Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nghệ thuật sử dụng điển cố trong thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.29 KB, 7 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG ĐIỂN CỐ TRONG THƠ CHỮ HÁN
CỦA LÊ THÁNH TƠNG
NGUYỄN THỊ HỒI AN
Trường Đại học Quảng Bình
Email:
Tóm tắt: Vua Lê Thánh Tơng (1442-1497) là một tác giả tiêu biểu của nền văn học
Việt Nam thế kỷ XV. Nghiên cứu thơ văn Lê Thánh Tông để hiểu hơn về con người
và những đóng góp của ơng đối với sự phát triển của văn chương trung đại, nhất là
mảng thơ chữ Hán. Ơng có hơn chín tập thơ chữ Hán, nhiều bài thơ còn được in khắc
trên bia đá, hang động… ở các danh lam thắng cảnh của mọi miền đất nước. Những
vần thơ chữ Hán Lê Thánh Tơng được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật chặt chẽ,
đúng chuẩn mực của thơ ca trung đại. Đặc biệt, Lê Thánh Tông đã sử dụng linh hoạt,
khéo léo nhiều điển tích, điển cố hoặc một phần điển cố trong sáu tập thơ. Điều đó
phần nào thể hiện sự am hiểu kinh sử thi họa của vị minh vương có tâm hồn và tài
năng thơ ca.
Từ khóa: Thơ chữ Hán Lê Thánh Tơng, điển tích, điển cố.

1. MỞ ĐẦU
Thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông tiêu biểu cho loại thơ đề vịnh do vua tôi xướng họa.
Giọng thơ hùng hồn, từ ngữ trau chuốt, thấm đẫm lòng tự hào về cảnh đẹp đất nước và nhân tài
đất Việt. Những sáng tác thơ ca bằng chữ Hán của Lê Thánh Tông đạt chuẩn mực thơ ca trung
đại, nghệ thuật thơ điêu luyện. Thơ ông vừa là sản phẩm của sáng tạo nghệ thuật vừa là nơi gửi
gắm nỗi niềm. Lê Thánh Tông là tác gia lớn được đưa vào giảng dạy trong các trường cao đẳng,
đại học và chương trình Ngữ văn phổ thơng. Các giáo trình văn học trung đại Việt Nam đều
dành một chương để giới thiệu về Lê Thánh Tông và các sáng tác tiêu biểu của ông như cuốn:
Giáo trình Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII của Bùi Duy Tân, NXB Giáo
dục, 2005; Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam (tập1) do Nguyễn Đăng Na chủ biên, NXB


Đại học Sư phạm Hà Nội, 2006; Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam (tập 1) do Lã Nhâm
Thìn chủ biên, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011. Sự xuất hiện của các đầu sách về Lê Thánh
Tông phần nào khẳng định vai trị và vị trí của ơng trong dịng văn học trung đại Việt Nam.
2. NỘI DUNG
2.1. Đóng góp của Lê Thánh Tông vào sự phát triển của văn học dân tộc
Bên cạnh sự nghiệp chính trị vẻ vang, vua Lê thánh Tông là nhà văn lớn, nhà thơ lớn của
nền văn học trung đại Việt Nam thế kỷ XV. Lê Thánh Tông là vị vua yêu văn thơ, bản thân ơng
sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị lưu truyền cho hậu thế. Ơng là người có cơng mở mang và
phát triển nền văn học trung đại nước ta. Dưới thời trị vì của ơng, phong trào sáng tác văn
chương học thuật diễn ra sôi nổi trong và ngồi cung đình. Chính ơng là người lập nên hội văn
học cung đình - Hội Tao đàn, đánh dấu sự hoạt động có quy củ, bài bản của Hội văn học đầu
tiên trong lịch sử văn học nước nhà. Không khí sáng tạo thơ văn trong niềm vui đất nước bình
trị đã tạo nên những tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước thời kỳ này. Chính tư tưởng
coi trọng hiền tài của người đứng đầu triều đình đã cổ vũ lượng lực nho sĩ học tập, nghiên cứu
và sáng tạo văn chương nghệ thuật.
Trong di sản thơ chữ Hán của Lê Thánh Tơng hiện tồn, có hơn 170 bài thơ được sắp xếp
vào 6 tập thơ tương đối đầy đủ: 古 心 百 咏 詩 集 Cổ tâm bách vịnh thi (trăm bài vịnh về tấm
lòng người xưa); 瓊 苑 九 歌 詩 集 Quỳnh uyển cửu ca thi tập (chín khúc ca vườn quỳnh); 明
3


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

良 錦 綉 詩 集 Minh lương cẩm tú thi tập (gấm thêu vua sáng tôi hiền); 文 明 古 吹 詩 集 Văn
minh cổ xúy thi (cổ xúy cho sự văn minh); 征 西 紀 行 詩 集 Chinh Tây kỷ hành thi tập (ghi
chép trên đường chinh phục phía tây); 珠 璣 勝 賞 詩 集 Châu cơ thắng thưởng thi tập (những
vần thơ châu báu thưởng ngoạn danh thắng).
Thơ ca Lê Thánh Tông gắn liền với quan niệm “thi dĩ ngơn chí”, “tu tâm dưỡng tính”. Lê

Thánh Tơng đã thể hiện chân thành Ý, Chí, Khí, Thần qua sáng tác của ơng. Đúng như lời nhận
xét “Trong lịng có điều gì, tất hình thành ở lời; cho nên thơ là để nói chí vậy” (Phan Phu Tiên
- Từ trong di sản). Cả một đời trị vì đất nước, Lê Thánh Tông đêm ngày cần mẫn việc nước,
lúc rảnh rỗi ngâm vịnh thi ca. Đối với trường hợp Lê Thánh Tơng, có thể xem sự thịnh suy của
thơ mà bình sự được mất của một đời”. Thế nên, thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông là bản tổng
kết độc đáo sự nghiệp chính trị bằng thơ. Thơ ơng thể hiện màu sắc chính trị rõ nét, thơ gắn liền
với chính trị.
2.2. Nghệ thuật sử dụng điển cố
2.2.1. Dùng nguyên điển cố
Theo Từ điển Hán Việt từ nguyên, “典 điển: sách sử, 故 cố: cũ. Chuyện xưa từng chép
trong sách sử” [4, tr.566]. Dùng nguyên điển cố là cách sử dụng nguyên vẹn từ nguồn gốc, câu
nói, những địa danh, tên gọi trong lịch sử và văn học cổ - trung đại Trung Quốc tạo nên sự trang
trọng, hàm súc, mang tính chất tầm chương trích cú. Đó là những địa danh, nhân vật, câu chữ
mẫu mực được trích dẫn được dùng nguyên ý nghĩa vốn có. Đặc biệt, nhà thơ Lê Thánh Tông
vận dụng nhiều điển cố về địa danh, sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử trong sáng tác thơ chữ
Hán. Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông gắn liền với chính trị nên việc dùng điển cố liên quan đến
sử liệu tạo tính minh họa cụ thể cho tư tưởng nhà thơ. Mục đích của việc dùng nguyên điển cố
văn học trong thơ chữ Hán Lê Thánh Tông nhằm khẳng định lý tưởng xã hội thời Nghiêu Thuấn
và phẩm chất kẻ sĩ. Tác giả lấy các sự kiện lịch sử và tấm gương người xưa để khuyên răn bản
thân và kẻ sĩ.
莊公忘孝慕
母作穎城人
Trang Công vong hiếu mộ
Mẫu tác Dĩnh thành nhân
“Vua Trang Cơng đã qn lịng hiếu thảo,
Nên bà mẹ trở thành người thành Lâm Dĩnh”
(Lâm Dĩnh, Cổ tâm bách vịnh thi tập)
Theo Tả truyện, thời Chiến Quốc, vua Trang Công nước Trịnh là ông vua hiếu đễ. Thế
nhưng, do em trai là Cung Thúc Đoạn được mẹ dung túng, có mưu đồ làm phản. Việc bại lộ,
Đoạn tự tử; mẹ bị Trang Công đưa đi giam lỏng ở Lâm Dĩnh. Trang Công thề rằng bao giờ

xuống suối vàng mới gặp mẹ. Sau ông hối hận về hành động bất hiếu đó nhưng khơng biết làm
thế nào. Nhờ có bề tơi Dĩnh Khảo Thúc bày kế đào hầm cho hai mẹ con gặp nhau. Trang Công
xin lỗi mẹ, đưa mẹ về đô phụng dưỡng. Điển cố trên được Lê Thánh Tông đưa vào thơ chữ Hán
như bài học cho cách đối nhân xử thế đối với người thân trong hồng tộc. Ơng tự khun bản
thân ln sáng suốt trong cơng việc và phân minh trong tình cảm gia đình. Lê Thánh Tơng là
người con hết sức có hiếu với mẹ. Dù thân chinh đi đánh giặc xa xôi nhưng trong lịng ln nhớ
về mẹ với hình ảnh thơ chan chứa tình cảm tha thiết.
目 斷 慈圍 萬 里 程
Mục đoạn từ vi vạn lý trình
“Mịn mỏi con mắt nhớ tới mẹ hiền nơi xa xôi vạn dặm”
(Chinh Tây kỷ hành thi tập, bài 8)
4


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

Điển cố trong thơ chữ Hán Lê Thánh Tông với hình thức dùng nguyên điển cố thường
lấy những sự việc được ghi chép trong lịch sử Trung Hoa. Trong đó, ơng nhấn mạnh về câu
chuyện tấm lịng người xưa như Án Tử, Chu Công, Bá Di, Tổ Địch, Lưu Côn…
晏子心機險
深圖去亂臣
Án Tử tâm cơ hiểm
Thâm đồ khử loạn thần
“Án Tử bụng dạ sâu hiểm,
Bày mưu sâu để trừ bọn loạn thần”
(Thang Âm lý, Cổ tâm bách vịnh thi tập)
Án Tử trong điển cố trên là Án Anh. Theo Thơng chí, Án Anh là người nước Tề thời
Xuân Thu, tự là Bình Trọng, làm quan đại phu, nổi tiếng tiết kiệm, siêng năng lo việc nước. Lê

Thánh Tông luôn coi trọng và đề cao những bậc trung thần phụng sự đất nước. Những người
ngày đêm sát cánh cùng vua chăm lo xây dựng đất nước.
周公待旦小心危
得聖之清古伯夷
Chu Công đãi đán tiểu tâm nguy
Đắc thánh chi thanh cổ Bá Di
“Chu Công đợi trời sáng, tấm lòng cẩn mật đau đáu
Bá Di xứng đáng bậc thánh thanh cao của đời xưa”
(Quỳnh uyển cửu ca thi tập, bài 5)
Chu Công tên thật là Cơ Đán, là cơng thần có cơng lớn trong việc khai quốc của nhà Chu.
Bá Di là tên của ẩn sĩ thời Ân, được Mạnh Tử khen là “Thánh chi thanh”, nghĩa là bậc thánh
thanh cao. Bá Di và Thúc Tề nổi tiếng với lòng trung thành và cốt cách thanh cao. Bậc lương
tướng cịn là những người có chí lớn bay bổng muôn dặm, hành đạo giúp đời. Trong văn học
trung đại, điển cố “tang bồng hồ thỉ” thường để chỉ những người có chí lớn như vậy.
桑弧蓬矢志
逸氣鶚橫秋
Tang hồ bồng thỉ chí,
Dật khí ngạc hồnh thu.
“Có lý tưởng tang bồng hồ thỉ,
Có chí khí phiêu dật như chim đại bàng bay ngang giữa trời thu”.
(Hồ Đầu sơn, Cổ tâm bách vịnh thi tập)
“Tang bồng hồ thỉ” là cây cung bằng gỗ dâu, mũi tên bằng cỏ bồng. Khi xưa, sinh con
trai người ta bắn mũi tên đi bốn phương với ước mong rằng đứa con sau này sẽ có chí tung
hồnh bốn phương. Từ này về sau dùng trong văn thơ để chỉ người có chí lớn. Trong lịch sử
Trung Hoa, nhiều bậc anh kiệt cùng chí hướng, sống rèn luyện theo nghiệp phụng vua bảo vệ
đất nước được sử sách lưu danh.
雞聲鳴半夜
待旦小心危
Kê thanh minh bán dạ
Đãi đán chẩm qua tâm

“Tiếng gà gáy vang lúc nửa đêm,
Không ngủ được nằm gối lên chiếc giáo chờ sáng”
(Tư Châu, Cổ tâm bách vịnh thi tập)
5


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

Theo sách Thơng chí: Lưu Cơn là người đời Tấn, tự Việt Thạch, có cơng với nhà Tấn
trong việc đánh dẹp các cuộc nổi loạn. Ban đầu, ông cùng Tổ Dịch làm chủ bạ đất Tư Châu,
cùng ngủ chung một giường, nửa đêm nghe gà gáy, cho là điềm lành bèn thức nhau dậy múa
kiếm. Khi Ngũ Hồ làm loạn Trung Hoa, vua Nguyên Đế phong cho Côn làm tướng. Côn nói:
“Ta gối giáo đợi sáng, chỉ muốn diệt lũ giặc bạo ngược, nhưng chỉ sợ Tổ Địch dậy sớm ra roi
trước ta mà thôi”. Lê Thánh Tông mượn điển cố này để khuyên răn và động viên kẻ sĩ không
ngừng tu thân phò vua giúp nước. Đất nước phong kiến mà vua Lê Thánh Tông và các đại thần
đang ngày đêm lo lắng xây dựng phát triển cần những bậc trung thần nghĩa sĩ như vậy. Khi loạn
lạc, quân của bậc đế vương thương dân đánh kẻ có tội, bảo vệ lãnh thổ đất nước.
吊民伐罪帝王兵
Điếu dân phạt tội đế vương binh
“Đánh kẻ có tội, cứu vớt dân lành, ấy là quân của bậc đế vương”
(Chinh Tây kỷ hành thi tập, bài 8)
Trong sách Thượng thư, điển cố “điếu dân phạt tội” dùng với ý “quân thương dân trừng
phạt kẻ có tội”. Lê Thánh Tông cũng dùng điển này với dụng ý quân đội của triều Lê là đội chính
nghĩa, ra trận chiến đấu vì dân vì nước. Ngồi những điển cố nói về các bậc minh quân lương
tướng, Lê Thánh Tơng cịn sử dụng các điển cố về cảm quan cuộc sống, thế sự và công danh.
世上功名都是夢
Thế thượng công danh đô thị mộng
“Công danh trên đời đều như giấc mộng ”

(Đề Hồ Công Động, Châu cơ thắng thưởng thi tập)
回首英雄一夢間
Hồi thủ anh hùng nhất mộng gian
“Ngoảnh lại, anh hùng trôi qua như giấc mộng”
(Đề Dục Thúy Sơn, Châu cơ thắng thưởng thi tập )
功名槐夢醒
Cơng danh hịe mộng tỉnh
“Khi tỉnh ngộ thì cơng danh chỉ là giấc mộng cành hịe”
(Ba Viên, Cổ tâm bách vịnh thi tập)
Điển cố “giấc mộng cành hịe” cịn gọi là giấc mộng Nam Kha. Nói về giấc mộng làm
thái thú ở quận Nam Kha của Thuần Vu Phần. Trong văn học cổ, điển cố này dùng để chỉ cuộc
đời là vô thường, khác nào giấc mộng, danh lợi như mây nổi mà thơi. Chính vì vậy, khi bàn về
vấn đề này, Lê Thánh Tông đã lấy điển tích giấc mơ Hịe An để làm rõ ý thơ của mình.
Việc dùng điển cố trong sáng tác văn chương là điều phổ biến trong văn học trung đại.
Tác phẩm văn học, đặc biệt là văn vần sử dụng điển cố khéo chứng tỏ sự điêu luyện của nhà
thơ. Nhà thơ Lê Thánh Tông sáng tác thơ bằng chữ Hán và sử dụng nguyên điển cố về mặt nội
dung lẫn ý nghĩa đã làm cho thơ có tính chất quan phương, trang trọng. Trong sáu tập thơ khảo
sát, số lượng điển cố được nhà thơ sử dụng phần lớn tập trung ở tập thơ Cổ tâm bách vịnh,
Quỳnh uyển cửu ca và Châu cơ thắng thưởng. Khi bàn về tấm lịng người xưa, Lê Thánh Tơng
vận dụng ngun điển cố là hợp lý. Điều này đảm bảo cho phương thức diễn đạt súc tích, nghệ
thuật “đúc chữ” trong bố cục của bài thơ Đường luật.
2.2.2. Dùng một phần điển cố
Là cách mượn chữ và ý từ người xưa để diễn đạt ý tương tự. Vì vậy, tác giả có thể điểm
xuyết từ, tách từ trong điển cố của thơ xưa để sáng tạo nên những vần thơ tương tự về ý. Nói
về lý tưởng xã hội thời Nghiêu Thuấn, Lê Thánh Tông lấy ý từ câu thơ Đỗ Phủ:
6


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ


| 11/2019

洗兵無路挽天河
Tẩy binh tín thủ vãn thiên hà
“Tiện tay kéo sông Ngân xuống rửa sạch giáp binh”
(Chinh Tây kỷ hành thi tập, bài 11)
Câu thơ trên, nhà thơ lấy ý từ thơ Đỗ Phủ “An đắc tráng sĩ vãn thiên hà/Tẩy tận giáp binh
trường bất dụng” (Mong có người tráng sĩ kéo sơng Ngân xuống, rửa sạch hết vũ khí cất, không
bao giờ dùng tới). Lê Thánh Tông dùng điển này để nói rằng phương Nam sau khi dẹp xong lũ
giặc sẽ được yên ổn, người Việt, người Chiêm sẽ chung sống hịa bình. Khát vọng về sự thống
nhất đất nước thể hiện ở nhiều ý thơ trong các sáng tác chữ Hán của nhà vua Lê Thánh Tông.
混一書車共幅絹
Hỗn nhất thư xa cộng bức quyên
“Gộp một mối thư xa về một bức dư đồ”
(Hải Vân hải môn lữ thứ, Minh lương cẩm tú thi tập)
Trong câu thơ trên, Lê Thánh Tông lấy từ câu trong sách Trung dung “Xa đồng quỹ, thư
đồng văn”, nghĩa là “bánh xe cùng một cỡ, chữ cùng một lối”. Nhà thơ dùng điển này cũng chỉ
quốc gia thống nhất, trăm sông hợp về một mối. Lê Thánh Tông luôn đặt sự an nguy đất nước lên
trên hết. Tấm lịng vì nước vì dân của vua Lê Thánh Tông “đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.
夙夜勤婁戰兢
Túc dạ cần cần lũ chiến căng
“Sớm khuya chăm chỉ chính sự, nơm nớp lo lắng việc nước”
(Quỳnh uyển cửu ca thi tập, bài 1)
Hình ảnh ơng vua hết lịng vì nước ẩn hiện trong hình ảnh thơ giàu chất tạo hình. Nhà thơ
lấy chữ trong Kinh Thi “Nơm nớp lo sợ, như đi trên băng mỏng, như sa xuống vực sâu”. Lê
Thánh Tông luôn đề cao vấn đề dân tộc.
肅肅飛鴻汕汕魚
Túc túc phi hồng sán sán ngư
“Có cảnh chim hồng bay hối hả, thì sau mới có cảnh cá bơi lội tung tăng”
(Chinh Tây kỷ hành thi tập, bài 4)

Tác giả dùng điển cố từ hai bài thơ Hồng nhạn và Nam hữu gia ngư của Kinh Thi, dùng
để ví với cảnh loạn ly và cảnh thái bình thịnh trị. Vì vậy, lúc loạn lạc hay hưởng cảnh thái bình,
Lê Thánh Tơng đều hết sức phịng bị cẩn thận.
戶牖綢繆固
Hộ dũ trù mâu cố
“Cửa tổ ràng rịt cho thật chắc chắn”
(Ngô Khê, Cổ tâm bách vịnh thi tập)
Câu thơ này, tác giả lấy ý từ “trù mậu dũ hộ” (cửa tổ ràng rịt) trong bài thơ Chi liêu thuộc
Mân Phong, Kinh Thi. Ý là khuyên người ta giữ gìn, lo xa từ lúc tai họa cịn chưa xảy ra. Việc
binh khơng cho phép khinh suất nên vua Lê Thánh Tông luôn đề cao cảnh giác. Khơng những
vậy, Lê Thánh Tơng cịn thân chinh đem đội quân chính nghĩa dẹp yên quân gây nhiễu loạn ở
vùng biên giới.
君王萬里一戎衣
Quân vương vạn lý nhất nhung y
“Nên bậc quân vương phải vượt muôn dặm xa xôi tới dẹp yên”
(Chinh Tây kỷ hành thi tập, bài 6)
7


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

Điển cố một cỗ nhung y (nhất nhung y) được Lê Thánh Tông mượn chữ và ý từ câu “nhất
nhung y nhi thiên hạ đại định” là cụm từ xuất hiện trong thiên Vũ Thành của sách Kinh thư,
dùng để ca ngợi võ công diệt vua Trụ - tên vua vô đạo của nhà Thương.
Lê Thánh Tông là vị vua đề cao tư tưởng trọng dụng hiền tài cho sự nghiệp xây dựng đất
nước. Và bề tơi hiền khơng phụ lịng của bậc đế vương.
後樂先優濟世心
Hậu lạc tiên ưu tế thế tâm

“Lo trước vui sau là một lòng giúp nước”
(Ngự chế Thần tiết thi, Quỳnh uyển cửu ca thi tập)
Trong cách sử dụng điển cố trên, Lê Thánh Tông mượn chữ và ý từ câu nói nổi tiếng của
Phạm Trọng Yêm Đời Tống: 先 天 下 之 憂 而 憂 後 天 下 之 樂 而 樂 “Tiên thiên hạ chi ưu
nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ).
Trong sáng tác thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông dành nhiều vần thơ viết về thiên nhiên mọi
miền đất nước. Thiên nhiên trong thơ ông sinh động, huyền ảo như chốn tiên cảnh. Trên đường
từ Lam Kinh đến bờ sông Lễ, Lê Thánh Tông đã sáng tác bài thơ tả về cảnh đẹp của động Hồ
Công ở núi Xuân Đài, phía Tây huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Hang động được thiên nhiên
tạo hóa ban tặng một vẻ đẹp huyền ảo. Cảnh trời biển bao bát ngát làm con người quên đi mọi
vướng bận của bụi trần, bay bổng tâm hồn nơi chốn Bồng Lai tiên cảnh. Lê Thánh Tơng dùng
chữ trong điển cố Bích lạc hồng tuyền để miêu tả cảnh đẹp đó.
碧落泉流白玉寒
Bích Lạc tuyền lưu bạch ngọc hàn
“Ngọc trắng lạnh lẽo tựa suối chảy từ cõi trời Bích Lạc”
(Đề Hồ Cơng động, Châu cơ thắng thưởng thi tập)
Tác giả sử dụng điển này là lấy ý từ bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị có câu “Thượng
cùng Bích lạc hạ hồng tuyền” (Trên thì cao mãi tận trời xanh, dưới thì xuống tận suối vàng).
Ngồi ra, nghệ thuật so sánh là một thủ pháp nghệ thuật đặc sắc được lồng ghép trong
nghệ thuật dùng điển cố của Lê Thánh Tơng. Trong q trình sáng tác văn học nghệ thuật, so
sánh là phương thức tạo hình nhằm trực tiếp đối chiếu hai đối tượng có cùng thuộc tính chung
nào đó. Ơng khơng dùng nhiều hình ảnh so sánh nhưng giá trị biểu đạt trong mỗi hình ảnh so
sánh rất cao.
青衾人似玉
忠孝一生心
Thanh khâm nhân tựa ngọc,
Trung hiếu nhất sinh tâm.
“Những chàng áo xanh mặt đẹp như ngọc,
Cả đời giữ trọn tấm lòng trung hiếu”
(Hòe thị, Cổ tâm bách vịnh thi tập)

Hình ảnh bậc nho sĩ ngày xưa ở vùng Tràng An đời nhà Hán thường tụ tập dưới bóng cây
hịe họp chợ, nghị luận sơi nổi được Lê Thánh Tơng đưa vào thơ chữ Hán để khích lệ kẻ sĩ nước
ta tích cực học tập, tu thân rèn đức. Nhà thơ dùng lối nói ẩn dụ “thanh khâm” nghĩa là áo xanh
để chỉ học trị. Lê Thánh Tơng là ông vua tôn sùng Nho học nên ông luôn coi trọng bậc túc nho
học hành đỗ đạt, làm quan giúp vua trị nước. Chính vì vậyy, ơng ln trọng dụng vị quan tài
đức vẹn toàn.
8


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

塵魚生甑上
芳譽重如山
Trần ngư sinh tắng thượng
Phương dự trọng như san.
“Nghèo tới mức lâu không nấu cơm, bụi bám đầy nồi
Nhưng vẫn coi danh dự nặng như núi”.
(Lai Vu, Cổ tâm bách vịnh thi tập)
Trong câu thơ trên, Lê Thánh Tông lấy “danh dự” so sánh với hình ảnh rất cụ thể là núi.
Nhân vật trong bài thơ này chính là Phạm Nhiễm. Phạm Nhiễm sống thời Hàn Hoàn Đế, làm
trưởng huyện Lai Vu. Tính tình cương trực, nóng nảy, coi trọng danh dự. Lê Thánh Tông dùng
điển này kết hợp khéo léo với hình ảnh so sánh để nhấn mạnh sự tự răn mình để làm gương cho
mn dân.
3. KẾT LUẬN
Khảo sát nghệ thuật dùng điển trong thơ chữ Hán Lê Thánh Tông, chúng tôi nhận thấy
giá trị biểu đạt trong thơ tập trung thể hiện ở khát vọng về xã hội lý tưởng vua sáng tôi hiền,
cảm quan về cuộc sống, danh vọng của nhà Nho và sự hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên đất
nước. Theo khảo sát của chúng tôi, tác giả sử dụng hơn 70 điển cố trong 170 bài thơ. Qua đó,

thể hiện tầm hiểu biết, thông thạo kinh sử, văn học của một nhà vua và tâm hồn một thi sĩ tài
năng. Điển cố là phương tiện chuyển tải hiệu quả nội dung tư tưởng nghệ thuật của vua Lê
Thánh Tông trong thơ chữ Hán. Tùy hoàn cảnh và đề tài sáng tác, Lê Thánh Tông đã vận dụng
linh hoạt điển cố nghệ thuật. Nhà thơ sử dụng hợp lý điển cố khi dùng ngun, có lúc chỉ mượn
một phần tạo sự cơ đọng, súc tích cho ý thơ và bố cục bài thơ. Điển cố trong thơ chữ Hán của
ông không quá nhiều nhưng đủ để minh chứng cho tài thơ của bậc đế vương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]

Đào Duy Anh (1994). Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Thuận Hóa, Huế.
Lại Nguyên Ân chủ biên (1997). Từ điển Văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Tài Cẩn (2003). Một số chứng tích về ngơn ngữ, văn tự và văn hóa, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Bửu Kế (1999). Từ điển Hán Việt từ nguyên, NXB Thuận Hóa, Huế.
Thạch Giang - Lữ Huy Nguyên (2002). Từ ngữ điển cố văn học, NXB Văn học, Hà Nội.
Mai Xuân Hải (2003). Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông (tổng tập), NXB Văn học, Hà Nội.
Lã Minh Hằng (2012). Đôi nét về việc sử dụng điển cố trong văn bản Nơm, Tạp chí Hán Nơm,
số 6 (115), tr. 20-34.

Tilte: THE ART OF USING LITERARY ALLUSION IN POEM WRITING IN CHINESE
CHARACTERS BY LE THANH TONG
Abstract: King Le Thanh Tong (1442-1497) was a typical author in the Vietnamese literature in 15th
century. The study of Le Thanh Tong's poetry would supply better understanding about people and his

contributions to the development of Vietnamese Medieval literature, especially the Han Chinese poetry
segment. About Han poetry, he has more than nine volumes of poems, many of which are also engraved
on stone stelae, caves... in famous landscapes of our country. The poetry of Han characters Le Thanh
Tong is presented in the strict art form, in accordance with the standards of medieval poetry. In
particular, Le Thanh Tong has flexibly used many literary allusion or partial literary allusion in six
volumes of poetry. That partly reflects the epic knowledge of the wise king with poetic soul and talent.
Keywords: Poetry of Chinese characters Le Thanh Tong, literary allusion.
9



×