Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Cái tôi cô đơn trong thơ Trương Đăng Dung, Nguyễn Bình Phương và Trần Tuấn nhìn từ cảm thức hiện sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.26 KB, 7 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

CÁI TƠI CƠ ĐƠN TRONG THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG,
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG VÀ TRẦN TUẤN NHÌN TỪ CẢM THỨC HIỆN SINH
NGUYỄN ĐƠNG NGHI
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
Email:
Tóm tắt: Cái tơi cơ đơn trong thơ Trương Đăng Dung, Nguyễn Bình Phương và
Trần Tuấn là một phương diện mang đậm dấu ấn hiện sinh. Đó là cái tôi bế tắc, tuyệt
vọng giữa thực tại nhưng luôn khao khát đi tìm lý tưởng sống đích thực. Bài báo
nghiên cứu về cái tôi cô đơn trong thơ Trương Đăng Dung, Nguyễn Bình Phương và
Trần Tuấn từ cảm thức hiện sinh cịn góp phần khẳng định cá tính, tài năng cũng như
dấu ấn của các nhà thơ trên chặng đường phát triển thơ ca Việt Nam đương đại.
Từ khóa: Cái tôi cô đơn, hiện sinh, thơ ca Việt Nam đương đại.

1. MỞ ĐẦU
Trương Đăng Dung, Nguyễn Bình Phương và Trần Tuấn là những nhà thơ Việt Nam
đương đại có sự cách tân vượt bậc về phong cách nghệ thuật. Nếu như thơ của Trương Đăng
Dung mang đậm chất triết lý suy tưởng, Nguyễn Bình Phương hịa quyện giữa triết lý và siêu
thực thì Trần Tuấn lại đậm đặc màu sắc siêu thực và hư ảo trong thơ. Lẽ dĩ nhiên, cảm thức
hiện sinh có thể biểu hiện qua nhiều phương diện, nhưng cái tơi trữ tình - nhân vật chính của
thơ là yếu tố cốt lõi nên trong các tác phẩm văn học, tư tưởng hiện sinh cũng được tái hiện rất
rõ qua việc khám phá từng cái tôi cụ thể. Nghiên cứu cái tôi cô đơn trong thơ Trương Đăng
Dung, Nguyễn Bình Phương và Trần Tuấn là cách chúng ta tìm hiểu thái độ của con người hiện
sinh xuất phát từ thái độ tri nhận sâu sắc về cuộc sống và trải nghiệm nỗi bất an, hỗn loạn từ
thực tại. Mặt khác, tái hiện cái tôi cô đơn dưới nhiều mảnh vỡ khác nhau là cách khám phá
những góc khuất khó chạm vào bằng cảm xúc. Khám phá cái tơi cơ đơn trong thơ Trương Đăng
Dung, Nguyễn Bình Phương và Trần Tuấn là hành trình khám phá quan niệm nhân sinh sâu sắc
mang đậm dấu ấn hiện sinh.


2. NỘI DUNG
2.1. Cái tôi cô đơn giữa thực tại phi lý
Bàn về khái niệm “phi lý”, trên phương diện tư duy, phi lý là cái gì trái với quy tắc logic,
cịn trên phương diện nhận thức, phi lý là tất cả những gì chống lại năng lực nhận thức, chống
lại lý trí, khơng thể lý giải được bằng tư duy. Và từ đó các nhà hiện sinh đã phát triển khái niệm
phi lý thành một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh.
Con người mang ý thức phản tỉnh và buồn nơn chính là phản ứng đầu tiên trước một thế
giới phi lý. Tập “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung chất chứa một thế giới
đầy sự ngổn ngang và bất hợp lý, thế giới của sự trống rỗng và xác xơ - “thế giới ấy được giải
phẫu bằng tư duy của một nhà thơ siêu thực”:
Tôi lớn lên ngơ ngác cõi người
tình thương, thù hận, buồn vui
hun hút đường xa cát bụi
người đi không biết về đâu
(Chúa đã ra đi - Trương Đăng Dung)
56


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

Cái tôi bị ném vào thế giới mênh mông, bị bỏ rơi, mang trong mình tâm trạng hoảng loạn
và sụp đổ niềm tin một cách trầm trọng. Họ như đánh mất chính mình và cảm thấy lạ lẫm, thờ
ơ trước cuộc đời. Để thốt khỏi sự cơ đơn, buồn chán, con người thường khát khao được chia
sẻ và đồng cảm. Thế nhưng, thế giới trong thơ Trương Đăng Dung bị chia cắt, đẩy con người
ra xa. Vì thế, nhân vật trữ tình khơng tìm thấy sự kết giao mà chỉ thấy nỗi cô đơn tăng lên gấp
bội: “Giữa những cái bắt tay/có một bức tường/giữa em và người em thấy trong gương/có một
bức tường/…/Những bức tường, những bức tường, những bức tường/có mặt khắp nơi/.../những
bức tường ta khơng xây/những bức tường không thể phá” (Những bức tường - Trương Đăng

Dung). Đó chính là ranh giới vơ hình khiến con người càng cô độc trong một ảo ảnh đầy kỳ lạ:
“tơi nghe tiếng ai cười như khóc/và tiếng chim kêu lạc lõng phía chân trời” (Chúa đã ra đi Trương Đăng Dung).
Tác giả Hoàng Thị Huế trong cuốn “Ba chiều cạnh của phê bình” đã viết: “Nhân vật
chính trong thơ hiện đại là cái tơi trữ tình, nó là trung tâm phát truyền cảm xúc. Dẫu mượn
hình hài hiện đại, trong vỏ bọc của áo gấm truyền thống của các thể thơ thốt thai từ Thơ mới,
hay trong dáng vóc tân kỳ của phục trang phương Tây: đứt, gãy, gấp khúc hay liên văn bản…
thì tất cả vẫn chỉ tơn vinh một cái tôi - tồn tại như một nguyên mẫu, một biểu tượng trong thơ
Việt đương đại” [2].
Chiến tranh là nơi hội tụ của máu và nước mắt, giữa lằn ranh của sự sống và cái chết. Nỗi
đau đó dường như không làm động tâm can, không làm mọi người đau đớn hay xót xa mà họ
chỉ có một hành động duy nhất: “chỉ thấy nạn nhân/và người ngồi xem nỗi đau qua màn ảnh
nhỏ”. Bởi vì, trong cái nhìn và sự sắp đặt của tác giả, sự thật trần trụi mang cảm giác phi lý tàn
nhẫn khơng cịn ảnh hưởng đến tâm trạng của nhân vật trữ tình: “Ở New York chiều chiều/những
con voi nhảy từ tầng mười một xuống sông/cứu những con chim sẻ/.../Ở Tokyo nữ phát thanh
viên truyền hình/khơng có miệng/huơ tay chào khán giả/Khắp nơi/Những đơi mắt/dính trên cổ
những người khơng có mặt/những tiếng kêu/phát ra từ miệng những người khơng có cổ/những
bàn chân/ càng bước càng lún sâu vào đất” (Giấc mơ của Kafka - Trương Đăng Dung). Đây
đều là những hình ảnh phi lý, kỳ lạ không thể lý giải được. Thế giới và sự vật trái với logic
thông thường, trôi chảy không theo trật tự của sự vật. Nếu hiểu bài thơ theo con mắt thuần túy
và tư duy logic thì khó có thể lý giải được xã hội đang phát triển theo hướng nào: Vì sao những
con voi (sống ở mặt đất) lại nhảy từ tầng mười một xuống cứu những con chim sẻ (bay trên
trời)? Nữ phát thanh viên truyền hình chun dẫn chương trình lại khơng có miệng? (sự tắt âm
thanh của con người trong một thế giới hỗn độn)? Tiếng kêu lại phát ra từ miệng những người
không có thanh quản? Từ đây có thể thấy, các nhân vật và sự vật trong thơ của thi nhân đều gắn
kết với nhau một cách ngẫu nhiên nhưng bất định, phi lý, không tuân theo bất kỳ nguyên tắc
nào. Dần dần, con người trở nên xa lạ với thế giới, một nơi mà con người khơng có chút niềm
tin và càng cố hiểu thì càng cảm thấy cơ đơn, lạc lõng trong sự xa lạ ấy.
Đến với Nguyễn Bình Phương trong tập “Xa xăm gõ cửa”, ta nhận ra sự thay đổi mạnh
mẽ của xã hội, sự đảo lộn các giá trị, chuẩn mực cũ đã khiến con người rơi vào trạng thái hoang
mang, hoài nghi, bất an. Con người luôn cảm thấy buồn, cô đơn trước cuộc sống ồn ào, náo

nhiệt, trước sự hỗn độn của thế giới phi lý. Bản thể của con người là cô đơn, người nghệ sĩ với
trái tim nhạy cảm, cái nhìn đầy ưu tư về cuộc đời lại càng thấy buồn hơn. Nếu nỗi buồn của
Huy Cận như “một chiếc linh hồn nhỏ/Mang mang thiên cổ sầu” - đó là nỗi buồn của quá trình
lắng nghe tinh tế nhịp sầu vũ trụ và nỗi buồn nhân gian, là sự ý thức về thân phận con người
được kết tinh, thì thơ Nguyễn Bình Phương mang cái tôi bơ vơ đến tận cùng hoang liêu và đau
đớn, trơi lạc giữa dịng đời. Đó là một thế giới hỗn độn hiện lên trong trạng thái chao đảo, mơng
lung, mơ hồ. Nó như những mảnh vỡ được đan cài bởi những mặt đối lập, trái với bản chất của
sự vật nhưng con người phải chấp nhận và tồn tại:
57


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

“Họ cày cấy trên lo lắng của anh, họ thất bát trên ý tưởng thơm phức của anh, họ nghiêng
đầu chào anh mà khơng ngó ngàng anh.
… Họ nhổ nước bọt lên buồn đau, họ di chân vào hy vọng, họ ăn nhẩn nha, nói nhẩn nha,
làm tình thì hối hả vì họ biết khơng ở đây được mãi…”
(Những cư dân Đồng bằng sơng Hồng - Nguyễn Bình Phương)
Đoạn thơ tuy ngắn nhưng đủ gieo vào lòng người đọc những suy tư, trăn trở không ngừng
về cuộc sống và con người trong xã hội hiện tại. Cuộc sống vất vả, mưu sinh khiến họ không
cần cộng đồng, không sẻ chia và cũng không cần yêu thương. Họ chỉ quan tâm đến vật chất, lợi
ích, phương thức để sống và tồn tại, mà không biết họ đang lạc lõng, cô đơn ngay trong xã hội
trái ngang này. Càng thờ ơ, lạnh lùng và vơ cảm trước đồng loại thì nhân vật trữ tình càng ngụp
lặn trong thế giới của cơ đơn. Để minh chứng cụ thể hơn, thi nhân lấy chính bản thân mình để
tái hiện: “Này tơi một khn mặt cơng chức/đứng nhìn/những cuộc họp rạc rài/tiêu mao bao ý
tưởng/xa xa trải một mùa bệnh hoạn/bệnh hoạn cũng cũ rồi (Bài thơ cũ - Nguyễn Bình Phương).
Cuộc sống mệt mỏi của một công chức “sáng vác ô đi, tối vác ô về”, con người lướt qua nhau
một cách vơ tình khiến cho tác giả khơng cảm thấy mình đang sống trọn vẹn mà chỉ như đang

sống vật vờ, vô nghĩa giữa thế giới khơng nghĩa lý. Con người cơ đơn chính là sự ý thức của
nhà thơ Nguyễn Bình Phương trước hiện thực xã hội, ở đó con người đã tạo cho mình một tâm
thế chủ động khi trật tự xã hội bắt đầu có những sự thay đổi, những chuẩn mực đạo đức đã có
sự rạn vỡ. Sự biểu hiện của cái tôi cô đơn trong từng trang thơ Nguyễn Bình Phương đã mang
đến sự đồng cảm sâu sắc, để lại những day dứt và ám ảnh khôn nguôi trong lịng bạn đọc.
Nếu như sự cơ đơn của Trương Đăng Dung và Nguyễn Bình Phương có thể thuận lợi hơn
trong việc thấu cảm và chia sẻ thì cái tơi cơ đơn của Trần Tuấn càng thêm khó hiểu giữa thực
tại xô lệch và không trật tự. Cô đơn đứng giữa sự vênh lệch của cuộc sống. Ngay bài thơ đầu
tiên của tập thơ “Chậm hơn sự dừng lại”, Trần Tuấn đã cảm nhận sự đơn độc trong hành trình
của bản thân:
“treo ánh mắt cơ đơn
trên cái nhìn cơ độc”
(Cơ đơn cô độc - Trần Tuấn)
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là ô cửa chứa đựng linh hồn và cảm xúc của con người. Một
chút gợn trong ánh mắt, một cái nhìn xa xăm vơ định đã đủ để đượm màu buồn. Ấy vậy mà nhà
thơ Trần Tuấn còn phân tách những cái tưởng chừng như không thể để đặc cảm về niềm cô đơn
và nỗi cô độc. Mọi thứ được phân tách và quay lại đối diện với nhau như một sự soi rọi tận sâu
cõi lòng, và càng đi sâu càng cô độc: “hạt bụi cô đơn với hạt bụi/ngón chân cơ độc với bàn
chân” (Cơ đơn cơ độc - Trần Tuấn). Những sự vật, hiện tượng không thể tách rời, gắn bó với
nhau một cách mật thiết theo sự ban tặng của tạo hóa cũng khơng mang trọn vẹn ý nghĩa, nó ẩn
dụ cho một bộ phận người trong xã hội đang dần lạ lẫm với nơi mà mình đang sống. Hình ảnh
tách biệt sự vật này làm ta nhớ đến câu thơ của Hàn Mặc Tử:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
Sự vật và hiện tượng càng lúc càng vô lý khi tự nhiên ngàn đời đi ngược lại với tư duy
của con người: “anh có thấy/biển đang hành hương về sa mạc/nước cô đơn trong giọt
nước/muối cô độc với đại dương” (Cô đơn cơ độc - Trần Tuấn). Thậm chí, thực tại càng phi lý
58



HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

khi sự vật đại diện cho con người không tìm thấy sự giao cảm: “con chữ cơ đơn với hàng
chữ/ánh sáng cô độc với ngọn đèn” (Cô đơn cô độc - Trần Tuấn). “Con chữ - hàng chữ… ánh
sáng - ngọn đèn” - tưởng như những sự vật móc nối, liên hệ quấn quýt với nhau tạo nên các
mối liên hệ nhân quả nhưng tựu trung lại đều bị rời rạc, vỡ vụn. Tác giả lẫn người đọc như trôi
vào thế giới phân cực nỗi cô đơn, vừa quen, vừa lạ. Quen vì nó vẫn được soi tỏ bằng ánh sáng
trần thế, minh bạch và phơi mở trong các hình ảnh quen thuộc. Lạ vì cốt lõi của nó đã bị bóc
tách khỏi nó, bị cắt trụi chùm rễ từng ni dưỡng nó. Nó trở nên cơ lẻ, trơ trụi trong một khơng
gian khơng có điểm đặt, khơng thể xác định và có phần vơ nghĩa hiện hữu.
Như vậy, theo Sartre, thế giới vốn tồn tại phi lý từ trong bản chất nội tại, là thế giới hỗn
độn, xô bồ, không luật nhân quả. Và con người lại bị ném vào thế giới ấy, ý thức tri nhận về sự
phi lý của thế giới nhưng lại bất lực trước nó nên con người lựa chọn cách tách mình khỏi thực
tại, phủ nhận hữu thể “tự nó” của thế giới ấy.
2.2. Cái tôi cô đơn - mảnh vỡ của tồn tại
Cái tôi cô đơn - mảnh vỡ của tồn tại là một đặc trưng của văn học hiện sinh. Có thể hiểu,
“cái tôi mảnh vỡ là cái tôi mà cuộc đời của họ bị chia cắt thành những mảnh vụn rời rạc, đứt
đoạn theo dòng hồi ức, kỷ niệm, sự kiện xảy ra trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Kiểu nhân
vật này đi ngược lại với nhân vật tính cách trong văn chương truyền thống, thể hiện sự đánh
mất niềm tin vào các đại tự sự” [6, tr.1]. Với kiểu khắc họa nhân vật như thế này, nhà văn có
điều kiện chạm vào những góc tối khó ngờ của cảm xúc, tâm hồn cũng như phản ánh và thể
hiện được sự phức hợp của bản thể. Tác phẩm nghệ thuật vì thế trở thành những văn bản đa
bình diện có cấu trúc mở, nghĩa của nó được tạo sinh không ngừng qua các cách đọc.
Mảnh vỡ là khái niệm để chỉ một cái tơi vừa khao khát mình là một hiện sinh độc đáo, tự
do nhưng đồng thời cái tơi đó cũng chấp nhận những giới hạn. Ở đây, chủ thể trữ tình tìm thấy
sự đối sánh, soi chiếu mình trong tha nhân. Chủ thể trữ tình vừa là mình, vừa đối diện với q
trình tha nhân hóa. Từ đó mà hình thành nên cái tơi cơ đơn - mảnh vỡ của sự tồn tại.

“Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung chứa đựng một thế giới được lấp
đầy bằng những mảnh vỡ đời sống, trong đó con người cảm thấy lạc lõng trước thế giới, thậm
chí là ngay chính bản thân mình, họ bị chia cắt bên này bên kia để phản ánh tối đa hiện thực
cuộc sống đa chiều kích:
Giữa những cái bắt tay
có một bức tường,
giữa em và người em thấy trong gương
có một bức tường,
giữa hai chiếc gối nằm kề nhau
có một bức tường
(Những bức tường - Trương Đăng Dung)
Với loại bức tường vơ hình này, nó khơng thuộc vào sự trải nghiệm của con người mà nó
mang tính chất khiên cưỡng, hiện diện như một vật thể chứng minh cho sự phân mảnh của chính
con người ngay trong thế giới mà họ đang sống - một thế giới ngổn ngang đầy sự phi lý và hỗn
độn. Trong chuỗi ám ảnh về kiếp nạn của con người, thi nhân đặc biệt ám ảnh đến số phận của
“những người đàn bà” bị chia cắt thành nhiều mảnh với nhiều thân phận khác nhau. Đó là
“những người vợ suốt đêm vá lưới/mắt quầng thâm nhìn chồng” (Tơi lại nhìn thấy họ); là “người
đàn bà đẩy chiếc xe lăn/ lần thứ mười ba đưa chồng vào bệnh viện/…/nỗi buồn của chị/cũ hơn
59


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

tháng ngày” (Ghi chép hè 2009); là những nữ y tá “kinh nguyệt chảy máu cịn tươi rói/khơng
có bơng, họ lấy áo choàng lau vội” (Những kỷ niệm tưởng tượng); là những người mẹ với đức
cao cả hy sinh “người mẹ bị thương ruột lịi ra/vẫn ơm con nhảy xuống tầng hầm tranh nhau
chỗ ngồi với rắn” (Những kỷ niệm tưởng tượng) hay có khi khi họ là những “em” rạng rỡ, cao
khiết và sáng trong “em đã đến/đẹp như ánh trăng” (Chân trời),... Nhìn nhân vật trữ tình trong

nhiều mảnh vỡ bị chi cắt rời rạc là cách kết nối lại để thấy được một chỉnh thể thống nhất để
soi chiếu trong xã hội đa diện.
Đọc thơ Nguyễn Bình Phương, cái tôi vỡ vụn cũng hiện lên cụ thể hơn với nhiều chiều
kích khác nhau - con người bị chia cắt, phân ra thành nhiều mảnh vỡ khác nhau trong không
gian và thời gian:“Và một ngày ta hốt hoảng nhận ra/Tự bao giờ mình chia thành trăm
mảnh/…/Này một mảnh đi về ký ức/…/Một mảnh say ngất ngưởng tọa ngang trời/…/ Ồ cái
mảnh gì kia rừng rực cháy/Một mảnh lạc nhà giờ ở nơi đâu/ Mảnh chóng mặt nghe những lời
ca thán/…/Trăm mảnh vỡ nhìn nhau lặng lẽ” (Tạm thời chưa có tên - Nguyễn Bình Phương).
Con người phải là một chỉnh thể toàn vẹn duy nhất nhưng con người trong thơ Nguyễn Bình
Phương giờ đây khơng phải là cái tơi hồn chỉnh mà là cái tơi vỡ vụn theo từng hoàn cảnh “trăm
mảnh”: “mảnh đi về ký ức”, “mảnh… tọa ngang trời”, “mảnh gì kia rừng rực cháy”, “mảnh…
ở nơi đâu”, “mảnh chóng mặt”,… Con người đã hóa thân, chia mình thành trăm mảnh ghép,
mỗi mảnh ghép là một thế giới riêng đã xóa nhịa đi ranh giới giữa con người và sự vật xung
quanh. Con người khơng cịn là chính mình mà đã nhịa lẫn với thế giới thực tại. Các mảnh vỡ
phân chia nhau gợi ra cuộc sống đa diện theo chiều tiêu cực, con người mất phương hướng,
khao khát cái này nhưng lại mong nhớ cái kia để tái hiện thế giới hiện thực cũng đầy phi lý và
bộn bề những gam màu của thực tại.
Thơ Trần Tuấn cịn phân tách những cái tưởng chừng như khơng thể để xoáy sâu vào cảm
giác đứt đoạn giữa một thực tại hỗn độn. Mọi thứ được phân tách trong một chỉnh thể hồn
thiện gợi nên sự cơ độc và cô đơn đến tận cùng.
hạt bụi cô đơn với hạt bụi
ngón chân cơ độc với bàn chân
(Cơ đơn cơ độc - Trần Tuấn)
Mọi thứ trước đây được móc nối, hịa quyện với nhau thì giờ đây đều trở nên biệt lập, tồn
tại như những mảnh ghép riêng rẽ. Tác giả lẫn người đọc như trôi vào thế giới phân cực vừa
quen vừa lạ. Quen vì nó vẫn được soi tỏ bằng ánh sáng trần thế, minh bạch và phơi mở trong
các hình ảnh quen thuộc. Lạ vì cốt lõi của nó đã bị bóc tách khỏi nó, bị cắt trụi chùm rễ từng
ni dưỡng nó. Nó trở nên cơ lẻ, vỡ vụn trong một chỉnh thể tưởng như hoàn chỉnh, khơng thể
chia cắt nổi. Đó là sự cơ đơn phi lý trong một thế giới phi lý.
Khắc họa cái tôi trữ tình theo kiểu mảnh vỡ, nhà văn có điều kiện chạm vào chiều sâu và

những góc tối khó ngờ của cảm xúc, tâm hồn cũng như phản ánh và thể hiện được sự phức hợp
của bản thể. Qua đó, độc giả và tác phẩm có cơ hội đối chiếu và soi rọi vào nhau để khám phá
tầng lớp nghĩa đa sắc về ngữ nghĩa và nghệ thuật.
2.3. Cái tôi cô đơn - ngột ngạt trong không gian
Không gian phổ biến trong thơ của Trương Đăng Dung, Nguyễn Bình Phương và Trần
Tuấn là những không gian hẹp, nhỏ bé. Thế nhưng, trong khơng gian đó con người ln cơ đơn
và mơ hồ. Con người trong xã hội hiện đại cố thu mình trong vỏ ốc thì nhân vật trữ tình trong
thơ cũng cố thu hẹp không gian sinh hoạt của bản thân để biến bản thân thành một dạng sự vật,
đồ vật để hiển hiện sự hỗn độn và phi lý của cuộc đời.
60


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

Thơ Trương Đăng Dung cố tình đặt nhân vật trữ tình vào các khơng gian nhỏ hẹp ngay
giữa cuộc sống để bộc lộ sự cơ đơn và bức bí của đời sống hiện tại. Không gian trong thơ của
thi nhân là những không gian đời thường mà bất cứ ai cũng trải qua. Hình ảnh “căn phịng”
xuất hiện có phần liên tục khi ơng viết về tình u: “Thành phố phía chân trời/một căn phịng
một cái giường hai chiếc gối/ một đơi mắt buồn” (Thành phố phía chân trời - Trương Đăng
Dung). Căn phòng là nơi mà con người tự do, thoải mái được là chính mình; là nơi thăng hoa
của tình u nhưng cũng là một khơng gian bức bí và chật hẹp của những tâm hồn cơ đơn. Ở
đó, con người cảm nhận được sự cơ độc ngay trong chính tâm hồn mình, bởi nhân vật trữ tình
bị gị ép trong khn khổ cứng cỏi khơng thốt ra được. Thế nhưng, với Trương Đăng Dung,
giới hạn quẩn quanh đó vẫn chưa đậm sắc bằng hình ảnh những bức tường - hiện hữu khắp
nơi trong không gian và thời gian, vừa hữu hình vừa vơ hình: “Giữa những cái bắt tay/có một
bức tường/giữa em và người em thấy trong gương/có một bức tường” (Những bức tường Trương Đăng Dung). Cuộc sống hiện đại dần khiến con người có khoảng cách và dần trở nên
vô cảm với nhau. Họ giao thiệp, sinh hoạt và đối diện với bản thân mình ngay trong những
bức tường vơ hình. Đó là mối quan hệ bên ngoài, là sự khiên cưỡng đầy phi lý giữa một xã

hội đầy hỗn độn.
Khác với không gian đời thường quẩn quanh bốn bức tường, không gian trong thơ Nguyễn
Bình Phương nổi bật với khơng gian đơ thị, dù hiện lên mờ nhạt nhưng nó cũng tạo cảm giác
ngột ngạt, tù túng của đời sống hiện đại. Đó là không gian gắn liền với những bàn giấy, những
khuôn mặt cơng chức, đám @ đánh võng phóng như bay, những con đường đầy biển hiệu, lũ
trẻ online… Kiểu không gian này hiện lên một cách rõ ràng, sắc nét và ít mang tính mơ hồ,
huyền ảo, mộng mị hơn so với kiểu không gian tự nhiên. Đây cũng là nơi cái tơi trữ tình trải
nghiệm nỗi cơ đơn, đối diện với chính mình, suy tư về sáng tạo nghệ thuật, về sống - chết hoặc
thể hiện trái tim đa cảm, trắc ẩn đối với kiếp người.
So với Trương Đăng Dung và Nguyễn Bình Phương thì khơng gian trong thơ Trần Tuấn
dày đặc các sự kiện và biến cố, nó như một lát cắt của xã hội khi chuyển tải vào những vần thơ,
khơng gian càng hẹp chừng nào thì hiện thực càng được chuyển tải đậm nét: “đó là hiện tượng
đang xảy ra tại thị trấn Thì Là… con đường nối Thì Là tới Mà cứ mỗi ngày nở ra theo bề ngang
với tốc độ rất nhanh, và có nguy cơ trở thành con đường vuông” (một con đường nở mãi chiều
ngang - Trần Tuấn). Lấy không gian từ hiện thực đời sống nhưng bị bó hẹp trong khơng gian
đời tư nên càng dồn nén, đông lại, chất chồng lên nhau “nhà cửa ở Rằng cái này ủ lên cái
kia/trường ủ/ lên chợ, chợ ủ lên chùa/ người/ ủ lên nhau như cây cải/ héo muối” (Ảnh - Trần
Tuấn). Không gian trong thơ thi nhân phơi bày rõ các hiện tượng xã hội, từ những vấn đề lớn
lao đến các vấn đề nhỏ nhặt quanh cuộc sống, càng khắc sâu kiếp sống quẩn quanh và bế tắc
của con người.
Mỗi thi nhân có một cách xây dựng khơng gian riêng để chuyển tải quan niệm về hiện
thực và con người. Đặt nhân vật trữ tình vào khơng gian nhỏ bé, giới hạn chính là cách giúp họ
dễ bộc lộ suy nghĩ, trải nghiệm của chính mình. Dù là bất kỳ nơi chốn nào thì các thi nhân cũng
phát huy hết sức sự sâu sắc khi quay ống kính đến tận cùng ngõ ngách để lật tẩy, soi chiếu,
phanh phui. Có lẽ chính bởi hiện thực ngột ngạt, khơng gian tù túng đã khiến những tâm hồn
thơ muốn thoát ly, chạm đến thế giới vô hạn trong tiềm thức.
3. KẾT LUẬN
Nỗi cô đơn là một phạm trù của triết học hiện sinh được thể hiện khá đa dạng và sâu sắc
trong văn học Việt Nam nói chung và thơ Việt Nam nói riêng. Cái tơi cơ đơn trong thơ của
Trương Đăng Dung, Nguyễn Bình Phương và Trần Tuấn gắn bó mật thiết với thực tại phi lý và

sự phân tách của nhiều cái tôi trong một chỉnh thể để soi xét toàn diện. “Trong xu hướng đổi
61


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

mới chung, các nhà thơ đã tìm tịi cho mình một hướng đi riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của
một cái tơi đa chiều kích, đầy kiêu hãnh và độc lập. Như một sự lựa chọn tất yếu của con người
hiện đại, không dựa vào bất kỳ chuẩn mực nào, thơ đương đại vươn tới những chân trời cao
rộng của sự sáng tạo, bứt phá khỏi mọi chuẩn mực giá trị cũ” [2, tr.138]. Vì thế, đi sâu khám
phá thế giới nội tâm bên trong con người và nhận thức thực tại xã hội đang tồn tại là cách lý
giải nguồn gốc cô đơn - một tâm trạng không hề làm cho con người đau thương và ủy mị, ngược
lại, nó cịn giúp cho con người nhìn nhận lại bản thân và phát huy sức sáng tạo để thốt khỏi
vịng vây của nỗi cơ độc. Tìm hiểu cái tơi cơ đơn trong thơ Trương Đăng Dung, Nguyễn Bình
Phương và Trần Tuấn là cách để tiếp cận gần hơn với tư tưởng hiện sinh, quan niệm nghệ thuật
về con người, qua đó, khẳng định tài năng và cá tính sáng tạo, những nét độc đáo trong quá
trình chiêm nghiệm và sáng tạo cả về nội dung lẫn hình thức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]

Trương Đăng Dung (2014). Những kỷ niệm tưởng tượng, NXB Thế giới, Hà Nội.
Hoàng Thị Huế (2017). Ba chiều cạnh của phê bình, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
Nguyễn Bình Phương (2015). Xa xăm gõ cửa, NXB Văn học, thành phố Hồ Chí Minh.

Trần Tuấn (2008). Ma thuật ngón, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
Trần Tuấn (2017). Chậm hơn sự dừng lại, NXB Hội NHà văn, Hà Nội.
Dương Thị Ánh Tuyết (2015). Nhân vật mảnh vỡ trong “Trốn chạy” của Alice Munro, Tạp chí
Khoa học và Cơng Nghệ, số 08, tr.1.

Title: THE LYRICAL EGO IN THE POEMS OF TRUONG DANG DUNG, NGUYEN BINH
PHUONG AND TRAN TUAN, SEEN FROM THE EXISTENTIAL FEELINGS
Abstract: The lyrical ego in the poems of Truong Dang Dung, Nguyen Binh Phuong, and Tran Tuan is
a characteristic aspect of existentialism. It is a stalemate, desperate ego in reality but always desires to
find the true ideal of living, thereby reflecting deeply the aspirations and the ability to survive. From the
existential feeling, the research paper on the lonely ego Truong Dang Dung, Nguyen Binh Phuong and
Tran Tuan also contributes to asserting the personality, talent, and imprint of poets on the path of
contemporary Vietnamese poetry.
Keywords: The lyrical ego, existential, Vietnamese contemporary literature.

62



×