Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Những giá trị của lý thuyết chính trị Trung Quốc thời kỳ cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.58 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN MƠN

CÁC LÝ THUYẾT CHÍNH TRỊ TRONG LỊCH SỬ

Tên đề tài:
“Những giá trị của lý thuyết chính trị Trung Quốc thời kỳ cổ đại”

HÀ NỘI, 2022

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
NỘI DUNG...............................................................................................................7
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRUNG QUỐC THỜI KỲ CỔ ĐẠI...........7
1.1. Địa lý và cư dân Trung Quốc cổ đại...............................................................7
1.2. Lịch sử các triều đại của Trung Quốc cổ đại..................................................8
1.3. Một số thành tựu văn minh Trung Quốc cổ đại..............................................9
Chương 2: NHỮNG LÝ THUYẾT CHÍNH TRỊ CỦA TRUNG QUỐC THỜI KỲ
CỔ ĐẠI...................................................................................................................13
2.1. Thuyết “Chính danh” của Khổng Tử............................................................13
2.2. Thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử.....................................................................15
2.3. Thuyết “Vô vi nhi trị” của Lão Tử...............................................................17
2.4. Thuyết “Pháp trị” của Hàn Phi Tử................................................................20
Chương 3: NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA LÝ THUYẾT CHÍNH TRỊ TRUNG QUỐC
THỜI KỲ CỔ ĐẠI..................................................................................................22
3.1. Giá trị của thuyết “Chính danh” của Khổng Tử...........................................22
3.2. Giá trị của thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử.....................................................23
3.3. Giá trị của thuyết “Vô vi nhi trị” của Lão Tử...............................................24
3.4. Giá trị của thuyết “Pháp trị” của Hàn Phi Tử...............................................26


KẾT LUẬN.............................................................................................................28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................29

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử thế giới thời kỳ cổ đại đã có nhiều hệ thống, tư tưởng chính trị pháp lý, trong đó nổi lên ở các trung tâm Hy Lạp, Ấn Độ và Trung Quốc. Nghiên
cứu lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, chúng ta thấy phần nổi trội nhất là tư
tưởng chính trị - pháp lý. Việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý của
Trung Quốc cổ đại cho thấy những yếu tố tiêu biểu và qua đó có thể làm sáng tỏ
đặc trưng của tư tưởng chính trị - pháp lý Việt Nam truyền thống.
Nhìn chung, các học thuyết tư tưởng đều là sự phản ánh thực tiễn lịch sử và
được hình thành thơng qua ý thức con người và để hướng tới phục vụ cuộc sống.
Giá trị của học thuyết này hay học thuyết khác thể hiện ở sự tác động tích cực của
nó tới sự nhận thức của con người, tới các quan hệ và các mặt của đời sống xã hội
hiện thực. Thực tiễn đã chứng minh rằng, có học thuyết hay lý thuyết làm thay đổi
tích cực đời sống xã hội, có học thuyết, lý thuyết kìm hãm sự phát triển xã hội
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý cung cấp cho chúng ta tri
thức về sự phát triển có tính logíc nội tại trong những “mạch nguồn” của tư tưởng
nhân loại; giúp chúng ta thấy được nguồn gốc, điều kiện phát sinh phát triển, đặc
điểm và đặc trưng, sự giống - khác nhau của các dòng tư tưởng trong suốt quá trình
phát sinh, phát triển của tư tưởng nhân loại. Nghiên cứu, các tư tưởng chính trị pháp lý Trung Quốc cổ đại để thấy được tính đa dạng, phong phú và phức tạp của
lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại, từ đó có thể chắt lọc giá trị tinh hoa của những
tư tưởng ấy cho ngày hôm nay vào mục tiêu đương đại.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn do vậy em đã chọn đề tài câu: “Những
giá trị của lý thuyết chính trị Trung Quốc thời kỳ cổ đại” để làm tiểu luận kết
thúc môn để nhằm làm rõ những vấn đề này.
3



2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nghiên cứu đã được nhiều nhà nghiên cứu, học giả quan tâm tìm hiểu
đưới những khía cạnh khác nhau cũng như đã luận giải, tiếp cận ở những nội dung
cụ thể. Trong đó chúng ta có thể kể đến những cơng trình nghiên cứu sau đây:
Đỗ Đức Minh (2014), Những đặc trưng của tư tưởng chính trị - pháp lý
Trung Quốc cổ đại, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) – 2014. Bài viết
phân tích tư tưởng chính trị - pháp lý của Trung Quốc cổ đại. Theo tác giả Trung
Quốc cổ đại là một trung tâm văn hóa lớn, có nhiều dịng tư tưởng chính trị - pháp
lý độc đáo. Tư tưởng chính trị - pháp lý Trung Quốc cổ đại bị quy định bởi tính đặc
thù của điều kiện kinh tế - xã hội và văn hóa tư tưởng; khác biệt với tư tưởng chính
trị - pháp lý phương Tây; mang những giá trị sâu sắc, đồng thời cũng có những hạn
chế nhất định.
Dỗn Chính (2015), Lịch sử Triết học phương Đơng, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia – Sự thật. Cuốn sách gồm 3 phần: phần thứ nhất trình bày lịch sử triết học
Ấn Độ; phần thứ hai trình bày lịch sử triết học Trung Quốc; phần thứ ba trình bày
lịch sử triết học Việt Nam. Trong mỗi phần, cuốn sách đã trình bày khái quát điều
kiện hình thành, các giai đoạn phát triển của các nền triết học. Trong mỗi giai đoạn
phát triển của các trung tâm triết học, cuốn sách đã trình bày, phân tích khá sâu sắc
và hệ thống nội dung tư tưởng của các nhà triết học và các trào lưu triết học trên
các mặt bản thể luận, nhận thức luận và đạo đức nhân sinh cũng như những vấn đề
về chính trị - xã hội. Qua đó, giúp người đọc hiểu biết một cách toàn diện, sâu sắc
và hệ thống hơn về triết học phương Đơng, trong đó có tư tưởng triết học Việt
Nam.
Nguyễn Đăng Dung, Lê Thị Thanh Lai (2020), Lịch sử các học thuyết chính
trị, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác phẩm đã khái quát chung về lịch
sử các học thuyết chính trị. Học thuyết chính trị - Pháp luật thời kỳ cổ đại. Học
4



thuyết chính trị - Pháp luật ở phương Tây cổ đại. Học thuyết chính trị - Pháp luật ở
Tây Âu vào thời kỳ xuất hiện và phát triển của chủ nghĩa phong kiến. Các học
thuyết thời kỳ cách mạng tư sản. Học thuyết chính trị và Pháp lý của Pháp, Đức,
Mỹ thời kỳ cách mạng tư sản cuối thế kỷ XVIII
Những cơng trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác
nhau và đây là những cơng trình nghiên cứu quan trọng giúp tác giả tham khảo
trong quá trình thực hiện đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận chung về Trung Quốc thời kỳ cổ đại
tác giả hệ thống hóa những lý thuyết chính trị Trung Quốc thời kỳ cổ đại cũng như
phân tích những giá trị của lý thuyết chính trị Trung Quốc thời kỳ cổ đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về Trung Quốc thời kỳ cổ đại tác giả;
- Hệ thống hóa những lý thuyết chính trị Trung Quốc thời kỳ cổ đại;
- Phân tích những giá trị của lý thuyết chính trị Trung Quốc thời kỳ cổ đại.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Những giá trị của lý thuyết chính trị
Trung Quốc thời kỳ cổ đại”.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Trung Quốc cổ đại.
- Phạm vi thời gian: trong thời kỳ Trung Quốc cổ đại.
5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5


5.1. Cơ sở luận
Đề tài dựa trên cơ sở luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng

và chính sách, pháp luật của nhà nước liên quan đến những vấn đề trong đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học như duy vật biện
chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Đồng thời đề tài sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu chuyên ngành như phương pháp thống kê, phân tích - tổng hợp;
phương pháp so sánh và phương pháp quy nạp-diễn dịch.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài làm rõ được khái quát chung về Trung Quốc cổ đại, bốn lý thuyết
chính trị chính cũng như những giá trị của các tư tưởng này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài được thực hiện sẽ góp phần là tài liệu thak khảo hữu ích cho sinh viên
học ở một số chun ngành như Chính trị, tư tưởng, tơn giáo.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài bao gồm 3
chương và 11 tiết.

6


NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRUNG QUỐC THỜI KỲ CỔ ĐẠI
1.1. Địa lý và cư dân Trung Quốc cổ đại
Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử là một nước lớn ở Đơng Á. Trên
lãnh thổ Trung Quốc có hai con sơng lớn chảy qua, đó là Hồng Hà (dài 5.464 km)
ở phía Bắc và Trường Giang (dài 6.300 km) ở phía Nam. Hồng Hà từ xưa thường
gây ra lũ lụt, nhưng do đó đã bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển nơng nghiệp khi cơng cụ sản xuất cịn tương đối thơ sơ. Chính
vì vậy nơi đây trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Quốc.

Khi mới thành lập nước (vào khoảng thế kỷ XXI TCN) địa bàn Trung Quốc
chỉ mới là một vùng nhỏ ở trung lưu lưu vực Hồng Hà. Từ đó lãnh thổ Trung
Quốc được mở rộng dần, nhưng cho đến thế kỷ III TCN, tức là đến cuối thời cổ
đại, phía Bắc của cương giới Trung Quốc chưa vượt quá dãy Vạn lý trường thành
ngày nay, phía Tây mới đến Đơng nam tỉnh Cam Túc và phía Nam chỉ bao gồm
một dải đất nằm dọc theo hữu ngạn Trường Giang mà thôi.
Từ cuối thế kỷ III TCN Trung Quốc trở thành một nước phong kiến thống
nhất. Từ đó nhiều triều đại của Trung Quốc đã chinh phục các nước xung quanh,
do đó có những thời kỳ cương giới của Trung Quốc được mở ra rất rộng. Đến thế
kỷ XVIII, lãnh thổ Trung Quốc về cơ bản được xác định như hiện nay.
Trung Quốc là một trong những nơi từ rất sớm đã có lồi người cư trú. Năm
1929, ở Chu Khẩu Điếm (ở Tây Nam Bắc Kinh) giới khảo cổ học Trung Quốc đã
phát hiện được xương hóa thạch của một loại người vượn sống cách đây khoảng
400.000 năm. Những xương hóa thạch của người vượn được phát hiện sau đó trên
7


lãnh thổ Trung Quốc đã cung cấp những niên đại xưa hơn, đặc biệt người vượn
Nguyên Mưu (Vân Nam) phát hiện năm 1977 có niên đại đến 1.700.000 năm.
Về mặt chủng tộc, cư dân ở lưu vực Hoàng Hà thuộc giống Mông Cổ, đến
thời Xuân Thu được gọi là Hoa Hạ, nói tắt là Hoa hoặc Hạ. Đó là tiền thân của Hán
tộc sau này. Cịn cư dân ở phía Nam Trường Giang thì khác hẳn cư dân vùng
Hồng Hà về ngôn ngữ và phong tục tập quán, tục cắt tóc, xăm mình, đi chân đất.
Đến thời Xn Thu, các tộc này cũng bị Hoa Hạ đồng hóa.
Dưới thời quân chủ, ở Trung Quốc, tên nước được gọi theo tên triều đại.
Đồng thời, từ thời cổ đại, người Trung Quốc cho rằng nước họ là một quốc gia văn
minh ở giữa, xung quanh là các tộc lạc hậu gọi là Man, Di, Nhung, Địch, vì vậy đất
nước của họ cịn được gọi là Trung Hoa hoặc Trung Quốc. Tuy vậy các danh từ này
chỉ dùng để phân biệt với các vùng xung quanh chứ chưa phải là tên nước chính
thức. Mãi đến năm 1912 khi triều Thanh bị lật đổ, quốc hiệu Đại Thanh bị xóa bỏ,

cái tên Trung Hoa mới trở thành tên nước chính thức nhưng thơng thường người ta
quen gọi là Trung Quốc.
1.2. Lịch sử các triều đại của Trung Quốc cổ đại
Trung Quốc đã trải qua xã hội nguyên thủy. Theo truyền thuyết, thời viễn cổ
ở Trung Quốc có một thủ lĩnh mà đời sau thường nhắc đến gọi là Phục Hy. Đến
nửa đầu thiên kỷ III TCN, ở vùng Hoàng Hà xuất hiện một thủ lĩnh bộ lạc gọi là
Hoàng Đế. Hoàng Đế họ Cơ, hiệu là Hiên viên, được coi là thủy tổ người Trung
Quốc. Đến cuối thiên kỷ III TCN, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ đều là dịng
dõi của Hồng Đế. Nghiêu và Thuấn tuy chỉ là những thủ lĩnh liên minh bộ lạc
nhưng đời sau cho họ là những ông vua tốt nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Tương truyền rằng, năm Nghiêu 72 tuổi, Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn,
đến khi Thuấn già, Thuấn lại nhường ngôi cho Vũ. Nhưng sau khi Vũ chết con của
8


Vũ là Khải được tôn lên làm vua, Trung Quốc bắt đầu bước vào xã hội có nhà
nước.
Thời cổ đại ở Trung Quốc có ba vương triều nối tiếp nhau là Hạ, Thương,
Chu.
Hạ (khoảng thế kỷ XXI đến XVI TCN). Tuy Vũ chưa xưng vương nhưng
ông được coi là người đặt cơ sở cho triều Hạ. Thời Hạ, người Trung Quốc chỉ mới
biết đồng đỏ, chữ viết cũng chưa có. Sau 4 thế kỷ, đến thời vua Kiệt, bạo chúa nổi
tiếng đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, triều Hạ diệt vong.
Thương (còn gọi là Ân, thế kỷ XVI-XII TCN). Người thành lập nước
Thương là Thang. Nhân khi vua Kiệt tàn bạo, nhân dân oán ghét, Thang đem quân
diệt Hạ, thời Thương, người Trung Quốc đã biết sử dụng đồng thau, chữ viết cũng
đã ra đời. Đến thời vua Trụ (cũng là một bạo chúa nổi tiếng), Thương bị Chu tiêu
diệt.
Chu (thế kỷ XI-III TCN). Người thành lập triều Chu là Văn vương. Trong
hơn 8 thế kỷ tồn tại, triều Chu chia làm hai thời kỳ là Tây Chu và Đông Chu. Từ

khi thành lập đến năm 771 TCN, triều Chu đóng đơ ở Cảo Kinh ở phía Tây nên gọi
là Tây Chu. Nói chung, Tây Chu là thời kỳ xã hội Trung Quốc tương đối ổn định.
Từ năm 770 TCN, vua Chu dời đơ sang Lạc Ấp ở phía Đơng từ đó gọi là Đơng
Chu. Thời Đơng Chu tương đương với hai thời kỳ Xuân Thu (722-481 TCN) và
Chiến Quốc (403-221 TCN). Đây là thời kỳ nhà Chu ngày càng suy yếu. Trong khi
đó, giữa các nước chư hầu diễn ra cuộc nội chiến triền miên để giành quyền bá
chủ, tiến tới tiêu diệt lẫn nhau để thống nhất Trung Quốc, thời Xuân Thu đồ sắt bắt
đầu xuất hiện, đến thời Chiến Quốc thì được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã
hội.

9


1.3. Một số thành tựu văn minh Trung Quốc cổ đại
Đến đời Thương, chữ viết Trung Quốc mới ra đời: văn tự giáp cốt (được
khắc trên mai rùa, xương thú - chủ yếu là xương quạt của bò). Lần đầu tiên được
phát hiện vào năm 1899 tại di chỉ Ân Khư. Đây là loại chữ tượng hình. Trên cơ sở
chữ tượng hình đã phát triển thành các loại chữ biểu ý và mượn âm thanh (gắn liền
với hình vẽ có một âm tiết để biểu đạt hình vẽ). Ở di chỉ Ân Khư người ta phát
hiện 10 vạn mảnh mai rùa và xương thú có khắc chữ giáp cốt (khoảng 4500 chữ,
trong đó đã đọc được 1700 chữ).
Thời Tây Chu, xuất hiện chữ kim văn (chung đỉnh văn) (chữ viết trên
chuông đỉnh). Do việc phân phong ruộng đất cho quý tộc có cơng, mỗi lần như
vậy, vua Chu thường ra lệnh đúc đỉnh đồng và ghi chép sự việc ấy lên đỉnh. Thời
Tây Chu còn một loại chữ viết nữa gọi là thạch cổ văn (chữ viết trên đá). Ngoài ra,
chữ viết thời Tây Chu còn được khắc trên thẻ tre. Các loại chữ viết này gọi chung
là chữ “đại triện”, hay “cổ văn”.
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, do chiến tranh, đất nước chia cắt nên chữ viết
cũng không thống nhất. Tần: Tần Thuỷ Hoàng giao cho Lý Tư dựa vào chữ nước
Tần kết hợp với các thứ chữ của các nước khác tạo thành chữ tiểu triện. Đây là cơ

sở chữ Hán sau này.
Sang thời Hán, xuất hiện chữ lệ (yếu tố tượng hình ít hơn chữ triện), là giai
đoạn quá độ để phát triển thành chữ chân (tức chữ Hán ngày nay). Ai là người sáng
tạo ra chữ Hán? Kinh Dịch phần Hệ từ viết: “Ngày xưa thắt nút dây để ghi nhớ sự
việc, sau bậc thánh nhân mới đổi thành chữ khắc vạch”. Theo truyền
thuyết, “Thương Hiệt - sử quan của Hoàng Đế, đầu rồng, 4 mắt sáng như đèn,
miệng to như cái chậu, nhìn vết chân chim mng, thấy phân biệt được giống lồi,
liền theo đó mà tạo ra chữ viết. Lúc Thương Hiệt tạo ra chữ viết, thóc lúa từ trên
trời tn xuống như mưa, đêm đêm quỷ khóc mưa kêu…”
10


Trung Quốc có hai tác phẩm nổi tiếng là Kinh Thi và Sở Từ. Kinh Thi: là tập
thơ ca đầu tiên và cũng là tác phẩm văn học sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Đó là cơng trình sáng tác tập thể của rất nhiều thi nhân thuộc nhiều thế hệ khác
nhau, trong đó phần lớn là của nhân dân lao động. Kinh Thi là tập thơ gồm nhiều
bài thơ được sưu tầm, do Khổng Tử chỉnh lý (gọi là Thi). Đến thời Hán, khi Nho
giáo được đề cao, Thi được gọi là Kinh Thi. (Tập Thi được đặt vào hàng kinh điển
của Nho gia).
Kinh Thi có tất cả 305 bài, chia làm 3 phần: Phong, Nhã, Tụng. Phong:
(Quốc Phong), là dân ca của các nước gồm 160 bài. Nhã gồm Tiểu Nhã và Đại
Nhã, gồm 105 bài. Tiểu Nhã phản ánh đời sống sinh hoạt của tiểu quý tộc, Đại Nhã
phản ánh đời sống sinh hoạt của đại quý tộc. Tụng (40 bài), gồm Chu Tụng, Lỗ
Tụng, Thương Tụng, là những bài thơ do các quan phụ trách tế lễ và bói tốn sáng
tác, nội dung ca tụng cơng đức của các triều vua.
Trong 3 phần đó, Quốc Phong có giá trị tư tưởng, nghệ thuật cao nhất. Nó
thể hiện tính hiện thực, phản ánh cuộc sống giàu sang phú quý của quý tộc, đối lập
với cuộc sống cực khổ của nhân dân lao động. Kinh Thi vừa là tác phẩm văn học
có giá trị vừa là một tấm gương phản ánh tình hình xã hội Trung Quốc đương thời,
ngồi ra nó cịn được các nhà Nho đánh giá cao về tác dụng giáo dục tư tưởng.

Khổng Tử đánh giá rất cao về Kinh Thi: “Các trị sao khơng học Thi? Thi có thể
cảm phát tâm trí làm cho người ta phấn khởi, có thể nhận xét thấy rõ những điều
hay dở của bản thân mình, có thể biết cách sống chung với quần chúng, có thể biết
cách xử trí khi gặp cảnh ốn hận. Gần có thể ăn ở hết lịng hết sức với cha mẹ, xa
có thể một lòng một dạ với quân vương. Còn biết thêm nhiều tên chim mng cây
cỏ” (Luận ngữ, thiên Dương Hố).
Về sau Tần Thuỷ Hoàng chủ trương pháp trị đã ra lệnh đốt Kinh Thi. Kinh
Thi hiện nay còn gọi là Mao Thi (do họ Mao đứng ra chép lại). Sở Từ: là những bài
11


dân ca của nước Sở và những sáng tác của Khuất Nguyên – nhà thơ, nhà yêu nước
sống ở nước Sở vào khoảng thế kỷ IV – III TCN). Đây là tập thơ khá dài gồm 5
chương: Cửu ca: những bài ca tế thần và những anh hùng lịch sử đã bỏ mình vì
nước, chiêu hồn: những bài thơ Khuất Nguyên miêu tả thế giới địa ngục, thiên vấn:
viết dưới dạng hỏi và đáp về thiên văn, địa lý, lịch sử, thánh nhân, đạo đức, cửu
chương: chín bài thơ phản ánh tâm tình bi phẫn của Khuất Nguyên trên đường đi
đày, ly tao: (sầu ly biệt): chương hay nhất, thể hiện tình cảm sâu kín, tình u q
hương đất nước của Khuất Nguyên, “Ly tao” là buồn trong chia ly. Ly Tao là bài
thơ trữ tình dài đầu tiên (373 câu, có 2490 chữ) trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Có người cho là “tiền thế vị văn, hậu thế mạc kế” (đời trước không hề thấy, đời sau
không hề bì kịp)

12


Chương 2
NHỮNG LÝ THUYẾT CHÍNH TRỊ
CỦA TRUNG QUỐC THỜI KỲ CỔ ĐẠI
2.1. Thuyết “Chính danh” của Khổng Tử

Khổng Tử cho rằng, mỗi vật, mỗi người sinh ra điều có một địa vị, công
dụng nhất định. Ứng với mỗi địa vị, cơng dụng đó là “danh” nhất định. Vật nào,
người nào trong thực tại điều có danh hợp với nó, nếu khơng danh sẽ khơng hợp
với thực, là loạn danh. Chính danh là danh và thực phải phù hợp với nhau. Ông cho
rằng, sở dĩ xã hội loạn lạc là do danh khơng phù hợp với thực, từ đó dẫn đến làm
cho kỷ cương phép tắc đảo lộn. Muốn ổn định trật tự xã hội, Khổng Tử chủ trương
phải giáo hoá đạo đức và thực hiện chủ nghĩa “Chính danh, định phận”. Danh và
phận của mỗi người trước hết hết do xã hội quy định, Khổng Tử đã quy tất cả các
quan hệ xã hội thành năm mối quan hệ cơ bản (Ngũ luân) như sau:
+ Vua – Tôi: bề tôi phải lấy chữ trung làm đầu
+ Cha – Con: bề con phải lấy chữ hiếu làm đầu
+ Chồng – Vợ: vợ phải lấy tiết hạnh làm đầu
+ Anh – Em: phải lấy chữ hữu làm đầu
+ Bạn – Bè: phải lấy chữ tín làm đầu
Năm mối quan hệ này có tiêu chuẩn riêng:
+ Vua thì phải nhất
+ Tơi thì phải trung
+ Cha phải hiền từ
13


+ Con phải hiếu thảo
+ Phu xướng phụ tuỳ…
Trong năm quan hệ đó Khổng Tử nhấn mạnh ba quan hệ đầu là cơ bản nhất
(Tam cương) cụ thể là:
+ Vua – Tôi: vua là trụ cột
+ Cha – Con: cha là trụ cột
+ Chồng – Vợ: chồng là trụ cột
Như vậy, năm mối quan hệ đã nói rõ danh, phận, của từng người, vế sau phải
phục tùng vế trước, nếu mỗi người thực hiện đúng danh, phận đó sao cho vua ở hết

phận vua, tôi ở hết phận tôi, cha ở hết phận cha, con ở hết phận con thì có chính
danh. Theo Khổng Tử nếu khơng chính danh thì lời nói khơng thuận, lời nói khơng
thuận thì việc làm khơng thành, việc làm khơng thành thì lễ nhạc khơng kiến lập
được, khơng kiến lập lại được lễ nhạc thì hình phạt khơng đúng, hình phạt khơng
đúng thì dân khơng biết đặt tay chân vào đâu. Cho nên, người quân tử đã dùng cái
danh thì phải nói ra được, nói rồi tất phải làm được, vì thế người quân tử phải thận
trọng với lời nói của mình. Nếu danh khơng chính, nói và làm khơng đúng theo
chức phận của mình, “trên” không nghiêm “dưới” loạn, vua không ra vua, tôi
chẳng ra tôi, cha không ra cha, chồng không ra chồng, vợ khơng ra vợ.
Khổng Tử chó rằng, xã hội loạn là do nguồn gốc từ trên. Do vậy, ông rất đề
cao tính tự giác của mỗi cá nhân trong việc giữ lấy cái danh phận của mình, bởi vì
nếu mỗi người tự chính được bản thân mình thì khơng cần hạ lệnh mọi việc sẽ
được tiến hành, nếu ngược lại dù có hạ lệnh cũng chẳng ai theo. Khi Tử Lộ hỏi về
việc chính trị, Khổng Tử nói, muốn trị nước, trước tiên ắc phải sửa cho chính danh,
vì nếu việc chính sự là ngay thẳng, cứ làm gương về sự ngay thẳng thì khơng ai
khơng dám ngay thẳng nữa. Vậy chính danh là gì?
14


Khổng Tử giải thích như sau: chính danh là làm cho mọi việc ngay thẳng.
Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy, trên – dưới,
vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, trật tự phân minh, vua lấy nghĩa mà khiến tôi, tôi
lấy trung mà thờ vua. Cụ thể là vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, chồng cho ra chồng,
vợ cho ra vợ, con cho ra con. Nói một cách khái quát là ai ở vị trí nào cũng phải
làm trịn trách nhiệm, bổn phận của mình ở các cương vị đó theo thang bậc. Như
vậy, theo Khổng Tử chính danh là điểm mấu chốt để đưa xã hội trở nên trật tự, nền
nếp. Nhưng để có chính danh, mỗi người phải thực hiện đúng danh phận của mình
khơng lạm quyền. Một xã hội có chính danh là một xã hội có trật tự kỷ cương, thái
bình, thịnh trị.
2.2. Thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử

Tư tưởng của học thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử là phản ánh nguyện vọng của
tầng lớp dân tự do, sản xuất nhỏ, tiểu tư hữu tài sản đó. Cụ thể bao gồm các nội
dung chính sau đây:
Kiêm ái đem đến cái lợi cho thiên hạ, giúp nước được trị. Vì khi đó mọi
người xem người khác như mình; xem nhà người khác như nhà mình; xem nước
người khác như nước mình; nếu yêu thương nhau như thế thì khơng cịn những
điều loạn. Kiêm ái dấy lên điều lợi cho thiên hạ: mọi người lắng nghe và quan tâm
lẫn nhau, “lấy cái tai tinh, lấy mắt sáng mà trông nghe cho nhau, lấy cái chân tay
khỏe mạnh mà giúp đỡ nhau, kẻ khơng có vợ con có chỗ dưỡng ni cho trọn tuổi
già, kẻ nhỏ yếu mồ cơi khơng cha mẹ có chỗ nương tựa đến lúc lớn khôn” (Kiêm
Ái Trung).
Ngược lại, nếu không kiêm ái thì cái họa loạn xảy đến cho thiên hạ. Vì mọi
người chỉ làm lợi cho mình mà làm hại cho người. Trong các tương quan cha con,
anh em, vua tôi, giặc cướp…, nếu khơng u nhau thì sẽ gây ra bất hịa, tranh
dành, cướp bóc, bất trung, bất hiếu, dọa nạt kẻ yếu, lừa lọc (Thiên Chí Trung). Cái
15


loạn từ đó mà ra, làm hại cho mọi người, cho quốc gia. Vì thế Mặc Tử nói, giống
như người thầy thuốc cần phải biết bệnh từ đâu ra mới trị được, thánh nhân trị
nước cũng phải biết họa loạn từ đâu mà ra, để rồi mới chữa được, và ngun nhân
loạn đó là do con người khơng u thương nhau mà ra (Kiêm Ái Thượng).
Tóm lại, kiêm ái là ‘u người như u chính bản thân mình’, khơng phân
biệt ranh giới. Một thế giới mà ai nấy đều sống kiêm ái như thế sẽ khơng có tranh
giành, xung đột, ích kỷ, ganh tỵ, hẹp hịi, khơng hại lẫn nhau, đó là một thế giới
thái bình thịnh trị.
Trước hết ta thấy theo cách trình bày của Mặc Tử, kiêm ái là vì để quốc được
trị, để đem đến cái lợi cho thiên hạ, vì cái lợi lớn nhất là kiêm ái. Tại sao kiêm ái là
cái lợi lớn? Vì khơng kiêm ái sẽ sinh loạn, ngược lại sẽ trị. Kiêm ái như là cái đức
căn bản, bao gồm tất cả các đức khác như huệ, trung, từ, hiếu, hữu, đễ (vua-quanphụ mẫu-con cái- anh em-bằng hữu) để xã hội được trị (Kiêm Ái). Vì thế kiêm ái

phải là đạo của thánh vương, để giúp cho thiên hạ được đại trị (Kiêm Ái Trung).
Sống kiêm ái phổ quát sẽ mang đến lợi ích phổ qt, bình đẳng xã hội, thiên hạ
đồng lợi, của cải ngang nhau.
Với Mặc Tử, kiêm ái như là lý thuyết nền tảng, là giá trị cốt lõi để phác thảo
cái nhìn vũ trụ quan, nhân sinh quan, đạo đức và đường lối chính trị của ơng. Kiêm
ái là tôn chỉ và là nền tảng của học thuyết Mặc Tử. Như đã nói, thuyết kiêm ái
được phác họa trong tồn bộ tác phẩm và trong nhiều khía cạnh khác nhau.
Trong thiên Phi Công, Mặc Tử phản đối mạnh mẽ chiến tranh phi nghĩa, vì
xem nó là điều bất nghĩa lớn nhất, đem lại thống khổ và tai ương cho dân, là không
phân biệt điều nghĩa, gây tổn thất cho cả dân ta và dân người vô số kể. Phi công và
kiêm ái tương quan chặt chẽ với nhau là vậy. Trong thiên Phi Nhạc, ông lên án hoạt
động vui chơi vũ nhạc, lên án thực trạng vui thỏa cá nhân mà không quan tâm đến
người khác, “người nhân là tấm gương của thiên hạ, không để mắt ngắm nhìn cài
16


đẹp, không để tai nghe am nhạc, miệng thưởng thức vị ngon, thân thể được an
nhàn…vì làm hao tổn và tước đoạt cái ăn mặc của dân”.
Với mục đích để quốc gia được trị, đem đến cái lợi cho thiên hạ, ông chủ
trương quý trọng hiền tài dù là bất cứ ai, biết lắng nghe tiếng nói của giai cấp bình
dân, “dù là hạng người nơng dân hay thương nhân, chỉ cần có năng lực là tiến cử
họ, để họ đảm nhận chính sự” (Thượng Hiền). Ơng cịn phê phán thuyết ‘hữu
mệnh’ vì làm cho người khác thờ ơ thay vì phải có trách nhiệm trước số mệnh của
người khác, “người chấp vào hữu mệnh nói rằng: số giàu thì giàu, số nghèo thì
nghèo…. số loạn thì loạn, số sống lâu thì sống lâu, số chết yểu thì chết yểu” (Phi
Mệnh). Vì chấp hữu mệnh thì trên khơng lo việc chính, dưới khơng lo làm việc…
nên có hại cho thiên hạ.
Mặc Tử ý thức kiêm ái là rất khó thực hiện, vì phải bỏ đi hỷ nộ ai lạc ái ố để
theo nhân nghĩa, trở thành bậc thánh nhân (Quý Nghĩa). “Vu Mã Tử nói với Mặc
Tử: tơi khơng thể kiêm ái như ngài, tôi yêu người Trâu hơn người Việt, yêu người

Lỗ hơn người Trâu, yêu người nhà hơn yêu người trong làng, yêu cha mẹ hơn
người nhà tôi, u bản thân hơn cha mẹ tơi, vì nó càng gần với tôi” (Canh Trụ).
Kiêm ái là đi ngược lại chiều hướng quy kỷ, tư lợi, không thể lấy ‘lợi bản thân’ làm
tiêu chuẩn. Tuy nhiên, kiêm ái khó nhưng có người làm được, như vua Vũ nhà
Hạ…, Mặc Tử cho rằng càng ít người theo thì càng gắng sức làm. Nhiều người
chống đối nó khơng phải nó khơng đúng khơng hay, nhưng chỉ là vì cho nó q
khó, nên cho là vô dụng.
2.3. Thuyết “Vô vi nhi trị” của Lão Tử
Lý luận về đạo pháp tự nhiên. “Đạo” là phạm trù trung tâm của đạo pháp tự
nhiên. Lão Tử quan niệm “Đạo” là bản nguyên của thế giới, nhưng khơng phải là
một thực thể nào đó. Đó là tổng thể của vạn vật, đạo là bản thể của vạn vật, là tổ
tông của vạn vật.
17


“Đạo xung nhi dung chi hoặc bất doanh. Uyên hề tự vạn vật chi tịng”. (Đạo
thỉtống khơng, nhưng đổ vơ mãi mà không đầy; đạo như vực thẳm, dường như tổ
tơng của vạn vật). “Đạo” vơ cùng, vơ tận, nhìn không thấy, nghe không được, bắt
không được, sinh ra vạn vật mà không khoe công lao, vận động không ngừng mà
khơng mỏi mệt, chẳng có tên gọi. “Đạo” là tên gọi mà Lão Tử tạm đặt.
Lão Tử còn cho rằng đạo có trước trời đất, xuất hiện sớm hơn thượng đế, thế
giới muôn vật đều là do đạo sinh ra. “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam,
tam sinh ra vạn vật”.
Mặt khác, “đạo” chứa đựng trong đõn phép tắc cấu tạo, biến đổi sinh thành
và thực hiện những phép tắc đó mà sinh ra vạn vật như sáng – tối, cương – nhu;
hoạ - phúc, xấu - đẹp… những quy tắc tương phản, tương thành vận động ngược
chiều, tuần hoàn. “Đạo” được biểu hiện ra bên ngoài là “đức”.
“Đạo” và “đức” là một cặp phạm trù cơ bản của triết học Lão Tử. Lão Tử
giải thích “đạo” là “chỗ chứa sâu kín của vạn vật”, “đức” là “dáng đức lớn, theo
cùng với đạo”. Quan hệ giữa “đạo” và “đức” là: Đạo là gốc, “đức” là công cụ;

“đạo” quyết định “đức”, “đức” làm sáng tỏ “đạo”. Đạo là nhận thức luậnvà phương
pháp luận của Lão Tử, đức là chính trị quan và lịch sử quan của Lão Tử.
Như vậy, đạo pháp trị tự nhiên là vốn có, vơ tư, tự tác động mà biến hố,
khơng cần sự tác động từ bên ngồi. Tự nó vốn đầy đủ, hồn thiện, khơng đẹp
khơng xấu, trạng thái của nó là bình lặng, tĩnh tại, không khoe khoang, tranh đoạt,
tự bù đắp để tự cân bằng.
Từ sự luận giải vũ trụ của Lão Tử, ông rút ra phương pháp luận cho hoạt
động của con người nói chung và cho chính trị nói riêng là phải tuân theo lẽ tự
nhiên, “vô vi nhi bất vi”. Bao trùm tư tưởng cai trị xã hội của Lão Tử là chủ trương

18


“vô vi nhi trị”, nghĩa là để xã hội tự nhiên vốn có, khơng can thiệp bằng bất cứ
cách nào, xã hội sẽ được ổn định.
Lão Tử khi làm quan rất thuộc lễ nhà Chu, biết suy tính hư ngụy của lễ nhà
Chu: Ơng nói: “Phù lễ giả, trung tín chi bạc nhi loạn chi thủ”. (Lễ là cái vỏ mỏng
của lịng trung tín và là đầu mối của loạn).
Thêm vào đó từ thời Xuân Thu trở về sau, xu thế của lễ hoại nhạc tan dã khó
vãn hồi, cho nên Lão Tử phản đối dùng lễ để tiến hành thống trị xã hội. Đồng thời
ông cũng cho rằng pháp trị cũng là điều vô cùng tàn các.
Lão Tử vừa nêu ra vừa tổng kết có bốn hình thức cai trị, sử dụng các phương
pháp khác nhau. Đó là:
- Dùng vô vi: dân số tự nhiên, yên ổn, cai trị đơn giản.
- Dùng đức: giáo hoá dân, dân nghe theo mà ca ngợi.
- Dùng pháp: dân theo, nhưng vì sợ hãi mà theo.
- Dùng mưu lừa gạt: dân theo vì bị lừa, khi biết sẽ phản đối.
Lão Tử chủ trương cai trị bằng phương pháp vô vi, ca ngợi vua cai trị theo
cách vơ vi, vì cho rằng đó là hợp với lẽ tự nhiên. Tự nhiên là không bị tri phối bởi
tình cảm, ý muốn, trí tuệ của con người. Có sự can thiệp của con người dù bằng bất

cứ cách nào thì chính trị cũng trở nên rắc rối.
Vơ vi khơng phải là khơng làm gì cả, khơng có phản ứng với ngoại giới. Mà
vơ vi ở đây có nghĩa là khơng dùng tâm mà xen vào việc của người khác, khơng
dùng lịng tham cá nhân mà can thiệp vào mọi việc. Hành sự hợp lẽ, thuận theo quy
luật tự nhiên.

19


Muốn đạt được cảnh giới “vơ vi nhi trị” thì phải “giúp vạn vật phát triển tự
nhiên mà không dám can dự vào”. Phải dựa vào quy luật tất yếu của bản thân sự
vật để hỗ trợ phát triển, không được dùng bất cứ nogại lực nào can thiệp vào.
Chủ trương “vô vi nhi trị” đối lập với “hữu vi”. “Hữu vi” nghĩa là can sự can
thiệp vào đời sống xã hội, làm mất tính tự nhiên vốn có của nó, vì vậy sẽ làm xã
hội, làm mất tính tự nhiên vốn có của nó, vì vậy sẽ làm xã hội rối loạn, càng can
thiệp sâu càng rối loạn.
Lão Tử cho rằng “Đức mà cao, như trũng thấp”, ý nói đức cao cả giống như
hang trũng. Đặc điểm của hang trũng là có thể chứa được mọi vật. Bởi vậy người
lãnh đạo cần phải có lịng nhân hậu, bao dung.
Lão Tử nói rõ “sơng biển sở dĩ làm đặng vua trăm hang, vì nó khéo nằm chỗ
thấp, nên làm đặng vua trăm hang. Bởi vậy, thánh nhân muốn ở trên dân, phải đem
mình để ra sau. Vậy nên, thánh nhân ở trên mà dân không thấy nặng, ở trước dân
mà dân khơng thấy hại. Vì thế, thiên hạ cịn ưa đẩy tới trước”.
Làm người lãnh đạo, phải tỏ ra khiêm tốn, hạ mình đặt cái thân mình ra sau,
làm gương tốt cho mọi người, như vậy mới được mọi người ủng hộ.
Lão Tử rất coi trọng đối với chữ “tín” của người lãnh đạo, cho rằng đó là
phẩm cách cần phải có. Khi nêu ra chủ trương chính trị của mình, Lão Tử phân
người lãnh đạo làm bốn loại: Loại tốt nhất, dân không biết đến sự tồn tại của họ; kế
đến, dân thân và khen họ; loại tồi nhất, dân khinh họ. Lão Tử cịn nói tiếp “vì đủ
tin, nên dân không tin”. Người lãnh đạo cần phải giữ chữ tín, mới lấy được lịng tin

của mọi người trong thiên hạ.
2.4. Thuyết “Pháp trị” của Hàn Phi Tử
Theo Hàn Phi, bản tính con người là ác, có nhiều tật xấu như hám danh, hám
lợi, tranh giành nhau, lười biếng, ích kỷ. Cho nên con người tìm mọi cách để đạt
20


được mục đích của mình và chà đạp lên lợi ích của người khác. Muốn kìm hãm
những ham muốn của con người, theo Hàn Phi cần sử dụng pháp luật để cưỡng chế
khiến họ không dám làm điều ác.
Lấy “pháp” làm gốc để ổn định trật tự xã hội, Hàn Phi cho rằng, khi nói tới
“pháp” là nói đến những điều luật, luật lệ mang tính nguyên tắc, được biên soạn rõ
ràng, minh bạch như khuôn mẫu, đuợc chép trong đồ thư và bày ra nơi quan phủ,
ban bố rộng rãi cho dân chúng biết việc gì được làm và việc gì khơng được làm.
Thưởng phạt phải nghiêm minh, đúng pháp luật. Pháp luật là chuẩn mực cho
sự thưởng phạt “dùng pháp luật để trị nước là để khen ngợi người đúng, người
phải, trách đúng người quấy thôi. Pháp luật không thể a dua người sang cũng như
dây mực uốn theo gỗ cong”. Thưởng phạt khơng thể vì tư tình, cứ theo phép cơng,
dù là người tham mà có tội cũng bị phạt. Cho nên, trong khi thi hành pháp luật thì
“khơng tránh người thân và đại thần, thi hành cả với người yêu”, và thưởng phạt
cũng bất kể kẻ sang, người hèn. Mục đích của việc thưởng phạt nghiêm minh theo
Hàn Phi là để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh
không lấn kẻ yếu, đám đơng khơng hiếp đáp số ít, người già được hưởng hết tuổi
trời cho, trẻ con được nuôi dưỡng.
Hàn Phi cho rằng chỉ có "pháp" mà thiếu quyền lực để cưỡng bức người thì
dẫu người làm vua cũng không thể bảo đảm cho bề tôi phục tùng sự cai trị của
mình. Đồng thời, dẫu có pháp luật nhưng nhân dân không tuân theo cũng không
thể đảm bảo cho pháp luật được thực hiện có hiệu lực. Theo Hàn Phi, ngồi “pháp”
ra thì “thế” cũng là yếu tố có vai trị cơ bản trong đường lối chính trị. Quan niệm
về "thế" của Hàn Phi đó là một thứ quyền lực được đặt ra cho phù hợp với yêu cầu

của pháp luật chứ không phải thứ quyền lực nảy sinh một cách "tự nhiên" trong
"chủ nghĩa nhân trị".

21


Chương 3
NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA LÝ THUYẾT CHÍNH
TRỊ TRUNG QUỐC THỜI KỲ CỔ ĐẠI
3.1. Giá trị của thuyết “Chính danh” của Khổng Tử
Thuyết “Chính danh” của Khổng Tử có những giá trị chính trng thực tiễn
giai đoạn hiện nay đó là:
Một là, Việt Nam đang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá,
xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, một xã
hội trật tự, ổn định có tầm quan trọng đặc biệt. Vì vậy, việc kế thừa tư tưởng chính
danh của Khổng Tử là rất cần thiết, để làm được điều đó, chúng ta phải xây dựng
một lối sống lành mạnh cùng với những chuẩn mực mới về danh. Vì chính những
quan hệ đạo đức, cách ứng xử giữa người với người là nền tảng của trật tự xã hội,
chúng ta phải lấy chúng ta mà rèn luyện, đó là phải xây dựng cho mình một lẽ sống
hay một đạo lý phù hợp với chế độ mới.
Hai là, lẽ sống, đạo lý đó là mình vì mọi người thì mọi người mới vì mình,
đây là quan hệ hai chiều tạo ra sự đồng thuận giữa người với người và sự đồng
thuận trong xã hội. Muốn làm được điều đó trước hết chúng ta phải giáo dục cho
thế hệ trẻ truyền thống yêu nước yêu thương con người kính trọng, hiếu thảo với
ông bà cha mẹ, tôn sư trọng đạo.
Ba là, đối với đội ngũ cán bộ công chức phải là “cơng bộc” của nhân dân, lời
nói phải đi đơi với việc làm, đúng với cương vị của mình, hồn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Đối với từng gia đình, ông bà phải mẫu mực, con cháu phải hiếu thảo lễ
phép, thương yêu đùm bộc giúp đỡ nhau, vợ chồng hồ thuận bình đẳng, cha mẹ
phải quan tâm giáo dục con cái.

22


Bốn là, đối với nhà trường, thầy phải ra thầy, trò phải ra trò như thế mới đẩy
lùi được hành vi phi đạo đức do tác động mặt trái của cơ chế thị trường, xây dựng
một xã hội thịnh vượng, phồn vinh góp phần cùng đất nước đi lên.
3.2. Giá trị của thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử
Giá trị của thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử được thể hiện rõ qua những nội
dung chính sau đây:
Thứ nhất, thuyết Kiêm Ái bị chống đối mạnh nhất là do đòi hỏi mang phạm
vi phổ quát của nó, mà nhiều người cho là khơng tưởng. Kiêm ái là việc khó làm;
khơng hợp đạo làm con; khơng hợp tình người. Dù ai cũng đồng thuận rằng thuyết
này hay nhưng chỉ trích nó chỉ vì nó khó. Có thể nói lý do là vì kiêm ái đã nhấn
mạnh chiều kích xã hội, mà khơng đề cập đến chiều kích cá nhân-tương quan thân
cận, quá nhấn mạnh yếu tố phổ quát, vốn là tính chất của lý trí, mà bỏ qn chiều
kích cảm xúc tình thân. Dù Mặc Tử khơng hề nói là sẽ bỏ rơi gia đình phụ mẫu,
nhưng ơng cũng khơng hướng dẫn như thế nào để biết sống hài hòa tất cả. Cần phải
cân bằng cả hai bên như thuyết của Khổng Tử theo cách hiểu của Mạnh Tử. Chắc
hẳn, thực tế vẫn có nhiều người sống cho xã hội nhưng đâu mang tiếng là bỏ rơi
gia đình. Vì thế, đặt mình trong hồn cảnh của Mặc Tử, thuyết Kiêm Ái có lẽ nên
được xem như là một sự nhấn mạnh đến thái cực phổ quát vốn bị lưu mờ của
những ai theo Nho học thời đó nhưng lại khơng hiểu và sống vị kỷ, và trong cả thời
đại hôm nay cũng vậy. Hiểu như thế, thuyết Kiêm Ái mang lại những giá trị tích
cực của nó.
Thứ hai, thuyết Kiêm Ái cần cho một xã hội có chiều hướng sống quy kỷ cá
nhân, cần cho một xã hội mà vấn đề tham nhũng là một vấn nạn khi người người
chăm chăm vào tư lợi riêng, đánh mất chiều kích tương quan với đồng loại, chẳng
màng đến hạnh phúc an bình cho mọi người. Như Gabriel Marcel nói, thay vì nhìn
nhau như là những huyền nhiệm trong tương quan với mình thì lại nhìn như những
23



vấn đề, tương quan của con người với tự nhiên hiện tại cũng là kiểu tương quan
tơi-nó (I-it) thay vì kiểu tơi-bạn (I-thou), vốn là những thái độ ích kỷ quy tôi.
Thuyết Kiêm Ái cũng giúp con người ngày nay chất vấn lại sự hội nhất giữa nói và
làm, tình yêu đi đôi với hành động, phải đưa đến kết quả nào đó thay vì chỉ là lời
nói sng xét về cả khía cạnh chính trị và nhân bản. Hơn nữa, thuyết Kiêm Ái khơi
lên tiếng nói cho hịa bình dân chủ bình đẳng, tơn trọng và lắng nghe tiếng nói của
dân nghèo, của mọi tầng lớp trong xã hội.
Thứ ba, kiêm ái là yêu mọi người như yêu mình, khơng phân biệt ranh giới
hay giai cấp; một tình u địi buộc tính phổ qt hướng đến mọi người, và cả đến
mọi lồi, là một tiếng nói vang vọng trước thái độ sống vị kỷ cá nhân; kiêm ái đòi
buộc không chỉ yêu trong tư tưởng giáo thuyết nhưng phải được thể hiện ra hành
động và nơi kết quả cụ thể. Sống kiêm ái là sống đúng đức nhân nghĩa vốn là phẩm
tính của con người vốn được đề cao trong mọi thời, khi ý thức rằng mình đang
sống trong tương quan nối kết với tất cả thực tại; hòa với trời, với người, và với
vật. Khoa tâm lý học ngày nay cũng cho rằng tình yêu được xem là một nhu cầu
của con người, con người muốn yêu và được yêu, muốn được quan tâm và quan
tâm đến người khác. Vì thế, như Đức Đạt Lai Lạt Ma Matthieu Ricard nói rằng,
nguyên nhân cốt lõi của những vấn đề hiện nay của nhân loại đến từ nhận thức và
cách sống tương quan của con người với tất cả vốn bị tha hóa, và do đó chìa khóa
để giải quyết tất cả các vấn đề như kinh tế, xã hội, ý tế, giáo dục, triết học, mơi
sinh… có điểm gặp gỡ là tình yêu, là sự quan tâm giữa người với người và môi
trường xung quanh, là trở về đúng phẩm tính như mình là. Điều này thơi thúc bạn
và tơi điều gì trong cách sống và trong cách mà mỗi người góp cho đời để xã hội
được cơng bình bác ái, con người được trở nên thành người hơn.

24



3.3. Giá trị của thuyết “Vô vi nhi trị” của Lão Tử
Thế giới hiện nay đang có xu hướng quay trở lại các giá trị truyền thống của
phương Đông. Trong xu hướng chung đó tư tưởng chính trị và triết học Trung
Quốc cổ đại thu hút được sự quan tâm rộng rãi của các nhà khoa học trên thế giới.
Do vậy giá trị của thuyết “Vô vi nhi trị” của Lão Tử cũng được coi trọng, thể hiện
ở các nội dung đó là:
Một là, người phương Tây có câu: “ánh sáng từ phương Đông đến… cuộc
thiên diễn của văn minh lồi người từ xưa đến nay là từ phương Đơng sang phương
Tây. Văn minh tinh thần nhân loại bắt đầu xuất hiện ở cực Đông, rồi dần dần
chuyển từ Trung Hoa đén ấn Độ, Ba Tư, Chaldée, Syrie, Hy Lạp và sau cùng là
Roma và Pháp”. Ngày nay Châu Âu không phải là trung tâm của các giá trị tinh
thần. Nhiều nhà khoa học phương Tây đã dành công sức cả đời để nghiên cứu về
phương Đông và ngày càng phát hiện thêm những giá trị vô cùng phong phú của
phương Đơng. Hiện nay, trong nội dung tư tưởng chính trị là triết học Trung Quốc
cổ đại, những quan điểm về vấn đề quản lý Nhà nước được nhiều nhà nghiên cứu
khai thác để kế thừa và vận dụng vào việc quản lý Nhà nước hiện đại. Nhiều quốc
gia Châu á đã nghiên cứu và vận dụng thành công một số hạt nhân hợp lý trong
học thuyết Lão Tử về việc quản lý Nhà nước bằng phương pháp “vô vi” của ông.
Hai là, tư tưởng học thuyết “vô vi” về vấn đề quản lý Nhà nước. Có th đem
lại những bài học quý giá mà các lý thuyết hiện đại về quản lý Nhà nước cũng
không thể không công nhận. Quản lý Nhà nước bằng “vô vi” của Lão Tử có thể
đem lại cho các nhà nước hiện đại câu trả lời về hàng loạt các vấn đề như: mức độ
can thiệp của các chính sách quản lý Nhà nước đối với đời sống nhân dân; vai trò
và các tiêu chuẩn của pháp luật trong quản lý Nhà nước. Trong tư tưởng chính trị
của Lão Tử khi nghiên cứu ta thấy được nhiều mặt hạn chế hơn là những mặt tích
cực. Vì vậy phương thức vơ vi trong quản lý Nhà nước của Lão Tử đương thời
25



×