Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Văn mẫu phân tích tác phẩm Vợ chồng a phủ của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.1 KB, 105 trang )

Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ
I. Mở bài


Tơ Hồi là nhà văn có lối trần thuật hóm hỉnh, ông có sở trường về loại
truyện phong tục và hồi kí.



Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc, tác phẩm là sự
phản ánh nỗi khổ của đồng bào Tây Bắc dưới ách thống trị của thực
dân Pháp, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp con người nơi đây.

II. Thân bài
1. Nhân vật Mị
a. Trước khi trở thành con dâu gạt nợ
- Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo. Mị đã từng u,
ln khao khát đi theo tiếng gọi của tình u. Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá
trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.
b. Từ khi trở thành con dâu gạt nợ


Ngun nhân: món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ Mị, tục cướp vợ của
người Mơng đem về cúng trình ma. Người lao động bị cả cường quyền
và thần quyền buộc chặt.



Mị phải chịu những đày đọa về thể xác: phải làm việc không kể ngày
đêm, “không bằng con trâu con ngựa” ; bị đánh đập dã man: bị trói,
đạp vào mặt,...





Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng “mặt
buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian (hình ảnh ơ cửa sổ),
sống lầm lũi “như con rùa ni trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị
quen rồi”.

- Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:




Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi
bạn tình,..) đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ.



Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị
còn trẻ lắm...”, với khát khao tự do, thắp sáng căn phòng tối, muốn “đi
chơi tết” chấm dứt sự tù đày.



Khi bị A Sử trói, lịng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình
yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện
thực.

- Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy ln âm ỉ trong lịng
người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

- Khi A Phủ làm mất bị, bị phạt trói đứng:


Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xn, cơ trở lại là cái xác
khơng hồn.



Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến
hồn cảnh của mình trong q khứ, Mị lại biết thương mình và thương
cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết
đau,... phải chết”.



Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A
Phủ. Mị sợ cái chết, sợ nhà thống lí, cơ chạy theo A Phủ tìm lối thốt.

- Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, hành động của Mị đã đạp đổ
cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
2. Nhân vật A Phủ
- Số phận: mồ côi cha mẹ, khơng cịn người thân, lớn lên đi làm thuê, sau đó trở
thành người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.
- Khi trở thành người ở gạt nợ:


Ngun nhân: đánh con quan, thua cuộc trong vụ xử kiện quái gở.





A Phủ chịu sự đày đọa về mặt thể chất: phải làm những công việc
nặng, nguy hiểm: “đốt rừng, cày nương, săn bị tót,...”, khơng có giá trị
bằng một con bị, làm mất bị mà bị trói đứng đến chết.

- Tích cách:


Lúc nhỏ mạnh mẽ, gan bướng: khi bị bán xuống cánh đồng thấp lại
trốn lên núi cao



Lớn lên là chàng trai khỏe mạnh chăm chỉ, tháo vát, biết làm mọi cơng
việc. Là người biết bất bình trước bất cơng (đánh A Sử), khao khát tự
do (nén đau để vùng chạy khi được cắt dây trói).

- Nhận xét: A Phủ được nhìn từ bên ngồi với những lời nói ngắn gọn, hành động
dữ dội mạnh mẽ.
III. Kết bài


Nghệ thuật: ngơn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh
hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành cơng tâm lí
nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.



Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số
phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn

thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng
trong mỗi con người Tây Bắc.

Sơ đồ tư duy phân tích Vợ chồng A Phủ



Xem thêm: Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ
Vợ chồng A Phủ phân tích - Mẫu 1
Cuối năm 1952, nhà văn Tơ Hồi đi với bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc. Sau khi
tìm hiểu chung, Tơ Hồi quyết định đi sâu vào những khu du kích của đồng bào
các dân tộc thiểu số trên vùng núi cao. Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại
những ấn tượng sâu sắc và tình cảm tốt đẹp cho nhà văn. Tơ Hồi kể lại: “Cái kết
quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người
miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi
không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi tại dốc núi làng Tà Xùa
rồi cùng vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù” (Trở lại! Trở lại!).
Không bao giờ tôi quên được lúc vợ chồng Lý Nủ Chu tiễn chúng tôi dưới chân
núi Cao Phạ cũng vẫy tay kêu: "Chéo lù! Chéo lù!". Hai tiếng: Trở lại! Trở lại!
chẳng những nhắc tơi có ngày trở lại, phải đem trở lại cho những người thương ấy
của tôi một kỉ niệm tấm lịng mình, một cái gì làm hiển hiện lại cả cuộc đời người
Mèo (Mông) trung thực, chí tình, dù gian nan thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi
bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại [...]. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và
dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tơi [...]. Ý
thiết tha với đề tài này là một quyết định. Vì thế tơi viết Truyện Tây Bắc”.
Truyện Tây Bắc gồm ba truyện (Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A
Phủ) viết năm 1953, ngay sau chuyến thâm nhập thực tế Tây Bắc của tác giả. Tập
truyện này được tặng Giải Nhất, Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm 19541955.
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập Truyện Tây Bắc, cũng là
một trong những truyện ngắn hay nhất của văn xuôi Việt Nam giai đoạn kháng

chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số


phận đau khổ của người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của các thế lực
phong kiến và thực dân, đồng thời là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do của
con người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đổi đời của họ khi
đến với cách mạng.
Dưới đây chỉ phân tích nửa đầu của truyện: quãng đời ở Hồng Ngài của Mị và A
Phủ, đây cũng là phần thành công hơn của tác phẩm. Trong phần này, tác giả tập
trung giới thiệu và miêu tả về cuộc sống và số phận của hai nhân vật chính: Mị và
A Phủ, thể hiện sức sống tiềm tàng và sự gặp gỡ của hai con người cùng một cảnh
ngộ nô lệ ấy.
Mị xuất hiện ngay trong mấy dịng đầu của truyện. Tơ Hồi sử dụng thủ pháp miêu
tả phác hoạ ngoại hình để gợi mở nội tâm nhân vật và đặt nhân vật trong sự đối lập
với khung cảnh xung quanh: giữa cảnh giàu có, tấp nập của nhà thống lí Pá Tra
"nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng" thì Mị ln được đặt ở vị trí
cạnh tảng đá và bên tàu ngựa. Mị như gắn vào với những cảnh vật ấy, tạo nên một
cảnh sống riêng, im lìm, tăm tối, cực nhọc của kiếp sống đọa đày, nó phơi bày ra
bên cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà thống lí, nhưng chính nó là một phần trong
bức tranh trọn vẹn của nhà thống lí. Chân dung nhân vật được khắc họa bằng một
nét đậm: "Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng
nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".
Sau khi đã giới thiệu nhân vật bằng một vài nét phác hoạ chân dung gây chú ý cho
người đọc, tác giả mới kể lại câu chuyện Mị về làm dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra.
Mị là cơ gái trẻ, đẹp và giàu lịng u đời, lại chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đang sống
những ngày tươi đẹp của tuổi yêu đương, dù trong cảnh nghèo khó. Khơng ít chàng
trai đã theo đuổi cơ gái nghèo ấy. Mùa xuân đến, Mị đang sống trong niềm sung
sướng hồi hộp chờ nghe tiếng sáo quen thuộc của người yêu. Thế nhưng chính



trong một đêm xuân như thế, Mị đã bị bắt cóc về làm dâu trừ nợ cho nhà thống lí
Pá Tra. Ngun do chỉ vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị. Ngày trước hai người
lấy nhau, khơng có tiền cưới, phải đến vay tiền thống lí, bố của Pá Tra. Mị phải
mang món nợ truyền kiếp ấy như một thứ "tội tổ tông" của người nghèo, từ lúc ra
đời! Tơ Hồi đã tố cáo một hình thức bóc lột phổ biến của bọn phong kiến ở miền
núi cũng như ở miền xi: nạn cho vay nặng lãi. Nó đã cột chặt bao nhiêu người
nghèo vào số phận nô lệ, phụ thuộc vào bọn chủ nợ giàu có.
Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị đã phản kháng quyết liệt: hàng mấy
tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị định tự tử bằng lá ngón. Nhưng có chết
thì món nợ vẫn cịn. Bố già còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Thế là Mị khơng
đành lịng chết.
Những năm tháng làm dâu trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài triền miên những cực
nhọc vất vả nối tiếp không dứt đến mức dường như đã làm tê liệt cả ý thức về bản
thân và những mong muốn thay đổi số phận ở Mị. "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen
khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con
ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết
việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Củng cố thêm cái ách áp bức nặng nề ấy còn là sự
áp chế về tinh thần bởi mê tín, thần quyền. Mị bị ràng buộc bởi ý nghĩ rằng bố con
Pá Tra đã "trình ma" mình là người nhà nó thì chỉ cịn biết ở cho đến lúc chết rũ
xác trong nhà nó mà thơi. Chân dung Mị được khắc đậm một nét này: "cúi mặt
không nghĩ ngợi nữa", "Mỗi ngày Mị càng khơng nói, lùi lũi như một con rùa ni
trong xó cửa", lúc nào "cũng cúi mặt buồn rười rượi". Căn buồng Mị nằm lúc nào
cũng âm u, chạng vạng với cái cửa sổ "một lỗ vuông bằng bàn tay", là một biểu
tượng gắn với cuộc đời nhân vật. Cái cửa sổ "Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng
trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ
vng ấy mà trơng ra, đến bao giờ chết thì thơi". Thậm chí Mị cũng khơng có ý


nghĩa vẻ cái chết nữa: "Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng
Mị cũng khơng cịn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa". Mị sống như một

cái bóng vật vờ, sống mà như đã chết, khơng cịn cả ý thức về thời gian nữa. Mị
khơng cịn nhớ mình về làm dâu nhà Pá Tra đã bao nhiêu năm. Với Mị, sự chuyển
đổi của thời gian, trong một ngày hay trong một năm, cũng chẳng gợi cho cơ một
ấn tượng, cảm xúc gì, vẫn chỉ là một cái màu nhờ nhờ trăng trắng "không biết là
sương hay là nắng", cái sắc màu mờ mờ đùng đục của những hồng hơn đằng đẵng
buồn tẻ và tê tái.
Ở đoạn đầu của truyện, cuộc sống của Mị bị giam hãm trong cái không gian chật
hẹp và tù đọng của nhà Pá Tra, với một nhịp điệu buồn tẻ, nặng nề của những công
việc khổ sai lặp di lặp lại, trong một thời gian ngưng đọng như không dĩ vãng và
không tương lai. Lời trần thuật với nhịp chậm, trầm lặng tạo ra giọng điệu có chiều
sâu thấm đượm nỗi xót xa và thương cảm.
Phải chăng tâm hồn Mị đã hồn tồn nguội lạnh? Cơ Mị một thời trẻ đẹp, khát
khao hạnh phúc đã hoàn toàn cam chịu thân phận nô lệ, sống mà như đã chết.
Không, ngịi bút của Tơ Hồi khơng chỉ phơi bày cái đen tối, ảm đạm của cuộc đời
mà còn thiết tha hướng tới phía sự sống và ánh sáng. Ngịi bút của nhà văn đã tìm
sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật để khơi bừng lên
chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống khát khao hạnh phúc.
Sự thức tỉnh đời sống ý thức của Mị trước hết là nhờ tác động của hồn cảnh, một
hồn cảnh khá "điển hình" - đấy là mùa xuân về trên miền núi cao Tây Bắc. Mùa
xuân gợi dậy ở con người, ở thiên nhiên sức sống tiềm tàng và những khát vọng.
Người Mông ăn Tết khi ngơ lúa đã gặt xong, mùa xn có thêm niềm vui thu
hoạch mùa màng. Cái Tết năm ấy đến vào lúc gió và rét dữ dội, nhưng vẫn khơng
ngăn được những sắc màu của mùa xuân trong thiên nhiên và cả ở con người. Sự


sống của tạo vật và con người như được mùa xuân khơi dậy, làm bừng tỉnh. Và
thời điểm để ngọn lửa sống trong lòng Mị bừng lên đã đến. Đấy là một "đêm tình
mùa xuân". Tiếng sáo gọi bạn tình cứ thiết tha, bồi hồi "tai Mị văng vẳng tiếng sáo
gọi bạn đầu làng". Với Mị, tiếng sáo gọi bạn là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa
xuân, của khát vọng hạnh phúc: "Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị

uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi
sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị" hết núi này
sang núi khác. Cái nồng nàn của đêm xuân lại được tăng thêm bởi bữa rượu ngày
Tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ĩ và những người lên đồng, người hát: "Ngày Tết,
Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say...". Chính
trong một trạng thái đã được kích thích bởi men rượu, bởi những âm thanh náo
động của bữa cơm cúng ma trong nhà Pá Tra và sự lơi cuốn của tiếng sáo gọi bạn
ngồi đường, Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay của mình.
Dấu hiệu đầu tiên là Mị sống lại với những hồi tưởng về những ngày xuân quá
khứ, những kỉ niệm đẹp về ngày trước, những ngày hạnh phúc ngắn ngủi của tuổi
trẻ. Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống "phi thời gian",
sống mà như đã chết bấy lâu nay, rồi Mị sống lại với niềm ham sống của tuổi trẻ:
"Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết
ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Sức sống bấy lâu nay bị
đè nén, tưởng đã tắt lịm, thì nay bỗng bật trào dậy. Phản ứng đầu tiên đến với Mị là
ý nghĩ: "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không
buồn nhớ lại nữa". Ý nghĩ về cái chết lúc này là sự phản kháng với hồn cảnh, nó
chứng tỏ rằng Mị đã ý thức lại được tình cảnh đau xót dai dẳng của mình. Trong
khi ấy thì tiếng sáo - biểu tượng của khát vọng tình yêu và tự do - cứ theo sát diễn
biến tâm trạng của Mị. Nó là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa trong lịng Mị. Tiếng
sáo từ chỗ là một hiện tượng ngoại cánh ("tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay


ngoài đường") đã xâm nhập thế giới nội tâm của Mị, trở thành một hiện hữu ở
trong tâm linh nhân vật: "Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo".
Đến đây đã xảy ra bước phát triển quyết định: từ những sôi sục trong tâm tư, Mị
bước tới hành động. Đầu tiên là một hành động có nhiều ý nghĩa: "Mị đến góc nhà,
lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng". Đấy là một hành động
của sự thức tỉnh. Mị thắp sáng ngọn đèn trong càn phịng vốn âm u, mờ mịt của
mình, cũng tức là Mị thắp lên một ánh sáng trong cuộc đời tăm tối triền miên của

mình trong nhà Pá Tra. Và hành động này thúc đẩy hành động tiếp theo, như
những đợt sóng tiếp nhau. Dường như khơng đếm xỉa gì đến những trói buộc khắt
khe của nhà Pá Tra, đến A Sử, Mị tự mình hành động như một con người tự do,
theo tiếng gọi của lịng mình: quấn lại tóc, rút lấy cái váy hoa, sửa soạn đi chơi Tết.
Giữa lúc lịng ham sống trỗi dậy mạnh mẽ thì nó bị dập xuống phũ phàng: A Sử
bước vào, thản nhiên, lầm lì, trói đứng Mị vào cây cột nhà: tóc Mị xõa xuống, A
Sử quấn ln tóc lên cột, rồi y "tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại". Cái kĩ càng,
rành rẽ của từng động tác biểu hiện một sự tàn ác đến thản nhiên của A Sử.
Suốt cái đêm bị trói vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé giữa niềm khao khát
sống tự do và thực tại nghiệt ngã. Ban đầu, Mị như quên những vịng dây trói và
những đau đớn thể xác mà vẫn sống với tiếng sáo, "tiếng sáo đưa Mị đi theo những
cuộc chơi, những đám chơi" ở ngoài kia, đến nỗi Mị "vùng bước đi". Nhưng rồi
những vịng dây trói thít chặt và nỗi đau đớn đến tê dại toàn thân đã kéo Mị trở về
với thực tại. Thay thế cho tiếng sáo gọi bạn, chỉ còn "tiếng chân ngựa đạp vào
vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình khơng bằng
con ngựa". Thực tại phũ phàng đã bóp chết những khao khát tự do và hạnh phúc ở
Mị.


Ngịi bút của Tơ Hồi đã thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện ở niềm tin và sự
trân trọng niềm khát khao vươn lên đời sống tự do và hạnh phúc của những con
người bị đọa đày đau khổ. Đấy là sự tiếp nối tinh thần nhân đạo truyền thống trong
văn học dân tộc.
Đến đây, giữa lúc xung đột đã dẫn đến căng thẳng, tác giả tạm thời mở nút cho tình
tiết này bằng sự xuất hiện của A Phủ trong cuộc đánh nhau của toán thanh niên
làng bên với A Sử. Đây cũng là lối giới thiệu nhân vật một cách tự nhiên và gây sự
chú ý ngay từ đầu.
Cũng như Mị, A Phủ được tác giả giới thiệu bằng sự xuất hiện đột ngột, gây chú ý
cho người đọc, rồi mới kể về lai lịch của anh. A Phủ xuất hiện trong cuộc đánh
nhau của trai làng bên với bọn A Sử.

Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi.
- A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi!
Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con
quay gổ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm
cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp". A Phủ xuất hiện đối đầu
với A Sử thật hiên ngang và trận đòn đánh mới áp đảo và hả hê làm sao! (Chú ý
câu văn mô tả cảnh này bằng một loạt từ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồn
dập: chạy vụt ra, vung tay ném, xộc tới nắm, kéo đập đầu, xé, đánh tới tấp).
A Phủ là một thanh niên nghèo, suốt đời đi làm thuê làm mướn, khơng có ruộng,
khơng có cả đến cái vịng bạc đeo cổ để đi chơi Tết. Cha mẹ đã chết cả trong một
trận dịch đậu mùa, A Phủ đã từng bị bắt bán xuống vùng người Thái,... Nhưng
chính cuộc sống cùng cực ấy đã hun đúc thêm ở A Phủ một sức sống mạnh mẽ,
lịng ham chng tự do và một tính cách thật gan góc, cùng với một tài năng lao
động đáng quý. A Phủ thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc mà


khó khăn, nguy hiểm: "biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bị tót
rất bạo", "Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bị tót, bẫy hổ, chăn bị, chăn
ngựa, quanh năm một thân một mình bơn ba rong ruổi ngồi gị ngồi rừng". A
Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoáng, ưa tự do, gần gũi
thiên nhiên và chất phác của A Phủ cũng là một nét tính cách đặc trưng của người
Mông.
Việc A Phủ bị bắt làm người ở gạt nợ càng làm tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm:
một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc, vốn khơng nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động
giỏi, sống tự do như chim trời giữa núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng khơng thốt
khỏi ách áp bức của chúa đất, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà Pá
Tra. Hơn thế nữa, cho đến cả đời con, đời cháu cũng vậy, bao giờ trả hết nợ mới
thôi !
Cảnh bọn chức việc trong làng xử kiện A Phủ lại thêm một bức tranh cụ thể sống
động, giàu sức tố cáo vé một tập tục là hiện thân của ách áp chế kiểu trung cổ ở

miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt "tuôn ra các lỗ cửa
sổ tun hút xanh như khói bếp" và "Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi
bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút", cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm.
Còn A Phủ gan góc, quỳ chịu địn chỉ im như tượng đá.
5. Sự gặp gỡ của hai người cùng cảnh ngộ nô lệ
Mị và A Phủ cùng cảnh nô lệ trong nhà Pá Tra, nhưng không phải họ đã gặp gỡ
nhau ngay được. Nhưng rồi một cảnh ngộ xảy đến với A Phủ. A Phủ đi chăn bò để
hổ bắt mất một con. Pá Tra trói đứng A Phủ vào cọc ở giữa nhà, một tình cành bị
trói chờ chết như năm nào Mị đã phải chịu. Lúc đầu, nhìn A Phủ bị trói, Mị vẫn
chưa có một suy nghĩ gì. Nào phải đâu Mị là người nhẫn tâm, chỉ vì những hành
động tội ác trong nhà Pá Tra là chuyện diễn ra hằng ngày và Mị cũng chỉ là một


nạn nhân bất lực mà thôi. Hơn nữa, Mị vẫn đang chìm trong trạng thái sống gần
như vơ cảm. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi lửa sưởi, "Ngọn lửa bập
bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Chính dịng nước mắt ấy
của A Phủ, dịng nước mắt tuyệt vọng, đau đớn của người trai Mông gan góc, quả
cảm đã đánh thức đời sống ý thức và tình cảm ở Mị. Mị bừng tinh, thốt khỏi tình
trạng "vơ cảm", mà dấu hiệu đầu tiên của sự thức tính ấy cũng lại là sự hồi tưởng.
Kí ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột. "Nhiều lần
khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được". Mị nhớ đến
một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Từ sự xót thương người đồng cảnh
ngộ, ở Mị đã hình thành mối đồng cảm giai cấp tự nhiên. Ý nghĩ cứu A Phủ đã
mạnh hơn cả nỗi lo sợ cho chính mình. Từ tình cảm và ý nghĩ ấy, ắt dẫn tới hành
động quyết định của Mị: cắt dây trói cứu A Phủ. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị cũng
đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra.
Để tự cứu mình, Mị đã chạy theo A Phủ thoát khỏi địa ngục nhà Pá Tra. Đến dây
cái vịng trói buộc cuộc đời Mị và A Phủ đã được tháo gỡ nút thứ nhất. Mặc dù đây
chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính là từ những khát vọng

tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy mà họ sẽ nhanh chóng đến với cách mạng, để
giải phóng triệt để cho số phận của mình và của những người nghèo khổ khác.
Thành công của truyện Vợ chồng A Phủ trước hết là ở cốt truyện mang ý nghĩa
tiêu biểu cho số phận và con đường giác ngộ của người nông dân miền núi, cũng
như của nhân dân lao động nói chung trong sự gặp gỡ cách mạng. Mơ típ cốt
truyện này rất tiêu biểu cho các tác phẩm văn xuôi trong giai đoạn kháng chiến
chống thực dân Pháp, cũng như cả trong văn học từ năm 1945 đến 1975. Nhưng
tác phẩm gây được ấn tượng sâu sắc là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhân vật
vừa mang tính tiêu biểu cho tầng lớp, giai cấp vừa có được những nét cá tính khá


rõ. A Phủ thì mạnh mẽ, gan góc mà bộc trực, cả tin, chất phác. Mị giàu sức sống
nhưng trầm lắng hơn, có một đời sống nội tâm sơi nổi dưới vẻ ngồi lặng lẽ.
Phân tích Vợ chồng A Phủ ngắn gọn - Mẫu 2
“Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Tơ
Hồi. Truyện ngắn là kết quả của 8 tháng tham gia chiến dịch Tây Bắc, sống và
gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc của nhà văn. Có thể nói, “Vợ chồng A
Phủ” là bức tranh chân thực về cuộc sống sinh hoạt của người dân lao động vùng
núi cao dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi.
Về nội dung, “Vợ chồng A Phủ” chính là lời tố cáo đanh thép chế độ thực dân nửa
phong kiến. Truyện đã phản ánh chân thực mâu thuẫn giai cấp căng thẳng và cuộc
sống tăm tối của nhân dân lao động nghèo ở miền núi Tây Bắc. Tác phẩm mở đầu
bằng lời kể về hoàn cảnh nhân vật Mị: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra
thường trơng thấy có một cơ gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu
ngựa.
Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước
dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Vẻ âm thầm, buồn bã
cùng công việc vất vả của Mị hoàn toàn đối lập với sự giàu sang, tấp nập của gia
đình nhà thống lý. Bằng cách mở đầu đầy nghịch lí như vậy, Tơ Hồi gợi được sự
tò mò nơi độc giả đồng thời cũng hé mở số phận đau khổ của Mị trong nhà chồng.

Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái H'mông xinh đẹp, tài
hoa, hiếu thảo. Tiếng sáo của Mị khiến trai bản “đứng nhẵn cả chân vách buồng”.
Nhưng, chỉ vì nghèo, khơng trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm
dâu gạt nợ. Từ đây, bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt
tắt. Là con nợ, trả nợ xong là thôi nhưng đằng này Mị cịn là một cơ con dâu. Một
cổ 2 gơng, tất cả đã đẩy cuộc đời Mị vào vịng tuần hồn của khổ đau.


Khi mới bị bắt, đêm nào Mị cũng khóc, có lần cơ trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử.
Qua nhưng chi tiết này, ta thấy được tinh thần phản kháng quyết liệt, không chấp
nhận số phận của Mị. Quyết định tìm đến cái chết của cơ khơng phải là biểu hiện
của sự đầu hàng, bng xi. Đó là tiếng nói phản kháng đầy mạnh mẽ của một
con người luôn khát khao tự do, khát khao hạnh phúc.
Đối với Mị, làm dâu nhà thống lí Pá Tra cịn đáng sợ hơn cái chết, bởi vì ở đó, cơ
khơng được đối xử như một con người, không được lên tiếng quyết định cuộc đời
mình, khơng có tự do cũng như hạnh phúc. Nhưng vì cha, Mị lại chấp nhận tiếp tục
sống và chịu đựng: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng
mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa...”.
Từ một người con gái đầy sức sống, Mị giờ đây “lùi lũi như con rùa ni trong xó
cửa”. Hình ảnh căn buồng Mị nằm với chiếc “cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay.
Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” như
một nhà giam không những giam hãm thân xác mà còn vây khốn tâm hồn Mị. Đó
cũng là hiện thực đầy tàn khốc của những người dân nghèo dưới ách thống trị của
bọn địa chủ phong kiến. Họ không chỉ bị tước đoạt tự do thân thể, mà tinh thần họ
cũng vướng phải gông xiềng của lề thói, hủ tục.
Giữa bức tranh tăm tối ấy, đêm tình mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn réo rắt như
thổi một làn gió mới làm bùng lên ngọn lửa yêu thương, khát vọng sống tiềm tàng
ngỡ đã vụt tắt. Tiếng sáo được Tơ Hồi miêu tả nhiều lần với nhiều tầng bậc khác
nhau: “Ngoài đầu núi…thổi”, “Tai Mị… gọi bạn”, “Trong đầu… sáo”, “Tiếng
sáo… chơi”. Tiếng sáo gợi nhớ về kỉ niệm, tiếng sáo thôi thúc Mị tìm đến niềm

hạnh phúc yêu thương.
Thế nhưng, A Sử xuất hiện và giết chết khát vọng sống trong Mị, hắn “lấy thắt
lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị


xõa xuống. A Sử quấn ln tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng
được đầu nữa”. Sự lạnh lùng, tàn ác của A Sử đối với Mị không phải là một trường
hợp cá biệt, trước đó, có người đàn bà cũng đã bị trói đến chết trong nhà này. Đến
đây, bức tranh về tội ác dã man của bọn địa chủ phong kiến được hiện lên rõ nét.
Đối với chúng, mạng sống con người chẳng khác gì con trâu, con ngựa.
Bên cạnh hình tượng nhân vật Mị là A Phủ, một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ,
lao động giỏi “chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Vì đánh
con quan, A Phủ bị phạt vạ và từ đó trở thành nơ lệ cho nhà thống lí. Có thể thấy,
dù là một chàng trai gan góc, mạnh mẽ, nhưng cuối cùng, A Phủ cũng như Mị,
khơng thể thốt khỏi bàn tay tội ác của bọn địa chủ phong kiến, ở đây đại diện là
nhà thống lí Pá Tra.
Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng người dân nghèo không bằng cả súc vật.
Chỉ vì làm mất bị, A Phủ bị trói đứng giữa trời đông lạnh lẽo. Và giọt nước mắt
của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Đây là
chi tiết vô cùng đắt giá. Giọt nước mắt ấy thể hiện tâm trạng tuyệt vọng của A Phủ
đồng thời nó cũng làm dậy lên niềm đồng cảm, xót thương và sức sống ngỡ đã chai
sạn trong Mị.
Tình cảnh của A Phủ làm Mị nhớ lại đêm mùa xuân mà cô bị A Sử trói nơi cột nhà.
Cơ chợt cảm thấy xót thương cho chàng trai tội nghiệp kia, xót thương cho tình
cảnh của chính mình. Dịng nước mắt của A Phủ như thổi bùng khát vọng sống
trong Mị mà lâu nay bị lớp tro tàn phong kiến phủ kín. Hành động Mị cắt dây trói
cứu thốt A Phủ và chạy khỏi nhà thống lí Pá Tra là sự trỗi dậy của sức sống tiềm
tàng, khao khát tự do hạnh phúc của con người bị áp bức
Có thể nói, bằng tài năng tuyệt vời của mình, Tơ Hồi đã xây dựng nên những hình
tượng nhân vật vô cùng chân thực và sống động. Nếu Mị là hình tượng tiêu biểu



cho phụ nữ miền núi nước ta trong thời kì trước Cách mạng đến những năm kháng
chiến chống Pháp thì A Phủ mang nét đẹp tiêu biểu cho những thanh niên dân tộc
miền núi Tây Bắc: thật thà, chất phát, khoẻ mạnh tuy bị đẩy vào số phận khổ đau
nhưng không nguôi khát vọng tự do.
Bên cạnh bức tranh hiện thực về tội ác của giai cấp thống trị cùng cuộc sống tăm
tối của nhân dân, tác phẩm còn là một bài ca về tình người, bài ca về khát vọng
sống, khát vọng tự do. Hành động cắt đứt dây trói, bước chân gấp gáp chạy khỏi
nhà thống lí và đứng dưới là cờ Cách mạng của Mị và A Phủ chính là sự vùng lên
tất yếu của những con người không đầu hàng số phận. Tác giả bày tỏ sự đồng cảm,
xót thương nhưng cũng đầy tự hào, ngợi ca khi viết về họ và cuộc đời của họ. Đó
cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này,
Về nghệ thuật, tác phẩm cho thấy tài năng trong việc dẫn chuyện và miêu tả tâm lí
nhân vật của Tơ Hồi. Đặc biệt, dưới ngịi bút miêu tả bậc thầy, Tơ Hồi cũng đã
phác họa cho người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch
trần sự áp bức dã man của bọn thống trị miền núi. Qua giọng kể khi thì khách
quan, khi thì nhập vào nhân vật, cùng ngơn ngữ sinh động, chọn lọc, có sáng tạo,
bức tranh về thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Bắc đã được
hiện lên vô cùng chân thật và xúc động.
Tóm lại, có thể khẳng định, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm mẫu
mực nhất khi viết về thiên nhiên và con người miền núi. Qua “Vợ chồng A Phủ”,
Tơ Hồi đã khẳng định tên tuổi của mình trong văn đàn đồng thời ghi dấu ấn sâu
đậm trong lịng người đọc bao thế hệ.
Phân tích Vợ chồng A Phủ - Mẫu 3
Với vốn hiểu biết phong phú về phong tục, tập quán của người dân miền núi cùng
lối trần thuật hóm hỉnh, sâu sắc, chân thực của người từng trải và sự giàu có trong


vốn từ vựng, những sáng tác của Tơ Hồi ln để lại dấu ấn đậm sâu và sức sống

lâu bền trong lịng bạn đọc. Và có thể nói truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sáng tác
năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc là một trong số những sáng tác tiêu biểu
của Tơ Hồi.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” đã dựng lại một cách chân thực, sâu sắc bức tranh
số phận, cuộc đời của hai nhân vật Mị và A Phủ.
Ngay từ những dịng đầu của tác phẩm, Tơ Hồi đã khéo léo để nhân vật Mị xuất
hiện một cách thật tự nhiên nhưng đã để lại ấn tượng đậm sâu trong lịng bạn đọc.
“Ai đi xa về, có việc ghé qua nhà thống lí Pá Tra thường trơng thấy một cô gái
ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Thêm vào đó tác giả đã
tạo ra một hoàn cảnh đối lập giữa nét mặt “lúc nào cũng buồn rười rượi của Mị”
với sự giàu có, sung túc của nhà thống lí. Với tình huống đối nghịch ấy tác giả đã
phần nào hé mở cho người đọc về cuộc đời của Mị trong những tháng ngày làm
con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.
Trước khi trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra, Mị là cô gái Mèo xinh
đẹp, trẻ trung, hiếu thảo và có tài thổi sáo. Chắc hẳn, những ai đã từng một lần đọc
Vợ chồng A Phủ sẽ chẳng thể nào quên được những câu văn tác giả miêu tả vẻ đẹp
ngoại hình và tài năng của Mị. Mị đẹp đến nỗi “trai làng đến đứng nhẵn cả chân
vách đầu buồng Mị” rồi “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo
Mị”. Không chỉ xinh đẹp mà Mị cịn có tài “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng
hay như thổi sáo vậy”. Đặc biệt, ở Mị chúng ta còn nhận thấy vẻ đẹp trong tận sâu
tâm hồn, tấm lòng của Mị. Mị là một cơ gái hồn nhiên, u đời và có lịng hiếu
thảo với cha. Lời nói của Mị với bố“con phải làm nương giả nợ thay cho bố” đã thể
hiện rõ tấm lòng hiếu thảo của Mị. Như vậy, Mị là một cô gái vừa đẹp người vừa


đẹp nết vừa tài năng, những tưởng một cô gái như thế sẽ có được hạnh phúc. Song
với Mị thì hoàn toàn ngược lại khi Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.
Mị là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, trở thành “con dâu gạt nợ” nhà thống
lí Pá Tra vì món nợ truyền kiếp của gia đình từ hàng mấy năm nay. Mị trả món nợ
của gia đình bằng chính tuổi trẻ, sức khỏe và hạnh phúc của bản thân mình. Trở

thành con dâu gạt nợ cũng chính là lúc Mị trở thành cơng cụ lao động của nhà
thống lí Pá Tra. Mị như một cỗ máy, làm việc quần quật suốt ngày suốt đêm, từ
ngày này đến ngày khác, năm này qua năm khác “Mị như một cỗ máy làm việc
suốt ngày, suốt tháng, suốt năm”, “Mị tưởng mình là con trâu con ngựa. Mị nghĩ
mình cũng khơng bằng con trâu, con ngựa…”. Thêm vào đó, Mị cịn bị cịn bị A
Sử đánh đập tàn nhẫn, thơ bạo. Có lẽ, đọc tồn bộ tác phẩm người đọc sẽ khơng thể
nào có thể quên được những trận đòn roi đến rợn người mà Mị đã phải gánh chịu.
Khơng chỉ bị bóc lột về mặt thể xác, Mị còn bị hành hạ về mặt tinh thần. Sống
trong nhà Pá Tra, Mị “sống lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa”, Mị tị tê liệt về
mặt tinh thần, sống vô cảm và lặng lẽ. Dường như giờ đây Mị đã bị tê liệt hồn
tồn về mặt tinh thần, sống khơng chút hi vọng, không mảy may sức sống.
Nhưng rồi, trong những ngày Tết đến ở Hồng Ngài, trong đêm tình mùa xuân ấy,
sức sống trong Mị đã lần nữa trỗi dậy mạnh mẽ trong cô. Hồng Ngài những ngày
Tết đến, xuân về thật đẹp và đặc biệt là âm thanh tiếng sáo gọi bạn đi chơi trong
đêm tình mùa xuân mới thật tuyệt biết bao. Tiếng sáo ấy là âm thanh đặc trưng nơi
núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân, nó là tiếng gọi của tình yêu, tiếng gọi của hạnh
phúc và để rồi, tiếng sáo dìu dặt, thiết tha ấy đã thấu rọi, xuyên qua tâm hồn vốn đã
bị đóng băng bấy lâu nay ở Mị để đồng vọng với khát vọng tình u, khát vọng
sống đang trỗi dậy trong cơ. Mị đã có những hành động đầu tiên, báo hiệu cho sự
trỗi dậy của sức sống trong Mị. Nếu như trước đây, Mị “sống lùi lũi như con rùa
trong xó cửa” thì hơm nay, Mị đã nhẩm thầm lời bài hát, “những lời thì thầm ấy


như những lời thì thầm của mùa xn”, nó chính là động lực, là nguồn cội để rồi
cuộc đời Mị từ đây bước sang một trang mới. Rồi Mị uống rượu – “uống ừng ực
từng bát” – dường như Mị muốn uống để quên đi hết bao sầu muộn, bao giận dữ,
khổ đau trong những tháng ngày đã qua. Những ý niệm về thời gian dần dần sống
lại trong Mị, cô nhớ về những kỉ niệm thời trẻ và sống với hiện tại của chính mình.
“Mị thấy mình phơi phới trở lại, Mị vẫn còn trẻ lắm”, Mị muốn được đi chơi mùa
xuân. Như vậy, đến đây, sức sống, khát khao sống trong Mị đã trỗi dậy nhưng rồi

sự xuất hiện của A Sử đã buộc Mị không thể thực hiện khát khao đi chơi trong đêm
tình mùa xuân của mình. A Sử trói đứng Mị, đánh đập Mị song A Sử chỉ trói được
thể xác của Mị chứ khơng thể nào trói buộc được tâm hồn, khao khát của cơ.
Dường như, Mị đã qn mất việc mình bị trói đứng, quên đi nỗi đau về mặt thể xác
để tâm hồn Mị vẫn hòa cùng với tiếng sáo của những cuộc chơi. Như vậy, sức sống
mãnh liệt trong Mị đã trỗi dậy, vượt qua cả nỗi đau về mặt thể xác.
Đặc biệt, sự hồi sinh của Mị thể hiện rõ nét qua việc Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ.
Thoạt đầu, khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn thản nhiên ngồi sưởi tay bên
bếp lửa. Mị thản nhiên, dửng dưng cũng đúng thôi bởi với Mị nói riêng và với
những người trong nhà thống lí Pá Tra nói chung, việc một con người bị trói đứng
đâu có gì là lạ, là khác thường đâu. Nhưng rồi, Mị đã hồn tồn thay đổi khi nhìn
thấy giọt nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt ấy đã một lần nữa đánh thức sức sống
trong Mị, đánh thức tình thương người và thương mình ở cơ. Để rồi, Mị nảy ra ý
định cứu A Phủ, nhưng rồi Mị lại thấy sợ. Tuy nhiên, lịng thương người, thương
mình và khát khao sống trong Mị đã lớn hơn tất cả, chiến thắng mọi nỗi sợ hãi để
Mị đi đến quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi Mị cùng A Phủ chạy trốn khỏi
Hồng Ngài. Hành động ấy của Mị đã chứng minh quá trình hồi sinh của Mị, Mị đã
trở lại là chính mình với một khát vọng sống mãnh liệt.


Cùng với Mị, trong tác phẩm, Tơ Hồi đã xây dựng thành công số phận nhân vật A
Phủ. Từ nhỏ, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, sống và lớn lên trong tình yêu thương, sự
che chở, đùm bọc của dân làng. Lớn lên, A Phủ trở thành chàng trai khỏe mạnh “A
Phủ khỏe, chạy nhanh như con ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Không
chỉ khỏe mạnh mà A Phủ cịn là người nhanh nhẹn, việc gì cũng biết làm, lúc còn
bé, đi làm cho nhà người, chẳng mấy chốc mà A Phủ “biết đúc lưỡi cày, biết đục
cuốc, lại cày giỏi và đi săn bị tót rất bạo”, rồi đến lúc phải đi ở cho nhà Pá Tra, A
Phủ càng chứng tỏ được sức lực của mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn
bị tót, bẫy hổ, chăn bị, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bơn ba rong
ruổi ngồi gị nương gị rừng”. Đồng thời, A Phủ là người có tính cách gan bướng,

mạnh mẽ, bị bắt xuống đồng thấp lại trốn lên đồng cao.
Số phận của A Phủ cũng giống như Mị, đều phải trở thành người ở gạt nợ nhà
thống lí Pá Tra. A Phủ trở thành người ở để gạt nợ chỉ vì A Phủ đánh con quan và
thua trong một vụ kiện đầy bất cơng, vơ lí. Thêm vào đó, khi trở thành người ở gạt
nợ, A Phủ cịn khơng có giá trị bằng một con bị, chỉ vì làm mất một con bị của
nhà thống lí mà A Phủ bị trói đứng, bị hành hạ về mặt thể xác. Và rồi, trong chính
lần bị trói đứng ấy, A Phủ đã gặp Mị và được Mị cắt dây cởi trói rồi cả hai cùng
nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài.
Tóm lại, với ngòi bút trần thuật hấp dẫn, độc đáo, vốn từ vựng phong phú và sắc
sảo, Vợ chồng A Phủ đã dựng lại một cách chân thực và sâu sắc số phận của hai
nhân vật Mị và A Phủ. Đồng thời, qua số phận hai nhân vật cũng cho chúng ta thấy
rõ giá trị hiện thực của tác phẩm về cuộc sống và số phận bi đát của những người
lao động miền núi và về bộ mặt tàn ác của giai cấp thống trị. Thêm vào đó nó cũng
cho ta thấy chiều sâu nhân đạo của tác phẩm, đó chính là lời ngợi ca, trận trọng
những giá trị, khát vọng sống tốt đẹp của con người và lời lên án, tố cáo sự tàn ác,
vơ nhân tính của giai cấp thống trị.


Phân tích Vợ chồng A Phủ - Mẫu 4
Tơ Hồi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học hiện đại Việt
Nam đồng thời là một tấm gương cho con người về sức sáng tạo. Cách kể chuyện
của Tơ Hồi có sức hấp dẫn riêng ở lối kể hóm hỉnh với lời văn giản dị tinh tế mà
giàu chất thơ. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm ghi lại
tên tuổi cũng như dấu ấn văn xi của nhà văn Tơ Hồi.
“Vợ chồng A Phủ’’ được rút ra trong tập “Tây Bắc” kể về cuộc sống của Mị và A
Phủ trong nhà thống lý Pá Tra làm nô lệ. Mị trở thành dâu nhà thống lý, phải sống
một cuộc sống không giống con người. Ở đó, Mị khơng chỉ bị giam cầm về thể xác
mà còn bị giam cầm cả về tâm hồn của mình. Mị xuất hiện trong lời kể của nhà văn
Tơ Hồi trong khung cảnh của cuộc sống giàu sang nhưng lại đối lập với tâm thế
bên trong con người Mị là mặt buồn rười rượi. Dưới ngòi bút của Tơ Hồi gieo vào

lịng người đọc những cảm xúc mãnh liệt về số phận con người mà cụ thể là nhân
vật Mị. Sự xuất hiện của Mị giúp người đọc hình dung ra số phận của những kiếp
người lao động dưới ách thống trị của bọn phong kiến chúa đất.
Bằng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại sau đó ngược về q khứ Tơ Hồi tạo
được những dấu ấn cá nhân riêng qua cách kể chuyện đầy linh hoạt của mình.
Trước khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra Mị là một cô gái xinh đẹp, nết na, có tài
thổi sáo. Đặc biệt, Mị cịn là cơ gái rất giàu lịng tự trọng u đời và tràn đầy sự
sống, luôn muốn làm chủ và muốn tự định đoạt cuộc đời của mình. Mị trở thành
nỗi niềm ao ước của nhiều trai bản trong làng. Thế nhưng cuộc đời lại xô đẩy Mị,
trái lại với tất cả những gì mà cơ mong muốn. Chỉ vì muốn giúp cha mẹ trả món nợ
truyền kiếp mà Mị bỗng dưng trở thành dâu nhà họ Lý kia. Bị ràng buộc về món
nợ Mị cịn bị ràng buộc cả về những tập tục hôn nhân cổ hủ. Chồng chất những đau
khổ cho cơ gái trước đây từng ao ước có một cuộc sống do mình định đoạt. Chỉ đến
đây thơi người ta đã nhìn thấy cái xã hội mà bọn lang đạo, phong kiến chúa đất


miền núi đã bóc lột sức lực, tước đi quyền tự do của biết bao nhiêu số phận người
lao động nghèo. Ba tiếng “dâu gạt nợ” như hé mở cho người đọc một cuộc sống
chồng chất những đau thương, những bi kịch mà Mị đang phải gánh chịu.
Khi sống cuộc sống làm dâu trong nhà thống Lý, Mị phải chịu những đau khổ về
thể xác. Mị bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn, Mị phải làm việc suốt ngày đêm, hết
ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Mị bị cột chặt trong vịng vây
của cơng việc. Dưới ngịi bút kể của nhà văn Tơ Hồi, Mị hiện lên như một cơng
cụ biết nói, một cỗ máy làm việc trong nhà thống Lý. Để rồi đã hơn một lần Mị
thổn thức mình khơng bằng con trâu con ngựa. Cuộc sống của Mị không giống như
cuộc sống của con người, Mị đang dần bị vật hóa. Khơng chỉ vậy Mị cịn bị A Sử chồng của mình đánh đập, hành hạ một cách vô lý. Đỉnh điểm trong đêm tình mùa
xuân khi Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử trói đứng vào cột. Tơ Hồi đứng dưới
vị trí là một người ngồi cuộc như quay lại những thước phim mà ơng ti mỉ thu
được. Tơ Hồi miêu tả tỉ mỉ những hành động tàn nhẫn của A Sử lại càng lột tả hết
được bản chất tàn bạo, phi nhân tính của giai cấp thống trị mà A Sử là một đại diện

tiêu biểu hơn bao giờ hết. Do vậy, qua đây mà ngịi bút của Tơ Hồi có sức tố cáo
gay gắt. Thêm nữa, cuộc sống của Mị cịn bị trói buộc và đày đọa cả về mặt tinh
thần. Mị bị ngăn cách với thế giới bên ngoài, mất đi ý niệm về thời gian, bị tước đi
tất cả quyền làm người, quyền được sống, được giao tiếp với bên ngoài. Mị đã
hoàn toàn bị vật hóa, bị khống chế bởi thế lực và sức mạnh của thần quyền. Đến
đây thơi, hình ảnh Mị hiện lên chồng chất những đau thương và bi kịch mà qua đó
Mị là một hiện thân cho người phụ nữ miền núi, người dân lao động dưới ách
thống trị của bọn lãnh chúa.
Tiếp đến trong đêm tình mùa xuân cũng là thời khắc sức sống tiềm tàng trong Mị
trỗi dậy. Âm thanh tiếng sáo gọi dậy khát khao yêu đương trong Mị bấy lâu. Nó
gọi dậy tiếng lịng, tiếng hát từ trong sâu thẳm Mị. Để rồi cũng gọi dậy khát khao


yêu đương, hạnh phúc, tuổi trẻ và đánh thức quyền sống con người bên trong Mị.
Tơ Hồi đã sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm, lách sâu ngòi bút của mình vào
đời sống tâm hồn miêu tả Mị. Nhà văn miêu tả chi tiết từng hành động “uống từng
ngụm rượu” cho đến sự thay đổi trong tâm trạng của Mị để thấy rằng con người kia
đang muốn làm chủ số phận của mình, muốn vượt lên số phận của chính mình.
Sau đêm tình mùa xn nổi loạn khơng thành, Mị tiếp tục trở về câm lặng như xưa,
tiếp tục công việc khổ sai làm tê liệt ý thức của con người, đánh đập, hành hạ làm
tê liệt ý thức phẩm giá, cầm tù làm tê liệt những nhu cầu sống cơ bản của con
người và bóng ma thần quyền đã tiêu diệt đi ý thức phản kháng của con người. Và
chính điều đó lại là nghị lực cho Mị trong đêm đơng cứu A Phủ, thốt khỏi cuộc
sống mà Mị và A Phủ không được sống làm con người. Những thay đổi trong tính
cách và tâm lý của Mị đều được nhà văn Tơ Hồi làm rõ tạo nên những bất ngờ
cho người đọc. Miêu tả sức sống tiềm tàng trong đoạn văn Mị cứu A Phủ cho thấy
hiện thân của sức sống tiềm tàng của nhân dân lao động miền núi phía Bắc. Nhà
văn khơng chỉ miêu tả đồng cảm số phận nhân vật mà còn như hé mở cho họ một
lối giải thoát từ đau khổ, đáng thương đến tự do và làm chủ cuộc sống của mình.
Qua đó, nhà văn ca ngợi sức mạnh của Đảng, cách mạng giúp con người được làm

chủ cuộc sống của mình.
Phân tích Vợ chồng A Phủ - Mẫu 5
Nếu như tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tơ Hồi mang một giọng hồn nhiên
trong sáng thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ của ông lại mang màu sắc dân tộc đậm
đà, chất thơ chất trữ tình thấm đượm. Qua tác phẩm, nhà văn đã dựng nên một bức
tranh hiện thực của hai cuộc đời: Mị và A Phủ, những bức tranh đó cũng chứa chan
một tấm lịng nhân đạo của Tơ Hồi.


Mị, một cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng lại mang một kiếp sống nghèo của kẻ
“thấp cổ bé họng”. Cha mẹ cơ khơng thể trả nổi món nợ nhà thống lí thế là món nợ
ấy truyền sang Mị. Tên thống lí tàn bạo ấy lại muốn bắt Mị làm “con dâu gạt nợ”.
Mà quan đã muốn là trời muốn, cơ Mị về làm dâu nhà quan mà trong lịng mang
một mối uất ức không thể giãi bày. Tiếng làm dâu nhưng lại là một thứ nô lệ không
hơn không kém, cô mất tất cả quyền sống, quyền được xem là một con người.
Ngày trước dẫu nghèo nhưng được tự do, yêu đời, giờ đây vẫn nghèo vẫn cực nhọc
lại nhục nhã chịu kiếp sống nô lệ. Qua kiếp sống của Mị, nhà văn bộc lộ một tấm
lòng thương người, chua xót cho số phận con người, và cũng qua đó Tơ Hồi đã
vạch trần cái bản chất bóc lột của giai cấp thống trị. Người ta dùng cái thế lực và
tiền bạc “cướp người đàn bà đem về trình ma”, thế là người đàn bà cũng bị cái
“ma” vô hình trói cả cuộc đời trong nhà ấy, “chỉ cịn biết chờ ngày rũ xương ở đây
thôi".
Mị đã khổ nhiều rồi, trong cái địa ngục trần gian ấy, lại càng khổ hơn khi phải chấp
nhận mình là kiếp trâu kiếp ngựa. Cả những con người cứng rắn, có lẽ khơng khỏi
động lòng khi đọc đến câu “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị
tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”… Khổ mà đến “quen” rồi
quả thật ý thức con người đã bị tê liệt, đã mất đi cái “yếu tố xã hội” để được xem là
con người. Chuỗi ngày cực nhục đã cướp đi của Mị sức sống tài năng, cướp đi
những thất vọng tuổi trẻ những “lúc hồi hộp chờ đợi người yêu”. Lúc nào và bao
giờ cũng thế, công việc cứ nối tiếp nhau vẽ ra trước mặt Mị, cứ những công việc

quen thuộc làm đi làm lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt
đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời
như thế”. Khổ quá, cái khổ cứ chực bóp nát cuộc đời Mị, thế sao Mị không tự tử
chết đi cho rồi? Không được bởi “Mị chết thì bố Mị cịn khổ hơn bao nhiêu lần bây
giờ. Mị đành trở lại nhà thống lí”.


×