Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

16 bài phân tích, dàn ý tác phẩm rừng xà nu của nguyễn trung thành hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.21 KB, 33 trang )

Dàn ý Phân tích Rừng xà nu
1. Mở bài
– Giới thiệu chung về tác giả Nguyễn Trung Thành (những nét chính về con người,
cuộc đời, sự nghiệp sáng tác,…)
– Giới thiệu chung về truyện ngắn Rừng xà nu (xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, những
đặc sắc về nội dung và nghệ thuật,…)
2. THÂN BÀI
a. Hình tượng rừng xà nu, cây xà nu
– Rừng xà nu, cây xà nu là một hình ảnh thực, chân thật.
+ Rừng xà nu được miêu tả một cách cụ thể, gắn với một địa chỉ, một không
gian xác thực
+ Rừng xà nu, cây xà nu gắn bó mật thiết với đời sống sinh hoạt, cuộc sống của
dân làng Xơ Man.
+ Người Xơ Man cịn lớn lên dưới bóng cây xà nu, hẹn hị nhau dưới gốc cây xà
nu và để rồi, đến lúc chết đi họ cũng yên nghỉ dưới gốc cây xà nu.
– Rừng xà nu, cây xà nu là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho số phận và phẩm
chất của con người Xơ Man.
+ Cây xà nu là hình ảnh tượng trưng cho số phận đau thương của con người Xô
Man.


+ Cây xà nu là loai cây ham ánh sáng mặt trời, ln hướng mình về phía ánh
sáng, cũng giống như những người dân Xô Man luôn hướng tới Đảng, tới cách
mạng.
+ Cây xà nu còn là loại cây sinh sơi nảy nở rất khỏe, nó cũng giống như sức sống
bất diệt của người dân Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược
b. Các thế hệ anh hùng của làng Xô Man, của mảnh đất Tây Nguyên
– Cụ Mết: biểu tượng của thế hệ anh hùng đi trước, hội tù đầy đủ vẻ đẹp của con
người mảnh đất Tây Nguyên.
+ “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải”, “đôi bàn tay nặng
trịch như kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, “ồ ồ dội vang trong lồng


ngực,… Đồng thời,
+ Là người gan dạ, dũng cảm, quả quyết, thương yêu và hết mực che chở cho
người dân làng Xô Man
– Tnú:
+ Tnú là người chiến sĩ thơng minh, gan góc và dũng cảm
+ Tnú là người chồng, người cha với tấm lòng yêu thương vợ con sâu sắc
+ Tnú là một người con đầy nghĩa tình của bn làng Xơ Man
– Dít: một cô gái dũng cảm, biết nén đau thương để chờ ngày trả thù giặc.
– Bé Heng: dù còn nhỏ tuổi nhưng rất thông minh và tham gia chống giặc


3. KẾT BÀI
Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của Rừng xà nu và nêu cảm nghĩ của
bản thân về tác phẩm.

Phân tích Rừng xà nu
Nguyễn Trung Thành là nhà văn sinh ra ở vùng đất Thăng Bình, Quảng Nam, tên
khai sinh của ơng là Ngun Ngọc. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước lầm than
khi phải trải qua hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc, hơn ai hết, ông trân quý và
khâm phục những con người hy sinh hết mình cho cách mạng, cho Tổ quốc thân
yêu.
Đặc biệt đối với vùng đất Tây Nguyên anh dũng cùng những con người bộc trực,
dũng cảm, kiên trung một lịng gắn bó cách mạng được ông ưu ái và dành nhiều
niềm thương yêu. Bởi vậy mà bao nhiêu cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên
anh hùng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận để ông viết nên tác phẩm Rừng xà
nu đầy thành cơng, trở thành một kiệt tác gắn bó với tên tuổi của mình.


Rừng xà nu được viết vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt.
Tác phẩm được in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng, trích trong tập “Trên quê hương

những anh hùng Điện Ngọc”. Đây là bài ca ca ngợi bản lĩnh, ý chí sắt đá, bất khuất
kiên

cường

của

đồng

bào

Tây

Nguyên.

Rừng xà nu quanh làng Xô man được tác giả giới thiệu trong đoạn đầu tác phẩm
đầy độc đáo. Một rừng cây luôn "nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", bị súng đạn
bắn phá liên tục, sự hủy diệt vô cùng tàn bạo của quân giặc trước sức sống của thiên
nhiên - " Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn". Một cảnh
tượng đầy đau thương hiện ra trước mắt, bao nhiêu cây xà nu không cây nào là
không bị trúng đạn, cây nào cũng bị vết thương loang lổ, loét mãi ra rồi chết.
Đạn đại bác hung tàn, không nhân nhượng trước vẻ đẹp kiêu hùng thiên nhiên,
cây vừa lớn đã bị chặt làm đôi rồi đổ ào. Song, rừng xà nu ấy vẫn không chịu khuất
phục, những cây cường tráng nhanh chóng tự chữa lành vết thương. Chúng vẫn tiếp
tục sức sống mạnh mẽ của mình để dang rộng vịng tay mà che chở cho ngôi làng
thân yêu. Cây nọ tiếp cây kia vẫn sinh sôi nảy nở, sự sống vẫn đâm chồi trước sự
tàn phá của quân thù “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc
lên".
Cây xà nu tự mình đứng lên, trường tồn và phát triển, dũng cảm hiên ngang trước
bom đạn kẻ thù "hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở

cho làng". Hình ảnh rừng xà nu hiện lên thật đẹp, thật đáng tự hào biết bao. Cây xà
nu chính là biểu trưng cho vùng đất Tây Nguyên, là đại diện tiêu biểu cho con người
Tây Nguyên, là hình ảnh ẩn dụ cho cốt cách, sức sống của đồng bào Tây Nguyên
từ trước đến nay. Trong đau thương vẫn ánh dũng kiên cường, trong áp bức vẫn
tràn trề hy vọng, vẫn mang ý chí đấu tranh, nguyện theo gương cách mạng, là sự
sống

bất

diệt

của

bn

làng



man.

Sau hình ảnh xà nu, tác giả tiếp tục tái hiện chân thực cuộc sống và chiến đấu của


người dân nơi đây. Họ là những thế hệ giàu lịng u nước, có niềm tin lớn lao vào
cách mạng, là những gương anh hùng sáng chói với non sơng, Tổ quốc. Đó là một
Cụ Mết đại diện cho những thế hệ anh hùng đi trước đầy kinh nghiệm, bản lĩnh và
giàu lịng u nước, ln hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến
đấu. Là một người nhìn xa, thấu hiểu dân làng, là một chỗ dựa tinh thần không thể
thiếu của làng Xôman.

Với cụ "Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn". Chân lý “Chúng nó dùng
súng, mình phải cầm giáo" của cụ như một lời tun ngơn trong cuộc chiến của dân
tộc. Đó còn là một Tnú với những phẩm chất anh hùng. Khi còn nhỏ, anh sớm đã
giác ngộ cách mạng, phấn đấu để trở thành những người như anh Quyết lãnh đạo
cách mạng. Một cậu bé gan góc và đầy dũng cảm, giữa bao chiến trận đầy súng đạn
của giặc, cậu bé giao liên vẫn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Khi bị bắt, Tnú vẫn một lòng trung thành dù bị tra tấn đầy ác độc, nhưng vẫn nhất
quyết giữ bí mật. Sau khi vượt ngục, những tưởng được hạnh phúc bên vợ con thì
giặc tiến vào diệt phong trào nổi dậy, một lần nữa Tnú phải chịu đau thương trước
sự tra tấn và khổ đau khi vợ con bị giết mà khơng làm gì được. Càng trong đau
thương, phẩm chất anh hùng càng ngời sáng trong Tnú, càng trong áp bức càng kiên
cường đứng lên trả mối thù lớn cho vợ con, cho chính mình và cho dân làng Xô
man yêu dấu.
Tiếng thét căm hờn là tiếng căm phẫn, xé lòng giữa cuộc chiến, là tiếng hiệu triệu
người người đứng lên giết chết quân thù, bè lũ cướp nước. Bàn tay bị đốt mười ngón
nhưng khơng thiêu rụi được ý chí của người con Tây Nguyên. Cuối cùng, Tnú cũng
đã giết chết được thằng Dục, kẻ đã thẳng tay giết người thân của anh, trả mối thù
sâu nặng bấy lâu. Tnú tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trưởng thành trong cách mạng,
tin yêu và đem hết sức mình phục vụ qn giải phóng.


Đó cịn là những Dít, bé Heng,... thế hệ tiếp nối bao chiến công cha anh để cùng
nhau chung sức đưa thắng lợi đi đến cuối cùng. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, ngày
càng trưởng thành, kiên cường chiến đấu xứng đáng với hi sinh của cha anh. Dường
như, trong cuộc chiến khốc liệt, con người Tây Nguyên càng khẳng định được chính
mình. Trong lầm than, đen tối, họ lại càng kiên dũng, ngời sáng tuyệt vời.
Rừng xà nu và nhân dân làng Xô man như hai mà một, đều chịu nhiều đau thương,
đều vươn mình mạnh mẽ. Đó là sức sống bất diệt, là tinh thần bất khuất của con
người


Tây

Ngun

nói

chung



dân

tộc

Việt

Nam

nói

riêng.

Bằng sự kết hợp tài tình giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Nguyễn
Trung Thành không chỉ ngợi ca vẻ đẹp trong nhân cách của người con Tây Ngun
mà qua đó cịn đặt ra một vấn đề mang tính thời đại: Để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ tự
do cho đất nước trước nhất phải cầm vũ khí đứng lên.
Dàn ý Phân tích hình tượng nhân vật Tnú
I. Mở bài:
- Sơ lược về tác giả và tác phẩm, giới thiệu nhân vật anh hùng Tnú.
II. Thân bài:

* Lai lịch, xuất thân và số phận đau thương:
- Mồ cơi, được sống và lớn lên trong vịng tay bảo bọc, nâng đỡ của dân làng Xô
Man, một ngơi làng có truyền thống đánh giặc.
- Tnú được thừa hưởng từ cái nôi truyền thống nhiều phẩm chất tốt đẹp và trở thành
một con người mang vẻ đẹp kết tinh của cộng đồng, mà theo lời cụ Mết nói: “Đời
nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.


- Phải tận mắt chứng kiến cái chết thương tâm của người vợ trẻ và đứa con chưa
đầy tháng dưới tay giặc.
- Bị giặc bắt, tra tấn, dùng nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay của anh, khiến
anh mất đi đôi bàn tay khỏe mạnh, đủ đầy.
=> Thử thách để giúp Tnú trưởng thành trong sự nghiệp cách mạng, cũng như củng
cố và làm sáng rõ hơn lý tưởng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc.
* Vẻ đẹp của tinh thần dũng cảm, lịng gan dạ, sự nhanh nhẹn, nhạy bén, không sợ
hy sinh và tinh thần giác ngộ cách mạng sớm:
- Khi còn bé đã xung phong làm nhiệm vụ nuôi giấu cán bộ, khi được anh Quyết
hỏi có sợ bị bắn khơng, Tnú rất khảng khái nhắc lại đúng lời cụ Mết rằng: “Cán bộ
là Đảng. Đảng còn núi nước này còn!”, thể hiện tấm lòng kiên trung, sớm giác ngộ
cách mạng từ những ngày còn thơ bé của Tnú.
- Quyết tâm học chữ cho thật giỏi để làm cách mạng, có lần vì khơng nhớ nổi chữ
mà Tnú đập vỡ bảng, thậm chí lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.
- Gan dạ và mưu trí khi đi liên lạc“Khơng bao giờ đi đường mịn...leo lên cây cao
nhìn quanh một lượt rồi mới xé rừng mà đi, lọt tất cả các vịng vây”, rồi qua sơng
khơng chọn chỗ nước êm mà cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang để tránh khỏi
tầm mắt của lũ giặc.
- Khi bị giặc bắt, Tnú nhanh trí nuốt ln cả thư, khi bị bắt giam Tnú cũng tìm cách
vượt ngục để trở về bn làng.
* Vẻ đẹp từ tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, sự căm thù giặc sâu

sắc và ý thức tổ chức kỷ luật cao


- Ngày bé khi đi đưa thư, chúng tra tấn Tnú dã man nhưng anh hề hé răng lấy nửa
chữ, sau 3 năm anh vượt ngục rồi trở về lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí đánh
giặc.
- Khi trưởng thành, Tnú lần nữa bị giặc bắt, châm lửa đốt mười đầu ngón tay, nhưng
Tnú vẫn khơng hề hé răng kêu lấy một tiếng, “người cộng sản không thèm kêu van”
.
- Sự khiếm khuyết của đơi bàn tay chính là động lực, là lời nhắc nhở, là ký ức đau
thương về những gì kẻ thù đã để lại trong cuộc đời anh. Cũng chính đơi bàn tay ấy
trở nên mạnh mẽ, kiên cường dẫu rằng thiếu đi một đốt, nhưng bàn tay ấy vẫn cầm
được súng, vẫn bóp được cị, thậm chí Tnú cịn chính tay bóp chết được một thằng
giặc khỏe mạnh.
* Vẻ đẹp từ tình cảm gắn bó sâu sắc với q hương, với gia đình:
- Tấm lịng yêu thương mẹ con Mai, cũng như nỗi đau đớn tột cùng khi không thể
cứu kịp vợ con, quyết hy sinh thân mình để cứu mẹ con Mai.
- Khi Mai mới sinh con, Tnú đã xé đồ của mình làm đơi để cho làm tấm địu con, đó
là tấm lịng hy sinh, lòng yêu thương của một người cha đối với đứa con bé bỏng.
- Có tình cảm sâu sắc với quê hương, anh yêu dân làng, yêu làng, nhớ từng kỷ niệm
gắn bó với làng Xơ Man, anh đi chiến đấu khơng chỉ vì mối thù của bản thân mà
còn là để bảo vệ làng, bảo vệ mảnh đất q hương.
III. Kết bài:
- Nêu cảm nhận.
Phân tích hình tượng nhân vật Tnú


Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó là Tây
Ngun. Ơng đã có rất nhiều những tác phẩm viết về mảng đề tài này, đặc biệt là
hình ảnh của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rừng Tây Nguyên.

Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành
là truyện ngắn “Rừng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong
kháng chiến chống Mĩ. Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng
Xơ Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện
cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa nhà ưng.
Nhìn lại chặng đường đời của Tnú, chúng ta có thể dễ dàng thấy hiện lên hình
ảnh một Tnú trước và sau khi đứng lên cầm vũ khí. Trước khi cầm vũ khí, ngày từ
khi cịn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ một tính cách táo bạo mạnh
mẽ. Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa
thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm. Cậu thật sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ
nguỵ ít khi phục kích ở chỗ nước chảy xiết.
Người đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự quan tâm học chữ không chịu
thua kém ai của Tnú. Cậu bé này dám lấy đá đập vào đầu mình khi học cái chữ
không sáng bằng Mai. Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm của Tnú khi bị giặc bắt, chú
bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản ở đây này”. Mặc cho những
vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ Tnú vẫn không khai báo, vẫn gan dạ
kiên cường. Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn
khi được học cái chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất sớm.
Khi thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết
được tôi luyện qua nhiều thử thách. Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng
thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng. Theo lời dạy của anh Quyết
ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa anh đã đi 3 ngày đường lên núi


Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để mài giáo mác chuẩn
bị cho cuộc nổi dậy.
Khơng chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi, Tnú cịn có một cuộc sống hạnh phúc
với tình u của Mai, với đứa con mới chào đời. Nhưng quãng thời gian hạnh phúc
ấy thật ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, bn làng cịn chưa kịp cầm vũ khí.
Tnú và thanh niên trong làng phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xơng ra

mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của kẻ thù, nhưng cả hai đều không
sống được.
Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của
già làng và dòng hồi ức đau đớn của anh. Không những không cứu được vợ con,
Tnú cịn bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay “Mỗi ngón chỉ cịn hai đốt…. khơng
mọc lại được”. Nỗi đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản
dị vừa sâu sắc của cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao
biết bao. Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùng thời nào trong các khan, trong
các trường ca Tây Nguyên. Khi đốt cháy 2 bàn tay của Tnú kẻ thù muốn dập tắt ý
chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng chiến đấu của người dân Xô Man. Chúng
muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô lệ thấp hèn dưới lưỡi gươm
và nòng súng tàn bạo của chúng.
Nhưng Tnú và người dân làng Xô Man không cam chịu khuất phục, mà ngược
lại họ đã phản kháng quyết liệt. Họ đã biết vượt lên đau thương để vùng lên cầm vũ
khí tự giải phóng mình. Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay Tnú, lửa bùng cháy
trên mười đầu ngón tay tẩm nhựa xà nu. Nhưng Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ
thấy lửa cháy ở trong lòng - ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ thù. Và một tiếng


hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng hét ấy như khơi
dậy cao độ lịng căm thù giặc của cả bn làng.
Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa cháy suốt
trong bếp lửa nhà ưng. Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cái đêm nổi dậy
ấy thật hào hùng, sôi động: “Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên đồi xà nu gần con nước
lớn suốt đêm nghe cả rừng Xôman ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng. Cái đêm
nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân làng Xôman mà là sự lớn dậy phi thường của cả 1
cộng đồng, dân tộc. Dường như trong đêm ấy đang sống lại cái khơng khí linh
thiêng hào hùng của những thiên sử thi Tây Nguyên”
Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh hai

bàn tay của anh. Đơi bàn tay bị đót cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm thù
giặc sâu sắc của dân làng Xơman, nó cịn soi sáng cuộc đời anh. Anh đã thay mặt
người dân làng Xơman lên đường theo kháng chiến đi tìm những thằng Dục khác.
Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể với dân làng mình sự đối
đầu của anh với kẻ thù sau này: “Tơi nói: này tao có súng đây, tao có cả dao găm
đây nhưng tao không giết mày súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục.
Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thơi, tao bóp cổ mày thơi”. Nhà văn đã
cố tình tơ đậm hình ảnh đơi bàn tay Tnú - đơi bàn tay có cả một lịch sử, một số
phận.
Lúc cịn nhỏ, đơi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù làm
nương phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ khơng
sáng dạ bằng Mai. Và đơi bàn tay ấy dám chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc
“Cộng sản ở đây này” khẳng định lịng trung thành với cách mạng. Lớn lên đơi bàn
tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng đôi bàn tay ấy
xé tấm đồ làm nịu cho đứa con thơ dại.


Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ cịn hai đốt khơng bao giờ
mọc lại được….. cho nên Tnú muốn dùng đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù. Bao
uất hận căm hờn đã dồn lên đơi bàn tay kia, nó đã trở thành biểu tượng cho ý chí
bất khuất, cho sức sống mãnh liệt của Tnú và người dân làng Xôman.
Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đơi bàn tay nhưng khơng thể tiêu diệt được sức
mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát vọng
chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như những khu rừng xà nu
hàng vạn cây không có cây nào bị thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp
tận chân trời.
Xây dựng thành cơng nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu
của con người mang đạm dịng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên. Và qua
hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của
cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ bn làng thân u. Đó là tình cảm gắn

bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù
giặc sâu sắc một lòng một dạ đi theo cách mạng, khơng ngại khó khăn, gian khổ, hi
sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.
Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người
đọc càng thêm hiểu và thêm trân trọng con người Tây Nguyên với biết bao phẩm
chất thật đẹp, thật cao quý.
Dàn ý Phân tích nhân vật cụ Mết
I. Mở bài
- Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, với nhiều tác
phẩm đặc sắc.


- Rừng xà nu là khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của
núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.
- Một trong những nhân vật mang đậm chất sử thi là cụ Mết.
II. Thân bài
- Ngoại hình:
+ Quắc thước: “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải láng
bóng”, cụ là người đã trải qua nhiều thăng trầm
+ “bàn tay nặng trịch như kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, ...mang
dáng dấp của anh hùng trong sử thi Tây Nguyên.
- Cụ là người quắc thước và nghiêm nghị:
+ Giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực ”: vừa thể hiện sức mạnh thể chất vừa
thể hiện sức mạnh quyền uy của người chỉ huy.
+ Mỗi câu nói như một chân lí “khơng có gì mạnh bằng cây xà nu trên đất ta”,
“cán bộ là Đảng, Đản còn, núi nước này còn”, “chúng nó cầm súng mình phải cầm
giáo”.
- Cụ Mết có tình yêu quê hương sâu sắc
+ Dẫn Tnú ra máng nước đầu làng gội rửa, để nhắc nhở những ai đi xa nhớ về
ngườn cội, quê hương.

+ Tự hào về tất cả mọi thứ trên q hương: “Khơng có gì mạnh bằng cây xà nu
đất ta”, “Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”.


+ Vì muốn bảo vệ q hương nên ln tìm hướng đi đúng đắn cho buôn làng:
“Cán bộ là Đảng. Đảng cịn, núi nước này cịn”.
- Là người giàu tình u tình u thương:
+ Hết lịng thương u và tin tưởng Tnú – chàng trai trẻ có số phận bi tráng: nồng
hậu đón Tnú trở về, xót thương khi nhìn những ngón tay cịn hai đốt của Tnú, ln
động viên anh: “Ngón tay cịn hai đốt cũng bắn súng được”
+ Xúc động khi kể lại cho dân làng nghe câu chuyện của Tnú, cụ “vụng về trở
bàn tay lau một giọt nước mắt”
+ Nhận được muối, dù ít ỏi cụ vẫn chia đều cho mọi người trong buôn làng.
- Cụ Mết là người biết nhìn xa trơng rộng: dự trữ lương thực đủ ăn để đánh giặc,
biết rõ được sức mạnh chưa đủ khi chưa có vũ khí nên khơng liều mạng xơng ra
cứu Tnú,...
- Cụ chính là người chỉ đường dẫn lối. Là chỗ dựa tinh thần cho dân làng.
- Nhận xét: Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hiện thân cho truyền
thống thiêng liêng, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên, mang dáng vẻ của người
anh hùng với sức mạnh phi thường trong sử thi.
III. Kết bài
- Nêu cảm nhận của bản thân về hình ảnh cụ Mết.
- Khái quát nghệ thuật: với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng
đặc sắc, ngôn ngữ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình
tượng, ...


- Thông qua câu chuyện của dân làng Xô Man, tác giả đã đặt ra vấn đề có ý nghĩ
lớn lao với dân tộc: Để cho sự sống của đất nước và nhân mãi trường tồn thì khơng
có cách nào hơn là đồn kết đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.

Phân tích nhân vật cụ Mết
Trong truyện ngắn Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành, nếu được hỏi
nhân vật nào là một chứng nhân lịch sử đi cùng những biến cố thời đại và con người
của dân làng Xơ Man thì có lẽ câu trả lời chính là cụ Mết. Dù khơng xuất hiện nhiều
hay được miêu tả nhiều trong câu chuyện tuy nhiên cụ Mết lại đóng một vai trị vơ
cùng quan trọng đối với cuộc đời của Tnú, của quá trình đấu tranh của dân làng Xơ
Man.
Cụ Mết là một già làng, có thể nói là trưởng làng của bn làng Xơ Man. Cụ là
người đàn ơng mạnh mẽ, nghị lực và đầy khí phách. Khí phách của cụ đã được tác
giả miêu tả qua ngoại hình: cụ có khn mặt quắc thước, đơi mắt đen sáng, râu dài
tới ngực và có bộ ngực cường tráng, tiếng nói vang ồ ồ trong lồng ngực. Cách miêu
tả ngoại hình của cụ Mết cũng cho thấy đây là một con người rất mạnh mẽ, dứt
khoát và đầy khí thế. Cụ là người đứng đầu bn làng Xơ Man, đóng vai trị cầm
cân nảy mực, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của người dân trong buôn làng.
Cụ Mết cũng là nhân vật được miêu tả đậm chất sử thi, tính sử thi được biểu hiện
thơng qua con người cụ từ ngoại hình, tính cách đến hành động của cụ. Cụ rất
nghiêm nghị, quắc thước. Khi Tnú về thăm làng, cụ yêu cầu mọi người ngồi vây
quanh mình, im lặng để cụ kể chuyện về cuộc đời của Tnú. Và tất cả mọi người kể
cả người già, kể cả trẻ nhỏ quả nhiên đã ngồi lặng im lắng nghe từng câu nói của cụ
Mết.


Cả cuộc đời của Tnú, khơng có chặng đường nào là khơng có sự chứng kiến của
cụ Mết. Có thể nói, nếu câu chuyện của Tnú là câu chuyện của một cuộc đời, của
một thời đại thì cụ Mết cũng chính là một phần quan trọng trong đó, cụ cịn là người
chứng kiến và lưu truyền câu chuyện đó cho những thế hệ tiếp theo.
Khi Tnú cịn nhỏ mồ cơi cha mẹ, Tnú lớn lên trong vòng tay bảo bọc của dân
làng Xô Man, Tnú cùng Mai nuôi giấu cán bộ trong rừng, tất cả những điều đó một
mình Tnú khơng thể tự làm mà phải có sự định hướng, ủng hộ và giúp đỡ của người
dân trong làng Xô Man đặc biệt là cụ Mết.

Khi Tnú chứng kiến vợ con mình chết và chính bản thân anh cũng lao ra để rồi
bị giặc tra tấn thì cụ Mết chính là người cầm quân, dẫn đầu buôn làng tiến lên chiến
đấu. Tiếng nói của cụ Mết như là một hiệu lệnh mà tất cả bà con trong buôn làng
đều nghe theo. Cụ hô hào mọi người đứng dậy và bản thân cụ là người đi đầu, trực
tiếp lao vào quân địch mà chiến đấu.
Mỗi khi ai đó làm tốt một việc gì, cụ chỉ gật đầu khen “được” đó là một câu nói
chất chứa nhiều cảm tình nhưng cũng đầy hi vọng vào tương lai, muốn con cháu
của buôn làng phát huy hơn nữa, không tự kiêu mà bỏ quên nhiệm vụ. Con người
cụ Mết là vậy nên luôn được Tnú kính trọng, được cả dân làng Xơ Man kính trọng.
Tnú khi về cũng đến thăm và chào hỏi cụ, lắng nghe cụ nói với một thái độ cung
kính. Dân làng thì chỉ chờ và làm theo những hiệu lệnh của cụ. Coi cụ như một hình
mẫu mực thước để tất cả cùng noi theo.
Con người cụ Mết, cũng giống như Tnú cũng như những cánh rừng xà nu đều
hiên ngang bất khuất, mang đậm dấu ấn sử thi kiên cường vững chãi trước bão tố
cuộc đời, trước hoàn cảnh lịch sử đầy tai biến. Cụ Mết một lòng trung thành với
Đảng, với cụ Hồ, với cách mạng. Khi thấy Tnú về và đạt được những chiến tích
nhất định trong chiến đấu, cụ mừng lắm, cụ luôn tỏ thái độ tơn kính đối với Bác,


với cộng sản. Cụ dù tuổi đã cao nhưng vẫn là một cây xà nu đại thụ giữa cánh rừng
xà nu đại ngàn của núi rừng Tây Ngun.
Nếu khơng có cụ Mết có lẽ câu chuyện về cuộc đời Tnú, về buôn làng Xô Man
sẽ không được kể hoặc sẽ được kể trên một phương diện khác, cái nhìn khác. Cụ
Mết chính là người giữ lửa, truyền lửa, truyền tinh thần yêu nước, nhiệt huyết cách
mạng đến tất cả các thành viên trong buôn làng Xô Man. Cụ cũng là một biểu tượng
anh hùng, một con người sử thi đối với câu chuyện Rừng xà nu nói riêng và đối với
cả bn làng Xơ Man nói chung.
Dàn ý Phân tích hình tượng cây xà nu
1. Mở bài
-


Rừng xà nu truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành tiêu biểu cho “khuynh hướng

sử thi và cảm hứng lãng mạn” của văn học Việt Nam thời kì 1945 - 1975.
-

Chủ đề của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc do ý nghĩa khái quát và giàu chất lãng

mãn, tạo hình của hình tượng cây xà nu.
2. Thân bài
Nguyễn Trung Thành đã chọn một loại cây xà nu rất gần gũi với đời sống của đồng
bào Tây Nguyên để tượng trưng cho sức sống mãnh liệt và phẩm chất anh hùng của
dân làng Xô Man, nhân dân Tây Nguyên trong công cuộc chống Mĩ cứu nước.
a) Cách tả cảnh “rừng xà nu ” và "cây xà nu
-

Trong truyện, Nguyễn Trung Thành gần 20 lần nói đến rừng xà nu ở nhiều góc

độ khác nhau: cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu,
dầu xà nu, v.v... và khái quát, bao trùm là rừng xà nu.


-

Cây xà nu sinh sôi nảy nở nhanh mạnh bạt ngàn: “sinh sôi nảy nở khỏe... ham

ánh sáng mặt trời”, trải dài ra “đến hết tầm mắt... nối tiếp tớichân trời”.
-

Cây xà nu có sức sống mãnh liệt: “cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm


cây con mọc lên, ngọn xanh, rịn, hình nhọn như mũi tên lao thăng lên bầu trời”,
“có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoăt như những mũi lê”, “đại bác không
giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường
tráng”.
-

Chất sử thi của truyện ngắn được tạo bởi hình tượng cây xà nu. Nó được khai

thác từ nhiều góc độ, lặp đi lặp lại nhiều lần: đôi xà nu (4 lần), rừng xà nu (5 lần)
với “hàng vạn cây” “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra,che chở cho làng”.
b) Rùng xà nu biểu tượng cho con người - dân làng Xơ Man nói riêng, đồng bào
Tây Ngun nói chung:
-

Hình tượng cây xà nu đẹp như hình tượng thơ, tượng trưng cho thế hệ trẻ của

làng Xơ Man bất khuất, gắn bó với cách mạng như Mai, Dít, Tnú, v.v...
-

Hình ảnh cụ Met - tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô Man, người

nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng, với cách mạng cũng được ví
“như một cây xà nu lớn”.
-

“Cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng...” là hình ảnh “đồng

khởi” mãnh liệt của dân làng Xô Man.
-


Rừng cây xà nu và con người làng Xô Man tuy hai mà một, mang ý nghĩa biểu

tượng rất cao đẹp và sâu sắc.
3. Kết bài


-

Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành.

-

Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới,

đã miêu tả nó đậm nét, đầy ấn tượng - từ đó mà chủ đề của tác phẩm đã được bộc
lộ rõ rệt và sâu sắc.
Phân tích hình tượng cây xà nu
Trải qua hơn 120 năm kháng chiến hào hùng và gian khổ, những trang sử vẻ
vang của dân tộc ta đã ghi lại biết bao chiến công lẫy lừng làm rạng danh Tổ quốc,
khiến quân thù phải khiếp sợ, khiến cả thế giới phải khâm phục một dân tộc máu
đỏ da vàng tuy nhỏ bé nhưng có tầm vóc to lớn. Nhưng để có những chiến cơng
oanh liệt, để đất nước được độc lập, để nhân dân ta được sống trong cảnh hịa bình
ấm no, cha anh ta đã phải đánh đổi bằng rất nhiều xương máu, mồ hôi và nước mắt.
Trong những năm tháng đế quốc mỹ nhắm đại bác vào vùng núi rừng Tây Nguyên
hiền hịa, đã có một dân tộc anh hùng đứng lên ưỡn ngực, vươn mình chống lại quân
thù. Tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành khắc họa sâu sắc hình ảnh
những người con kiêu hùng trong cơng cuộc bảo vệ Tổ quốc, mà trong đó nổi lên
với hình ảnh cây xà nu đẹp đẽ có ý nghĩa biểu tượng to lớn, là đại diện cho từng
người dân làng Xô Man chống giặc, là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt và nhiều

phẩm chất cao đẹp của người dân Tây Nguyên.
Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, còn có bút danh khác là
Ngun Ngọc, ơng sinh năm 1932, q ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ơng
gia nhập quân đội vào năm 1950, lúc đang còn là học sinh trung học, có mặt tại
chiến trường Tây Nguyên trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Nguyễn Trung Thành sáng tác nhiều thể loại từ truyện ký, tiểu thuyết, đến truyện
ngắn, tùy bút,…Các sáng tác của ông mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn, nội dung chủ đề tập trung viết về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ,


về những vấn đề mang tính trọng đại lịch sử của dân tộc, đặc biệt ông viết rất nhiều
về vùng đất Tây Nguyên đầy nắng và gió. Rừng xà nu nằm trong tập truyện ký Trên
quê hương những anh hùng Điện ngọc, viết vào năm 1965, khi quân Mỹ Diệm tràn
vào miền Nam càn quét bắn phá ác liệt.
Hình tượng rừng cây xà nu xuất hiện nổi bật và xuyên suốt chiều dài tác phẩm,
mở ra là rừng xà nu bạt ngàn và kết thúc tác phẩm cũng là hình ảnh rừng xà nu chạy
dài đến tận chân trời. Không những thế, hình ảnh cây xà nu cịn trải kín cả tác phẩm,
có đến hơn 20 lần trong tồn tác phẩm, điều ấy đã tái hiện lại những vẻ đẹp kỳ thú
đặc trưng của mảnh đất Tây Nguyên, đồng thời mang ý nghĩa biểu tượng về sức
sống và vẻ đẹp của những con người Tây Nguyên.
Bằng bút pháp tả thực, Nguyễn Trung Thành đã cho thấy hình ảnh cây xà nu trở
đi trở lại và gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người Tây Nguyên, có mặt trong
đời sống hằng ngày của người dân nơi đây, ngọn lửa xà nu “dần dật cháy” trong
bếp của mỗi ngôi nhà, khói xà nu làm bảng học cho Tnú và Mai. Hình ảnh cả cánh
rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra để che chở cho làng Xô Man bởi “Làng nằm trong
tầm đại bác của giặc”, giống như người cha che chở cho đứa con nhỏ của mình, như
nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài thơ Việt Bắc rằng: “Rừng che bộ đội rừng vây
quân thù”, gắn bó, ân tình.
Khơng chỉ có mặt trong cuộc sống hằng ngày mà cây xà nu còn tham dự vào
trong những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man. Trong đêm mà vợ con Tnú bị

giặc bắt giữ, đống lửa xà nu đã để Tnú nhìn rõ ràng cảnh kẻ thù hành hạ vợ con, rồi
thì chính nhựa xà nu lại thiêu đốt 10 ngón tay của Tnú như mười ngọn đuốc, điều
ấy đã trở thành giọt nước tràn ly, cổ vũ dân làng Xô Man đứng lên đấu tranh giết
mười tên giặc ác ôn để giải cứu Tnú và lập lên chiến công đầu tiên trong cuộc chiến
chống lại kẻ thù của dân làng. Từ đây người làng Xô Man đã mạnh mẽ đứng lên,


khơng cịn do dự chần chừ, bởi chỉ có đấu tranh chỉ có cách dùng vũ lực thì mới có
thể có một cuộc sống tốt hơn, mới có thể bảo vệ được dân làng và đất nước. Hình
ảnh của cây xà nu cũng trở lại trong đêm Tnú về thăm làng, đuốc xà nu lại dẫn
đường cho người dân khắp làng Xô Man cùng tụ tập về nghe cụ Mết kể về cuộc đời
của Tnú, câu chuyện một đời người kể trong một đêm, ánh lửa xà nu càng trở nên
thiêng liêng và đậm tính sử thi. Thêm vào đó hình ảnh xà nu cịn thấm vào nếp cảm,
nếp nghĩ thấm vào cả lối tư duy và cách nói của người dân Tây Nguyên, những tính
chất vẻ đẹp của cây đã trở thành thước đo để khắc họa lần lượt hình ảnh của cụ Mết,
của Tnú, Mai, và nhiều người dân làng Xơ Man khác.
Với bút pháp tượng trưng, hình ảnh cây xà nu lại là biểu tượng cho số phận và
phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Nói về số phận của người dân làng Xô Man,
mở đầu tác phẩm Nguyễn Trung Thành viết “Cả rừng xà nu hàng vạn cây khơng có
cây nào khơng bị thương” ấy là một cảnh tượng ám ảnh về một rừng cây tan hoang
bởi đại bác của quân thù, trầy trợt đầy những thương tích. Đến gần hơn, hình ảnh
tang thương của cây xà nu càng thêm rõ ràng, “Có những cây bị chặt đứt ngang nửa
thân mình, đổ ào ào như một trận bão”, từ miệng vết thương ấy ứa ra thứ nhựa “tràn
trề, thơm ngào ngạt, long lanh”, “bầm lại quyện đen thành những cục máu lớn”,
như vậy đối với tác giả xà nu cũng giống như một con người cũng có máu thịt, cây
cũng bị thương, nhựa cây chảy ra được ví là máu huyết của sinh thể, những hịn
máu đọng đem lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc về loài cây anh hùng, bất
khuất. Nhưng đấy là những cây may mắn, kiên cường cịn có thể lành miệng và tiếp
tục sinh dưỡng, xấu số hơn có những cây con mới đến ngang tầm ngực người, đã bị
đại bác nã phải gãy làm đơi “nhựa cịn trong, chất dầu cịn lỗng, vết thương khơng

lành được cứ lt mãi ra, năm mười hơm thì cây chết”. Cách miêu tả chân thực sống
động đến từng chi tiết đã tái hiện thật tang thương cảnh cây xà nu ngã xuống vì bom
đạn. Suy rộng ra, cũng giống như cả cánh rừng mang đầy thương tích và mất mát


ấy, người dân làng Xô Man cũng phải chịu biết bao hy sinh, bao nỗi đau thương
cùng cực, bao người dân đã ngã xuống: Anh Xút, bà Nhan, Mai và con của cô với
Tnú, tất cả đều hi sinh một cách đầy thương tâm dưới bàn tay độc ác của kẻ thù.
Những người còn sống cũng lại mang đầy thương tích trên thể xác và cả tâm hồn,
tấm lưng của Tnú với chằng chịt vết dao chém, mười ngón tay bị giặc đốt đều cụt
một đốt, đau đớn hơn anh cịn phải gánh chịu nỗi đau tận mắt nhìn vợ con bị giặc
đánh chết mà khơng thể làm gì được.
Khơng chỉ là biểu tượng cho số phận của con người Tây Nguyên, cây xà nu còn
là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người dân nơi đây. Xà nu là một
loài cây khao khát ánh sáng đến lạ kỳ “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng”,
đó cũng chính là biểu tượng cho tình u tự do, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của
con người Tây Ngun. Thêm nữa, xà nu cịn có khả năng sinh sơi mãnh liệt “cạnh
một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên , ngọn xanh rờn, hình nhọn
mũi tên lao thẳng lên trời”. Đó là biểu tượng cho sự tiếp nối liên tục và mạnh mẽ
của người dân làng Xô Man, anh Quyết hy sinh đã có Tnú về thay thế, anh Xút bị
giết đã có bà Nhan thay công việc nuôi bộ đội, bà Nhan chết thì đã có lớp trẻ con
thay thế, Mai chết thì đã có em gái của Mai tiếp bước chị, và cịn cả chú bé Heng.
Thế hệ trước ln có sự chuẩn bị là bước đệm cho thế hệ sau được vươn lên mạnh
mẽ và tiến xa hơn trong con đường cách mạng.
Cây xà nu cịn mang trong mình một sức sống bất diệt, mạnh mẽ vơ cùng “có
những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim
đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của
chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”. Hình ảnh bất diệt của cây xà
nu khiến ta lập tức nghĩa đến Tnú tiêu biểu cho lớp anh hùng của làng Xô Man, anh
chịu biết bao đau đớn thương tật nhưng anh vẫn sống vẫn hoạt động cách mạng một

cách sôi nổi, giặc không bắt được anh, không giết được anh, người anh hùng của


vùng đất Tây nguyên. Trong sự khốc liệt, tàn bạo của chiến tranh thì sự sống vẫn
vươn lên và chiến thắng cái chết, sức sống mãnh liệt, bất tử của rừng xà nu đã đại
diện cho tinh thần bất khuất, kiên cường của người dân Tây Nguyên trong những
năm tháng chiến tranh ác liệt.
Nguyễn Trung Thành với nghệ thuật xây dựng hình tượng xuất sắc, điểm nhìn
đậm chất điện ảnh khiến cho hình tượng cây xà nu hiện lên một cách thật chân thực
và sắc nét. Đôi lúc tác giả đã khơng kìm được mà bộc lộ những cảm xúc cá nhân
thật mạnh mẽ, niềm bất ngờ, tự hào về loài cây đặc sắc. Bằng bút pháp hiện thực và
bút pháp lãng mạn nhà văn đã gây dựng thật xuất sắc vẻ đẹp của cây rừng xà nu
biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Tây Nguyên, mở một cánh cửa dẫn người đọc
vào thế giới của con người nơi đây, tiêu biểu là nhân vật Tnú.
Dàn ý Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong tác phẩm Rừng
xà nu
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, và vấn đề cần phân tích.
II. Thân bài:
* Nhân vật Tnú:
- Tnú là tượng đài về hình tượng người anh hùng Tây Nguyên trong nền văn học
thời kỳ chống Mỹ cứu nước, mang khuynh hướng sử thi và lãng mạn cách mạng
sâu sắc, đặc trưng.
- Cậu bé Tnú đã tỏ ra là một người anh hùng, một mầm non sáng giá của cách mạng
khi hăng hái tham gia vào công tác nuôi giấu cán bộ, vận chuyển lương thực, thư
từ,…


- Bị giặc bắt giam nhưng Tnú không hề hé rằng lấy nửa lời, kiên trung và thách thức
bọn giặc khi chúng hỏi cách mạng ở đâu bằng việc chỉ vào bụng mình mà nói “ở

đây này”, sau 3 năm bị bắt giam Tnú tìm mọi cách vượt ngục và trở về làng tiếp tục
tham gia làm cách mạng.
- Sự anh hùng của Tnú còn thể hiện trong vai trò với gia đình khi nhảy vào giữa bọn
giặc ơm lấy vợ con đang hấp hối, che chở cho họ khỏi địn roi, một cách đầy bản
lĩnh và tràn ngập tình yêu thương.
- Dù lửa thiêu đốt mười đầu ngón tay, đau đớn vào đến tận ruột gan, nhưng Tnú
không hề kêu văn lấy một tiếng, trong tâm khảm chỉ hiện lên một câu nói “người
cộng sản khơng thèm kêu van”. Thể hiện sự dũng cảm, tầm vóc phi thường của một
người anh hùng.
- Mạnh mẽ đứng lên từ đau thương, tiếp tục tham gia kháng chiến, với mối nợ nước
thù nhà và lịng căm thù giặc sâu sắc, dùng chính đơi bàn tay cụt mười đầu ngón
của mình bắp cị súng diệt giặc trên chiến trường, thậm chí cịn mạnh mẽ dùng tay
khơng bóp chết một tên giặc Mỹ.
* Cụ Mết:
- Dấu gạch nối đậm nét giữa dân làng Xô Man với cách mạng và Đảng, mang trong
mình những vẻ đẹp sử thi, truyền thống của dân tộc Tây Nguyên với ngoại hình
khỏe mạnh cường tráng, giọng nói ồm ồm và tư chất của một người lãnh đạo một
già làng có uy tín.
- Sự anh hùng của cụ thể hiện thơng qua q trình trực lãnh đạo dân làng Xơ Man
tham gia vào kháng chiến:
+ Ngăn cản Tnú và muốn thay anh vào cứu mẹ con Mai.


+ Ra lệnh cho thanh niên trai tráng xông vào cứu Tnú bằng câu nói đậm chất Tây
Nguyên “Chém! Chém hết”, mang đến một trận thắng vang dội đầu tiên cho làng
Xô Man, hơn mười tên giặc Mỹ bị chém chết, mở ra một thời kỳ mới thời kỳ chiến
đấu sôi nổi của dân làng Xô Man.
- Phẩm chất anh hùng của cụ Mết cịn bộc lộ trong tầm nhìn và cách lãnh đạo dân
làng kháng chiến của cụ.
- Phát động kháng chiến trong làng bằng một những lời tâm huyết, mạnh mẽ cổ vũ

tinh thần của dân làng: “Thế là bắt đầu rồi! ...Đốt lửa lên!”.
- Tấm lòng giác ngộ cách mạng sâu sắc: “Đảng này còn núi nước này cịn”, “Chúng
nó cầm súng mình phải cầm giáo”, bộc lộ sâu sắc phẩm chất anh hùng, kiên trung
quyết sống chết để bảo vệ từng tấc đất quê hương, giành lại tự do cho dân tộc.
* Cơ Dít:
- Tham gia vào kháng chiến từ khi cịn nhỏ với cơng việc vận chuyển lương thực
nuôi giấu cán bộ.
- Không may một lần Dít bị giặc bắt, trước phương thức tra tấn tinh thần khủng
khiếp Dít đã bộc lộ được những phẩm chất anh hùng.
- Khi trưởng thành, Dít đã xuất sắc trở thành bí thư chi bộ, vững vàng trên con
đường chiến đấu và lý tưởng cách mạng của mình, trở thành một người nữ anh hùng
tiêu biểu của vùng rừng núi Tây Nguyên.
* Tập thể làng Xô Man:


×