với một
mức giá nhất định và vào một thời gian nhất định
- Hợp đồng kỳ hạn: là một thoả thuận trong đó người mua và người
bán chấp nhận giao dịch hàng hoá với khối lượng nhất định, tại một thời
điểm nhất định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngàyhôm
nay.
- Bên cạnh đó còn có các loại hợp đồng khác như: hợp đồng tương
lai và quyền lựa chọn.
II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng
khoán theo các nguyên tắc của thị trường (theo quan hệ cung cầu):
1. Tổng quan về thị trường chứng khoán
Xét về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, thị trường chứng
khoán có hai loại: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp: Là thị trường phát hành. Đây là thị trường mua
bán các chứng khoán phát hành lần đầu giữa nhà phát hành (người bán) và
nhà đầu tư (người mua). Trên thị trường sơ cấp, chính phủ và các công ty
5
thực hiện huy động vốn thông qua việc phát hành - bán chứng khoán của
mình cho nhà đầu tư.
Vai trò của thị trường sơ cấp là tạo ra hàng hoá cho thị trường giao
dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Nhà phát hành là người huy động vốn trên thị trường sơ cấp, gồm
chính phủ, chính quyền địa phương, các công ty và các tổ chức tài chính.
Nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp bao gồm cá nhân, tổ chức đầu tư.
Tuy nhiên, không phải nhà phát hành nào cũng nắm được các kiến thức và
kinh nghiệm phát hành. Vì vậy, trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ
chức trung gian giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát
hành chứng khán. Nhà bảo lãnh phát hành chứng khoán giúp cho nhà phát
hành thực hiện việc phân phối chứng khoán mới phát hành và nhận từ nhà
phát hành một khoản hoa hồng bảo lãnh phát hành cho dịch vụ này.
Thị trường thứ cấp: Là thị trường giao dịch.Đây là thị trường mua
bán các loạI chứng khoán đã được phát hành. Thị trường thứ cấp thực hiện
vai trò điều hoà, lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hoá các nguồn
vốn ngắn hạn thành dài hạn. Qua thị trường thứ cấp, những người có vốn
nhàn rỗi tạm thời có thể đầu tư vào chứng khoán, khi cần tiền họ có thể bán
lại chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Nghĩa là thị trường thứ cấp là nơi làm
cho các chứng khoán trở nên ‘lỏng’ hơn. Thị trường thứ cấp là nơi xác định
giá của mỗi loại chứng khoán mà công ty phát hành chứng khoán bán ở thị
trường thứ cấp. Nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp chỉ mua cho công ty phát
hành với giá mà họ cho rằng thị trường thứ cấp sẽ chấp nhận cho chứng
khoán này.
6
Công ty
chứng
khoán
Công ty
chứng
khoán
Hệ thống
đăng ký,
thanh
toán, bù
trừ và
lưu ký
chứng
khoán
Hệ thống
đăng ký,
thanh
toán, bù
trừ và
lưu ký
chứng
khoán
Nhà
đầu tư
Nhà
đầu tư
Nhà đầu tư
có tổ chức
Nhà đầu tư
có tổ chức
Nhà đầu tư
các nhân
Nhà đầu tư
các nhân
Thị trường
thứ cấp
Thị trường
thứ cấp
SGDCK
SGDCK
OTC
OTC
Thị trường
thứ ba
Thị trường
thứ ba
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là hai thị trường không thể
tách rời. Thị trường sơ cấp tạo ra hàng hoá còn thị trường thứ cấp thúc đẩy
giao dịch hàng hoá đó.
Xét về phương diện tổ chức và giao dịch, thị trường chứng khoán có
ba loại:
Thị trường chứng khoán tập trung: là thị trường ở đó việc giao
dịch mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng
khoán.
Thị trường chứng khoán bán tập trung: là thị trường chứng khoán
“bậc cao”. Thị trường chứng khoán bán tập trung (OTC) không có trung
tâm giao dịch mà giao dịch mua bán chứng khoán thông qua mạng lưới
điện tín, điện thoại. Một điều rất quan trọng là các nhà đầu tư trên thị
trường OTC không trực tiếp gặp nhau để thoả thuận mua bán chứng khoán
như trong phòng giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán, thay vào đó họ
thuê các công ty môi giới giao dịch hộ thông qua hệ thống viễn thông.
Các công ty chứng khoán trên thị trường OTC có mặt ở khắp nơi trên
đất nước, mỗi công ty chuyên kinh doanh buôn bán một số loại chứng
khoán nhất định. Các công ty chứng khoán giao dịch mua bán chứng khoán
cho mình và cho khách hàng thông qua việc giao dịch với các nhà tạo thị
trường về các loại chứng khoán đó. Các công ty cũng thực hiện các nghiệp
vụ kinh doanh chứng khoán như: giao dịch mua bán cho chính mình, môi
giới mua bán cho khách hàng, dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo lãnh
phát hành. Các chứng khoán mua bán trên thị trường OTC cũng phải được
niêm yết công khai cho công chúng biết để có quyết định đầu tư. Các
chứng khoán được niêm yết trên thị trường OTC tương đối dễ dàng, các
7
điều kiện niêm yết không quá nghiêm ngặt. Như vậy, hầu như tất cả các
chứng khoán không được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán đều
được giao dịch ở đây. Các chứng khán buôn bán trên thị trường OTC
thường có mức độ tín nhiệm thấp hơn các chứng khoán được niêm yết trên
Sở giao dịch chứng khoán. Song, do thị trường nằm rải rác ở khắp các nơi
nên độ lớn của thị trường khó có thể xác định chính xác được, thông
thường khối lượng buôn bán chứng khoán trên thị trường này là lớn hơn Sở
giao dịch chứng khoán. Từ điều kiện niêm yết thông thoáng hơn mà chứng
khoán của các công ty được buôn bán trên thị trường này nhiều hơn, thậm
chí một số chứng khoán được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán cũng
được mua bán ở thị trường này.
Hoạt động giao dịch buôn bán chứng khán trên thị trường OTC cũng
diễn ra khá đơn giản. Khi một khách hàng muốn mua một số lượng chứng
khoán nhất định, anh ta sẽ đưa lệnh ra cho công ty chứng khoán đang quản
lý tài sản của mình yêu cầu thực hiện giao dịch hộ mình. Thông qua hệ
thống viễn thông, công ty môi giới - giao dịch sẽ liên hệ tới tất cả các nhà
tạo thị trường của loại chứng khoán này để biết được giá chà bán thấp nhất
của loại chứng khán đó. Sau đó công ty này sẽ thông báo lại cho khách
hàng của mình và nếu khách hàng chấp thuận, thì công ty sẽ thực hiện lệnh
này và giao dịch của khách hàng sẽ được thực hiện.
Thị trưòng chứng khoán phi tập trung: còn gọi là thị trường thứ ba.
Hoạt động mua bán chứng khoán được thực hiện tự do.
2. Chức năng của thị trường chứng khoán
2.1. Huy động vốn cho nền kinh tế
Thị trường chứng khoán được xem như chiếc cầu vô hình nối liền
người thừa vốn với người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua
bán cổ phiếu và qua đó để huy động vốn cho nền kinh tế, góp phần phát
triển sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm
thất nghiệp, ổn định đời sống dân cư và thúc đẩy nền kinh tế phát
8
triển.Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ và chính quyền địa
phương cũng huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng.Thị trường chứng khoán đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi
thừa sang nơi thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế.
Mức độ điều hoà này phụ thuộc vào quy mô hoạt động của từng thị trường
chứng khoán. Chẳng hạn, những thị trường chứng khoán lớn như Luân
Đôn, Niu óc, Paris, Tokyo, thì phạm vi ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài
khuôn khổ quốc gia vì đây là những thị trường chứng khoán từ lâu được
xếp vào loại hoạt động có tầm cơ quốc tế. Cho nên biến động của thị
trường tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế của bản thân nước sở tại, mà còn
ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán nước khác.
2.2. thông tin
Thị trường chứng khoán bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời (cho
các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán c) về tình hình cung -
cầu, thị giá của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên thị
trường chứng khoán hữu quan.
2.3. cung cấp khả năng thanh khoản
Nhờ có thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi
thành tiền khi họ muốn.Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản bảo
đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quảvà năng động.
2.4 đánh giá giá trị doanh nghiệp
Thị trường chứng khoán là nơI đánh giá chính xác doanh nghiệp thông
qua chỉ số chứng khoán trên thị trường .Việc này kích các doanh nhgiệp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công ngệ mới.
2.5 tạo môi trường để chính phủ thực hiện chính sách vĩ mô
Chính phủ có thẻ mua bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù
đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát.ngoài ra chính có thể sử dụng các
chính sách tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư.
9
3. Các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán
Các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán chia thành các nhóm:
nhà phát hành, nhà đầu và các tổ chức có liên quan.
3.1. Nhà phát hành và các tổ chức huy động vốn
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là chính phủ, chính quyền địa
phương, công ty, hay các tổ chức tài chính.
3.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư có thể chia làm hai loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư
có tổ chức.
3.2.1. Các nhà đầu tư các nhân
Nhà đầu tư các nhân là những người tham gia mua bán trên thị trường
chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn
gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy, các nhà
đầu tư phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với mình.
3.2.2. Các nhà đầu tư có tổ chức
Các tổ chức này thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn
và có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để
nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư thông qua
các tổ chức này có ưu điểm là đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết
định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài
chính. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại
cũng có thể trở thành những nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng
khoán cho mình.
3.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán
3.3.1. Công ty chứng khoán
10
Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành,
tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán.
3.3.2. Các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán
nhưng chỉ được trong giới hạn nhất định để bảo vệ ngân hàng trước những
biến động của giá chứng khoán.
3.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
3.4.1. Cơ quan quản lý nhà nước
Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước
đối với thị trường chứng khoán. cơ quan này có những tên gọi khác nhau
tuỳ từng nước. Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB- Securities
Investment Board), tại Mỹ có Uỷ ban chứng khoán và Giao dịch chứng
khoán (SEC - Securities And Exchange Comission) hay ở Nhật Bản có Uỷ
ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (ESC - Exchange
Surveillance Comission) được thành lập vào năm 1992 và đến năm 1998
đổi tên thành FSA - Financial Supervision Agency. Và ở Việt Nam có Uỷ
ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo Nghị địng số 75/CP ngày
28/11/1996.
3.4.2. Sở giao dịch chứng khoán
Hiện nay trên thế giới có ba hình thức tổ chức Sở giao dịch chứng
khoán:
Thứ nhất: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới hình thức “câu
lạc bộ mini” hay được tổ chức theo chế độ hội viên. Đây là hình thức tổ
chức Sở giao dịch chứng khoán có tính chất tự phát. Trong hình thức này,
các hội viên của Sở giao dịch chứng khoán tự tổ chức và tự quản lý Sở giao
dịch chứng khoán theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước. Các
thành viên của Sở giao dịch chứng khoán bầu ra hội đồng quản trị để quản
lý và hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành.
11
Thứ hai: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công
ty cổ phần có cổ đông là công ty chứng khoán thành viên. Sở giao dịch
chứng khoán tổ chức dưới hình thức này hoạt động theo luật công ty cổ
phần và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn về chứng khoán và
thị trường chứng khoán do chính phủ lập ra.
Thứ ba: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới dạng một công
ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ
cấu tổ chức, điều hành và quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ
phần nhưng trong thành phần hội đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ
ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám đốc điều hành Sở giao dịch chứng
khoán do ủy ban chứng khoán bổ nhiệm.
Thành viên của Sở giao dịch chứng khoán có thể là cá nhân hoặc các
công ty chứng khoán (còn gọi là công ty môi giới chứng khoán). Để trở
thành thành viên của một Sở giao dịch chứng khoán, công ty phải được cơ
quan có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy phép hoạt động, phải có số vốn
tối thiểu theo quy định và có những chuyên gia kinh tế, pháp lý đã được
đào tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán, ngoài ra công ty còn phải
thoả mãn yêu cầu của từng sở giao dịch riêng biệt. Một công ty chứng
khoán có thể là thành viên của hai hay nhiều Sở giao dịch chứng khoán,
nhưng khi đã là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán (thị trường chứng
khoán tập trung) thì không được là thành viên của thị trường phi tập trung
(thị trường OTC) và ngược lại.
Để cho các giao dịch diễn ra công bằng, đảm bảo lợi ích của các nhà
đầu tư, Sở giao dịch chứng khoán có bộ phận chuyên theo dõi, giám sát các
hoạt động giao dịch buôn bán chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi
phạm trong giao dịch như là gây nhiễu giá, giao dịch tay trong, giao dịch có
giàn xếp trước. Bộ phận giám sát tiến hành theo dõi dưới hai hình thức là
theo dõi thường xuyên hoặc theo dõi định kì. Khi phát hiện có vi phạm thì
12
xử lý nghiêm minh, nếu đặc biệt nghiêm trọng thì trình lên Uỷ ban chứng
khoán để điều tra xử lý.
3.4.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán hoạt động với mục đích bảo
vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng
khoán nói chung. Hiệp hội này có một số các chức năng chính sau:
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy
định pháp luật về chứng khoán.
- Điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.
- Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng
khoán.
3.4.4. Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán
Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu giữ
các chứng khoán và tiến hành nghiệp vụ thanh toán bù trừ.
3.4.5. Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm
Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm là các công ty chuyên đưa ra các
đánh giá về tình hình và triển vọng của các công ty khác dưới dạng các hệ
số tín nhiệm.
CHƯƠNG 2: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN TẠI VIỆT NAM
Để tiến hành CNH, thay đổi cơ cấu kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu
tăng trưởng nhanh, lâu bền, Việt Nam cần đến một khối lượng vốn khổng
13
lồ mà hiện trạng thị trường tài chính không thể đáp ứng đầy đủ. Với cơ cấu
hiện nay, thị trường tài chính chủ yếu chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu
của nền kinh tế về vốn ngắn hạn. Trong khi đó, quá trình CNH, HĐH lại
đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm năm 1991-
1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8% năm cần 18, 6 tỉ USD;
thời kì 1996-2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9 - 9,5% năm thì dự tính
vốn đầu tư đã tăng hơn 2, 2 lần, khoảng 40 - 45 tỉ USD; với quy mô như
vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500 - 600 tỉ USD.
Trước những đòi hỏi bức xúc về vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước
trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phải có những chính sách huy
động tối đa mọi nguồn lực trong nước cũng như các nguồn vốn nước ngoài
bằng những hình thức khác nhau. Một trong những giải pháp đó là phát
triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện
nay còn cần thiết bởi những lý do sau:
- Dưới góc độ kinh tế, với tư cách là một bộ phận của thị trường tài
chính có chức năng phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường chứng
khoán là trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn cho đầu
tư và xã hội. Nó gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ thống tài
chính tiền tệ cấu thành nền tài chính quốc gia.
- Thị trường chứng khoán giúp cho đồng vốn đi vào những ngành,
những doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả thông qua sự định hướng của thị
trường vốn.
- Một thị trường chứng khoán hoạt động tốt sẽ cung cấp những dự báo
chính xác về chu kỳ kinh doanh trong tương lai, giúp nhà nước hoạch định
các chính sách thích hợp.
14
- Thị trường chứng khoán mang lại nhiều lợi ích cho công chúng, giúp
cho công chúng có thể đầu tư vào các chứng khoán khác nhau một cách dễ
dàng.
II NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
1. Thuận lợi
Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng ta có một hệ thống chính trị ổn
định. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đang phát triển với một tốc độ khá
cao, lạm phát được khống chế. Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết sức
thuận lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán.
Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã được thành lập. Đây là hạt nhân cơ
bản, quan trọng để xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán.
Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế
của Đảng và nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh,
huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho sự phát
triển của thị trường chứng khoán.
Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân hàng
thương mại, tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức bảo hiểm. Đây là các
tác nhân quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn và là tiền đề cho sự
phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Nhu cầu về vốn của nước
ta trong thời kỳ tới rất cao như đã nói ở phần trên. Để đạt được mục tiêu
tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì nhu cầu vốn của nền kinh tế
nước ta trong thời kỳ 2000-2010 là 543, 5 tỷ USD.
Nước ta là một nước đang phát triển, tài nguyên chưa được thăm dò và
khai thác đầy đủ. Đây là yếu tố quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
mà lâu nay Việt Nam mới chú trọng khai thác theo hướng đầu tư trực tiếp
(FDI) mà chưa chú trọng theo hướng đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng
khoán.
15
Trong vòng 12 năm qua, giá vàng liên tục sụt giảm và yếu tố tâm lý
giữ vàng của nhân dân không còn như trước. Do vậy, người ta thường dùng
tiền để gửi tiền tiết kiệm, mua tín phiếu, trái phiếu đây chính là một cơ
hội tốt để thúc đẩy nhanh sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt
Nam .
Một thuận lợi nữa mà chúng ta có đó là vào ngày 7/11/2006 chúng ta
đã chính thức gia nhập WTO. Có thể nói đây chính là thời điểm rất thuận
lợi để cho thi trường chứng khoán phát triển, bởi lẽ một khi đã là thành
viên của WTO thì sự bảo hộ của nhà nước vể thuế cho các mặt hàng trong
nước là không còn mạnh như trước nữa, mà các doanh nghiệp sẽ phải tự
lực cánh sinh để cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới. Điều
này phần nào bắt buộc các tổ chức kinh doanh phải tiến hành cổ phần hoá
và từ đó sẽ tạo ra nhiều hàng hoá hơn cho thị trường chứng khoán.
2. Khó khăn.
Tuy nhiên, những thuận lợi đã có, những khó khăn vẫn còn nhiều, và đây
cũng chính là những nguyên nhân làm chậm lại quá trình hình thành thị
trường chứng khoán ở Việt Nam.
• Khó khăn thứ nhất là thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ giữa tiết
kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Tư tưởng “làm đồng nào xào đồng
ấy” đang còn rất phổ biến trong dân và ngay trong cả một số doanh nghiệp
trong khi tình hình lạm phát còn chưa ổn định và chứa đựng nhiều tiềm ẩn.
Hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán cho đến nay vẫn chưa được
hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt
động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng
trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về
thị trường chứng khoán. Luật về thị trường chứng khoán vẫn còn dự thảo.
Tình hình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước còn chậm, số lượng đã
cổ phần không đáng kể so với yêu cầu đặt ra. Các công ty cổ phần đã được
16
thành lập còn quá ít và phần lớn có vốn rất nhỏ, chưa đủ mạnh để tạo ra các
“hàng hoá” cần thiết.
• Khó khăn thứ hai phải kể đến là chứng khoán và thị trường chứng
khoán đối với đa số dân cư Việt Nam còn hoàn toàn là một điều mới lạ.
Chứng khoán chưa được coi là một tài sản tài chính, nhiều người còn lo sợ
khi đầu tư vào chứng khoán do thiếu hiểu biết nên đã không thể tạo ra được
lượng vốn như mong muốn. Nên đã phần nào kìm hãm sự hình thành của
thị trường chứng khoán Việt Nam.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
1.Tiến hành Cổ phần hoá doanh nghiệp
1.1. Một số kiến nghị nhằm giải quyết những tồn tại về mặt nhận
thức tư tưởng
Những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng là một trong những trở lực
lớn nhất, đầu tiên trong việc tiến hành cổ phần hoá ở bất cứ một doanh
nghiệp nhà nước nào. Do đó, giải đáp những thắc mắc cho cán bộ công
nhân viên trong doanh nghiệp cũng như những người có liên quan phải
được coi là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên cần làm, và nên làm trước khi
công việc cổ phần hoá được tiến hành.
Bởi vì chủ trương cổ phần hoá ở nước ta hiên nay là ưu tiên cho cán
bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cho nên đối tượng đầu tiên cần được
phổ biến chính là họ. Việc phổ biến chủ trương theo chúng tôi cần phải đạt
được những yêu cầu tối thiểu sau:
-Cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp phải ý thức một cách rõ
ràng cổ phần hoá là một yêu cầu tất yếu khách quan, không sớm thì muộn
cũng phải thực hiện. Trong giai đoạn này, tiến hành càng sớm thì doanh
nghiệp càng được lợi, do Nhà nước vẫn còn dành rất nhiều ưu đãi cho các
doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá. Kinh nghiệm của các doanh nghiệp đi
17
trước đã được đúc kết tương đối đầy đủ. Hơn nữa cổ phần hoá sớm sẽ giúp
cho doanh nghiệp có điều kiện hơn trong việc ổn định tổ chức sản xuất
kinh doanh, chuẩn bị tốt hơn cho việc cạnh tranh khốc liệt trong tương lai
khi chúng ta tham gia AFTA. Trông chờ, ỷ lại lúc này chính là con đường
ngắn nhất dẫn đến chỗ phá sản.
- Họ cũng cần hiểu rằng, cổ phần hoá trước hết là vì lợi ích của các
doanh nghiệp, của cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. Sau khi trở
thành công ty cổ phần, họ sẽ được hoàn toàn độc lập tự chủ trong sản xuất
kinh doanh, song tất nhiên họ cũng phải biết tự mình chống đỡ với những
cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị trường. Đây là điều không thể tránh
khỏi. Nhưng đây cũng là cơ hội để cho những người có thực lực, thực tài,
những doanh nghiệp thực mạnh vươn lên tự khẳng định mình. Còn đối với
những doanh nghiệp yếu, những người thiếu năng lực, trình độ thì cũng
phải nhận ra một điều là đã đến lúc họ phải thay đổi, phải tự vươn lên hoàn
thiện mình nếu không họ sẽ bị đào thải theo qui luật cạnh tranh trong nền
kinh tế thị trường.
Để hỗ trợ việc tuyên truyền các mục tiêu trên thì đài, báo, vô tuyến
truyền hình là những phương tiện hết sức đắc lực. Tuy nhiên để công tác
tuyên truyền thực sự đi sâu, đi sát với cán bộ công nhânviên thì cần phải có
nhiều biện pháp khác, sát sườn hơn. ở đây chúng tôi xin đưa ra một số kinh
nghiệm mà nhiều doanh nghiệp đã áp dụng tốt. Đó là việc cung cấp cho
cán bộ công nhânviên trong doanh nghiệp những văn bản, có nội dung liên
quan trực tiếp đến chủ trương cổ phần hoá. Sau đó tổ chức các buổi nói
chuyện có mời các chuyên gia giỏi về nhằm giải đáp những thắc mắc của
họ đồng thời cũng tạo điều kiện cho họ được đóng góp ý kiến tham gia việc
xây dựng đề án cổ phần hoá.
Đối với các cổ đông tiềm năng bên ngoài doanh nghiệp thì không có
biện pháp tuyên truyền nào hiệu quả bằng các phương tiện thông tin đại
chúng đặc biệt là những tờ báo có uy tín cũng như đài phát thanh và truyền
18
hình trung ương. Chương trình thời sự cũng như các bộ phim, những câu
chuyện truyền thanh là những chương trình mà theo chúng tôi thu hút được
rất nhiều khán thính giả.
Đối với những hành động chây ỳ, có ý cản trở việc thực hiện chủ
trương này thiết nghĩ, cần có những chế tài xử lý nghiêm minh, có như vậy
vai trò chỉ đạo của các cơ quan, tổ chức mới được đảm bảo, trên cơ sở đó
tiến hành đẩy nhanh các công đoạn của qui trình cổ phần hoá
1.2. Giải pháp giải quyết khó khăn về tài chính và quản lí trong các
doanh nghiệp
Theo tin từ ban cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thì nhà nước đã
có chủ trương phân loại doanh nghiệp nhà nước thành 4 nhóm.
- Nhóm doạnh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
- Nhóm doanh nghiệp có khó khăn về tài chính.
- Nhóm doanh nghiệp có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên
cao.
- Nhóm doanh nghiệp thua lỗ kéo dài (từ 3 năm trở nên).
Ba nhóm đầu thuộc diện cổ phần hoá, còn nhóm thua lỗ kéo dài, Nhà
nước sẽ áp dụng các biện pháp sáp nhập với các đơn vị khác rồi cổ phần
hoá, đấu thầu cho thuê, bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoaì
doanh nghiệp, thực hiện biện pháp khoán hoặc cho phá sản.
Còn đối với các doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn về tài chính thì
việc thành lập quỹ hỗ trợ cổ phần hoá sẽ là một giải pháp quan trọng.
Nhiệm vụ và vai trò của quỹ cổ phần hoá không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ
cho các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính. Tuy nhiên hỗ trợ tài chính
cho các doanh nghiệp vẫn là một trong những chức năng chính của quỹ
này.
Ngoài ra còn có thể là những khoản thu từ việc thanh lí tài sản trong
doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá
19
Hoạt động hỗ trợ của quỹ có thể được thực hiện dưới một số hình thức sau:
- Kế thừa hoặc mua lại nợ của doanh nghiệp.
- Cho doanh nghiệp vay với cơ chế và lãi suất ưu đãi. Như vậy, quỹ
cổ phần hoá cũng góp phần giải quyết vấn đề nợ đọng trong nhiều doanh
nghiệp nhà nước hiện nay.
Sự hỗ trợ của quỹ cổ phần hoá sẽ có tác dụng giải quyết nhiều khó
khăn cho doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu qủa sản
xuất kinh doanh, tiến tới làm ăn có lãi. Có thể nói “làm ăn có lãi” là điều
kiện rất quan trọng, nhiều khi là nhân tố có tính quyết định cho sự thành
công của việc cổ phần hoá nhiều doanh nghiệp
Với ý nghĩa đó, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng
chính là mục tiêu cơ bản của những giải pháp đối với các doanh nghiệp gặp
khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao.
Giá thành sản xuất lên cao có thể có nhiều nguyên nhân song suy cho
cùng nguyên nhân quan trọng nhất vẫn nằm trong khâu quản lý. Người
quản lý tốt có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất sẽ biết phải làm gì khi thua
lỗ xảy ra. Khi thua lỗ do nguyên nhân khách quan đưa lại, không thể khắc
phục được thì người đó cần tìm cách chuyển hướng sản xuất kinh doanh
hoặc tuyên bố phá sản. Những doanh nghiệp không có khả năng khắc phục
đã được xếp vào nhóm 4. Những doanh nghiệp có khả năng khắc phục
nhưng do quản lý tồi, người quản lý kém năng lực, trình độ thậm chí mất
phẩm chất thì cách giải quyết duy nhất theo chúng tôi là thay đổi nhân sự
trong ban quản lý doanh nghiệp. Việc lựa chọn người lãnh đạo mới không
phải là việc dễ dàng, song nên đưa ra một tiêu thức để lựa chọn là người
lãnh đạo đó phải lập được phương án sản xuất có hiệu quả và khả thi trên
cơ sở của máy móc, công nghệ, lao động của doanh nghiệp hiện tại. Một số
tiêu chí nữa có thể kể đến là uy tín của người đó đối với cán bộ công nhân
viên trong doanh nghiệp, khả năng tổ chức nhân sự.
20
Chính phủ và Nhà nước nên sớm có chủ trương củng cố công tác đào
tạo trong ngành quản trị kinh doanh . Khi nền kinh tế phát triển, công tác
quản lý được chuyên môn hoá thì nhu cầu đối với các Giám đốc giỏi sẽ
không nhỏ. Trong khi đó công tác đào tạo ngành quản trị kd hiện nay xem
ra vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu nhất là yêu cầu về chất lượng, vì
rằng nếu không có các nhà quản lý giỏi thì các động lực về kinh tế cho dù
có mạnh đến đâu cũng khó có thể bù đắp được cho những thiếu hụt về trình
độ.
1. 3. Biện pháp khắc phục lao động dôi dư sau khi cổ phần hoá.
Cơ chế biên chế trong giai đoạn trước đã dẫn đến tình trạng tuyển
chọn lao động tràn lan, bất chấp trình độ nghề nghiệp và hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Theo ước tính, tổng số lao động đang làm việc tại 5.790 doanh
nghiệp nhà nước vào khoảng 1, 8 triệu người. Song chất lượng lao động rất
thấp: Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề chỉ chiếm 10 - 12% số còn lại chủ
yếu là lao động phổ thông. Những con số này cũng phản ánh phần nào
những khó khăn đối với việc giải quyết vấn đề lao động dôi dư sau khi tiến
hành cải cách doanh nghiêp nhà nước cũng như cổ phần hoá. Bởi vì cùng
với việc chú trọng nâng cao hiệu quả sản xuất thì việc làm tất yếu của các
doanh nghiệp là phải giảm bớt số lao động dư thừa, không đủ trình độ. Con
số này quả là không nhỏ trong nhiều doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Giải quyết vấn đề lao động dôi dư là một vấn đề rất phức tạp, có tính
xã hội sâu sắc. Song đó là việc mà chúng ta không thể né tránh.
Trước hết chúng ta phải thống nhất với nhau một điều là việc giải
quyết vấn đề dôi dư đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía là doanh
nghiệp và Nhà nước cụ thể hơn là Chính phủ và các cấp Bộ, ngành có liên
quan. Trong sự hợp tác đó thì doanh nghiệp là người có trách nhiệm trực
tiếp đưa ra hướng giải quyết, còn Nhà nước chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ và
phân giải các mâu thuẫn giữa doanh nghiệp với người lao động.
21
- Đối với DN: Phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi dư
trên cơ sở đề án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với một số nội dung
chính là.
+ Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư để từ đó đưa ra
các hướng giải quyết. Cụ thể là đối với người lao động sắp đến tuổi nghỉ
hưu (người lao động còn dưới 5 năm công tác là đến tuổi nghỉ hưun) có thể
trợ cấp để đảm bảo các chế độ hưu trí cho họ. Đối với số lao động còn lại
(chiếm đa sốc), có nhiều hướng giải quyết như tái sử dụng sau khi đã đào
tạo, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển sang ngành nghề mới.
+ Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện tại doanh
nghiệp có thể lấy từ các nguồn quỹ sau: Quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ trợ
cấp mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc, ngoài ra còn có thể lấy từ quỹ đào
tạo của đơn vị (nếu có).
- Đối với Nhà nước: Nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ
gián tiếp.
+ Hỗ trợ trực tiếp chỉ tập trung vào: Hỗ trợ một phần kinh phí cho
doanh nghiệp. Mà nguồn hỗ trợ chính có thể lấy ra từ quỹ cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước
+ Hỗ trợ gián tiếp: Hỗ trợ về cơ chế và chính sách lập nghiệp đối với
lao động dôi dư như các danh sách ưu đãi về vốn tín dụng, tiền thuê đất, về
thuế sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, đào tạo, và đào tạo lại nghề nghiệp cho số lao động dôi dư
cũng cần phải được xem là giải pháp vừa mang tính sách lược mà mang
tính chiến lược. Thực tế cổ phần hoá trong những năm qua đã cho thấy
nhiều doanh nghiệp cổ phần hoá sau khi đi vào sản xuất kinh doanh ổn định
thì thường có nhu cầu tuyển dụng thêm lao động. Song những lao động đó
phải là người có tay nghề, đã qua đào tạo .Về mặt lâu dài, khi kinh tế phát
triển, sẽ có ngày cần nhiều những ngành đòi hỏi công nhân có tay nghề và
trình độ chuyên môn. Nếu chúng ta không chuẩn bị ngay từ bây giờ thì e
22
rằng tình trạng" thừa việc, thiếu người" trong nhiều doanh nghiệp, nhất là
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như hiện nay sẽ càng trầm
trọng thêm.
1.4. Giải pháp thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư ngòai doanh
nghiệp
1.4.1. Thúc đẩy sự ra đời của thị trường chứng khoán
Thứ nhất : thị trường chứng khoán góp phần làm tăng khả năng chuyển
nhượng của các chứng khoán, trong đó có cổ phiếu do đó sẽ làm tăng sức
hấp dẫn của hình thức đầu tư dưới dạng cổ phiếu.
Thứ hai : thị trường chứng khoán cho phép các nhà đầu tư có nhiều
thông tin hơn về các doanh nghiệp thông qua sự biến động của các chỉ số
trên thị trường này. Nó tạo ra sự giám sát công khai, khách quan đối với
doanh nghiệp do đó làm tăng niềm tin của các nhà đâù tư, nhất là những
người ở ngoài doanh nghiệp.
Thứ ba : Nó làm tăng khả năng thu hút vốn của các nhà đầu tư nước
ngoài của các doanh nghiệp cổ phần hoá, do đó sẽ đem lại nhiều động lực
thúc đẩy doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá.
Với những ưu điểm cơ bản nêu trên có thể thấy sự ra đời của thị
trường chứng khoán ở nước ta sẽ là một sự hỗ trợ đắc lực cho việc đẩy
mạnh cổ phần hoá trong thời gian tới. Điều này đã được chứng minh qua
thực tế ở Trung Quốc.
Vấn đề trước mắt cần làm là Nhà nước nên sớm xây dựng khuôn khổ
pháp lý cho hoạt động giao dịch cổ phiêú của các công ty cổ phần qua thị
trường chứng khoán, hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc, thúc đẩy các
doanh nghiệp làm quen với chế độ công khai tài chính trên thị trường
chứng khoán qua đó làm cho hoạt động của thị trường chứng khoán được
diễn ra một cách suôn sẻ, thực sự phát huy được những tác dụng tích cực
của mình.
23
1.4.2. Thành lập các quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là một loại định chế tài chính trung gian trên thị trường
vốn do công ty đầu tư lập ra, huy động tiền của nhiều nhà đầu tư bằng cách
bán cổ phiếu của Quỹ cho các cổ đông rồi dùng khoản tiền đó mua trái
phiếu hoặc cổ phiếu của nhiều hạng mục đầu tư để sinh lợi và bảo toàn
vốn. Cổ đông của Quỹ có thể bán cổ phần của Quỹ bất kỳ lúc nào tại thị
trường chứng khoán hoặc bán lại cho Quỹ tuỳ hình thức hoạt động Quỹ.
Mỗi quỹ có một nhà quản lý chuyên nghiệp, và một đội ngũ chuyên
viên phụ tá, có trách nhiệm phân tích lựa chọn danh mục đầu tư, theo dõi
tình hình hoạt động của các công ty nằm trong danh mục đầu tư và đưa ra
những quyết sách khi có biến động ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của quỹ.
Quỹ được tiếp thị rộng rãi đến nhà đầu tư bằng cách quảng cáo, thư mời
hay qua các trung gian khác.
Đầu tư vào các quỹ đầu tư là một hình thức đầu tư có nhiều ưu điểm
hơn so với đầu tư mua cổ phiếu trực tiếp của các công ty nhất là trong điều
kiện thị trường chứng khoán chưa ra đời và phát triển. Các nhà đầu tư cá
biệt thường khó có khả năng và điều kiện tìm hiểu vì hoạt động của các
công ty, do đó thường gặp khó khăn khi ra quyết định đầu tư. Vì vậy họ
thường phải đầu tư thông qua các tổ chức hoặc cá nhân môi giới trung gian
mà quỹ đầu tư là một trong số đó. Với đội ngũ chuyên viên có trình độ, lại
có nhiều điều kiện thuận lợi, quỹ đầu tư sẽ giúp các cổ đông của mình giảm
bớt rủi ro khi ra quyết định đầu tư mà vẫn có khả năng thu được lãi suất
khá cao.
Hơn nữa, đầu tư vào các quỹ đầu tư còn giúp các nhà đầu tư phân tán
rủi ro. Nếu đầu tư với tư cách là một nhà đầu tư cá biệt thì các nhà đầu tư
thường khó có khả năng đầu tư vào nhiều công ty mà nếu có đầu tư được
thì cũng rất khó có thể theo dõi hoạt động của các công ty đó để cho ra các
đối sách phù hợp. Khi đầu tư vào quỹ số vốn của các cổ đông cá biệt sẽ
được tập hợp lại và đem đầu tư vào nhiều công ty khác mà vẫn đảm bảo
24
khả năng theo dõi tốt hoạt động của các công ty đó. Hơn nữa, với việc tập
hợp cổ phiếu của nhiều cổ đông, các quỹ đầu tư sẽ có khả năng bảo vệ tốt
hơn lợi ích của các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nhỏ tại doanh nghiệp
Một nhân tố rất quan trọng làm cho đầu tư vào các quỹ đầu tư trở nên
hấp dẫn hơn, nhất là đối với người dân Việt Nam hiện nay trong điều kiện
chưa có thị trường chứng khoán là khả năng hoàn vốn. Tâm lý lo sợ đầu tư
dài hạn vẫn là tâm lý chung của phần đông người dân Việt Nam. Trong khi
đó, đầu tư vào các công ty cổ phần trong điều kiện thị trường chứng khoán
chưa ra đời thì các cổ đông với khả năng chuyển nhượng thấp, thường chỉ
nhận lại vốn khi công ty phá sản hoặc giải thể. Như vậy thì rủi ro quá lớn .
Nhưng nếu đầu tư vào quỹ đầu tư thì nhà đầu tư có thể bán lại cho quỹ sau
một thời hạn nhất định (có những loại quỹ không mua lại, nhưng trong điều
kiện Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi nên khuyến khích thành lập các
quỹ có hoàn vốn). Thời hạn hoàn vốn phù hợp (theo nghiên cứu của nhiều
chuyên gia) nên là 3 năm vì như vậy đảm bảo .
- Ngang với thời gian huy động vốn trung hạn ở ngân hàng .
- Đủ thời gian cho các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá phát
huy những tiềm năng hiện nay.
- Người dân không sợ bị chôn vốn quá lâu.
Công ty đầu tư sẽ lần lượt thành lập các quỹ đầu tư sau 3 năm khi quỹ
đầu tư trước ra đời. Quỹ đầu tư sau sẽ có thể tái đâù tư vào những doanh
nghiệp nhà n được cổ phần hoá mà công ty đã được đầu tư trước đó và đầu
tư vào các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá sau này. Người đầu tư
của quỹ trước có thể tái đầu tư vào quỹ đầu tư sau. Do đó sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho những nhà đầu tư trung, dài hạn. Các doanh nghiệp nhà nước
được cổ phần hoá phát triển vẫn luôn được công ty đầu tư giữ cổ phần của
họ.
Với những ưu điểm trên, quỹ đầu tư thường có ưu thế hơn các doanh
nghiệp trong việc thu hút vốn đầu tư của các cổ đông đặc biệt là các cổ
25