Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

bai thảo luận môn quan tri rui ro đại học Thương Mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.68 KB, 24 trang )

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Khái niệm rủi ro và rủi ro kinh tế
1.1 Rủi ro là gì ?
- Theo từ điển Tiếng Việt: Rủi ro là điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến
- Theo từ điển Oxford: Rủi ro là khả năng gặp nguy hiểm hoặc bị đớn đau thiệt
hại
- Theo George Rejda: Rủi ro là sự không chắc chắn , gây ra những mất mát thiệt
hại .
- Điều là 1 khả năng , 1 sự kiện, 1 biến cố xảy ra đối với cá nhân hay tổ chức,
DN
- Bất ngờ : là không lường trước được không dự đoán được hoặc tính bất định, là
sự nghi ngờ về khả năng của chúng ta trong tương lai của một hoạt động trong
hiện tại. Sự bất định phản ánh khả năng luôn luôn thay đổi không dự đoán được
về kết quả trong tương lai.
=> Như vậy rủi ro là khả năng một sự vật có thể xảy ra và sẽ có ảnh hưởng tới việc
đạt được mục tiêu. Rủi ro là sự bất lợi bất ngờ xảy đến gây tổn thất lớn cho con người
*Quan điểm khác : Là sự kết hợp giữa các điểm dễ tổn thương của hệ thống và các
các nguồn phát sinh nguy cơ đến từ bên trong hoặc bên ngoài của tổ chức .Trong đó
hệ thống ở đây có thể là kế hoạch phát triển dự án, 1 thiết kế hệ thống, 1 kế hoạch
công việc …
Nguy cơ đối với hệ thống là khả năng tiềm tàng của các sự kiện bên trong hoặc
bên ngoài hệ thống có thể gây ra các thay đổi bất lợi cho hệ thống, nguy cơ có thể thay
đổi nhân sự, do thiếu hụt thời gian, do thâm hụt ngân sách …
Điểm dễ tổn thương là điểm tại đó nguy cơ có thể xâm nhập vào hệ thống và
kết hợp giữa nguy cơ với điểm dễ tổn thương sẽ tạo ra rủi ro.
Điểm dễ tổn thương có thể là nhân sự có năng lực không đáp ứng được nhu cầu công
việc, cấu trúc nhóm dự án không hợp lý
1.2 Rủi ro kinh tế
Có 2 trường phái rủi ro + Trường phái truyền thống
+ Trường phái cổ điển
+ Trường phía truyền thống : Rủi ro là sự không may, sự tổn thất mất mát,


nguy hiểm. Nó được em là điều không lành không tốt bất ngờ xảy đến. Đó là sự tổn
that về tài sản hay sự giảm sút về lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến .
+ Trường phái hiện đại
1
Rủi ro là sự bất chắc có thể đo lường được vừa mang lại tích cực vừa mang lại
tiêu cực. Rủi ro có thể mang lại những tổn thất mất mát cho con người nhưng có thể
mang lại những lợi ích những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro người ta có thể
tìm ra những biện pháp phòng ngừa hạn chế những rủi ro.
- Rủi ro trong kinh doanh:
Rủi ro trong kinh doanh là những vận động khách quan bên ngoài chủ thể kinh
doanh, gây khó khăn, trở ngại cho chủ thể trong quá trình thực hiện mục tiêu, tàn phá
các thành quả đang có, bắt buộc các chủ thể phải chi phí nhều hơn về nhân lực vật lực,
thời gian trong quá trình làm việc của mình .
1.3 Các nguyên tắc quản trị và nhận dạng rủi ro :
*Quản trị rủi ro
Nguyên tắc 1 : Quản trị rủi ro phải hướng vào mục tiêu .
Nguyên tắc 2 : Quản trị rủi ro gắn liền với trách nhiệm của nhà quản trị .
Nguyên tắc 3 : Quản trị rủi ro gắn liền với các hoạt động của tổ chức .
*Nhận dạng rủi ro :
Nhận dạng rủi ro là quá trình xác định một cách liên tục và có hệ thống các rủi ro có
thể sảy ra trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .
- Nhận dạng rủi ro nhằm tìm kiếm các thông tin về :
+ Tên và các loại rủi ro .
+ Các mối hiểm họa
+ Các mối nguy hiểm.
- Trong đó :
+ Mối hiểm họa gồm các điều kiện tạo ra hoặc làm tăng mức độ tổn thất của rủi ro.
+ Mối nguy là nguyên nhân của tổn thất.
Ví dụ: Một ngôi nhà bị cháy thì hỏa hoạn là hiểm họa gây ra thiệt hại với ngôi nhà.
Trong khi đó mối nguy được xem là khả năng làm tăng khả năng xảy ra mất mát. Nếu

như hỏa hoạn được xem là hiểm họa thì dầu lửa (hay xăng) trong khu vực hỏa hoạn
được xem là mối nguy.
*Các quyết định quản trị:
2
- Theo cách thức ra quyết định của nhà quản trị:
+ Quyết định trực giác: Là những quyết định được hình thành xuất phát từ cảm nhận
trực giác của người đưa ra quyết định.
+ Quyết định dựa trên cơ sơ lý giải vấn đề: Là những quyết định dựa vào sự hiểu biết
về vấn đề cũng như kinh nghiệm giải quyết.
-Theo số cách phân loại khác:
+ Theo chức năng quản trị (hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm soát).
+ Theo tầm quan trọng (chiến lược, tác nghiệp).
+ Theo thời gian (dài hạn, trung hạn, ngắn hạn).
*Cơ sơ nhận dạng rủi ro:
- Dựa trên số liệu thống kê.
- Dựa trên thông tin thu thập được từ môi trường.
- Dựa trên phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Dựa trên kinh nghiệm, trực giác của nhà quản trị.
* Nhận dạng rủi ro cần tập trung vào 2 vấn đề chính:
- Vấn đề 1: Nguồn rủi ro (phát sinh mối hiểm họa và mối nguy hiểm) thường được
tiếp cận từ các yếu tố môi trường hoạt động của doanh nghiệp. Bao gồm:
+ Môi trường chung: Môi trường chính trị luật pháp, môi trường kinh tế, môi trường
khoa học – kỹ thuật, công nghệ, môi trường VH – XH, môi trường tự nhiên.
+ Môi trường đặc thù: Khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh, các cơ quan hữu
quan.
+ Môi trường bên trong: Nhận thức của con người nói chung và của nhà quản trị nói
riêng.
-Vấn đề 2: Nhóm đối tượng rủi ro
Nhóm đối tượng rủi ro có thể là tài sản, nguồn lực.
+ Nguy cơ rủi ro về tài sản: Là khả năng được hay mất đối với tài sản hữu hình hay

đối với tài sản vô hình.
+ Nguy cơ rủi ro về trách nhiệm pháp lý: Là nguy cơ có thể xảy ra các tổn thất về
trách nhiệm đó được quy định.
3
+ Nguy cơ rủi ro về nguồn lực: Là nguy cơ rủi ro có thể xảy liên quan đến tài sản con
người của tổ chức (rủi ro xảy ra liên quan tới nguồn nhân lực) .
*Các phương pháp nhận dạng rủi ro:
- Phương pháp chung: Xây dựng bảng liệt kê.
Xây dựng bảng liệt kê thực chất là việc đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi đặt ra trong
các tình huống nhất định, để từ đó nhà quản trị có những thông tin nhận dạng và xử lý
các đối tượng rủi ro.
Thực chất của phương pháp này là sử dụng bảng liệt kê, là phương pháp phân tích
SWOT.
-Phương pháp nhận dạng cụ thể:
+ Phương pháp phân tích báo cáo tài chính:
Bằng cách phân tích bảng báo cáo hoạt động kinh doanh, bản dư báo về tài chính và
bản dự đoán về ngân sách. Kết hợp với các tìa liệu bổ trợ khác, NQT có thể xác định
được các nguy cơ rủi ro về tài sản, về trách nhiệm pháp lý, về nguồn nhân lực …
+ Phương pháp lưu đồ:
Trên cơ sở xây dựng 1 hay 1 dãy các lưu đồ diễn ra trong những điều kiện cụ thể và
trong từng hoàn cảnh cụ thể, nhà quản trị có điều kiện phân tích những nguyên nhân,
liệt kê các tổn thất tiềm năng về tài sản, về trách nhiệm pháp lý và về nguồn nhân lực.
+ Phương pháp điều tra hiện trường:
Bắng cách quan sát trực tiếp các hoạt động diễn ra ở mỗi đơn vị, mỗi bộ phận, mỗi cá
nhân trong doanh nghiệp, nhà quản trị tìm hiêu được các mối hiểm họa, nguyên nhân
và các đối tượng rủi ro .
+ Phương pháp làm việc với các bộ phận khác của doanh nghiệp:
NQT có thể nhận dạng các rủi ro thông qua việc trao đổi với các cá nhân và các bộ
phận khác trong doanh nghiệp, hoặc thông qua hệ thống tổ chức không chính thức.
Với phương pháp này thông tin có thể thu thập được bằng văn bản hay bằng miệng .

+ Phương pháp làm việc với bộ phận khác bên ngoài:
Thông qua tiếp xúc, trao đổi, bàn luận với các cá nhân và tổ chức bên ngoài doanh
nghiệp, nahf quản trị có thể có điều kiện bổ sung các rủi ro, đồng thời có thể phát hiện
các nguy cơ từ những đối tượng này.
+ Phương pháp phân tích hợp đồng:
4
Nhà quản trị nghiên cứu từng điều khoản trong các hợp đồng và phát hiện ra các sai
sót, những nguy cơ rủi ro xuất hiện trong quá trình thực hiện hợp đồng đồng thời
cũng có thể biết được rủi ro tăng lên hay giảm đi thông qua việc thực hiện các hợp
đồng này.
*Phân tích rủi ro: Là quá trình nghiên cứu những hiểm họa, xác định nguyên
nhân gây ra rủi ro và các tổn thất.
- Nội dung của phân tích rủi ro:
+ Phân tích hiểm họa
+ Phân tích nguyên nhân rủi ro: Có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khác
quan.
+ Phân tích tổn thất, hậu quả.
*Các phương pháp phân tích rủi ro:
- Phương pháp thống kê kinh nghiệm.
- Phương pháp xác suất thống kê.
- Phương pháp phân tích cảm quan.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp xếp hạng các nhân tố tác động.
*Đánh giá và đo lường rủi ro:
Thực chất của quá trình đánh giá và đo lường rủi ro là tính toán, xác định tần suất rủi
ro và biên độ của rủi ro, từ đó phân nhóm rủi ro.
Hay nói cách khác nhà quản trị xây dựng ma trận về tần suất và biên độ rủi ro.
- Các yêu cầu khi đo lường đánh giá rủi ro:
+ Có độ tin cậy cao.
+ Hữu ích.

+ Đảm bảo tính hệ thống.
+ Tiết kiệm.
- Các chỉ tiêu đo lường rủi ro:
+ Mức độ nguy hiểm của rủi ro, tổn thất.
5
+ Tần suất của rủi ro, tổn thất.
+ Chi phí của rủi ro, tổn thất.
*Kiểm soát rủi ro:
Kiểm soát rủi ro là việc sử dụng các biện pháp để né tránh, ngăn ngừa, giảm thiểu
những tổn thất có thể đến với một tổ chức khi rủi ro xảy ra.
Thực chất của kiểm soát rủi ro là phòng chống, hạn chế rủi ro, hạn chế tổn thất xảy ra
trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
*Tầm quan trọng của kiểm soát rủi ro:
- Hạn chế những tổn thất xảy ra đối với con người.
- Tăng độ an toàn trong kinh doanh.
- Giảm chi phí hoạt động kinh doanh chung.
- Tăng uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
- Tìm kiếm được những cơ hội và biến những cơ hội kinh doanh thành hiện thực
*Tài trợ rủi ro:
Tài trợ rủi ro là hoạt động cung cấp những phương tiện để đền bù những tổn thất xảy
ra hoặc tạo lập các quỹ cho các chương trình khác nhau để giảm bớt tổn thất.
- Các biện pháp tài trọ rủi ro như :
+ Tự khăc phục rủi ro: Là biện pháp cá nhân hay tổ chức bị rủi ro tự thanh toán các
chi phí tổn thất.
Nội dung tự khắc phục rủi ro: Xác định mục tiêu tự khắc phục, thực hiện các hoạt
động tự bảo hiểm, chi trả cho các tổn thất.
+ Chuyển giao rủi ro: Là công cụ kiểm soát rủi ro, tạo ra nhiều thực tế khác nhau
thay vì một thực tế phải gánh chịu rủi ro.
Chuyển giao rủi ro bằng cách: Chuyển giao tài sản và hoạt động có rủi ro đến một
hay một nhóm người khác, chuyển giao bằng hợp đồng giao ước.

1.4 Sắp xếp phân nhóm rủi ro:
- Rủi ro kinh tế:
6
Suy thoái kinh tế, khủng hoảng kinh tế, thâm hụt ngân sách, mất khả năng thanh toán
nợ nước ngoài, lạm phát cao, không kiểm soát được giá cả, những biến động của tỷ
giá hối đoái…
- Rủi ro chính trị:
Các quan điểm về đầu tư nước ngoài, xuất nhập khẩu, quyền sở hữu không chắc chắn,
quốc hữu hóa và sung công, thất thoát vốn ra nước ngoài, chính sách của nhà nước về
hạn ngạch, thuế quan, chính sách về lao động, kiểm soát ngoại hối và tiền tệ, chính
sách về lãi suất…quy định về môi trường.
- Rủi ro pháp lý:
Sự thay đổi hay khác biệt về pháp luật liên quan đến kinh doanh, thiếu kiến thức về
pháp lý, thiếu tính chặt chẽ trong các hợp đồng kinh tế, vi phạm luật quốc gia, các
tranh chấp, kiện tụng trong kinh doanh …
- Rủi ro cạnh trạnh:
Thiếu thông tin về sản phẩm và công nghệ của đối thủ cạnh tranh, sự cạnh tranh của
hàng giả, hàng nhái, doanh nghiệp chủ quan không chịu thay đổi, nâng cao năng lực
cạnh tranh, sự cạnh tranh không lành mạnh, không công bằng, xuất hiện các sáng chế ,
thương hiệu, mẫu mã bảo vệ, xuất hiện một số sản phẩm mới có tính cạnh tranh trên
thị trường …
- Rủi ro thông tin:
thiếu thông tin về các đối tác, thiếu thông tin về sự thay đổigiá cả trên thị trường, thiếu
thông tin về thay đổi công nghệ, thiếu thông tin về khách hàng, thị trường muc tiêu,
thông tin sai lệch, thông tin giả .
- Rủi ro Văn hóa – Xã hội:
Không am hiểu phong tục tập quán, không am hiểu về lối sống, ngôn ngữ, các giá trị,
chuẩn mực ứng xử…
CHƯƠNG II: CÁC RỦI RO DO TÁC ĐỘNG CỦA YẾU TỐ MÔI TRƯƠNG
KINH TẾ

2.1 Suy thoái kinh tế, khủng hoảng kinh tế
7
+ Rủi ro về suy thoái kinh tế
Tổng tài sản/tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2006 - 2009,
tình hình tài sản/nguồn vốn của doanh nghiệp có những biến động rõ rệt. Tốc độ tăng
trưởng bình quân mỗi năm đạt 7,36%. Tuy nhiên, con số này lại không đều qua các
năm. Năm 2007 có tốc độ tăng trưởng cao nhất với gần 11%, năm 2009 là thấp nhất
với xấp xỉ 4%. Tốc độ tăng trưởng của năm 2008 tương đương với tốc độ tăng trưởng
bình quân của cả giai đoạn.
Trong khi đó, các nghiên cứu khác về tác động của suy thoái kinh tế đều chỉ ra
rằng tài sản của doanh nghiệp có xu hướng giảm hay chí ít là tốc độ tăng trưởng cũng
giảm so với thời kỳ nền kinh tế không bị suy thoái. Tuy nhiên, nguyên nhân của sự
tăng trưởng tài sản của các doanh nghiệp nghiên cứu chủ yếu là có nguồn gốc từ vốn
vay của doanh nghiệp. Trong đó, khoảng trên 73% sự tăng trưởng tài sản năm 2008 là
do đóng góp từ các khoản nợ phải trả. Kết quả nghiên cứu cho thấy có khoảng 1/3 số
doanh nghiệp được điều tra gặp những khó khăn về vốn trong thời kỳ suy thoái kinh
tế. Sự khó khăn này là do tồn kho và các khoản phải thu của doanh nghiệp tăng lên
đáng kể so với thời kỳ không suy thoái.
Trong thời kỳ suy thoái, thời gian trung bình để thu toàn bộ tiền hàng từ khách
hàng và nhà phân phối cũng như các khoản hoàn ứng của nhân viên là dài hơn. Một số
khoản phải thu của khách hàng kéo dài hàng năm do khách hàng không có khả năng
chi trả. Nguồn vốn vay của doanh nghiệp chủ yếu là từ tín dụng ngân hàng (60-85%).
Bên cạnh đó doanh nghiệp còn vay từ bạn bè, người thân và các loại quỹ khác. Đặc
biệt trong số này có nhiều doanh nghiệp cũng đã tiếp cận được với nguồn vốn vay với
lãi suất ưu đãi của chính phủ trong thời kỳ suy thoái nhằm kích thích cầu của công
chúng. Như vậy, có thể thấy rằng, trong thời kỳ này, doanh nghiệp có xu hướng giữ
nguyên hiện trạng để chờ tín hiệu tích cực từ nên kinh tế hơn là mạo hiểm vay vốn để
giải quyết ngay lập tức.
+ Tình hình lao động
8

Kết quả khảo sát các doanh nghiệp đã chỉ ra rằng, tổng số lượng lao động bình
quân mỗi doanh nghiệp có xu hướng tăng lên qua các năm, tốc độ tăng trưởng bình
quân qua các năm là hơn 16%. Năm 2008 có tốc độ tăng trưởng chậm nhất, đạt dưới
10%. Một trong những nguyên nhân có thể được giải thích bởi sự tác động của suy
thoái kinh tế mạnh nhất vào năm 2008, nền kinh tế bị giảm sút. Thông qua kết quả
phỏng vấn sâu trực tiếp cán bộ quản lý doanh nghiệp, do quá trình sản xuất kinh
doanh của họ bị đình trệ, nhiều công xưởng phải hoạt động cầm chừng mang tích chất
duy trì hơn là phát triển nên số lượng lao động tăng chậm, thậm chí còn giảm. Đặc
biệt nhiều nơi phải đóng cửa tạm thời và một số là vĩnh viễn hay chuyển đổi sang hình
thức khác. Vì vậy, số lao động được tuyển mới ít hơn và thậm chí có nhiều doanh
nghiệp không có thêm nhân viên mới
+ Nguyên vật liệu
Suy thoái kinh tế có tác động trực tiếp và tức thì tới giá cả nguyên vật liệu đầu
vào trong nước, đặc biệt những doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu còn “nhập
khẩu” những tác động của suy thoái kinh tế trên thế giới. Trong giai đoạn 2006 - 2009
giá cả nguyên vật liệu tăng liên tục theo chỉ số giá. Kết quả điều tra cho thấy trong
thời kỳ 2008 - 2009, có tới 86% doanh nhiệp phải mua nguyên vật liệu với giá tăng
cao hơn so với tốc độ bình thường của những năm trước đóVới sức ép từ sự tăng giá
cả nguyên vật liệu, các doanh nghiệp đã áp dụng nhiều nhóm biện pháp khắc phục hạn
chế những khó khăn về nguyên vật liệu, trong đó, tỷ lệ doanh nghiệp lựa chọn nhóm
giải pháp thỏa thuận lại với nhà cung cấp là chủ yếu với 63,64% doanh nghiệp. Đây là
giải pháp chính yếu và quan trọng nhất của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thỏa thuận
lại với nhà cung cấp chủ yếu là về vấn đề giá cả và thời gian cũng như phương thức
thanh toán. Trong thời kỳ kinh tế khó khăn, sự thông cảm, cộng tác của nhà cung cấp
là vô cùng quan trọng. Mức độ tăng giá, thời gian thanh toán cũng như phương thức
thanh toán được đàm phán sao cho mang lại lợi ích cho cả hai bên. Nếu sự đàm phán,
thỏa thuận với nhà cung cấp hiện tại của doanh nghiệp không đem lại kết quả thì
doanh nghiệp thường tìm tới các biện pháp tiếp theo như tìm nhà cung cấp mới hay
tìm kiếm nguyên vật liệu thay thế. Kết quả điều tra cho thấy, số doanh nghiệp lựa
chọn biện pháp tìm nhà cung cấp mới là 25,0%, và số doanh nghiệp tìm nguyên vật

9
liệu thay thế là 11,36%. Đặc biệt, không có doanh nghiệp nào lựa chọn cho mình cách
bán nguyên vật liệu tồn trữ để ứng phó với những khó khăn về nguyên vật liệu. Kết
quả điều tra cũng chỉ ra rằng, trong thời kỳ suy thoái, doanh nghiệp chỉ có tăng lượng
nguyên vật liệu dự trữ lên (14,04% doanh nghiệp) và giữ nguyên tỷ lệ dự trữ nguyên
vật liệu (85,96% doanh nghiệp).
+ Tác động tới quá trình sản xuất kinh doanh
Suy thoái kinh tế tác động không chỉ tới thị trường đầu vào, nguồn lực của
doanh nghiệp mà nó còn kéo theo sự bất ổn trong sản xuất. Sự mất ổn định của thị
trường đầu vào, quá trình sản xuất và quá trình tiêu thụ sản phẩm có tác động qua lại
lẫn nhau. Theo kết quả điều tra, có gần 60% doanh nghiệp cho rằng suy thoái kinh tế
2008 - 2009 đã dẫn tới sự mất ổn định trong quá trình sản xuất kinh doanh của họ.
+ Tác động tới quá trình tiêu thụ sản phẩm
Trong thời kỳ suy thoái, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nhưng theo kết quả
điều tra, có tới gần 58% doanh nghiệp cho rằng khó khăn quan trọng nhất đó là sức
mua của thị trường giảm sút một cách nghiêm trọng. Điều này đã làm giảm lượng cầu
gây khó khăn cho vấn đề giải quyết đầu ra của doanh nghiệp. Đây có thể còn là tác
động lớn nhất của suy thoái kinh tế tới tiêu thụ sản phẩm. Các khó khăn khác mang
tính chất nội tại trong doanh nghiệp chỉ chiếm tổng số khoảng hơn 42%. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp cũng chịu áp lực không nhỏ về giá bán Áp lực này đến từ cả hai phía đó
là tăng giá bán đối với doanh nghiệp và giảm giá bán đối với khách hàng. Đối với
doanh nghiệp, vì giá đầu vào tăng lên gần 20%, đểđảm bảo lợi nhuận cho các nhà đầu
tư và cho cả quá trình tái sản xuất mở rộng, doanh nghiệp phải chịu áp lực không nhỏ
là phải tăng giá bán. Đối với khách hàng, trong thời kỳ kinh tế khó khăn, với nguồn
ngân quỹ tăng lên với tốc độ giảm hoặc thấp hơn so với thời kỳ trước.
Vì vậy, để có thể bán được hàng hóa, doanh nghiệp phải giảm giá, đây là một
áp lực rất lớn. Để giải quyết áp lực về giá bán trong thời kỳ suy thoái kinh tế, chiến
lược ổn định giá bán được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Điều này được thể hiện
thông qua những chính sách hạn chế điều chỉnh giá bán, cố gắng duy trì ở mức trước
thời kỳ suy thoái. Giá bán được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng ngân quỹ chi tiêu của

10
khách hàng chứ không phải là lợi nhuận mục tiêu hay tốc độ tăng của giá cả nguyên
vật liệu đầu vào. Nếu như phần lớn giá nguyên vật liệu tăng ở mức từ 10% - 20% thì
mức độ tăng giá bán hàng hóa của doanh nghiệp chỉ dưới 10%, chỉ có một số ít doanh
nghiệp tăng giá ở mức 10% - 20% và trên 20%. Để đảm bảo một tỷ suất lợi nhuận hợp
lý đối với nhà đầu tư cũng như cho quá trình tái sản xuất, doanh nghiệp đã lựa chọn
những sách lược nhằm giảm chi phí sản xuất thông qua việc bố trí hợp lý quá trình sản
xuất, điều chỉnh lại cơ cấu sản phẩm hợp lý, lập kế hoạch sản xuất linh hoạt và điều
chỉnh lại lợi nhuận mục tiêu hợp lý hơn.
2.2 Rui ro do Lạm phát cao, không kiểm soát được giá cả
+ Lạm phát được hiểu như thế nào?
Lạm phát nói chung có thể được hiểu là việc giá cả các hàng hóa tăng lên so
với mức giá thời điểm trước (vật giá leo thang). Cần phải hiểu việc tăng giá ở đây là
gia tăng chung của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ, chứ không phải tăng giá một
hàng hóa cá biệt. Khi giá trị của hàng hóa và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức mua
của đồng tiền giảm đi. Khi đó, với cùng một lượng tiền nhưng người tiêu thụ mua
được ít hàng hóa hơn so với trước đó.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua
của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá đồng
tiền nội tệ so với các loại tiền tệ khác.
Lạm phát cũng có thể là do khối lượng tiền lưu hành trong xã hội tăng lên khi
Chính phủ không quản lý được khối lượng tiền lưu hành, hoặc là do Chính phủ phát
hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Trong khi đó, số lượng hàng hóa xã hội
sản xuất ra vẫn không tăng, dẫn đến thừa tiền. Khi thừa tiền sẽ kích thích người tiêu
dùng tăng sức mua (tăng cầu) khiến giá cả tăng vọt, có khi đưa đến siêu lạm phát.
Lạm phát cũng có thể do tác động của yếu tố bên ngoài, do dòng tiền nước
ngoài đổ vào trong nước nhiều dẫn đến thừa tiền, hoặc do giá của một số mặt hàng
thiết yếu nào đó trên thế giới tăng, chẳng hạn như giá dầu thô tăng, dẫn đến các nước
có nhập khẩu dầu sẽ tăng giá điện, cước phí vận chuyển hàng hóa cũng tăng. Điện và
11

cước phí vận chuyển là những chi phí đầu vào chủ yếu của tất cả các ngành hàng sản
xuất.
Lạm phát có thể do nhiều nguyên nhân tác động khác nhau, kể cả chính sách
tăng lương của Chính phủ cũng có thể góp phần tác động đến lạm phát, vì khi tăng
lương, người lao động thu nhập được nhiều tiền hơn và mạnh tay chi tiêu, mua sắm,
cầu vượt cung. Ngay cả trong trường hợp các nhà sản xuất, phân phối và bán lẻ đua
nhau khuyến mãi, kích cầu làm cho thị trường tăng sức mua, tạo ra đòn bẫy cầu tăng
vượt cung, dẫn đến thị trường tự điều tiết tăng giá góp phần gây ra lạm phát, nhất là
thời điểm giáp tết.
Tóm lại, lạm phát xảy ra khi xuất hiện sự gia tăng mặt bằng chung về giá cả
hàng hóa. Trong mỗi giai đoạn có thể có giá mặt hàng này tăng, mặt hàng kia giảm,
nhưng nếu mức giá chung tăng, ta có lạm phát. Nếu mức giá chung giảm, ta có giảm
phát. Nếu chỉ có một vài mặt hàng chẳng hạn như giá đường, hay giá gạo tăng một
cách đơn lẻ thì không có nghĩa là lạm phát, mà đơn giản chỉ là một sự mất cân đối tạm
thời giữa cung và cầu trong ngắn hạn. Khi lạm phát xảy ra, giá trị của đồng tiền bị sụt
giảm.
+ Tác động của lạm phát
Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau
đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát
được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó.
• Đối với lĩnh vực sản xuất
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động
không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng
tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất
ở một vài danh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một
doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất
lớn.
• Đối với lĩnh vực lưu thông
12
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà

doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm
phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro
cao. Do có nhiều người tham giâ vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn
loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy
vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm
phát gia tăng.
• Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàn bị thu hẹp. Số người
gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền
gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc
sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm
những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ
là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy,
hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh
tiền bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát
thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
• Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát
xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị
trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và
kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ
sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm các ngành, các
lĩnh vực dự định đựơc chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì.
Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời
sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.
Ví dụ: Tác động của lạm phát tới hoạt động của công ty Công ty Xi măng Nghi
Sơn (NSCC)
13
Công ty Xi măng Nghi Sơn (NSCC) là Công ty liên doanh giữa Tổng Công ty
Xi măng Việt Nam (Vicem) với hai tập đoàn đa quốc gia của Nhật Bản là Taiheiyo Xi

măng (TCC) và Mitsubishi Vật liệu (MMC).
Vào thời điểm từ 20/12/2011 trở đi, giá điện bình quân được Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) điều chỉnh tăng 5% so với giá bán hiện hành. Các nhà cung ứng dựa vào
điện tăng giá để nâng giá nguyên vật liệu đầu vào nên khiến công ty khó kiểm soát
nổi. Giá điện tăng tác động dây chuyền khiến cho giá cả nhiều mặt hàng tăng.giá điện
tăng 5% , làm cho chi phí sản xuất xi măng tăng từ 1,5%- 2%. Bên cạnh đó, lãi suất
vay ngân hàng năm nay cũng tăng cao trong khi thị trường bất động sản đang trầm
lắng, đã làm cho hoạt động kinh doanh của công ty gặp khó khăn, tiêu thụ giảm.
• Những biến động bất lợi của ngoại tệ, tỉ giá ngoại hối
• Biến động của tỷ giá hối đoái
Một tỷ giá hối đoái dựa trên thị trường sẽ thay đổi bất cứ khi nào các giá trị của
một trong hai tiền tệ thành phần thay đổi. Một đồng tiền sẽ có xu hướng trở nên có giá
trị hơn bất cứ khi nào nhu cầu cho nó lớn hơn cung cấp có sẵn. Nó sẽ trở nên ít có giá
trị bất cứ khi nào nhu cầu thấp hơn cung cấp có sẵn (điều này không có nghĩa là người
ta không còn muốn tiền, nó chỉ có nghĩa là họ muốn nắm giữ của cải của họ trong một
số hình thức khác, có thể là một đồng tiền khác).
Tăng nhu cầu về một loại tiền tệ có thể là do một trong hai giao dịch cầu tiền tăng
hoặc một nhu cầu đầu cơ tăng đối với tiền. Nhu cầu giao dịch liên quan chặt chẽ đến
mức độ hoạt động kinh doanh của một quốc gia, (GDP) tổng sản phẩm quốc nội, và
mức độ việc làm. Càng nhiều người thất nghiệp, ít công chúng như một toàn thể sẽ chi
tiêu vào hàng hóa và dịch vụ. Các ngân hàng trung ương thường có chút ít khó khăn
điều chỉnh cung tiền có sẵn để cung cấp cho những thay đổi trong nhu cầu sử dụng
tiền do các nghiệp vụ kinh doanh.
Nhu cầu đầu cơ là khó khăn hơn nhiều đối với các ngân hàng trung ương để thích
ứng, do chúng bị ảnh hưởng bởi sự điều chỉnh lãi suất. Một nhà đầu cơ có thể mua
một đồng tiền nếu trả lại (có nghĩa là lãi suất) là đủ cao.
14
Nói chung, nếu lãi suất của một quốc gia càng cao, nhu cầu đối với đồng tiền đó
sẽ càng lớn. Có lập luận cho rằng đầu cơ như vậy có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế
thực sự, đặc biệt là do các nhà đầu cơ tiền tệ lớn cố tình có thể tạo ra áp lực giảm một

đồng tiền bằng cách bán ngắn để buộc ngân hàng trung ương đó mua tiền tệ của mình
để giữ cho nó ổn định. (Khi điều đó xảy ra, nhà đầu cơ này có thể mua đồng tiền trở
lại sau khi nó mất giá, đóng vị trí của họ, và do đó có lợi nhuận.)
Đối với các công ty vận tải vận chuyển hàng hóa từ một quốc gia này tới một quốc
gia khác, tỷ giá hối đoái thường có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới họ. Vì vậy, hầu hết
các nhà vận chuyển có một hệ số điều chỉnh tiền tệ (CAF) tính vào tài khoản cho
những biến động này.
Về lý thuyết, biến động tỷ giá có thể tác động đến doanh nghiệp theo nhiều cách
và được đo lường bằng độ nhạy cảm đối với rủi ro tỷ giá.
Ví dụ : Trong thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính châu Á tác động đến độ nhạy cảm
chuyển đổi đối với rủi ro tỷ giá. Thu nhập hợp nhất của công ty Black & Decker, công
ty Coca-Cola cũng như những công ty khác của Mỹ rất nhạy cảm đối với tỷ giá hối
đoái bởi vì hơn 1/3 tài sản và doanh số của các công ty này là ở nước ngoài. Khi các
đồng ngoại tệ giảm giá so với đô la thì thu nhập của các công ty mẹ cũng giảm theo.
Trong giai đoạn từ 1985 – 1988 khi đồng đô la yếu thì thu nhập của các công ty mẹ tại
Mỹ gặp thuận lợi do tác động đồng đô la yếu bởi vì các khoản thu nhập từ nước ngoài
chuyển về Mỹ được tính theo tỷ giá cao hơn.
Trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, đồng tiền của các quốc gia này
giảm giá hơn 50% so với đồng đô la làm cho ngoại tệ của các công ty con đặt tại châu
Á chuyển sang đô la ít hơn phân nửa so với dự kiến trước đây. Tác động của khủng
hoảng này cũng ảnh hưởng dây chuyền đến đồng yên Nhật làm cho đồng yên yếu đi.
Kết quả là thu nhập của các công ty con Mỹ đang hoạt động tại Nhật khi chuyển sang
đô la cũng giảm đáng kể.
Theo đánh giá của tổ chức tư vấn nghiên cứu thế giới (WRA), tổng cộng thu
nhập các công ty giảm khoảng 20 tỷ đô la trong quý 3/1998 chỉ với lý do đồng tiền
các nước châu Á giảm giá so với đô la.
15
Trong suốt một thời gian dài, mặc dù đăng ký với IMF chế độ tỷ giá thả nổi có
quản lý nhưng thực chất Việt Nam theo đuổi chính sách tỷ giá neo khá chặt vào USD
với biên độ dao động hẹp. Chính vì vậy mà hầu như các doanh nghiệp không ai quan

tâm đến rủi ro tỷ giá và các công cụ phòng ngừa rủi ro mặc dù đã triển khai nhưng ít
được sử dụng.
• Ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu của doanh nghiệp
Sự biến động của tỉ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến hoat động ngoại thương
thông qua kênh giá cả.
Dựa trên tỉ giá hối đoái chúng ta có thể tính được giá xuất khẩu nhập khẩu
của một loại hànghoá của một nước theo tiền tệ của một nước khác.Vì vậy tỉ giá thay
đổi kéo theo sự thay đổi của giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu.
Chẳng hạn,khi đồng tiền nội tệ mất giá,đồng nghĩa là đồng ngoại tệ lên giá thì giá
cả hàng hóa xuất khẩu trên thị trường quốc tế trở nên rẻ hơn.
Ví dụ: một lô hàng có giá trị 16 tỉ VNĐ. Vào thời điểm đầu tỉ giá hối đoái của Việt
Nam là 1 USD= 16 000, thì lô hàng hóa này trên thị trường quốc tế được bán với giá 1
triệu USD.Nếu vào thời điểm sau, tỉ giá hối đoái tăng lên 1USD=17 000 thì giá bán
của lô hàng này còn xấp xỉ 0,9412tr USD
Khi giá rẻ hơn, sức cạnh tranh hơn, sức cạnh tranh của hàng hoá được nâng
cao, mức cầu càng mở rộng và khối lượng hàng hóa xuất khẩu sẽ gia tăng, tạo điều
kiện để DN thu về lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại khi đồng
tiền nội tệ lên giá trong sự tương quan với sự mất giá của đồng tiền ngoại tệ sẽ làm
cho xuất khẩu giảm đi nhưng nhập khẩu lại tăng lên. Cụ thể hơn hơn là giá cả hàng
hóa xuất khẩu trở nên đắt hơn DN đối mặt với việc khách hàng thông báo về việc
giảm số lượng nhập hàng.
2.4 Thâm hụt ngân sách, mất khả năng thanh toán, nợ nước ngoài.
- Cán cân thanh toán:
16
Cán cân thanh toán(BOP) của một quốc gia là bảng tổng kết ghi lại các giao
dịch bằng tiền của một quốc qia và phần còn lại của thế giới. Hay nói cách khác cán
cân thanh toán là một trong những tài khoản kinh tế vĩ mô quá trình phản ánh hoạt
động kinh tế đối ngoại của một nước đối với phần còn lại của thế giới. Nó có quan hệ
chặt chẽ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác như: bảng cân đối ngân sách, cân đối
tiền tệ, hệ thống tài khoản quốc gia.

-Tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán của một quốc gia ghi chép những
giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư trú nước
ngoài. Tài khoản vãng lai gồm dòng vào và dòng ra. Dòng vào chủ yếu gồm dòng thu
nhập từ việc xuất khẩu và tiền nhận từ nước ngoài( kiều hối, viện trợ). Dòng ra chủ
yếu gồm dòng chi cho hoạt động nhập khẩu và tiền đưa ra nước ngoài. Cán cân này
phản ánh toàn bộ các giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú về
hàng hóa, dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai một chiều. Những giao dịch dẫn
đến tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được
ghi vào bên có. Thặng dư cán cân thanh toán xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ. Ngược
lại, thâm hụt cán cân thanh toán xảy khi bên có nhỏ hơn bên nợ. Mức thâm hụt tài
khoản vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài chính để thực hiện
nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững. Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm
hụt tài khoản vãng lai tính bằng phần trăm của GDP lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là
có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành mạnh.
Tình trạng cán cân vãng lai luôn là một bộ phận không thể thiếu được trong
phân tích kinh tế vĩ mô đối với các nền kinh tế mở. Nó phản ánh đúng năng lực sản
xuất hay khả năng cạnh tranh của một nền kinh tế. Đặc biệt, nó có khả năng ảnh
hưởng trực tiếp và nhanh chóng đến các chỉ tiêu quan trọng của nền kinh tế như: tỷ
giá, lạm phát, tăng trưởng kinh tế nội địa và nước ngoài. Chính vì vậy, hầu hết các
quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển đều quan tâm đến việc phân tích cán cân
vãng lai để có thể đưa ra các biện pháp điều chỉnh thích hợp.
-Thâm hụt cán cân thanh toán khi dòng vào nhỏ hơn dòng ra, có nghĩa thu nhập của
người cư trú từ người không cư trú là thấp hơn so với chi cho người không cư trú.Điều
17
này có nghĩa là giá trị ròng của các tờ giấy có giá do người không cư trú phát hành
nằm trong tay người cư trú giảm, cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoại tệ.
Theo hiệp hội ngân hàng Việt Nam , nguyên nhân sâu xa của tình trạng thâm
hụt cán cân vãng lai đều xuất phát từ sự mất cân đối, chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu
tư trong nước. Trong thời gian qua, mức thâm hụt cán cân vãng lai trở nên nghiêm
trọng hơn là kết quả của nhu cầu đầu tư tăng cao hơn so với mức tiết kiệm trong nền

kinh tế, trong đó có cả khu vực nhà nước.
Để đo lường mức thâm hụt cán cân vãng lai và đánh giá khả năng chịu đựng
thâm hụt cán cân này của nền kinh tế, thường có hai cách tiếp cận chủ yếu. Cách tiếp
cận thứ nhất dựa vào các chỉ số kinh tế vĩ mô, tài chính và nợ nước ngoài. Tuy nhiên
cách tiếp cận này có những hạn chế vì các chỉ số không thể nói lên “chuẩn mực” là
bao nhiêu và “xếp hạng” như thế nào để có thể đưa ra được nhận định chính xác về
tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai. Cách tiếp cận thứ hai dựa vào khả năng thanh
toán. Chính vì vậy, cách tiếp cận này thường dựa vào các chỉ tiêu nợ khi so sánh với
nguồn lực sử dụng để trả nợ như cán cân vãng lai/GDP (%) hay chỉ tiêu cán cân vãng
lai/xuất khẩu (%). Mức thâm hụt cán cân vãng lai trên 5% so với GDP thường được
coi là đáng báo động và nhiều nhà kinh tế cho rằng, mức thâm hụt tối đa này nên chỉ
dừng lại trước 20% trước khi bắt đầu cho cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, việc đánh giá
khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân này cần gắn với việc phân tích các nguồn gốc
được coi là nguyên nhân của thâm hụt. Trong bối cảnh tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai
so với GDP cao, mức thâm hụt được cho là có khả năng chịu đựng nếu nó là kết quả
của mức tăng đầu tư của quốc gia đó cao chứ không phải do mức tiết kiệm giảm, đặc
biệt là khi tiết kiệm quốc gia ở mức thấp. Cho dù tốc độ tăng đầu tư cao, nhất là đầu tư
của khu vực tư nhân vào vốn sản xuất có thể gây ra thâm hụt cán cân vãng lai, nhưng
trong tương lai, chúng lại góp phần tăng năng lực sản xuất và thu nhập từ xuất khẩu,
do đó, cải thiện khả năng trả nợ nước ngoài.
Như vậy là đối với một nền kinh tế có cơ sở xuất khẩu, tỷ giá hối đoái thực tế
sát với tỷ giá thực, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao, không có thâm hụt ngân sách lớn thì
những mất cân bằng lớn của cán cân vãng lai ít có khả năng gây ra khủng hoảng kinh
tế nghiêm trọng. Còn nếu một quốc gia bị thâm hụt cán cân vãng lai trong tình trạng
18
lạm phát cao tăng trưởng thấp thì hậu quả của thâm hụt sẽ là vấn đề đáng lo ngại hơn
rất nhiều so với khi quốc gia đó đang trong tình trạng tăng trưởng cao và lạm phát
thấp.
Cán cân vãng lai phản ánh chênh lệch giữa tổng thu nhập quốc dân khả dụng
(GNDI) và tổng chi tiêu (hấp thụ) của nền kinh tế, hay chênh lệch giữa tiết kiệm và

đầu tư của một quốc gia. Điều này chứng tỏ rằng cán cân vãng lai có mối liên hệ chặt
chẽ với các yếu tố khác trong nền kinh tế. Những mối liên hệ này càng nhấn mạnh
hơn tầm quan trọng của cán cân vãng lai với vai trò là trung tâm kết nối nền kinh tế
trong nước với phần còn lại của thế giới. Chính vì vậy, tình trạng thặng dư hay thâm
hụt cán cân vãng lai có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc phát triển kinh tế đối
ngoại của mỗi quốc gia và là mục tiêu điều chỉnh của các quốc gia đang phát triển trên
thế giới.
Tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai kéo theo nhiều chỉ số của nền kinh tế của
quốc gia đó thay đổi theo hướng tiêu cực như: lạm phát, tỷ giá, tăng trưởng kinh tế nội
địa và nước ngoài. Nó ảnh hưởng xấu đến tình trạng tăng trưởng nền kinh tế của quốc
gia đó nói chung và ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh
nghiệp đang hoạt động trong phạm vi quốc gia đó nói riêng.
-Tỷ giá: Mức độ thâm hụt cán cân vãng lai sẽ làm cho tỷ giá hối đoái giảm xuống.
Thâm hụt cán cân vãng lai có nghĩa là dòng tiền quốc gia đó chảy ra nhiều hơn so với
dòng tiền chảy vào. Do đó quốc gia sẽ khan hiếm tiền, dẫn đến lãi suất tăng, đồng tiền
mất giá, sẽ làm cho tỷ giá hối đoái giảm đi. Ví dụ: Trước mức độ thâm hụt này, tỷ giá
của đồng tiền Việt Nam so với đôla Mỹ là 20000VND= 1USD. Thâm hụt ngày càng
tăng làm cho tỷ lệ này càng giảm đi giả sử là 210000VND=1USD. Điều này trở nên
bất lợi đối với các doanh nghiệp đang hoạt động trong quốc gia đó. Khan hiếm tiền
làm cho nguồn vốn kinh doanh của quốc gia ít đi, lãi suất tăng sẽ làm cho chi phí phải
trả nguồn vốn kinh doanh đi vay của doanh nghiệp tăng lên. Đối với các doanh nghiệp
hoạt động trong môi trường quốc tế, thì đây là khó khăn trong việc nhập khẩu,
-Lạm phát: Thâm hụt cán cân vãng lai sẽ làm cho lạm phát tăng lên. Trong bối cảnh
lạm phát gia tăng, các hoạt động kinh doanh sẽ khó dự báo hơn vì sự biến động giá cả
đầu vào kinh doanh. Bên cạnh đó, chi phí lao động tăng rất mạnh. Doanh nghiệp phải
bỏ ra khoản tiền để chi trả cho nhân viên nhiều hơn. Lạm phát cũng có xu hướng đẩy
19
lãi suất biến động tăng, vì sớm muộn thì quy tắc ‘lãi suất dương” vẫn chi phối thị
trường tài chính- vốn. Tác động này khá tiêu cực vì vượt qua một mức lãi suất nhất
định, ví dụ 20%/năm, động lực phấn đấu cho đồng vốn sinh sôi tốt hơn bị ảnh hưởng

đáng kể. Mức sinh lợi thì không chắc chắn, nhưng chi phí thì là chắc chắn và ngay
trước mắt.
-Tăng trưởng kinh tế nội địa và nước ngoài: Với tình hình đồng tiền nội tệ mất giá,
lạm phát ngày càng gia tăng thì nền kinh tế trong nước khó có thể tăng trưởng một
cách vững mạnh được. Thành phần chủ yếu của tài khoản vãng lai có ảnh hưởng tới
việc tính toán giá trị GDP chính là cán cân thương mại. Cán cân thương mại là phần
chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của một nền kinh tế trong một khoảng
thời gian xác định. Dữ liệu thống kê được sử dụng để tính toán cán cân thương mại là
giá trị tính bằng tiền của tất cả các sản phẩm và dịch vụ xuất khẩu và nhập khẩu của
một quốc gia. Nếu cán cân thương mại của một quốc gia có giá trị dương thì quốc gia
đó đang ở tình trạng thương mại thặng dư. Ngược lại là thâm hụt. Mà công thức tính
GDP= C+ I+G+X-IM. Thâm hụt cán cân thương mại tức là X< IM. Điều này sẽ làm
cho GDP giảm, đồng nghĩa với việc tăng trưởng của một quốc gia giảm. Mặt khác, các
doanh nghiệp cũng khó có thể đầu tư ra thị trường nước ngoài một cách thuận lợi.
Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát cao, tăng trưởng thấp thì hậu quả của thâm
hụt sẽ là vấn đề đáng lo ngại hơn rất nhiều so với khi quốc gia đó đang trong tình
trạng tăng trưởng cao và lạm phát thấp. Đây là rủi ro về mặt kinh tế, các doanh
nghiệp khó có thể lường trước được và tự thân doanh nghiệp không thể điều chỉnh các
chỉ số kinh tế cũng như mức thâm hụt này về trạng thái ổn định mà lúc này cần phải
có bàn tay hữu hình của Chính phủ đê điều chỉnh mức thâm hụt này về trạng thái ổn
định. Mặc dù, đây là một rủi ro doanh nghiệp khó lường trước được và rất bị động
trong việc đối phó với những biến đổi thường xuyên liên tục. Nhưng các doanh nghiệp
cần phải chủ động thu thập thông tin tinh hình kinh tế trong nước và thế giới, phân
tích, xử lý đê đưa ra những giải pháp, những công cụ có thể đối phó với những rủi ro
trên và giảm thiểu sự mất mát, thiệt hại xuống mức thấp nhất. Tuy nhiên, rủi ro này
không chỉ mang lại những mất mát mà nó còn đem lại những cơ hội và thách thức cho
các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp qua các kỹ năng xử lý, nắm bắt nhạy bén với các
20
biến đổi tiêu cực này dần hình thành nhiều kinh nghiệm, kỹ năng xử lý, phân tích, giải
quyết vấn đề một cách nhanh nhạy và linh hoạt hơn.

CHƯƠNG III: LẤY VÍ DỤ 1 DOANH NGHIỆP CỤ THỂ
Doanh nghiệp: Phân tích các rủi ro do tác động của môi trường kinh tế đến Tổng công
ty cổ phần may Việt Tiến trong năm 2012.
3.1 Khái quát về hoạt động kinh doanh của công ty
3.1.1 Lich sử hình thành
-Tiền thân Công ty là một xí nghiệp may tư nhân “Thái Bình Dương kỹ nghệ Công
ty”- tên giao dịch là Pacific Enterprise. Xí nghiệp này được 8 cổ đông góp vốn do
ông Sâm Bào Tài – một doanh nhân người Hoa làm Giám Đốc. Xí nghiệp hoạt
động trên diện tích 1.513m
2
với 65 máy may gia đình và khoảng 100 công nhân.
- Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Nhà nước tiếp quản & quốc hữu hóa
rồi giao cho Bộ Công nghiệp Nhẹ quản lý (nay là Bộ Công Nghiệp).
- Tháng 5/1977 được Bộ Công Nghiệp công nhận là xí nghiệp quốc doanh và đổi
tên thành Xí Nghiệp May Việt Tiến.
- Ngày 13/11/1979, xí nghiệp bị hỏa hoạn, thiệt hại hoàn toàn. Tuy thế, được sự
trợ giúp từ những đơn vị bạn, cộng với lòng hăng say gắn bó với xí nghiệp, toàn
thể công nhân và lãnh đạo Việt Tiến đã đưa đơn vị đi vào hoạt động trở lại và ngày
càng khẳng định vị trí của mình trên thương trường.
- Nhờ vào nỗ lực cố gắng đó mà theo quyết định số 103/CNN/TCLĐ, xí nghiệp
được Bộ Công Nghiệp chấp nhận nâng lên thành Công ty May Việt Tiến. Sau đó,
lại được Bộ Kinh Tế Đối Ngoại cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp với tên
giao dịch đối ngoại là VIET TIEN GARMENT IMPORT-EXPORT COMPANY
viết tắt là VTEC (theo giấy phép số 102570 ngày 08/02/1991)
- Trước năm 1995, cơ quan quản lý trực tiếp Công ty là LIÊN HIỆP SẢN XUẤT
– XUẤT NHẬP KHẨU MAY. Do yêu cầu của các doanh nghiệp và của Bộ Công
Nghiệp, cần phải có một Tổng Công ty Dệt May làm trung gian cầu nối giữa các
doanh nghiệp với nhau và cấp vĩ mô, tiếp cận với thế giới nhằm hỗ trợ thông tin về
thị trường, cần có sự cụ thể hóa các chính sách, pháp luật …. Chính vì thế, ngày
29/04/1995 TỔNG CÔNG TY DỆT MAY VIỆT NAM ra đời.

- Ngày 11/01/2007, Thành lập Tổng Công ty May Việt Tiến trên cơ sở tổ chức lại
Công ty May Việt Tiến thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam.
21
- Ngày 13/02/2007, Bộ Công Nghiệp ban hành Quyết định số 544/QĐ-BCN về
việc cổ phần hóa Tổng Công ty May Việt Tiến
- Ngày 01/01/2008, Tổng Công ty may Việt Tiến chính thức đi vào hoạt động.
3.1.2 Lĩnh vực kinh doanh
- Sản xuất, kinh doanh sản phẩm dệt may các loại
- Sản xuất, kinh doanh nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng, công cụ
ngành dệt may và bao bì
- Dịch vụ giặt, in, thêu và đào tạo cắt may công nghiệp
- Sản xuất, kinh doanh thiết bị điện lạnh dân dụng và công nghiệp, thiết bị điện,
âm thanh và ánh sáng.
- Kinh doanh máy bơm gia dụng và công nghiệp
- Đầu tư, xây dựng kinh doanh bất động sản, cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, cho
thuê văn phòng, nhà xưởng, thiết bị, kho bãi
- Dịch vụ giao nhận, vận chuyển hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu
- Kinh doanh các ngành nghề khác phù hợp với quy định của pháp luật
3.2 Phân tích các rủi ro do môi trường kinh tế tác động đến tổng công ty cổ
phần may Việt Tiến
3.2.1 Rủi ro do tỷ giá hối đoái thay đổi
Việt Tiến là doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu dệt may lớn, thị trường xuất
khẩu chính là Mỹ, EU, Nhật nên đồng tiền thanh toán được chọn thường là ngoại
tệ mạnh như: USD, EUR, JPY Các đồng tiền này có tỷ giá thả nổi và luôn biến
động, doanh nghiệp có dự trữ ngoại tệ hạn nên tỉ giá biến động sẽ là nguy cơ rủi ro
cho doanh nghiệp.
Trường hợp doanh nghiệp cần nhập khẩu nguyên liệu nhưng không đủ ngoại tệ
dự trữ thường phải mua ngoại tệ với giá cao hoặc vay ngoại tệ tại ngân hàng trong
khi tiền hàng xuất khẩu chưa được chuyển về. Khi tiền hàng xuất khẩu chuyển về
nếu tỷ giá ngoại tệ so với VNĐ giảm đi thì doanh nghiệp sẽ mất lãi dự tính, phải

bù lỗ và trả phí lãi vay.
Năm 2002 Việt tiến vay ngân hàng USD với tỷ giá 15.375 USD/VNĐ để nhập
linh kiện máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất nhưng đến thời hạn thanh toán
(2004) tỷ giá USD tăng lên 15.765 USD/VNĐ nên ngoài tiền lãi phải trả thì doanh
nghiệp phải trả thêm cho ngân hàng 390 VNĐ cho mỗi USD
22
Biến động tỷ giá là một trong những nguồn gốc rủi ro chính khiến doanh
nghiệp bị động. Với việc có khả năng trong tương lai tỷ giá VNĐ/USD ngày càng
linh hoạt hơn, mà gần đây là việc ngân hàng nhà nước công bố chính thức mở rộng
biên độ tỷ giá VNĐ/USD lên 0.5% thì bất ổn trong tỷ giá giờ đây đã trở thành một
nguồn rủi ro cho các doanh nghiệp.
3.2.2 Rủi ro lãi suất
Những năm gần đây, chính sách lãi suất ở Việt Nam có nhiều biến động, các
doanh nghiệp xuất khẩu đã gặp phải rát nhiều khó khăn cũng như rủi ro khi tiếp
cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng. Ngày 11/6/2008, NHNN tăng lãi xuất cơ bản
từ 12% - 14% nên có thời điểm lãi suất ngân hàng cho các doanh nghiệp vay lên
đến 18% - 21%/năm, các doanh nghiệp không những vay vốn với mức lãi suất cao
mà còn khó tiếp cận nguồn vốn vì hoạt động kinh doanh gặp rủi ro và bị gián đoạn.
Sau nhiều lần thay đổi lãi suất, đến 20/11/2008 NHNN đã hạ lãi suất cơ bản từ
12% theo đó mức lãi suất các NHTM và các tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp
vay giảm từ 18% xuống 16,5%, như vậy các doanh nghiệp vay trước đó đã không
lường trước được sự thay đổi lãi suất.
3.2.3 Rủi ro giá
Rủi ro giá thường xuyên xuất hiện với Việt Tiến và các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam, do sức ép phải cạnh tranh giá với các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may
Trung Quốc, Banglades, Ấn Độ Giá chào hàng, giá bán của các đối thủ lớn này
thường thấp hơn của Việt Tiến và các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam
nên làm giá thị trường giảm và trực tiếp ảnh hưởng đến hợp đồng, kim ngạch xuất
khẩu, doanh số của Việt Tiến. Giá thị trường biến động còn gây rủi ro cho doanh
nghiệp,giá tăng so với thời điểm ký hợp đồng làm doanh nghiệp mất lợi nhuận do

chi phí sản xuất trước đó không đổi.
Ngoài ra, sự thay đổi giá nguyên phụ liệu ngành may mặc thường xuyên thay
đổi là nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho doanh nghiệp. Việt Tiến chủ yếu nhập bông,
nguyên phụ liệu của Thái Lan và Malaixia, giá cả dao động thường xuyên phụ
thuộc nhiều vào nhu cầu của Trung Quốc. Thời điểm giữa năm, giá cả nguyên liệu
tăng cao do nhu cầu của Trung Quốc nhập khẩu để thực hiện đơn hàng nên doanh
nghiệp cũng gặp rủi ro vì phải mua nguyên liệu giá cao ảnh hưởng tới lợi nhuận.
Doanh nghiệp không lường trước được rủi ro nên bị giảm lợi nhuận, cụ thể đến
tháng /2008 giá sợi Polyyester nhập khẩu từ Malaixia giảm 25%, giá sợi nhập khẩu
từ Thái Lan giảm 56%, giá sợi staple tổng hợp chưa chải thô từ Polyester –
1.4DX38MM-A Grade nhập khẩu từ Malaixia giảm 51.6% so với thời điểm tháng
7/2008 (Nguồn: HIệp hội dệt may Việt Nam)
23
24

×