Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và vấn đề ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.36 KB, 31 trang )

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC

Tên đề tài:

“Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
và vấn đề ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm,
bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay”

HÀ NỘI, 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

6

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VỚI THỰC TIỄN
1.1. Một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn

6
6

1.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn

11


1.3. Ý nghĩa phương pháp luận nguyên tắc giữa lý luận với thực tiễn hiện nay

13

Chương 2: BỆNH KINH NGHIỆM, BỆNH GIÁO ĐIỀU Ở ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều

14
14

2.2. Thực trạng bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ Việt Nam giai
đoạn hiện nay

16

Chương 3: GIẢI PHÁP ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VỚI THỰC TIỄN ĐỂ NGĂN NGỪA, KHẮC PHỤC BỆNH KINH
NGHIỆM, BỆNH GIÁO ĐIỀU Ở ĐỘI NGŨ CÁN BỘ

20

3.1. Giải pháp cốt lõi ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ
trong thời gian tới

20

3.2. Giải pháp cốt lõi ngăn ngừa, khắc phục bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ giai
đoạn tới


21

3.3. Giải pháp tăng cường tính chủ động, tích cực của đội ngũ cán bộ

24

KẾT LUẬN

26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

27


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn vừa là nhận thức luận, vừa là phương
pháp luận khoa học. Không thấy rõ sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đều là
sai lầm trong nhận thức và hành động. Bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều là một
sai lầm trong tư duy của chủ thể nhận thức. Người mắc các căn bệnh này thường
có xu hướng hoặc là tuyệt đối hóa vai trị của kinh nghiệm hoặc tuyệt đối hóa vai
trị của lý luận, do sai lầm đó, chủ thể nhận thức thường có những hành động gây
ra tình trạng kém hiệu quả trong hoạt động của cá nhân và tổ chức. Ảnh hưởng của
hai căn bệnh này, đặc biệt nguy hại khi chủ thể là những cán bộ giữ vị trí lãnh đạo,
quản lý trong hệ thống chính trị. Đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, hiện
nay bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều còn là một tượng khá phổ biến cần được
khắc phục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong q trình lãnh đạo cách mạng đã khơng ngừng

vận dụng các nguyên tắc nhận thức của Chủ nghĩa Mác- Lênin vào việc xây dựng
các đường lối, chủ trương định hướng cho sự phát triển của đất nước. Một trong số
đó, nguyên tắc mà Người quan tâm nhất là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Người nhấn mạnh: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên
tắc căn bản của Chủ nghĩa Mác- Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông”. Nguyên tắc này đã trở thành cách thức và phương pháp hành động của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong q trình thực hành ngun tắc này, Người đã phát hiện ra rằng, đội
ngũ cán bộ ở nước ta thường yếu và thiếu lý luận, hiệu quả tổ chức các hoạt động
1


khơng cao. Từ đó, Người chỉ ra ngun nhân của những hạn chế là do nhiều người
“chỉ bo bo giữ lấy những kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan
trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm,
khơng hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng”. Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn do
vậy em đã chọn đề tài câu: “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và
vấn đề ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán
bộ nước ta hiện nay” để làm tiểu luận kết thúc môn để nhằm làm rõ những vấn đề
này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nghiên cứu đã được nhiều nhà nghiên cứu, học giả quan tâm tìm hiểu
đưới những khía cạnh khác nhau cũng như đã luận giải, tiếp cận ở những nội dung
cụ thể. Trong đó chúng ta có thể kể đến những cơng trình nghiên cứu sau đây:
Về bản chất, biểu hiện của bệnh kinh nghiệm, có các tác giả với các bài viết
đã đề cập như: Lê Hữu Nghĩa: Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán
bộ ta, Tạp chí Triết học, số 2/1988; Nguyễn Ngọc Long: Chống bệnh kinh nghiệm
giáo điều đổi mới tư duy lý luận, Tạp chí Cộng sản, số 05/1988; Trần Văn Phịng:
Bước đầu tìm hiểu những biểu hiện đặc thù của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở

nước ta so với chủ nghĩa kinh nghiệm phương Tây, Tạp chí Giáo dục lý luận, số
2/1997; Hồng Chí Bảo: Từ tư duy lý luận đến tư duy kinh nghiệm, Thông tin lý
luận, số 6/1998.
Về nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm, có các tác giả với các bài viết đã đề
cập như: Lê Hữu Nghĩa: Về những khuyết điểm và yếu kém trong tư duy lý luận ở
cán bộ ta, “Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận”, Học viện Nguyễn Ái
Quốc, Hà Nội, 1988; Lê Thi (1988), Thực trạng tư duy cán bộ đảng viên ta và căn
nguyên của nó, Triết học.
2


Về bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của các tỉnh, có
các đề tài luận văn thạc sỹ như: Võ Thị Bích: Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở Long An, Luận văn thạc sỹ Triết học, 2001; Lương Thị Mến:
Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc
Kạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ Triết học, 2008; Đỗ Thanh Hiệp: Ảnh hưởng của tư
duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau, Luận văn thạc sỹ
Triết học, 2008.
Các tác giả đã tìm hiểu tương đối có hệ thống về bệnh kinh nghiệm và tư
duy kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở các tỉnh… Các công trình
nghiên cứu ở trên đã khái quát những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn của
kinh nghiệm, tư duy kinh nghiệm và bệnh kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý nói chung, ở cơ sở nói riêng và đặc biệt ở một số địa phương.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát chung về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn đề tài phân tích bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ Việt Nam
hiện nay từ đó đề xuất giải pháp áp dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn để ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ Việt
Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát chung về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn;
- Phân tích bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ Việt Nam hiện
nay;
- Đề xuất giải pháp áp dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để
ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ Việt Nam.
3


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với
thực tiễn và vấn đề ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội
ngũ cán bộ nước ta hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở luận
Đề tài dựa trên cơ sở luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng
và chính sách, pháp luật của nhà nước về đội ngũ cán bộ, vấn đề gắn lý luận với
thực tiễn trong hoạt động của cán bộ các cấp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học như duy vật biện
chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Đồng thời đề tài sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu chuyên ngành như phương pháp phân tích tài liệu, phân tích tổng hợp; phương pháp so sánh và phương pháp quy nạp-diễn dịch.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài làm rõ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và vấn đề
ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
4


Đề tài được thực hiện sẽ góp phần đề xuất giải pháp áp dụng guyên tắc
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn để ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm,
bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ Việt Nam. Đồng thời đề tài là tài liệu tham khảo
hữu ích đối với những sinh viên quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài bao gồm 3
chương và 8 tiết.

5


NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN

1.1. Một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn
1.1.1. Lý luận
Xét về hình thức lý luận là giai đoạn cao của nhận thức; về bản chất của lý
luận là hệ thống luận điểm nhất định gắn bó với nhau về mặt lơgic và phản ánh bản
chất các quy luật hoạt động và phát triển của khách thể được nghiên cứu. Hay nói
cách khác, lý luận là sự phát triển cao của nhận thức được hình thành trong mối
quan hệ với thực tiễn.
Lý luận có đặc trưng vừa như q trình vừa như kết quả của hoạt động nhận
thức. Lý luận phải hướng đến nắm bắt cái bên trong, bản chất, tất yếu những quan
hệ toàn diện và mâu thuẫn của đối tượng, đồng thời phải trình bày, thể hiện được

điều đã nắm được ấy dưới dạng quan điểm hay hệ thống quan điểm.
Nói gọn lại, ta có thể định nghĩa: Lý luận là sự nhận thức bản chất, mối liên
hệ bên trong tất yếu của đối tượng và diễn đạt bằng kết quả của nhận thức đó
bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, phán đoán về quy luật nội tại của đối
tượng.
Lý luận có những đặc điểm cơ bản sau:
Về nội dung: Lý luận phản ánh bản chất mối liên hệ tất yếu của đối tượng
trong tính chỉnh thể, tồn vẹn của nó, hoặc từng mặt xác định của đối tượng.
6


Về hình thức: Lý luận diễn đạt nội dung bằng các khái niệm phán đốn.
Lý luận có tính trừu tượng, khái quát, tổng hợp rất cao, do đó nó có tính gián
tiếp đối với đối tượng nhận thức địi hỏi chủ thể không đơn thuần nắm bắt những
tác động trực tiếp vào các giác quan mà phải hoạt động tự giác và tích cực, chủ
động chiếm lĩnh đối tượng.
Hoạt động lý luận là một hệ thống có cấu trúc cơ bản gồm: chủ thể (người
hoạt động lý luận), khách thể (đối tượng) của hoạt động lý luận, điều kiện của hoạt
động lý luận và kết quả của hoạt động lý luận.
Theo tính chất có thể phân chia lý luận thành tiên tiến, cách mạng, bảo thủ,
phản cách mạng, giáo điều, ngụy biện… Tuy nhiên, những loại hình lý luận này
khơng hẳn do thực tiễn quy định mà phần nhiều do lập trường triết học của chủ thể
quy định.
Các cấp độ lý luận: Lý luận ngành và lý luận triết họ. Lý luận ngành là lý
luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển của một ngành; có vai trị là
cơ sở lý luận để sáng tạo, đơng thời là phương pháp luận của ngành đó (lý luận văn
học, nghệ thuật v.v). Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về
thế giới, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới ấy, đồng thời là thế giới
quan và phương pháp luận của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Các chức năng cơ bản của lý luận: Chức năng phản ánh hiện thực khách

quan và chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn. Chức năng phản ánh
hiện thực khách quan của lý luận thể hiện qua những quy luật chung nhất. Chức
năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn (xem phương pháp luận).
Như vậy, chúng ta tạm thời tách trong tư duy ra hai mặt (lý luận và thực tiễn)
để nhận thức từng mặt một với những nội dung rất cơ bản của từng mặt đối lập đó
trước khi xem xét mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
7


1.1.2. Thực tiễn
Đa số các nhà triết học duy vật trước Mác chưa có quan điểm đúng đắn về
thực tiễn, chưa đặt ra vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, mà chỉ nêu vai trò của
thực nghiệm khoa học, do vậy chưa thấy vai trò của thực tiễn đối với nhận thức nói
chung, với lý luận nói riêng. Đó là những nguyên nhân chủ yếu lý giải chủ nghĩa
duy vật trước Mác đã không làm sáng tỏ được vai trị năng động, sáng tạo và tính
tích cực của tư duy con người. Bêcơn là nhà triết học đầu tiên nhận thấy vai trị của
thực nghiệm trong q trình nhận thức, hình thành tri thức khoa học; theo đó nhận
thức phải xuất phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm để tìm ra mối quan hệ nhân quả, phát hiện và kiểm tra chân lý.
Phoiơbắc coi thực tiễn là hoạt động của con người, nhưng chỉ coi hoạt động
lý luận là hoạt động đích thực của con người. Khuyết điểm chủ yếu của các nhà
triết học duy vật trước Mác trong vấn đề thực tiễn là sự vật, hiện thực, cái cảm giác
được, chỉ được nhận thức trong hình thức khách thể hay hình thức trực quan chứ
khơng được coi là hoạt động cảm giác của con người, của thực tiễn. Tuy vậy, quan
điểm về vai trò của thực nghiệm khoa học trong quá trình nhận thức, trong sự hình
thành tri thức khoa học vẫn là một trong những tiền đề cho quan niệm về thực tiễn
trong triết học Mác.
Các nhà triết học duy tâm, tuy thấy được mặt năng động của tư duy, nhưng
lại tuyệt đối hoá vai trị của nó, làm cho tư duy trở nên thần bí. Hêghen cho rằng,
bằng thực tiễn, chủ thể tự nhân đơi mình, đối tượng hố bản thân mình trong quan
hệ với thế giới bên ngồi và tuy đó khơng phải là hoạt động vật chất của con người

mà của ý niệm tuyệt đối nhưng vẫn là ý tưởng sâu sắc về thực tiễn.
Đối với triết học Mác-Lênin, phạm trù thực tiễn là một trong những phạm
trù trung tâm của triết học Mác - Lênin. Nó khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi dùng
để giải thích q trình nhận thức mà cịn có nhiều ý nghĩa về thế giới quan. Chúng
8


ta cần nhận thức sâu sắc rằng, trong phạm vi mối quan hệ giữa nhận thức và thực
tiễn, với việc đưa ra phạm trù thực tiễn vào lý luận, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực
hiện một bước chuyển cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận
thức nói riêng.
Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Như vậy, phạm trù thực tiễn có
hai đặc trưng quan trọng nhất: Một là, thực tiễn là hoạt động vật chất tác động lên
đối tượng vật chất tạo ra giá trị vật chất. Hai là, hoạt động trực tiếp làm biến đổi
thế giới khách quan.
Thực tiễn bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt động, ta có thể khái quát
hoạt động thành ba dạng cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị
xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Như vậy, thực tiễn không phải là bản thân thực tại khách quan, không phải là
khách thể, cũng không phải là con người, chủ thể mà là sự tác động qua lại giữa
chủ thể và khách thể. Thông qua sự tác động qua lại đó, chủ thể giải quyết nhu cầu
trước hết là tạo ra những vật phẩm khơng có sẵn trong tự nhiên để tồn tại và phát
triển, đồng thời giải quyết nhu cầu khách thể, nhu cầu hình thành lý luận về khách
thể. Vì vậy, giữa lý luận và thực tiễn có mối liên hệ biện chứng.
Cống hiến vĩ đại nhất của các nhà sáng lập triết học Mác - Lênin là lần đầu
tiên trong lịch sử đã khám phá ra vai trò quyết định của thực tiễn xã hội đối với lý
luận. Họ đã chứng minh rằng, thực tiễn của con người không chỉ là cơ sở quan
trọng nhất và mục đích cuối cùng của toàn bộ nhận thức, mà là tiêu chuẩn quyết
định của chân lý. Tuy nhiên, không nên hiểu luận điểm, thực tiễn là tiêu chuẩn

khách quan của chân lý theo kiểu, mỗi một lý thuyết khoa học cần phải được kiểm
tra trực tiếp bằng thực tiễn. Dĩ nhiên có nhiều luận điểm lý thuyết đúng thực tiễn
được luận chứng bằng con đường logic mà không trực tiếp dựa vào thực tiễn.
9


Nhưng từ đó tuyệt nhiên khơng thể suy ra rằng, tiêu chuẩn thực tiễn cho nhận thức
của con người là chân lý “vĩnh hằng”, khơng cịn gì để bổ sung thêm và sau đó
khơng cần đến sự kiểm tra mới và chính xác hóa nữa. Ngay cả những luận điểm mà
trước đó đã được xác nhận hồn tồn bởi thực tiễn, vẫn cần tiếp tục được chính xác
hóa, cụ thể hóa hoặc bị phế bỏ phù hợp với những thành tựu mới nhất của thực tiễn
xã hội và khoa học tiên tiến.
Tóm lại hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc trưng và bản chất của con
người, được thực hiện một cách tất yếu khách quan và được tiến hành trong các
quan hệ xã hội, hoạt động mang tính năng động, sáng tạo là phương thức tồn tại cơ
bản của con người và xã hội loài người. Đánh giá vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức, V.I.Lênin đã khẳng định: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”(1). Về lý luận, lý luận nhận thức
của triết học Mác - Lênin đã khẳng định: Sự phát triển của nhận thức tất yếu dẫn
đến sự ra đời của lý luận.
1.1.3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là luận điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội dung thực chất của mối quan hệ
đó là: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà khơng có liên hệ với thực tiễn là lý luận sng”.
Vấn đề này, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải hiểu trên tinh thần biện chứng:
Thực tiễn cần tới lý luận khoa học soi đường, dẫn dắt, định hướng để khơng rơi
vào mù qng, mị mẫm. Cịn lý luận khoa học phải dựa trên cơ sở thực tiễn, nảy
sinh từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn. Lý luận

khoa học phải được hình thành, bổ sung, phát triển bằng con đường tổng kết thực
tiễn, nếu khơng lý luận đó chỉ là lý luận suông, giáo điều, xa rời cuộc sống.
10


Chúng ta cần chú ý rằng: một lý luận khoa học có thể được nảy sinh từ
những luận điểm khoa học đã có làm tiền đề. Nhưng xét đến cùng thì những lý
luận đó cũng xuất phát từ thực tiễn. Vì vậy, ta có thể khẳng định rằng: mọi lý luận
đều trực tiếp hoặc gián tiếp bắt nguồn từ thực tiễn. Từ sự phân tích trên ta thấy, về
bản chất nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đòi hỏi: Thực tiễn và lý
luận đều cần đến nhau, nương tựa vào nhau, bổ sung cho nhau. Khơng có thực tiễn
thì sẽ khơng có lý luận chân chính; ngược lại khơng có lý luận khoa học thì thực
tiễn sẽ mất phương hướng sớm muộn sẽ mắc bệnh kinh nghiệm hoặc bệnh giáo
điều.
1.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
1.2.1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý
luận
Đúng vậy, thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý
luận; lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn.
Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là do nhu
cầu của hoạt động thực tiễn buộc con người phải nhận thức thế giới. Thực tiễn là
cơ sở của nhận thức là vì nhờ hoạt động thực tiễn, các giác quan và bộ não của con
người khơng ngừng được hồn thiện và phát triển, tạo ra năng lực tư duy trừu
tượng ngày càng cao. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì nhờ thơng qua lao
động, thực tiễn trang bị cho con người công cụ, phương tiện nhận thức ngày càng
tinh vi hơn, giúp con người đẩy nhanh quá trình tìm hiểu bản chất sự vật, hiện
tượng, mở rộng tầm bao quát những quá trình đang diễn ra trong thế giới.
Thực tiễn là động lực của lý luận. Hoạt động thực tiễn là nguồn gốc để con
người hoàn thiện mình và hồn thiện các mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội.

11


Hoạt động thực tiễn tạo cơ sở để con người khái quát tri thức thành lý luận, làm lý
luận phản ánh hiện thực ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy,
thực tiễn thúc đẩy sự hình thành khoa học lý luận.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận là sự
phản ánh phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan mà nó phản ánh và đã
được thực tiễn kiểm nghiệm. Giá trị của lý luận phải được thực tiễn chứng minh.
Không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của lý luận, bởi thực tiễn cũng vận
động, phát triển và chuyển hoá. Nếu lý luận chỉ phản ánh một trong những giai
đoạn nào đó của thực tiễn, thì lý luận chỉ mới chỉ là tương đối; chỉ có những lý
luận nào phản ánh được thực tiễn trong tính tồn vẹn của nó mới đạt đến chân lý.
1.2.2. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát
triển trong thực tiễn
Khi thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được vận
dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Lý luận có khả
năng soi đường cho thực tiễn bằng các chức năng định hướng mục đích; xác định
lực lượng, phương pháp và biện pháp thực hiện mục đích; cụ thể:
Lý luận định hướng mục đích. Ban đầu, hoạt động chỉ để đáp ứng nhu cầu
tồn tại và thơng qua đó, khái qt thành lý luận; về sau hoạt động muốn có hiệu
quả cần có lý luận soi đường, hoạt động từ bản năng chuyển sang tự giác.
Lý luận có khả năng xác định lực lượng, phương pháp và biện pháp thực
hiện mục đích.
Lý luận dự báo khả năng phát triển, những khả năng có thể xẩy ra trong q
trình hoạt động, bởi vậy lý luận không những giúp hoạt động hiệu quả, mà còn là
cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng cường năng lực hoạt động của con
người.
12



Lý luận có vai trị giác ngộ mục tiêu, lý tưởng; liên kết các cá nhân thành
cộng đồng, tạo ra sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, xã hội.
Lý luận phải trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn
và tiếp tục bổ sung, phát triển trong thực tiễn; chống lý luận suông và sự lạc hậu
của lý luận so với thực tiễn.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận nguyên tắc giữa lý luận với thực tiễn hiện
nay
Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn; phản ánh được yêu cầu của thực tiễn;
khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn, cụ thể: Thực tiễn luôn vận động,
phát triển và biến đổi nên nhận thức phải bám sát để phản ánh q trình đó; so
sánh, đối chiếu, phân tích để chọn lọc những thực tiễn có tính quy luật làm cơ sở
cho quá trình hình thành lý luận. Lý luận phải khái quát được kinh nghiệm của
nhân loại; tổng kết được thực tiễn mới có tính khoa học và đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo; khi vận dụng lý luận
phải phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể. Lý luận là sự tổng kết thực tiễn và là
mục đích cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Lý luận phản ánh thực tiễn trong dạng
quy luật nên lý luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho thực tiễn.
Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận với thực tiễn. Bệnh kinh nghiệm, nguyên nhân và con đường khắc phục.
Bệnh kinh nghiệm xuất hiện do tuyệt đối hoá những kinh nghiệm đã có và áp dụng
chúng vào hiện tại mặc đù điều kiện đã thay đổi. Muốn khắc phục bệnh này, cần
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, ln bám sát thực tiễn,
nâng cao trình độ lý luận; bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn. Bệnh
giáo điều, nguyên nhân và con đường khắc phục. Bệnh giáo điều xuất hiện do nắm
lý luận còn nơng cạn, tuyệt đối hố lý luận, vận dụng máy móc những kiến thức đã
13



có trong sách vở mà coi nhẹ kinh nghiệm. Muốn khắc phục bệnh này, cần quán
triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, luôn gắn lý luận với thực
tiễn, kiểm tra lý luận trong thực tiễn và phát triển lý luận cùng với sự phát triển của
thực tiễn.
Chương 2
BỆNH KINH NGHIỆM, BỆNH GIÁO ĐIỀU
Ở ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Việc tìm hiểu căn nguyên của hai căn bệnh kinh nghiệm và giáo điều có ý
nghĩa hết sức quan trọng, bởi chỉ có thể dựa trên những hiểu biết chính xác về bản
chất, nguồn gốc dẫn đến hai căn bệnh này mới giúp cho chúng ta nhận diện, khắc
phục được những sai lầm trong tư duy và do đó cải thiện tính kém hiệu quả trong
hoạt động thực tiễn. Về nguồn gốc của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều đã
được các nhà kinh điển Mác-Lênin chỉ rõ, đó là do khơng nhận thức đúng mối
quan hệ giữa thực tiễn và lý luận.
Theo các nhà kinh điển Mác-Lênin, thực tiễn là tồn bộ các hoạt động vật
chất-cảm tính, có tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Lý luận khoa học là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự
vật, hiện tượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: ‘‘Lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong q trình lịch sử’’.
Lý luận được hình thành trên cơ sở khái quát kinh nghiệm thực tiễn, nhưng không
14


phải cứ có kinh nghiệm thực tiễn là có được lý luận. Lý luận được hình thành
thơng qua hoạt động tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái quát lý luận của các nhà
lý luận. Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động

qua lại với nhau. Trong mối quan hệ đó, thực tiễn có vai trị quyết định đối với lý
luận. Vai trị đó thể hiện ở chỗ thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích, là tiêu
chuẩn để kiểm tra nhận thức và lý luận. Lý luận mặc dù được hình thành từ thực
tiễn nhưng có vai trị tác động trở lại đối với thực tiễn. Sự tác động của lý luận thể
hiện qua vai trò xác định mục tiêu, khuynh hướng, điều chỉnh hoạt động thực tiễn,
làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận, đòi hỏi chúng ta khi
nhận thức và tổ chức hoạt động thực tiễn phải đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn. Nguyên tắc này đặt ra hai yêu cầu cơ bản bao gồm lý luận phải
luôn xuất phát từ thực tiễn, lý luận phải nắm bắt tình hình thực tiễn, phản ánh chính
xác các vấn đề của thực tiễn; mặt khác thực tiễn phải được dẫn dắt, chỉ đạo bởi lý
luận. Như vậy, vấn đề đặt ra là, thực tiễn khi được lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ
đạo, hướng dẫn, định hướng sẽ không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận khi
dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn thì sẽ khơng sẽ mắc phải bệnh giáo
điều.
Thực tiễn và lý luận thống nhất, bổ sung cho nhau, đảm bảo sự tồn tại của
nhau. Nắm vững ngun tắc này là chìa khóa dẫn đến thành công trong tổ chức các
hoạt động trong thực tiễn. Tuy nhiên, thực tế không phải lúc nào và khi nào chúng
ta cũng có khả năng nhận thức và vận dụng đúng hai yêu cầu này. Thông thường,
chúng ta thường rơi vào tình trạng hoặc là tuyệt đối hóa q mức vai trò của thực
tiễn hoặc của lý luận đến mức phiến diện, một chiều, chỉ nhìn thấy một trong hai
yếu tố đó. Đây là nguyên nhân căn bản dẫn đến bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo
điều.
15


Bệnh kinh nghiệm có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của tri thức kinh
nghiệm, coi thường lý luận, đề cao thực tiễn, hạ thấp lý luận, ngại học tập lý luận.
Vận dụng kinh nghiệm để giải quyết những vấn đề thực tiễn một cách máy móc,
dẫn đến tình trạng áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực

tiễn. Bệnh giáo điều là căn bệnh có khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận, coi thường
kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở
những nguyên lý chung trừu tượng, thuộc lịng lý luận, khơng chú ý đến những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận; áp dụng lý luận cứng nhắc không
xem xét điều kiện cụ thể.
Như vậy, nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều
xuất phát từ khuynh hướng nhận thức sai lệch về mối quan hệ giữa lý luận và thực
tiễn, vi phạm sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đây là một trong những
nguyên nhân dẫn đến hoạt động của đội ngũ cán bộ kém hiệu quả, thậm chí là thất
bại trong hoạt động thực tiễn. Điều này rất cần được khắc phục. Đây là một thói
quen xấu, là một dạng “khuyết tật” của xã hội hiện đại. Nếu không biết khắc phục
những khiếm khuyết, hạn chế của bệnh kinh nghiệm, giáo điều thì sẽ ảnh hưởng,
làm chận quá trình phát triển của xã hội. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển của đất nước, ảnh hưởng đến cuộc sống, đặc biệt đối những nhóm người yếu
thế: người nghèo, người khuyết tật. Nghiên cứu để khắc phục bệnh giáo điều là
khắc phục những khiếm khuyết của xã hội, từ đó tạo động lực phát triển cho mỗi
cá nhận, cộng đồng và toàn xã hội.
2.2. Thực trạng bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ Việt
Nam giai đoạn hiện nay
Trước đây Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều bài phát biểu, nhiều lời căn dặn
cán bộ phải coi trọng cả kinh nghiệm, lý luận, tránh rơi vào bệnh kinh nghiệm,
bệnh giáo điều, song đội ngũ cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều biểu hiện của hai căn
16


bệnh này. Điều đó đang ảnh hưởng tới kết quả quá trình hoạt động thực tiễn của
các địa phương. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trong
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, coi nguyên tắc này là một trong
những căn cứ lý luận cho việc hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam. Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Đẩy mạnh tổng kết thực

tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn kết tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách”.
Thực trạng đáng buồn hiện nay, một số cán bộ, đảng viên thối hóa biến chất
một cách trầm trọng cả về lý tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống…lời nói khơng đi
đơi việc làm, ngày một phát triển nhiều chủ nghĩa cá nhân, tư lợi... Tệ nạn tham ơ
tham nhũng, lo lắng cho một xã hội thối hóa biến chất đang ngày một gia tăng.
Tình thương giữa con người đối với con người dần phai nhạt, trở thành thù địch,
đối thủ…Trong xã hội thì nhân dân mất đi niềm tin vào cán bộ với suy nghĩ “hành
là chính” chứ khơng phải cán bộ đảng viên là người đầy tớ của nhân nhân, hết lòng
phụng sự nhân dân. Kỷ cương, kỷ luật, nội quy, quy chế bị phá vỡ, luân thường đạo
lý đảo lộn, xã hội thì ngày một đi sâu vào kinh tế thị trường, lấy đồng tiền làm
thước đo cho mọi quan hệ xã hội. Đó cũng là hệ lụy của cơ chế thị trường, sự mai
một về văn hóa truyền thống, đó là đạo đức gia phong, đó là hịa nhập, nhưng lại
hịa tan, mà không thanh lọc trong sự ô hợp của các nền văn hóa lai căng hội nhập.
Trước những thách thức của thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế thế giới, trước
thực trạng báo động về trình độ lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay đã
nảy ra những điểm yếu kém mà chưa tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ, cũng
như tầm nhìn của thời kỳ mới hội nhập.
Sự yếu kém về lý luận, xa rời thực tiễn của một bộ phận cán bộ, đảng viên
đã làm giảm hiệu quả của công tác tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo, gây bức xúc trong
17


nhân dân. Thực tiễn cho thấy, đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay chủ yếu thuộc 3
loại: Một là, cán bộ am hiểu lý luận, nhưng ít thực tiễn; hai là, cán bộ có thực tiễn,
nhưng yếu lý luận; ba là, cán bộ vừa không am hiểu lý luận, vừa xa rời thực tiễn.
Số cán bộ vừa am hiểu lý luận, sâu sát thực tiễn chỉ chiếm số lượng rất nhỏ.
Tình trạng cán bộ yếu về lý luận, xa rời thực tiễn, hay cán bộ chỉ có lý luận,
khơng có thực tiễn hoặc ngược lại đã gây những hệ lụy không nhỏ cho Nhà nước

và xã hội… Đơn cử, trong thời gian qua, nhiều chính sách hay những văn bản cả ở
thể loại quy định, hướng dẫn, thông tư cho đến thể loại cao hơn, như nghị định, chỉ
thị của một số cơ quan chức năng liên quan đến nhiều vấn đề, như văn hóa, giáo
dục, y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm,… dù là dự thảo hay đưa vào thực hiện đã gây
luồng dư luận bất bình, bởi không phù hợp với thực tế, không phản ánh được hơi
thở cuộc sống. Điều đó đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của các chính sách, gây bức
xúc trong dư luận. Đây là một thực tế mà nếu không có giải pháp khắc phục kịp
thời, sẽ để lại nhiều hậu quả, làm suy giảm lòng tin của nhân dân. Để chủ trương,
chính sách đi vào cuộc sống, người làm chính sách, ở đây là đội ngũ cán bộ, đảng
viên phải hịa mình vào cuộc sống của nhân dân. Khơng thể “ngồi trong phịng
lạnh” để đề ra chính sách.
Cũng vì những bất cập, yếu kém về lý luận và thực tiễn của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, nên nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước chậm đi vào cuộc sống. Ở nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị, do cán bộ
khơng nắm được tình hình thực tiễn, nên tham mưu không đúng, không trúng vấn
đề, không phản ánh được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Cũng có nhiều cán
bộ, đảng viên, vì kém lý luận, thiếu hiểu biết, nên không truyền tải, tuyên truyền,
vận động, thuyết phục được nhân dân tham gia thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không dám đối thoại với nhân dân, lúng
túng trong xử lý các tình huống; nhiều cán bộ, đảng viên thực hiện chức trách,
18


nhiệm vụ một cách máy móc, giáo điều, dập khn, thiếu tinh thần sáng tạo và
khơng có quan điểm lịch sử - cụ thể khi xử lý, giải quyết công việc.
Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Nguyên nhân của
bệnh kinh nghiệm có nhiều, chẳng hạn như ảnh hưởng tiêu cực của nền sản xuất
nhỏ, theo mùa, theo chu kỳ; ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng gia trưởng, phong
kiến. Nhưng nguyên nhân cơ bản, trực tiếp nhất là vi phạm nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, không hiểu quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn

của cán bộ, đảng viên. Còn nguyên nhân của bệnh giáo điều ở Việt Nam như ảnh
hưởng tiêu cực của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp q lâu; bệnh thành tích,
bệnh hình thức. Đặc biệt là vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực
tiễn và không hiểu quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn ở một số cán bộ và
đảng viên. Đây là nguyên nhân cơ bản, trực tiếp nhất của căn bệnh giáo điều ở Việt
Nam.
Ngoài ra cịn có các ngun nhân khác như chất lượng giảng dạy, chương
trình đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra và bản thân đội ngũ cán
bộ, đảng viên chưa cố gắng, nỗ lực học tập nâng cao trình độ lý luận, năng lực thực
tiễn. Trong những nguyên nhân trên, quan trọng nhất là do chất lượng và hiệu quả
của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lý luận chính trị chưa đạt yêu cầu, thiếu
tính thực tiễn, “lạc hậu về triết lý, tư duy và phương pháp giáo dục không chỉ so
với các nước phát triển mà còn so với nhiều trường đại học tiên tiến trong nước
thuộc khu vực giáo dục quốc dân”.

19


Chương 3
GIẢI PHÁP ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN ĐỂ NGĂN NGỪA, KHẮC
PHỤC BỆNH KINH NGHIỆM, BỆNH GIÁO ĐIỀU Ở ĐỘI NGŨ CÁN BỘ

3.1. Giải pháp cốt lõi ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ
cán bộ trong thời gian tới
Thứ nhất, thực hiện thành cơng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để
khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của nền sản xuất nhỏ. Phải thông qua tổng kết thực
tiễn, nhưng phải đứng từ chỗ đứng của lý luận để tổng kết thực tiễn một cách có lý
luận chứ khơng phải từ kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh nghiệm. Gắn tổng kết thực
tiễn với nghiên cứu lý luận để phát triển lý luận mới, có năng lực dự báo khoa học.

Bởi lẽ, khơng có trình độ lý luận thì khơng thể tổng kết kinh nghiệm một cách có
lý luận và khơng thể định hướng cho công cuộc đổi mới. Khắc phục tư tưởng coi
thường trí thức, tuyệt đối hóa kinh nghiệm. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của
Đảng chỉ rõ: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập
lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”1 là
biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị. Quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn, hiểu và vận dụng đúng quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực
tiễn.
Thứ hai, thường xuyên tổng kết kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát
triển lý luận, làm giàu tri thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán
bộ, đảng viên phải biết tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả
20


cơng tác “… cơng việc gì bất kỳ thành cơng hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên
cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khố
phát triển cơng việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”. Người nhấn mạnh: “… cần
phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới
để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm”. Đó chính là q
trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện,
phát triển lý luận. Làm được như vậy có nghĩa là làm cho lý luận được “bổ sung
bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”. Đồng thời, thực tiễn
mới sẽ được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Đây là biểu hiện sinh
động của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Chủ tịch
Hồ Chí Minh, “tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó
được nâng cao hơn và cơng tác có kết quả hơn”. Cụ thể với các yêu cầu cơ bản đó
là: Phải nhận thức đúng vai trò của lý luận, nắm bắt hệ thống lý luận khoa học, đặc
biệt là tinh thần và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, nắm chắc lý luận của các khoa học cơ bản và khoa học chuyên

ngành; Phải vận dụng lý luận vào thực tiễn một cách sáng tạo; Khi thực tiễn thay
đổi thì lý luận cũng phải thay đổi theo; Phải tích cực tu dưỡng, rèn luyện để có đủ
các điều kiện về phẩm chất và năng lực để thống nhất giữa lý luận và thực tiễn;
Phải có quan điểm thực tiễn đúng đắn, tích cực hoạt động thực tiễn, xuất phát từ
thực tiễn, tích cực sơ, tổng kết thực tiễn để rút kinh nghiệm, phát triển lý luận.
3.2. Giải pháp cốt lõi ngăn ngừa, khắc phục bệnh giáo điều ở đội ngũ
cán bộ giai đoạn tới
Một là, cần thay đổi nhận thức về việc học tập lý luận nhằm nâng cao trình
độ tư duy lý luận, chống giáo điều về lý luận, tăng tính thực tiễn trong học tập lý
luận. Tăng tính thực tiễn là gắn các tri thức lý luận với thực tiễn công tác, thực tiễn
đất nước, làm cho thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm tăng hiệu quả hoạt
21


động thực tiễn cơng tác của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán việc học tập
lý luận mà không gắn với thực tiễn của cán bộ, đảng viên, là coi việc học tập lý
luận chỉ để gắn cái “mác”, để có cái “bằng”, học tập để nói cho “có vẻ” lý luận;
học lý luận để biết “dăm câu ba chữ” dùng làm “trang sức” hoặc để lòe người khác,
chứ khơng để nâng cao trình độ lý luận, nâng cao trình độ tư duy lên tầm lý luận;
giải thích và chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn bằng lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu
cầu chống và phê phán kiểu học thuộc lịng chủ nghĩa Mác - Lênin, đó chính là
cách “học sách vở Mác - Lênin nhưng khơng học tinh thần Mác - Lênin”. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là “phải học tinh thần của
chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ
nghĩa Mác-Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải
quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. Như
vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải tăng tính thực tiễn trong học tập lý luận,
nghĩa là học lý luận để phục vụ thực tiễn làm việc, từ đó khắc phục được bệnh giáo
điều lý luận. Người chỉ ra: “Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần
xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân

lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh
thực tế của nước ta. Học để mà làm”. Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin trước hết để
biết, để làm người, rồi mới làm cán bộ và phụng sự Tổ quốc, nhân dân, giai cấp.
Người cán bộ, đảng viên phải có thái độ đúng đắn mới có thể khắc phục được bệnh
giáo điều trong nghiên cứu, học tập lý luận. Như vậy, thay đổi nhận thức về việc
học tập lý luận là quán triệt quan điểm thực tiễn để chống bệnh giáo điều trong học
tập lý luận.
Hai là, cần vận dụng lý luận một cách sáng tạo và hiệu quả vào thực tiễn để
nâng cao hiệu quả công tác. Học tập lý luận cốt là vận dụng vào thực tiễn, phục vụ
cải tạo thực tiễn, nếu không sẽ trở nên giáo điều về lý luận. Vận dụng ở đây không
22


đơn giản là dùng những kiến thức lý luận đã học để áp dụng vào thực tế mà để
phân tích, mổ xẻ thực tiễn. Phải đem những điều học được để phân tích và giải
quyết các vấn đề thực tế trong cơng tác của bản thân mình và của Đảng, như vậy
thì việc nghiên cứu, học tập, vận dụng lý luận mới có hiệu quả. Khi đem những
kiến thức lý luận áp dụng vào thực tiễn phải phân tích những điều kiện cụ thể của
thực tiễn để lựa chọn lý luận nào và kinh nghiệm thực tiễn nào vào cải tạo thực
tiễn. Người căn dặn cán bộ, đảng viên: khi nghiên cứu, học tập và vận dụng kinh
nghiệm của các nước vào thực tiễn cách mạng nước ta phải căn cứ vào thực tiễn
đất nước để tìm ra hướng đi riêng cho mình; biết lựa chọn kinh nghiệm nào cho
phù hợp, nếu không sẽ phạm phải giáo điều khi vận dụng kinh nghiệm: “Không
chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các
nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”. Vì vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh u cầu ngoài việc nâng cao nhận thức trong học tập lý luận, cán
bộ, đảng viên phải luôn luôn nhấn mạnh nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế và
tính lịch sử cụ thể khi vận dụng kinh nghiệm của các nước vào nước mình.

Ba là, khắc phục chủ nghĩa thành tích, chủ nghĩa hình thức, đổi mới hệ

thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất
lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng. Từng bước hoàn
thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, hiểu và vận dụng đúng đắn quan hệ biện
chứng giữa lý luận với thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nâng cao
công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng, học đi đôi với
hành, lý luận liên hệ với thực tiễn và đặc biệt tăng cường tổng kết thực tiễn. Phải
quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm và nguyên tắc, phương châm và phương
pháp tư duy của Bác để nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận
23


×