Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Đánh giá giá trị giải trí và giá trị phi sử dụng của Vườn Quốc gia Ba Bể - Bắc Kạn (2).DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.1 KB, 109 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ ĐỊNH GIÁ GIÁ TRỊ GIẢI TRÍ VÀ GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG
CỦA MỘT VƯỜN QUỐC GIA ............................................................................................ 4
1.1. Vườn Quốc gia và Tổng giá trị kinh tế của Vườn Quốc gia ......................................................... 4
1.1.1.Vườn Quốc gia và sự cần thiết đánh giá giá trị của VQG .............................. 4
1.1.2. Tổng giá trị kinh tế của một Vườn Quốc gia ............................................... 6
1.1.3. Phương pháp định giá giá trị của một VQG .............................................. 10
1.2. Phương pháp chi phí du lịch định giá giá trị giải trí của VQG ................................................... 11
1.2.1. Phương pháp chi phí du lịch (TCM - Travel Cost Method) ......................... 11
1.2.2. Mô hình lý thuyết hàm chi phí du lịch ........................................................ 12
1.2.3. Một số phương pháp tiếp cận chi phí du lịch ............................................. 14
1.2.4. Tổng quan các nghiên cứu sử dụng phương pháp chi phí du lịch để đánh giá
giá trị cảnh quan ............................................................................................. 19
1.2.5. Một số ưu điểm hạn chế của phương pháp chi phí du lịch .......................... 21
1.3. Phương pháp định giá ngẫu nhiên trong định giá giá trị phi sử dụng ........................................ 22
1.3.1. Phương pháp định giá ngẫu nhiên (Contingent Valuation Method - CVM) . . 22
1.3.2. Mô hình lý thuyết về định giá ngẫu nhiên .................................................. 24
1.3.3. Các bước tiến hành định giá ngẫu nhiên ................................................... 26
1.3.4. Tổng quan các nghiên cứu sử dụng CVM đo lường giá trị phi sử dụng của
môi trường ...................................................................................................... 28
1.3.5. Một số ưu điểm và hạn chế của phương pháp định giá ngẫu nhiên ............. 31
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ VƯỜN QUỐC GIA BA BỂ - BẮC KẠN .............................. 33
2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển VQG Ba Bể ............................................................... 33
2.2. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội ....................................................................................... 35
2.2.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................... 35
2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ......................................................................... 37
2.3. Giá trị cảnh quan và giá trị đa dạng sinh học của VQG Ba Bể .................................................. 39
2.3.1. Giá trị cảnh quan văn hoá lịch sử ............................................................. 39
2.3.2. Giá trị đa dạng sinh học .......................................................................... 41
2.4. Hoạt động của Vườn Quốc gia Ba Bể ...................................................................................... 45


2.4.1. Hoạt động bảo tồn thiên nhiên và giáo dục môi trường .............................. 45
2.4.2. Hoạt động du lịch ................................................................................... 48
2.4.3. Hoạt động kinh tế - xã hội của dân cư và tác động đến tài nguyên rừng ....... 50
2.5. Những áp lực bảo tồn và những việc cần ưu tiên trong quản lý, bảo tồn .................................... 52
2.5.1. Mục tiêu đặt ra đối với công tác bảo tồn ................................................... 52
2.5.2. Các áp lực và thách thức đối với công tác bảo tồn ..................................... 53
1
2.5.3. Các hoạt động cần ưu tiên trong công tác bảo tồn ..................................... 55
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ GIẢI TRÍ VÀ GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG VƯỜN QUỐC
GIA BA BỂ ........................................................................................................................... 57
3.1. Bảng hỏi phỏng vấn và các đặc điểm xã hội của đối tượng phỏng vấn ....................................... 57
3.1.1. Bảng hỏi phỏng vấn ................................................................................ 57
3.1.2. Mẫu điều tra .......................................................................................... 58
3.1.3. Một số đặc điểm kinh tế - xã hội của đối tượng phỏng vấn ......................... 59
3.2. Sử dụng phương pháp chi phí du lịch theo vùng (ZTCM) đánh giá giá trị giải trí tại VQG Ba Bể 64
3.2.1. Những giả thiết cơ bản ............................................................................ 64
3.2.2 Phân vùng khách du lịch .......................................................................... 65
3.2.3. Xác định chi phí du lịch ........................................................................... 69
3.2.4. Hàm cầu giải trí ...................................................................................... 76
3.2.5. Đường cầu giải trí và giá trị cảnh quan du lịch của VQG Ba Bể ................. 77
3.3. Đánh giá giá trị phi sử dụng VQG Ba Bể bằng phương pháp CVM .......................................... 79
3.3.1. Mô hình đánh giá .................................................................................... 79
3.3.2.Thiết lập thị trường giả tưởng ................................................................... 80
3.3.3. Thu nhận thông tin về mức sẵn lòng chi trả ............................................... 81
3.3.4. Phân tích các yếu tố tác động đến sự bằng lòng chi trả .............................. 83
3.3.5. Lượng giá giá trị phi sử dụng VQG Ba Bể ................................................ 88
3.4. Kết luận rút ra từ nghiên cứu và một số đề xuất ...................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................. 95
PHỤ LỤC 1 .................................................................................................................................... 97

2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BV GIÁ TRỊ LƯU TRUYỀN
BỘ NN&PTNT BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
CVM PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ NGẪU NHIÊN
DLST DU LỊCH SINH THÁI
ĐDSH ĐA DẠNG SINH HỌC
EV GIÁ TRỊ TỒN TẠI
NUV GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG
OLS PHƯƠNG PHÁP BÌNH PHƯƠNG NHỎ NHẤT
TCM PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ DU LỊCH
TCTK TỔNG CỤC THỐNG KÊ
TEV TỔNG GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA MÔI TRƯỜNG
TNBQ THU NHẬP BÌNH QUÂN
UV GIÁ TRỊ SỬ DỤNG
VQG VƯỜN QUỐC GIA
WTA BẰNG LÒNG CHẤP NHẬN
WTP BẰNG LÒNG CHI TRẢ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÊN BẢNG TRANG
Bảng 1.1: Giá trị tồn tại và giá trị để lại của một số VQG 29
Bảng 2.1: Thu nhập của dân cư vùng hồ Ba Bể 37
Bảng 2.2: So sánh tài nguyên thú rừng một số VQG 45
Bảng 2.3: Số lượng khách du lịch đến Ba Bể từ 2003 đến 2005 49
Bảng 3.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội của du khách trong nước 59
Bảng 3.2: Đặc điểm kinh tế xã hội của du khách nước ngoài 61
Bảng 3.3 : Số du khách trong mỗi nhóm 62
Bảng 3.4: Đánh giá chất lượng môi trường của du khách 64
Bảng 3.5: Tỷ lệ du khách theo vùng xuất phát 68
Bảng 3.6: Phương tiện du khách sử dụng đến VQG 70

Bảng 3.7: Chi phí đi lại của du khách 71
Bảng 3.8: Chi phí thời gian của du khách 73
Bảng 3.9: Chi phí ăn ở của du khách tại Ba Bể 75
Bảng 3.10: Tổng hợp chi phí của du khách theo các vùng 76
Bảng 3.11: Lợi ích giải trí của du khách từ các vùng đến Ba Bể 79
Bảng 3.12: Tỷ lệ du khách sẵn sàng chi trả cho bảo tồn 82
Bảng 3.13: Mục đích chi trả của du khách 82
Bảng 3.14: Mức chi trả trung bình cho bảo tồn 83
Bảng 3.15: Mô tả các biến trong mô hình 84
Bảng 3.16: Kết quả ước lượng 85
Bảng 3.17: Kiểm định mô hình 86
Bảng 3.18: Tổng mức sẵn lòng chi trả 90
DANH MỤC HÌNH VẼ
TÊN HÌNH TRANG
Hình 1.1: Tổng giá trị kinh tế của môi trường 11
Hình 1.2: Đường cầu du lịch 17
Hình 1.3: Đường cầu du lịch trong trường hợp chất lượng môi
trường thay đổi
19
Hình 3.1: Các hoạt động chính của du khách tại VQG 63
Hình 3.2: Một số điểm du khách chưa hài lòng 63
Hình 3.3: Bản đồ phân vùng điểm xuất phát của du khách 67
Hình 3.4: Đường cầu giải trí 78
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Rừng nhiệt đới là một nguồn tài nguyên quan trọng và có giá trị to lớn ở nước
ta song thời gian qua chúng đã được khai thác quá mức làm suy giảm cả diện tích và
chất lượng. Nếu năm 1945 độ che phủ rừng của cả nước là 45% thì nay độ che phủ
chỉ còn khoảng 30%.
Nhận thức giá trị của rừng đối với cuộc sống là vô cùng quan trọng nên ngay

từ những năm 1960, Nhà nước đã cho thành lập các Vườn Quốc gia và Khu bảo tồn
thiên nhiên để bảo tồn các giá trị của rừng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các Vườn
Quốc gia, các Khu bảo tồn vẫn bị xâm hại vì những lợi ích trước mắt. Lý do được
nhìn nhận trên quan điểm kinh tế là chúng ta chưa hiểu hết giá trị của rừng.
Cuộc sống của con người tại các quốc gia nhiệt đới như Việt Nam phụ thuộc
rất nhiều vào rừng. Rừng không chỉ cung cấp cho con người những giá trị sử dụng
trực tiếp như gỗ củi, các loài động thực vật mà còn mang lại nhiều giá trị gián tiếp
như hấp thụ cácbon, hạn chế lũ lụt, tạo ra những cảnh quan và là nguồn cảm hứng
sáng tạo của loài người. Hơn thế, việc bảo tồn các giá trị của hệ sinh thái rừng không
chỉ mang lại lợi ích cho thế hệ hiện tại mà còn mang lại lợi ích cho thế hệ tương lai.
Vườn Quốc gia Ba Bể là một trong số 28 VQG ở Việt Nam có giá trị cảnh quan
độc đáo và tính đa dạng sinh học cao với nhiều loài đặc hữu. Đây là một VQG với đầy
đủ các nét đặc trưng của một rừng nguyên sinh miền Bắc đồng thời là một hệ sinh thái
đất ngập nước với một hồ nước ngọt lớn bậc nhất cả nước. Vườn được thành lập từ
năm 1992 với nhiệm vụ bảo tồn các hệ động thực vật, nghiên cứu khoa học và phát
triển du lịch sinh thái. Thời gian gần đây việc phát triển du lịch và phát triển kinh tế
của dân cư quanh Vườn đã tạo sức ép đối với công tác bảo tồn. Do đó, việc nhận thức
đầy đủ các giá trị của Vườn sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với công tác bảo tồn.
Đề tài “Đánh giá giá trị giải trí và giá trị phi sử dụng của Vườn Quốc gia
Ba Bể - Bắc Kạn” được thực hiện nhằm xác định giá trị giải trí của VQG Ba Bể bằng
1
phương pháp chi phí du lịch và xác định giá trị phi sử dụng bằng phương pháp định giá
ngẫu nhiên. Đây là những giá trị phi thị trường mà việc bảo tồn VQG có thể mang lại
cho thế hệ hiện tại và tương lai. Từ trước tới nay người ta đều nhận thức được các giá trị
vô hình này song việc lượng giá chúng không dễ dàng, mặc dù theo một số nghiên cứu
ngoài nước thì chỉ riêng giá trị phi sử dụng đã chiếm khoảng 35 -70% giá trị của tài sản
môi trường.
Mặt khác, với giá trị cảnh quan, đã có nhiều nghiên cứu đánh giá ở trong và
ngoài nước nhưng với giá trị chưa sử dụng có thể đây là một nghiên cứu đầu tiên ở
Việt Nam. Do đó, đề tài mong muốn xây dựng một phương pháp xác định giá trị

chưa sử dụng có thể tham khảo khi thực hiện xác định giá rừng ở nước ta.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đánh giá giá trị cảnh quan và giá trị chưa sử
dụng của Vườn Quốc gia Ba Bể thông qua làm rõ các vấn đề sau:
- Sử dụng phương pháp chi phí du lịch theo vùng ước tính chi phí của du
khách đến Ba Bể, từ đó xây dựng hàm cầu và xác định giá trị cảnh quan của khu du
lịch Ba Bể.
- Đánh giá chất lượng dịch vụ du lịch, sự hài lòng của du khách và đề xuất
mức phí vào cổng của VQG Ba Bể.
- Sử dụng phương pháp định giá ngẫu nhiên để xác định sự bằng lòng chi trả
(WTP) của du khách cho hoạt động bảo tồn của VQG. Sử dụng mô hình kinh tế
lượng phân tích các yếu tố tác động đến WTP.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm kết hợp hài hoà giữa hoạt động du lịch và
hoạt động bảo tồn.
2
3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Về khoa học, đề tài thực hiện đánh giá giá trị giải trí và giá trị chưa sử dụng
của VQG dựa trên lý thuyết của kinh tế học môi trường.
Về địa điểm nghiên cứu, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tại khu vực VQG Ba Bể.
Về thời gian, đề tài tiến hành điều tra thu thập số liệu bằng bảng hỏi đối với
du khách và thu thập thông tin thứ cấp từ tháng 7 năm 2005 đến tháng 12 năm 2005
tại VQG Ba Bể.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để có số liệu phân tích đánh giá, đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn trực
tiếp du khách, phỏng vấn trực tiếp các hộ dân đang sinh sống trong vùng lõi VQG.
Đề tài sử dụng phương pháp thu thập số liệu thứ cấp từ các cơ quan liên quan, sử
dụng phương pháp điều tra thực tế và phương pháp thống kê kinh tế lượng.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của đề tài gồm 3 chương:

Chương 1: Lý thuyết về đánh giá giá trị giải trí và giá trị phi sử dụng của một VQG.
Chương 2: Tổng quan về Vườn Quốc gia Ba Bể - Bắc Kạn.
Chương 3: Đánh giá giá trị giải trí và giá trị phi sử dụng của VQG Ba Bể.
3
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ ĐỊNH GIÁ GIÁ TRỊ GIẢI TRÍ VÀ
GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG CỦA MỘT VƯỜN QUỐC GIA
1.1. Vườn Quốc gia và Tổng giá trị kinh tế của Vườn Quốc gia
1.1.1.Vườn Quốc gia và sự cần thiết đánh giá giá trị của VQG
1.1.1.1 Vườn Quốc gia
Vườn Quốc gia là một vùng đất tự nhiên được thành lập để bảo tồn hệ sinh
thái chuẩn của một đất nước. Đó là một khu rừng đặc dụng được quản lý và bảo vệ
nghiêm ngặt nhằm bảo vệ lâu dài một hay nhiều hệ sinh thái, bảo đảm các yêu cầu cơ
bản sau:
1- Là vùng đất tự nhiên bao gồm mẫu chuẩn của các hệ sinh thái cơ bản (còn
nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người); các nét đặc trưng về sinh cảnh của các
loài động, thực vật; các khu rừng có giá trị cao về mặt khoa học, giáo dục và du lịch.
2- Là vùng đất tự nhiên đủ rộng để chứa đựng được một hay nhiều hệ sinh
thái và không bị thay đổi bởi những tác động xấu của con người; tỷ lệ diện tích hệ
sinh thái tự nhiên cần bảo tồn phải đạt từ 70% trở lên.
3- Là khu vực có điều kiện về giao thông tương đối thuận lợi.
Hiện nay, Việt Nam đã thành lập 28 VQG phân bố ở cả ba miền, được quản lý
bảo vệ theo quy chế quản lý rừng đặc dụng. Việc quản lý VQG được phân cấp giao
cho Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn trong trường hợp VQG nằm trên địa bàn
của nhiều Tỉnh, còn lại giao cho Ủy ban nhân dân Tỉnh quản lý nếu VQG nằm trên
địa bàn một địa phương.
Mỗi VQG đều được thành lập một ban quản lý. Ban quản lý là chủ rừng, được
giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chịu trách nhiệm
quản lý, bảo vệ và xây dựng khu rừng được giao.
Do tầm quan trọng của bảo tồn mà Vườn Quốc gia được chia thành các phân
khu chức năng như sau:

- Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: là khu vực được bảo toàn nguyên vẹn, được
quản lý bảo vệ chặt chẽ để theo dõi diễn biến tự nhiên; nghiêm cấm mọi hành vi làm
4
thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu rừng. Đây là những khu vực có rừng nguyên
sinh, có tính đa dạng sinh học cao được bảo vệ nghiêm ngặt.
- Phân khu phục hồi sinh thái : Là khu vực được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để
rừng phục hồi, tái sinh tự nhiên; nghiêm cấm việc du nhập những loài động vật, thực
vật không có nguồn gốc tại khu rừng. Thông thường đây là khu vực đang được
khoanh nuôi để rừng tái sinh tự nhiên.
- Phân khu dịch vụ - hành chính : Là khu vực để xây dựng các công trình làm
việc và sinh hoạt của Ban quản lý, các cơ sở nghiên cứu - thí nghiệm, dịch vụ du lịch,
vui chơi giải trí.
Đồng thời, để ngăn chặn những tác động xấu, Vườn Quốc gia phải thiết lập
vùng đệm. Vùng đệm là vùng rừng, vùng đất hoặc vùng đất có mặt nước nằm sát
ranh giới với các Vườn Quốc gia; có tác động ngăn chặn hoặc giảm nhẹ sự xâm
phạm khu rừng đặc dụng. Mọi hoạt động trong vùng đệm phải nhằm mục đích hỗ trợ
cho công tác bảo tồn, quản lý và bảo vệ khu rừng đặc dụng; cấm săn bắn, bẫy bắt các
loài động vật và chặt phá các loài thực vật hoang dã là đối tượng bảo vệ. Diện tích
của vùng đệm không tính vào diện tích của khu rừng đặc dụng.
Vùng đệm của VQG thường có dân cư sinh sống. Dân cư sống trong VQG chủ
yếu được ổn định tại chỗ phải chấp hành nghiêm chỉnh Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng, phải tuân theo các quy định của Ban quản lý khu rừng đặc dụng. Không được
di dân từ nơi khác tới VQG và vùng đệm.
Trong Vườn Quốc gia, có thể xây dựng nhiều điểm, tuyến du lịch dịch vụ theo
nguyên tắc vừa khuyến khích phát triển các hoạt động du lịch để du khách hiểu thêm
giá trị của VQG, vừa không được làm ảnh hưởng xấu đến mục tiêu bảo tồn.
1.1.1.2 Sự cần thiết định giá giá trị của VQG
Định giá giá trị của một VQG hay khu bảo tồn là công việc khó khăn song có
ý nghĩa quan trọng và đã được thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới. Đó là việc
sử dụng các công cụ kỹ thuật nhằm lượng giá giá trị bằng tiền của các tài sản môi

trường là các VQG làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách về khai thác, sử dụng
và quản lý VQG.
5
Ở Việt Nam, việc định giá giá trị của tài sản môi trường là một VQG hay khu
bảo tồn thiên nhiên còn mới mẻ song nếu thực hiện được sẽ có ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, Nhà nước đang thực hiện đầu tư rất lớn bằng ngân sách cho hoạt
động bảo tồn các hệ sinh thái cảnh quan VQG song lợi ích thu được mới chỉ được
nhìn nhận định tính. Lượng giá giá trị của VQG hay khu bảo tồn thiên nhiên sẽ giúp
nhìn nhận lợi ích từ công tác bảo tồn đầy đủ hơn, cụ thể hơn.
Thứ hai, định giá giá trị VQG giúp tránh gây thiệt hại tới vốn tài nguyên thiên
nhiên quan trọng, chẳng hạn tính đa dạng sinh học, sự tồn tại của các loài quý hiếm…
và cảnh báo những dự án có tác động tới VQG.
Thứ ba, trong một số trường hợp việc lượng giá giá trị bằng tiền của tài sản
môi trường là cơ sở để Nhà nước cân nhắc khi đưa ra một quyết định ảnh hưởng đến
vốn tự nhiên; là cơ sở để Nhà nước xác định mức đền bù hoặc bồi thường khi cá
nhân, tổ chức gây tổn hại đến tài sản tự nhiên.
Thứ tư, khi tài sản môi trường được định giá tức giá trị của chúng được thừa nhận
gồm cả giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng từ đó nâng cao nhận thức về môi trường của
cộng đồng và đưa ra những chỉ dẫn trong quá trình ra quyết định kinh tế của VQG.
1.1.2. Tổng giá trị kinh tế của một Vườn Quốc gia
Vườn Quốc gia là một tài sản môi trường nên tổng giá trị kinh tế của một
VQG về nguyên tắc có thể xem xét thông qua các thành phần giá trị của một tài sản
môi trường.
Các nhà kinh tế học đã rất thành công khi phân loại giá trị kinh tế của một tài
sản môi trường. Mặc dù thuật ngữ có thể chưa được thống nhất hoàn toàn, nhưng
phương pháp luận này đặt cơ sở cho việc giải thích về sự hình thành của giá trị trên
cơ sở sự tương tác giữa chủ thể con người - người định ra giá trị và khách thể - vật
được đánh giá. Về tổng quan, để đo lường tổng giá trị kinh tế của một tài sản môi
trường nói chung và một VQG nói riêng, các nhà kinh tế học bắt đầu bằng việc phân
biệt giữa giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng.

Giá trị sử dụng là những lợi ích thu được từ việc sử dụng nguồn tài nguyên
trên thực tế. Đôi khi cũng có thể hiểu giá trị sử dụng là giá trị các cá nhân gắn với
6
việc tiêu dùng một cách trực tiếp hay gián tiếp các dịch vụ do nguồn tài nguyên cung
cấp. Ví dụ, đối với một VQG hay một khu rừng, con người có thể thu được lợi ích từ
gỗ làm nhà, củi đốt; dùng cây cỏ làm thuốc; đi dạo trong rừng, ngắm nhìn các loài
động thực vật hoặc chiêm ngưỡng cảnh đẹp.
Giá trị sử dụng hình thành từ việc thực sự sử dụng tài sản môi trường, trên
thực tế nó bao gồm:
Giá trị sử dụng trực tiếp là các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trực tiếp cung cấp
mà chúng ta có thể tính được giá cả và khối lượng trên thị trường.
Một quan điểm khác cho rằng giá trị sử dụng trực tiếp là các lợi ích nhận được
từ việc sử dụng trực tiếp tài sản và có thể được chia thành hai loại là sử dụng tiêu hao
và không tiêu hao. Chẳng hạn, giá trị sử dụng trực tiếp của rừng gồm giá trị sử dụng
tiêu hao như sản xuất gỗ, thực phẩm và các lâm sản ngoài gỗ khác; giá trị sử dụng
không tiêu hao bao gồm các hoạt động giải trí và các hình thái du lịch thậm chí chỉ là
xem hình ảnh phóng sự trên tivi.
Giá trị sử dụng gián tiếp là những giá trị chủ yếu dựa trên chức năng của hệ
sinh thái, có ý nghĩa về mặt sinh thái và môi trường. Nói cách khác đây là các chức
năng cơ bản của môi trường gián tiếp hỗ trợ cho hoạt động kinh tế của con người.
Chẳng hạn, khả năng chống gió bão, khả năng hấp thụ cacbon là giá trị sử dụng gián
tiếp của rừng.
Giá trị tuỳ chọn là lượng mà mỗi cá nhân sẵn sàng chi trả để bảo tồn nguồn
lực hoặc một phần nguồn lực để sử dụng cho tương lai. Đây là giá trị do nhận thức,
lựa chọn của con người đặt ra trong hệ sinh thái. Giá trị tuỳ chọn không có tính thống
nhất chung và cũng phải được tính về mặt tiền tệ theo tính chất lựa chọn của nó. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp ranh giới giữa giá trị tuỳ chọn và giá trị không sử
dụng là không rõ ràng.
Giá trị phi sử dụng còn gọi là giá trị không sử dụng hoặc giá trị chưa sử dụng
và thường trừu tượng hơn giá trị sử dụng.

Giá trị phi sử dụng là thành phần giá trị của một tài sản môi trường thu được
không phải do việc tiêu dùng một cách trực tiếp hay gián tiếp các các hàng hóa dịch vụ
7
do tài sản môi trường cung cấp. Nó thể hiện các giá trị phi thị trường nằm trong bản
chất của sự vật, không liên quan đến việc sử dụng trên thực tế, hoặc thậm chí việc chọn
lựa sử dụng tài sản này. Thay vào đó các giá trị này được coi như những yếu tố phản
ánh sự lựa chọn của con người, sự lựa chọn có kể đến cả sự quan tâm đồng cảm và trân
trọng đối với quyền lợi hoặc sự tồn tại của các sinh vật không phải là con người. Các
giá trị này bao hàm cả nhận thức về giá trị tồn tại của các giống loài khác hoặc của cả
quần thể hệ sinh thái. Ví dụ, một cá nhân có thể cảm thấy hài lòng khi biết Vườn Quốc
Gia Ba Bể tồn tại, các loài đặc hữu vẫn được bảo vệ mặc dù họ chưa tới đó bao giờ, và
chắc chắn cũng không tới đó trong tương lai.
Giá trị phi sử dụng bao gồm các thành phần:
Giá trị để lại (Bequest value) là thành phần giá trị thu được từ sự mong muốn
bảo tồn và duy trì nguồn tài nguyên cho lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương lai.
Chẳng hạn, người dân sống tại vùng cát Quảng Bình hiểu rằng cuộc sống của họ và
con cháu họ trong tương lai phụ thuộc rất nhiều vào rừng phòng hộ chắn cát bay. Họ
sẵn sàng đóng góp tiền bạc và công sức để duy trì rừng vì lợi ích của họ và con cháu
họ. Trong trường hợp này, mức sẵn sàng đóng góp của họ được xem là giá trị để lại,
giá trị lưu truyền cho thế hệ sau.
Giá trị tồn tại (Existence value) là giá trị của tài sản môi trường có được từ
nhận thức rằng tài sản đó còn tồn tại. Xét về tổng thể, xã hội cũng nhận được các lợi
ích từ hàng hoá môi trường ngoài sự hữu dụng liên quan tới việc sử dụng trực tiếp
hay gián tiếp. Sự tiêu dùng không có một hàng hoá cụ thể nhưng rõ ràng các cá nhân
cảm thấy hài lòng khi biết một nguồn tài nguyên nào đó vẫn còn tồn tại. Rất khó giải
thích tại sao xã hội lại đánh giá các lợi ích này. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng xã hội
nói chung sẵn lòng chi trả để bảo tồn các tài sản này. Trong các trường hợp như vậy
lợi ích cho xã hội đơn giản từ việc biết rằng các tài sản này đang tồn tại và đang được
bảo vệ. Thành phần này của tổng giá trị được biết đến như giá trị tồn tại.
Như vậy, giá trị tồn tại xuất phát từ nhận thức của con người về tài nguyên và

môi trường mà người ta cho rằng sự tồn tại của một cá thể hay một giống loài nào đó
có ý nghĩa về mặt kinh tế không chỉ trước mắt mà còn cả lâu dài buộc người ta phải
8
duy trì giống loài đó bằng mọi giá. Trong việc tính toán giá trị này thì việc xác lập
tiền tệ là khó khăn nhưng sự xác lập nhận thức về mặt giá trị rất dễ dàng.
Về nguyên tắc các giá trị tồn tại là một động cơ quan trọng của nhiều nỗ lực
bảo tồn và cũng là cơ sở ban hành chính sách môi trường. Một ví dụ thực tế là Đạo
luật về bảo vệ và bảo tồn các loài loài chim và các giống loài cây đang bị đe dọa tuyệt
chủng được áp dụng tại nhiều nước. Đạo luật của Mỹ năm 1973 về các loài đang bị
nguy hiểm là một điển hình về sự thừa nhận của Mỹ về giá trị tồn tại. Đạo luật đã
chính thức lên tiếng bảo vệ tính đa dạng sinh học của trái đất. Kết quả quan trọng của
nó là hình thành một danh sách chính thức về các sinh vật đang có nguy cơ tuyệt
chủng, bất kể chúng có giá trị sử dụng trực tiếp hay gián tiếp đối với con người.
Ngoài ra, một bằng chứng xác thực khác là sự sẵn lòng chi trả của xã hội cho hoạt
động của các tổ chức bảo vệ môi trường mà chương trình hành động của họ tập trung
vào việc bảo tồn các loài động thực vật.
Một nghiên cứu khá sớm khác về giá trị tồn tại của Krutulla (1967) cho rằng
“Khi đề cập đến một kỳ quan lộng lẫy hoặc một hệ sinh thái yếu ớt và duy nhất thì
việc bảo tồn và duy trì sự sẵn có là một phần quan trọng trong thu nhập thực của
nhiều cá nhân”. Điều này có nghĩa việc bảo tồn các giá trị của môi trường là mong
muốn của nhiều người không vì mục đích tiêu dùng của họ mà có thể là vì mục đích
tiêu dùng của người khác hoặc giữ gìn cho thế hệ tương lai.
Tiêu dùng của người khác nói đến ý niệm rằng các cá nhân đang đánh giá một
hàng hoá công cộng vì lợi ích nó mang lại cho người khác cho dù bản thân những
người đó có biết hay không. Điều này cho thấy những lợi ích nhận được có tính phụ
thuộc lẫn nhau. Một cá nhân có thể nhận được lợi ích từ sự nhận thức rằng những
người khác đang được hưởng lợi từ hàng hoá đó. Còn giữ gìn cho thế hệ tương lai
phát sinh từ ý thức phải bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai, từ sự công nhận
giá trị tồn tại của tài nguyên môi trường.
Một cách tổng quát, tổng giá trị kinh tế được hình thành từ giá trị sử dụng trực

tiếp và giá trị sử dụng gián tiếp được minh hoạ bằng công thức và sơ đồ sau:
TEV = UV + NUV hay TEV = (DUV + IUV + OV) + ( BV + EV)
9
trong đó:
DUV: Giá trị sử dụng trực tiếp
IUV: Giá trị sử dụng gián tiếp
OV: Giá trị lựa chọn
BV: Giá trị để lại (giá trị lưu truyền)
EV: Giá trị tồn tại
Hình 1.1: Tổng giá trị kinh tế của môi trường
Nguồn: Giá trị của tài sản môi trường, Monasinghe, 1992
1.1.3. Phương pháp định giá giá trị của một VQG
Tổng giá trị kinh tế của một VQG nói riêng và tổng giá trị của một tài sản môi
trường nói chung thường được đánh giá thông qua giá trị sử dụng và giá trị chưa sử
dụng. Giá trị sử dụng là những giá trị nhận được từ việc sử dụng trực tiếp VQG bao
gồm giá trị thu được từ gỗ củi, thực phẩm, dược liệu và các sản phẩm phi lâm sản.
Nó còn bao gồm giá trị từ chức năng sinh thái của VQG như khả năng hấp thụ
cácbon, khả năng chống gió bão cũng như giá trị cảnh quan du lịch, giá trị nghiên cứu
khoa học…Còn giá trị chưa sử dụng là giá trị của tài sản môi trường được đánh giá
thông qua nhận thức của những người đang sử dụng hoặc không sử dụng VQG. Nó
Giá trị SD
trực tiếp
Giá trị SD
gián tiếp
Giá trị
lựa chọn
Giá trị
để lại
Giá trị
tồn tại

Tổng giá trị kinh tế
Lợi ích có
thể SD trực
tiếp
Lợi ích từ
chức năng
của MT
Lợi ích trực tiếp
và gián tiếp của
thế hệ tương lai
Lợi ích từ mong
muốn bảo tồn
cho thế hệ sau
Lợi ích từ việc
biết rằng các giá
trị vẫn tồn tại
Tính hữu hình giảm dần
- Thực phẩm
- Sinh khối
- Giải trí
- Sức khoẻ
- Chức năng
sinh thái
- Chống gió
bão
- Đa dạng
sinh học
- Bảo tồn
MT sống
- MT sống

- Bảo tồn giá trị
không thể đảo ngược
- MT sống
-Sự sống của các
loài
10
được đánh giá bằng sự sẵn lòng chi trả để bảo tồn tài sản môi trường hoặc bằng lòng
chấp nhận một mức đền bù nếu tài sản môi trường bị xâm hại.
Đối với bộ phận giá trị sử dụng trực tiếp của VQG như giá trị thu được từ gỗ
củi, các sản phẩm phi lâm sản có thể xác định thông qua giá thị trường. Bộ phận này
là giá trị hiện hữu và được xác định dễ dàng thông qua mức giá từng sản phẩm. Tuy
nhiên, với các VQG ở Việt Nam, giá trị này thường không thể hiện vì toàn bộ các sản
phẩm lâm sản hoặc phi lâm sản bị cấm khai thác cho mục đích thương mại.
Bộ phận giá trị sử dụng gián tiếp hoặc giá trị chưa sử dụng thường không có
giá trên thị trường, không tồn tại thị trường nên việc định giá phải sử dụng phương
pháp tạo dựng thị trường giả định hoặc đánh giá thông qua một hàng hóa thay thế.
Bốn phương pháp có thể áp dụng để lượng giá các giá trị này là: Phương pháp định
giá ngẫu nhiên, Phương pháp chi phí du lịch, phương pháp chi phí cơ hội và phương
pháp phân tích sự thay đổi sản lượng.
Trong nghiên cứu này, hai phương pháp được sử dụng là phương pháp chi phí
du lịch và phương pháp định giá ngẫu nhiên. Cả hai phương pháp này đều tiếp cận
dựa trên quan sát hành vi của các cá nhân trong thị trường thực tế hoặc những câu trả
lời từ khảo sát thị trường giả định để đánh giá giá trị hàng hoá môi trường.
1.2. Phương pháp chi phí du lịch định giá giá trị giải trí của VQG
1.2.1. Phương pháp chi phí du lịch (TCM - Travel Cost Method)
Phương pháp chi phí du lịch là phương pháp được dùng để đánh giá giá trị
kinh tế của các hệ sinh thái cảnh quan, các VQG sử dụng cho mục đích giải trí. Đây
là một phương pháp về sự lựa chọn ngầm, có thể dùng để ước lượng đường cầu đối với
các địa điểm giải trí và từ đó đánh giá giá trị các cảnh quan này. Giả thiết cơ bản của
phương pháp TCM rất đơn giản đó là chi phí bỏ ra để đến một địa điểm tham quan

phản ánh giá trị của địa điểm giải trí đó. Vì vậy, chúng ta sẽ phỏng vấn khách tham
quan xem họ từ đâu đến, họ phải bỏ bao nhiêu chi phí cho chuyến đi… Từ những câu
trả lời của du khách, chúng ta có thể tính toán chi phí du hành của họ và liên hệ với số
lần tham quan trong một năm.
11
Thông qua phương pháp này, các nhà phân tích có thể tìm được mối quan hệ
hàm số giữa giá một lần tham quan (chi phí du hành) và số lần tham quan được thực hiện.
TCM là một trong các kỹ thuật lượng giá những giá trị phi thị trường đã được
sử dụng từ năm 1974 do Hotelling đề xuất nhằm đánh giá giá trị của các Vườn quốc
gia của Mỹ. Sau đó, phương pháp này được áp dụng rất phổ biến trong các nghiên
cứu lượng giá giá trị của các loại hình giải trí ngoài trời như câu cá, săn bắn, du
thuyền và ngắm cảnh….hoặc đánh giá những thiệt hại ô nhiễm bằng việc quan sát sự
thay đổi số lượng du khách đến một địa điểm giải trí nào đó. Hiện nay, phương pháp
chi phí du lịch có thể sử dụng để đánh giá giá trị của các nguồn lực tự nhiên (VQG,
bãi biển, công viên) được sử dụng cho mục đích giải trí, hoặc đánh giá thiệt hại ô
nhiễm môi trường thông qua việc quan sát sự thay đổi lượng khách du lịch đến với
địa điểm giải trí.
Cơ sở lý thuyết phương pháp TCM dựa trên giả định chi phí về thời gian và
chi phí cho chuyến đi của du khách sẽ đại diện cho giá trị của địa điểm giải trí. Do
đó, từ sự bằng lòng chi trả của du khách cho chuyến đi và số lượt tham quan của du
khách có thể xây dựng đường cầu thể hiện mối quan hệ giữa số lượt tham quan và chi
phí tham quan. Sau đó, giá trị cảnh quan của địa điểm nghiên cứu được đánh giá như
là tổng lợi ích của du khách và được đo bằng phần diện tích dưới đường cầu.
Như vậy, TCM đánh giá giá trị các hàng hoá môi trường không có giá thị
trường thông qua hành vi tiêu dùng có liên quan tới thị trường. Đặc biệt, các chi phí
phải bỏ ra để được tiêu dùng các dịch vụ môi trường sẽ được xem như là sự thay thế
cho giá của các dịch vụ đó. Các chi phí này bao gồm chi phí đi lại, chi phí vào cửa,
các chi phí khác tại địa điểm giải trí và các chi phí cơ hội về thời gian mà du khách
đã bỏ ra để có được chuyến đi đến địa điểm giải trí.
1.2.2. Mô hình lý thuyết hàm chi phí du lịch

Một cách tổng quát, chi phí du lịch của du khách i tới địa điểm giải trí j (TC
ij
)
phụ thuộc vào một số biến:
TC
ij
= TC(DC
ij
, T
ij
, F
i
)

(1)
i = 1…n, j = 1…..m
12
Trong đó:
DC
ij
là chi phí về khoảng cách. Chi phí này phụ thuộc vào độ dài quãng
đường tới điểm du lịch và phụ thuộc vào chi phí cho mỗi km đi lại.
T
ij
là chi phí thời gian. Chi phí này phụ thuộc vào thời gian để tới được điểm
du lịch và giá trị về thời gian của mỗi cá nhân.
F
i
là phí vào cửa của địa điểm j.
Giả sử V

i
là số lượt tham quan của du khách i tới địa điểm j, khi đó V
i
là biến
phụ thuộc vào chi phí của chuyến đi (TC
ij
) và một số biến thể hiện đặc điểm xã hội
của du khách. Hàm biểu thị số lượt tham quan của du khách như sau:
V
i
= a + b.TC
ij
+ c. INC
i
+ d. EDU
i
+ e. AGE
i
+ f. SEX
i
.
Trong đó:
V
i
là số lượt viếng thăm địa điểm j của du khách i
TC
ij
: Chi phí của một lần viếng thăm địa điểm j
INC
i

: Thu nhập của du khách i
EDU
i
: Trình độ học vấn của cá nhân i
AGE
i
: Độ tuổi của du khách i
SEX
i
: Giới tính của du khách i
Hệ số a, b, c, d, e, f lần lượt là các hệ số cần được ước lượng.
Sau khi ước lượng được các hệ số tiếp tục xây dựng đường cầu mô tả mối
quan hệ giữa số lượt tham quan và chi phí tham quan. Phần diện tích nằm dưới
đường cầu sẽ thể hiện giá trị cảnh quan của địa điểm giải trí.
Một phương pháp tiếp cận khác có thể dựa trên mô hình tối đa hoá độ thoả
dụng. Xuất phát từ bài toán tối đa hóa độ thỏa dụng của người tiêu dùng:
U(x,r,q) max
trong đó: x - là lượng hàng hóa tiêu dùng,
r - là số chuyến đi đến địa điểm giải trí,
q- là chất lượng của địa điểm.
Với hai giới hạn: giới hạn ngân quỹ, giới hạn thời gian có thể xác định 2 ràng buộc:
m + t
w
w = x + cr
13
rtttt
w
)(
21
+−=

trong đó: m- là thu nhập ngoại sinh, w- là mức lương, t
w
- là thời lượng dùng để làm
việc, c- là chi phí bằng tiền của mỗi chuyến đi,
t
- là thời gian tổng cộng, t
1
- là thời
gian di chuyển cho một chuyến đi khứ hồi, t
2
- là thời gian ở tại địa điểm.
Kết hợp hai ràng buộc nói trên, ta có:
m +
t
w = x + [c + (t
1
+t
2
)w]r
⇒ c + (t
1
+t
2
)w = p
r
là tổng chi phí cho mỗi chuyến đi. Bao gồm chi phí bằng
tiền cũng như chi phí cơ hội về thời gian dùng cho chuyến đi. Giải bài toán của người
tiêu dùng sẽ có được các hàm cầu cho x và r. Số chuyến đi tối ưu là một hàm của p
r
,

m và q hay r(p
r
,m,q).
1.2.3. Một số phương pháp tiếp cận chi phí du lịch
Có ba phương pháp tiếp cận chi phí du lịch để đánh giá giá trị giải trí gồm:
- Phương pháp tiếp cận chi phí du lịch theo vùng (ZTCM): sử dụng chủ yếu
dữ liệu thứ cấp và một số thông tin từ khách du lịch.
- Phương pháp tiếp cận chi phí du lịch của cá nhân (ITCM): sử dụng chủ yếu
các thông tin phỏng vấn được từ du khách.
- Phương pháp tiếp cận dựa trên độ thoả dụng ngẫu nhiên (RUA): sử dụng
thông tin từ điều tra và các nguồn dữ liệu khác kết hợp với một số kỹ thuật thống kê.
1.2.3.1 Phương pháp chi phí du lịch theo vùng (ZTCM)
Tiếp cận chi phí du lịch theo vùng (Zone Travel Cost Approarch) là cách tiếp
cận đơn giản và ít tốn kém. Để lượng giá giá trị cảnh quan thông qua chi phí du lịch
bằng phương pháp này cần thực hiện 7 bước:
Bước 1: Phân chia khu vực xung quanh địa điểm du lịch được nghiên cứu thành
các vùng du lịch cơ bản. Các vùng này có thể được phân chia theo các đường tròn đồng
tâm kể từ điểm du lịch nhưng cũng có thể phân chia theo khu vực hành chính có cùng
đặc điểm nào đó. Thông thường, số liệu về dân số thu thập theo địa giới hành chính dễ
dàng hơn thu thập theo các đường tròn đồng tâm. Số lượng các vùng có thể tương đối
lớn tùy theo đặc thù của địa điểm nghiên cứu.
14
Bước 2: Thu thập thông tin về số lượng du khách tới từ các vùng khác nhau và
tổng số chuyến tham quan tới điểm du lịch ở thời điểm trước năm nghiên cứu. Thông tin
về lượng khách có thể thu thập từ số liệu thứ cấp tại địa điểm nghiên cứu hoặc thu thập
từ các công ty lữ hành.
Bước 3: Tính tỷ lệ du khách (VR- Visitation Rate) đến thăm điểm du lịch trên
1000 dân mỗi vùng. Tỷ lệ du khách đến thăm điểm du lịch được xác định bằng cách lấy
tổng số du khách đến điểm giải trí trong năm của mỗi vùng chia cho tổng dân số của
vùng đó tính theo đơn vị nghìn người.

Bước 4: Ước lượng khoảng cách trung bình và thời gian di chuyển từ các vùng
tới điểm du lịch. Giả định ở vùng 0 (vùng kề cận điểm du lịch) khoảng cách và thời gian
đi lại trung bình bằng 0. Khoảng cách trung bình và thời gian đi lại sẽ tăng dần theo
khoảng cách địa lý.
Sau khi ước lượng được khoảng cách trung bình và thời gian đi lại, người nghiên
cứu xác định toàn bộ chi phí đi lại. Chi phí đi lại có thể xác định dựa trên thông tin về
loại phương tiện sử dụng và mức chi phí trên mỗi km hoặc trên mỗi giờ.
Với chi phí cơ hội về thời gian dành cho chuyến đi thường có nhiều phức tạp
hơn. Cách đơn giản nhất để ước tính chi phí thời gian là xác định chi phí thời gian dựa
trên mức lương theo ngày.
Bước 5: Sử dụng phân tích hồi quy để tìm ra mối liên hệ giữa tỷ lệ du khách với chi
phí du lịch và một số biến xã hội quan trọng khác. Hàm mô tả mối quan hệ này sẽ có dạng:
V
zj
= V(TC
zj
, S
z
) (*)
Trong đó: V
zj
là tỷ lệ du khách từ vùng Z tới địa điểm j,
TC
zj
là chi phí du lịch của du khách vùng Z tới địa điểm j,
S
z
là các biến kinh tế - xã hội của du khách vùng Z.
Bước 6: Xây dựng đường cầu du lịch cho địa điểm nghiên cứu trên cơ sở kết quả
của phân tích hồi quy. Mức chi phí du lịch sẽ tăng lên cho đến khi số lần viếng thăm của

khách giảm xuống bằng 0, nói cách khác có ít hơn một khách sẵn sàng bỏ ra mức phí đó
để được vào thăm khu du lịch. Điểm đầu của đường cầu là số lượng du khách đến với
điểm giải trí trong trường hợp chi phí du lịch bằng 0. Các điểm khác trên đường cầu
15
được xác định bằng số lượng du khách ứng với từng mức chi phí khác nhau. Điều này
được thể hiện bởi mô hình sau đây:
Hình 1.2 : Đường cầu du lịch
Trong mô hình trên, lượng khách đến từ vùng 0 (vùng kề cận điểm du lịch) là
V
0
. Từ hàm quan hệ giữa chi phí du lịch và lượng khách có thể xác định các điểm còn
lại trên đường cầu. Chẳng hạn, tại mức phí du lịch P
1
, lượng khách sẽ giảm từ V
0
xuống V
1
, nếu mức phí tăng lên mức P
2
thì số lượng khách sẽ giảm xuống mức V
2
.
Những tổ hợp chi phí - lượng khách là các dự đoán dựa trên quan hệ giữa chi phí du
lịch với lượng khách du lịch. Giả thuyết quan trọng nhất ở đây là khi chi phí du lịch
được xác định trong biểu thức (*) tăng lên thì số lượng khách tới thăm khu du lịch
giảm đi.
Bước 7: Ước lượng giá trị cảnh quan của điểm nghiên cứu thông qua tính
thặng dư tiêu dùng đối với du khách hoặc xác định phần diện tích nằm phía dưới
đường cầu.
1.2.3.2 Phương pháp tiếp cận chi phí du lịch cá nhân (Individual Travel Cost

Method – ITCM)
Với phương pháp tiếp cận dựa trên chi phí du lịch của từng cá nhân, hàm chi
phí du lịch được xác định như sau:
V
i
= f(TC
i
, S
i
)
V
1
V
2
V
0
Lượng khách
P
1
P
2
Chi phí
P
0
16
Trong đó: V
i
là số lượt tham quan của cá nhân i trong năm,
TC
i

là chi phí du lịch của cá nhân i,
S
i
là các biến số xã hội của cá nhân i như độ tuổi, giới tính, thu
nhập, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân.
Phương pháp tiếp cận chi phí du lịch cá nhân cũng không quá phức tạp song
đòi hỏi dữ liệu thu thập từ cuộc điều tra nhiều hơn so với sử dụng phương pháp tiếp
cận theo vùng. Chẳng hạn, nếu địa điểm du lịch là một công viên hay VQG mà du
khách thường lui tới trong năm thì các thông tin sau cần phải thu thập:
-Khoảng cách từ nơi ở của du khách đến địa điểm giải trí
-Số lần du khách tới địa điểm giải trí đó trong năm qua hoặc trong mùa vừa qua
-Thời gian lưu lại tại địa điểm giải trí
-Các khoản chi tiêu cho chuyến đi
-Thu nhập cá nhân của du khách
-Các thông tin về đặc điểm xã hội của đối tượng phỏng vấn
-Các địa điểm khác mà du khách muốn ghé thăm trong chuyến đi
-Sự hài lòng về cảnh quan và chất lượng môi trường
-Các địa điểm thay thế cho địa điểm này.
Sử dụng những dữ liệu từ cuộc điều tra có thể xác định mối quan hệ giữa số
lượt tham quan của du khách với chi phí mà họ phải bỏ ra. Tương quan này sẽ cho
chúng ta hàm cầu về tỷ lệ du khách đến tham quan địa điểm giải trí và phần diện tích
nằm dưới đường cầu cho biết thặng dư tiêu dùng trung bình. Trên cơ sở số liệu về
dân số của vùng mà du khách sinh sống có thể ngoại suy tổng thặng dư tiêu dùng của
địa điểm giải trí.
Do có thêm các thông tin về đặc điểm xã hội của du khách, địa điểm thay thế,
chất lượng môi trường tại địa điểm giải trí nên có thể đưa thêm các biến số này vào
mô hình. Việc có thêm thông tin về chất lượng của địa điểm giải trí có thể giúp đánh
giá sự thay đổi giá trị khi chất lượng của địa điểm giải trí thay đổi. Cụ thể, có thể xây
dựng hai đường cầu ứng với từng mức độ chất lượng môi trường, khi đó khoảng cách
17

giữa hai đường cầu sẽ đo lường sự thay đổi trong thặng dư tiêu dùng khi chất lượng
môi trường thay đổi.
Hình 1.3: Đường cầu du lịch trong trường hợp chất lượng môi trường thay đổi
Theo mô hình trên, đường cầu du lịch trước khi có sự thay đổi chất lượng môi
trường là V
1
, sau khi chất lượng môi trường thay đổi là V
2
. Phần tổn thất lợi ích do
thay đổi chất lượng môi trường được đo lường bằng diện tích ABCD cũng là phần
giảm thặng dư tiêu dùng.
1.2.3.3 Phương pháp TCM tiếp cận dựa trên độ thoả dụng ngẫu nhiên (Random
Utility Approach).
Cách tiếp cận dựa trên độ thoả dụng là phức tạp nhất, tốn kém chi phí nhất
trong các phương pháp chi phí du lịch. Đây là cách tiếp cận tiên tiến vì nó tạo ra sự
linh hoạt trong tính toán lợi ích. Cách tiếp cận này cũng cho phép đánh giá lợi ích khi
có sự thay đổi chất lượng của địa điểm giải trí hoặc so sánh các điểm giải trí trong
trường hợp có nhiều địa điểm cần so sánh.
Cách tiếp cận dựa trên độ thoả dụng ngẫu nhiên giả định các cá nhân sẽ lựa
chọn địa điểm giải trí mà họ ưa thích. Các cá nhân sẽ đưa ra quyết định địa điểm giải
trí dựa trên chất lượng và giá cả của từng điểm. Người nghiên cứu sẽ đưa ra thông tin
về địa điểm giải trí mà các cá nhân có thể lựa chọn, chất lượng của từng địa điểm và
chi phí của từng địa điểm.
A
D
BC
Chi phí
Số lượt tham quan
V
1

V
2
18
Chẳng hạn, nếu đánh giá giá trị của một địa điểm câu cá giải trí thì người
nghiên cứu có thể gọi điện thoại phỏng vấn trực tiếp ngẫu nhiên một số người dân địa
phương xem họ có đi câu cá giải trí hay không. Nếu trả lời “có”, tiếp tục phỏng vấn
họ về số lần đi trong năm vừa qua, địa điểm họ tới, khoảng cách từ nơi ở đến các địa
điểm và các thông tin liên quan đến chi phí họ đã bỏ ra cho chuyến đi. Có thể phỏng
vấn họ về số lượng cá đánh bắt được mỗi lần, các loài cá đặc biệt ở mỗi lần đánh
bắt...
Sử dụng những thông tin này, chúng ta có thể xây dựng mô hình xác định mối
quan hệ giữa sự lựa chọn câu cá hay không với những nhân tố ảnh hưởng (biến ngoại
sinh) được lựa chọn trong mô hình. Nếu có biến độc lập là chất lượng địa điểm thì
mô hình có thể dễ dàng xác định giá trị của việc thay đổi chất lượng địa điểm giải trí.
Ví dụ, nếu một cá nhân nào đó sẵn sàng di chuyển xa hơn để tới một nơi có số lượng
cá nhiều hơn hoặc chất lượng tốt hơn thì giá trị của chất lượng bổ sung được đo
lường bởi chi phí di chuyển bổ sung.
1.2.4. Tổng quan các nghiên cứu sử dụng phương pháp chi phí du lịch để
đánh giá giá trị cảnh quan
Phương pháp chi phí du lịch được áp dụng đầu tiên vào năm 1974 khi Tổ chức
các Vườn Quốc gia Mỹ có ý xác định giá trị của các VQG để bảo tồn. Harold
Hotelling là người đầu tiên đưa ra phương pháp này.
Ý tưởng của Hotelling là các cá nhân đến tham quan một VQG đều phải bỏ ra
một khoản chi phí, đặc biệt là chi phí du lịch. Vì mỗi người đến từ một địa điểm khác
nhau nên chi phí du lịch của họ cũng khác nhau. Điều này có thể kết hợp với số lượt
tham quan để xây dựng đường cầu giải trí cho địa điểm đó.
Hotelling cũng gợi ý tập hợp các chuyến đi của du khách từ địa điểm khác
nhau theo vùng lấy tâm là VQG. Từ đó, chi phí du lịch của các cá nhân đến từ bất kỳ
địa điểm nào trong một vùng có thể coi bằng nhau. Với mỗi vùng cần xác định số
lượt tham quan của du khách, chi phí bỏ ra cho chuyến đi và dân số của mỗi vùng để

xây dựng đường cầu du lịch trong đó “giá” là chi phí cho chuyến đi và “lượng” là số
lượt tham quan.
19
Do khả năng ứng dụng rộng rãi của phương pháp chi phí du lịch mà sau này
đã có rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước áp dụng phương pháp này.
So sánh các phương án xây dựng đường ở vùng rừng Grampian là ứng dụng
đầu tiên của phương pháp TCM ở Australia. Sau đó Ulph và Reynolds (1978) suy ra
giá trị 100$ thặng dư tiêu dùng trung bình trong một ngày ở công viên quốc gia
Warrumbungle - New South Wales. Nghiên cứu cũng sử dụng chi phí du hành này để
so sánh các lợi ích giải trí và các chi phí của công viên.
Bennett và Thomas (1982) khảo sát việc đưa chi phí thời gian như một thành
phần của chi phí du lịch cho việc giải trí ở vùng sông Muray ở Tây Australia. Hunloe
(1990) ước lượng thặng dư của người tiêu dùng cho du khách đến thăm vùng dãy san
hô lớn của Australia (Great Barrier Reef) bằng 118 triệu đô la hàng năm. Giá trị này
sau đó đã được so sánh với các phương án sử dụng khác.
Phương pháp chi phí du lịch cũng cho phép tính toán những giá trị có ích để so
sánh các địa điểm khác nhau. Chẳng hạn nghiên cứu của Sinden (1990) đã đánh giá
và so sánh lợi ích của việc giải trí tại 25 địa điểm dọc sông Ovens và King ở Đông
bắc Victoria. Uỷ ban đánh giá tài nguyên (1992) cũng sử dụng phương pháp này để
đánh giá giá trị tham quan giải trí ở vùng rừng Đông Nam (Úc), từ đó so sánh lợi ích
của việc bảo tồn với lợi ích thu được từ việc đốn gỗ.
Một nghiên cứu sự thay đổi của chất lượng nước dẫn đến sự thay đổi hàm cầu
du lịch được thực hiện bởi Choe và cộng sự năm 1996 tại Vịnh Davao (Philippin).
Bằng việc xây dựng hàm cầu giải trí trước và sau khi có sự thay đổi chất lượng nước,
Choe đã chỉ ra rằng tổn thất phúc lợi là 10.800.000 pesos (tương đương
432.000USD) và tổn thất trung bình của mỗi hộ gia đình hàng tháng do ô nhiễm nước
là 10 peso (tương đương 0,4USD).
Một nghiên cứu được thực hiện sớm tại Việt Nam là nghiên cứu của Nguyễn
Thị Hải và Trần Đức Thành tại VQG Cúc Phương năm 1996. Nghiên cứu sử dụng
phương pháp chi phí du lịch theo vùng để xây dựng hàm cầu du lịch và tính được

tổng lợi ích du lịch là 1.502.186 ngàn đồng, tổng thặng dư tiêu dùng của du khách
20

×